Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.82 KB, 101 trang )

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam được ban hành
(1988), hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam đã đạt được
nhiều thành quả đáng khích lệ. Khu vực FDI đã trở thành một bộ phận quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp ngày càng nhiều vào việc thực
hiện các chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia, là cầu nối vững chắc giúp
cho Việt Nam hoà nhập sâu hơn vào quá trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá và
phân công lao động quốc tế.
Ngày 7 tháng 11 năm 2006 Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là một trong những kết quả quan
trọng của quá trình thực hiện chính sách chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế. Gia nhập WTO mở ra cho nước ta những cơ hội mới, cùng với những
thách thức gay gắt, tác động sâu rộng đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu về các đối tác lớn là một điều quan trọng không thể
thiếu trong việc tạo lập môi trường để thu hút đầu tư nước ngoài
Mỹ là một quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh nhất thế giới cùng với thế
mạnh vượt trội về đầu tư. Tuy là một nước đến sau trong môi trường đầu tư
Việt Nam, song sự phát triển nhanh chóng của đầu tư của Mỹ tại Việt Nam đã
khẳng định Mỹ là một đối tác vô cùng quan trọng đối với Việt Nam trong việc
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ được ký kết (13/7/2000) và
Quốc hội hai nước phê chuẩn (10/12/2001) đã đánh dấu một bước phát triển
mới trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Đồng thời, trong bối
cảnh Việt Nam vừa chính thức trở thành thành viên của WTO thì việc nghiên
cứu đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam để từ đó kịp thời có những giải
1
pháp phù hợp nhằm thu hút nguồn đầu tư đầy triển vọng này là hết sức cần
thiết.
Từ thực tiễn hoạt động đầu tư của Mỹ ở Việt Nam cũng như những
triển vọng phát triển mối quan hệ đầu tư giữa hai nước trong tương lai sau sự


kiện Việt Nam trở thành thành viên của WTO, em đã chọn đề tài: “Thu hút
đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO”
làm khoá luận tốt nghiệp của mình với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về mối
quan hệ đầu tư của hai nước cũng như triển vọng của mối quan hệ đó.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ nói chung;
thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam nói riêng trong thời
gian qua và một số biến động của dòng vốn đó sau sự kiện Việt Nam gia
nhập WTO; đồng thời kiến nghị những giải pháp nhằm tăng cường thu hút
đầu tư trực tiếp từ Mỹ vào Việt Nam trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung vào việc phân tích hoạt động thu hút đầu tư trực
tiếp của Mỹ vào Việt Nam từ 1988 – 2007, tức là từ thời điểm Việt Nam
chính thức mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những giải pháp đưa ra
được coi là những giải pháp được sử dụng trong trung hạn từ 2008 – 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Người viết chủ yếu áp dụng hình thức nghiên cứu tại bàn với các
phương pháp: phân tích tổng hợp, thống kê, mô hình hóa,…
2
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời nói đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, khoá
luận tốt nghiệp được chia làm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và khái quát về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam
Chương III: Triển vọng và những giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ
vào Việt Nam
Tuy gặp nhiều khó khăn lúc ban đầu nhưng được sự giúp đỡ và chỉ bảo
tận tình của giáo viên hướng dẫn Thạc sĩ Phạm Thị Mai Khanh, em đã hoàn
thành bài khóa luận này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo

Phạm Thị Mai Khanh cùng tập thể các thầy cô giáo Khoa Kinh tế và Kinh
doanh quốc tế – Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội.
Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn, việc thu thập và xử lý
thông tin gấp nên nội dung bài viết còn nhiều vấn đề chưa được đề cập. Em
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo thêm của các thầy cô và
bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.

3
Chương I
Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và khái quát về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Mỹ
I. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1. Khái niệm
(1)
Đầu tư quốc tế là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài
để tiến hành sản xuất kinh doanh dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và
những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà
chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự
án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp
sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại.
2. Đặc điểm
(2)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân
do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh
tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần
cho nền kinh tế.
Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp

4
liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu
vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong
một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần
của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% cổ phần còn lại do nước
chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho
phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định bên
nước ngoài phải góp vốn tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận
được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý là những mục
tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được.
Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ
đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao
gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như
vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
(3)
Hiện nay, theo Luật đầu tư 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam bao gồm các hình thức chủ yếu sau:
3.1. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở
hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt
Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh
3.2. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam
trên cơ sở Hợp đồng liên doanh kí giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành
đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp có
5
thể được thành lập trên cơ sở Hiệp định kí kết giữa Chính phủ Việt Nam với
chính phủ nước khác.

Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp
nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được
cấp giấy phép đầu tư.
3.3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BBC): là hình thức
đầu tư được kí giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia
lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng
BOT) là hình thức đầu tư được kí giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ
tầng trong một thời gian nhất định. Hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển
giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam
- Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng
BTO): là hình thức đầu tư được kí giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi
xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước
Việt Nam, Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình
đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
- Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BT): là hình
thức đầu tư được kí giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu
tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà
đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ
tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư
6
và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp
đồng BT.
3.4. Đầu tư phát triển kinh doanh
Nhà đầu tư được đầu tư phát triển kinh doanh thông qua các hình thức
sau đây :

- Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh.
- Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi
trường.
3.5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư
Nhà đầu tư được góp vốn, mua cổ phần của các công ty, chi nhánh tại
Việt Nam. Tỉ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đối với một
số lĩnh vực, ngành nghề do Chính phủ quy định.
3.6. Đầu tư thực hiện việc mua lại và sáp nhập doanh nghiệp
Nhà đầu tư được quyền sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh. Điều kiện
sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh theo quy định của luật đầu tư, luật về
cạnh tranh và các quy định khác của pháp luật có liên quan
4. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
(4)
Hoạt động đầu tư có tác động đến các nước tiếp nhận vốn FDI cũng
như các nước xuất khẩu FDI.
4.1. Đối với các nước tiếp nhận vốn FDI
* Đối với những nước công nghiệp phát triển
Đây là những nước xuất khẩu vốn FDI nhiều nhất, nhưng cũng là nước
tiếp nhận vốn FDI nhiều nhất hiện nay, tạo nên luồng đầu tư hai chiều giữa
các quốc gia, trong đó các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đóng vai trò chủ
chốt.
7
Nguồn vốn FDI có tác động quan trọng đến sự phát triển kinh tế của
các nước này và chiến lược phát triển của các TNCs, đặc biệt là tăng cường
cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng kinh
tế, mở rộng nguồn thu của chính phủ, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và
kiềm chế lạm phát.
* Đối với các nước đang phát triển
Nguồn thu FDI là nguồn bổ sung quan trọng để các nước đang phát
triển thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Do đó vốn FDI có

đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển.
Các nhà nghiên cứu cũng đang chứng minh rằng vốn FDI chiếm tỷ trọng càng
lớn trong Tổng sản phẩm quốc nội GDP thì tốc độ tăng trưởng GDP thực tế
càng cao. Theo tính toán của các chuyên gia Ngân hàng thế giới, các dự án
FDI ở Việt Nam đã đóng góp tới 7,6% GDP trong năm 1996, năm 2002
chiếm khoảng 14%, riêng trong 9 tháng đầu năm 2007, vốn FDI đã chiếm
17,2% GDP .
(5)
Đầu tư nước ngoài góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều
việc làm góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và nâng cao chất lượng
nguồn lao động.
Hoạt động của các dự án FDI có tác động quan trọng tới thúc đẩy các
hoạt động xuất nhập khẩu của các nước chủ nhà. Trong nhiều trường hợp do
quy mô nhập khẩu để xây dựng cơ bản, trang bị máy móc rất lớn dẫn đến tiêu
cực trong cán cân thương mại, gây ra sự thâm hụt thương mại thường xuyên.
Do đó, cần phải khuyến khích các dự án FDI mua nguyên liệu, phụ tùng trong
nước và tăng cường mở rộng các dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ để cải thiện cán
cân thanh toán.
8
Các dự án FDI góp phần bổ sung quan trọng cho ngân sách của các
quốc gia. Đó là nguồn thu từ các khoản cho thuê đất, mặt nước, mặt biển; từ
các loại thuế doanh thu, lợi tức, thuế xuất nhập khẩu.
4.2. Đối với các nước xuất khẩu FDI
• FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường bành
trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới.
• FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời
gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao.
• FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được các nguồn cung cấp nguyên,
nhiên liệu ổn định.
• FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công

nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
II. Khái quát về FDI của Mỹ
1. Vài nét về nền kinh tế Mỹ
Vào đầu và khoảng giữa thế kỷ thứ 20, nền kinh tế Châu Âu, Châu á
trong đó có Nhật Bản bị tàn phá nặng nề do hậu quả của hai cuộc chiến tranh
Thế giới thứ nhất và thứ hai. Trong khi đó nền kinh tế Hoa Kỳ lại phát triển
mạnh, giàu có lên nhờ chiến tranh do bán vũ khí, lương thực thực phẩm…Kết
thúc chiến tranh Thế giới thứ hai năm 1945, Tổng sản phẩm quốc dân GNP
của Hoa Kỳ chiếm 42% GNP toàn cầu, thế giới tư bản Hoa Kỳ chiếm 54,6%
tổng sản lượng công nghiệp, 24% xuất khẩu và 74% dự trữ vàng.
(6)
Với sức mạnh tuyệt đối về kinh tế, sau chiến tranh Hoa Kỳ bỏ vốn lớn
để thành lập các tổ chức tài chính tiền tệ như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF);
Ngân hàng Thế giới (WB); và sau đó góp vốn thành lập Công ty tài chính
Quốc tế (IFC) vào năm 1956; Hiệp hội phát triển Quốc tế (IDA) vào năm
1960; Ngân hàng phát triển á Châu (ADB) năm1966; Công ty đầu tư đa biên
(MIGA) năm 1990…Ngoài ra, với sự tài trợ của Hoa Kỳ, nhiều tổ chức chi
9
phối hoạt động kinh tế và thương mại trên thế giới đã ra đời như: Hiệp định
chung về thuế quan và mậu dịch (GATT), nay chuyển thành Tổ chức Thương
mại Quốc tế (WTO); các tổ chức kinh tế khác của Liên Hiệp Quốc: UNDP,
FAO, UNIDO… cũng được sự tài trợ và chịu sự khống chế của Hoa Kỳ.
Thông qua các tổ chức tài chính-kinh tế kể trên, Hoa Kỳ chi phối rất mạnh
nền kinh tế toàn cầu.
Ngày nay, theo một câu nói cách ngôn của các nhà kinh tế học thì “Khi
nước Mỹ hắt xì hơi thì cả thế giới đều bị cảm lạnh”.
(7)
Theo hội đồng phi lợi nhuận về cạnh tranh, trong giai đoạn từ năm
1995 đến năm 2005, nước Mỹ đã đóng góp trực tiếp vào một phần ba mức độ
tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu. Trong giai đoạn từ 1983 đến 2004, nhập

khẩu của Mỹ tăng chóng mặt và chiếm gần 20% trong mức tăng xuất khẩu
của toàn thế giới.
Báo cáo của cơ quan Nghiên cứu phục vụ Quốc hội Mỹ(CRS) đã nêu rõ
“Các nước đang phát triển chiếm một phần ngày càng nhiều trong số hàng hóa
xuất khẩu của Hoa kỳ, 32,8% vào năm 1985 trong khi vào năm 2006, tỉ lệ này
là 47,0%. Các nước đang phát triển cũng chiếm 34,5% nhập khẩu của Mỹ vào
năm 1985 và 54,7% vào năm 2006”.
(8)
Như một cỗ xe 4 bánh tràn đầy sinh khí kiên cường vượt qua vùng địa
hình đầy hiểm trở, nền kinh tế Mỹ đã thoát hiểm một cách êm đềm trong
những năm đầu tiên của thế kỉ 21, dù đã gặp nhiều trở ngại lớn: sự đổ vỡ của
thị trường chứng khoán, các cuộc tấn công khủng bố, chiến tranh tại Irắc và
Apganixtan, các vụ xì-căng-đan từ các tập đoàn tài chính, sự phá hủy tàn khốc
trên diện rộng của bão lụt, giá năng lượng tăng cao và sự trượt dốc thảm hại
của bất động sản.
Sau đợt suy thoái nhẹ từ tháng 3 đến tháng 11 năm 2001, kinh tế Mỹ
bắt đầu tăng trưởng với tốc độ trung bình là 2,9% trong giai đoạn từ 2002 đến
10
2006. Trong khi đó, lạm phát về giá cả, tỉ lệ thất nghiệp và lãi suất vẫn duy trì
ở mức tương đối thấp.
Bằng nhiều biện pháp, Hoa Kỳ đã duy trì được vị thế là một nền kinh tế
có tính cạnh tranh cao, sản lượng lớn và có tầm ảnh hưởng rộng lớn nhất trên
thế giới. Tuy nhiên, càng ngày kinh tế Mỹ càng chịu nhiều tác động từ các
nền kinh tế năng động khác. Hiện nay, nước Mỹ vẫn đang phải đối mặt với cả
các thách thức đến từ bên trong lẫn những thách thức đến từ bên ngoài.
Dù sao đi nữa, kinh tế Mỹ luôn đứng hạng cao nhất hoặc cận cao nhất
trong hàng loạt các xếp hạng quốc tế. Dưới đây là một vài con số cần xem xét
khi đề cập đến nền kinh tế Mỹ:
(9)
• Xếp thứ nhất về sản lượng kinh tế, còn gọi là tổng sản phẩm quốc nội

(GDP), đạt gần 13,13 nghìn tỉ USD trong năm 2006. Với ít hơn 5% dân
số thế giới, khoảng 302 triệu người, nước Mỹ chiếm đến 30% tổng
GDP của toàn thế giới. Riêng GDP của một bang - bang California -
đạt 1,5 nghìn tỉ USD trong năm 2006, đã vượt quá GDP của tất cả các
nước, chỉ trừ 8 nước vào năm đó.
• Đứng đầu về tổng kim ngạch nhập khẩu, khoảng 2,2 nghìn tỉ USD, gấp
3 lần kim ngạch nhập khẩu của nước đứng thứ 2 là Đức.
• Đứng thứ 2 về xuất khẩu hàng hóa - 1000 tỉ USD trong năm 2006, chỉ
sau Đức, mặc dù theo dự báo, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ vào năm 2007.
Đứng thứ nhất về xuất khẩu dịch vụ với 422 tỉ USD trong năm 2006.
• Đứng thứ nhất về thâm hụt thương mại, 785,5 tỉ USD trong năm 2006,
lớn hơn rất nhiều lần so với bất kỳ quốc gia nào khác.
• Đứng thứ 2 về chuyên chở container đường biển trong năm 2006, chỉ
sau Trung Quốc.
• Đứng thứ nhất về nợ nước ngoài, ước tính hơn 10 nghìn tỉ USD vào
giữa năm 2006.
11
• Là địa điểm thu hút nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất - trong lĩnh
vực kinh doanh và bất động sản - đạt khoảng 177,3 tỉ USD trong năm
2006. Đứng đầu về địa điểm rót vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của
100 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới, bao gồm cả các tập đoàn từ
những nước đang phát triển.
• Đứng thứ năm về tài sản dự trữ trong năm 2005 với 188,3 tỉ USD,
chiếm 4% thị phần thế giới, sau Nhật và Trung Quốc (mỗi quốc gia này
chiếm 18%), Đài Loan và Hàn Quốc, và đứng ngay trước Liên bang
Nga. Đứng thứ 15 về dự trữ ngoại hối và vàng, đạt khoảng 69 tỉ USD
vào giữa năm 2006.
• Đứng đầu về nguồn tiền gửi tại Châu Mỹ La tinh và khu vực Caribê,
chiếm khoảng 3/4 trong tổng số 62 tỉ USD trong năm 2006 từ những
nguời di cư khỏi các khu vực này để tìm kiếm việc làm ở nước ngoài.

• Đứng thứ nhất về tiêu thụ dầu mỏ, khoảng 20,6 triệu thùng mỗi ngày
vào năm 2006 và đứng thứ nhất về nhập khẩu dầu thô với hơn 10 triệu
thùng mỗi ngày.
• Đứng thứ 3 về môi trường kinh doanh thông thoáng trong năm 2007,
sau Singapore và New Zealand.
• Đứng thứ 20/163, cùng với Bỉ và Chi Lê về các chỉ số minh bạch quốc
tế năm 2006 nhằm đo lường mức độ tham nhũng (các nền kinh tế có
xếp hạng thấp hơn được xem là ít tham nhũng hơn).
Về triển vọng trung và dài hạn: Nền kinh tế Hoa Kỳ sẽ tiếp tục đạt hiệu
quả tăng trưởng lâu dài. Chính phủ trông đợi GDP sẽ tăng mạnh năm 2010,
lạm phát được giữ ở mức cũ và thị trường lao động được đẩy mạnh. GDP
thực tế dự kiến sẽ tăng với tỉ lệ trung bình hàng năm 3,3% trong vòng 3 năm
tới. Tỉ lệ thất nghiệp dự tính sẽ giảm dần và kinh tế sẽ tăng trưởng với mức
3,2% năm 2007, 2008 và ở mức 3,15% năm 2009, 2010.
12
2. Thực trạng FDI của Mỹ
2.1. Quy mô vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ
Bảng 1.1: Dòng vốn FDI ra thế giới theo quốc gia và khu vực (1990-2005)
Đơn vị: triệu USD
Năm/
Khu vực
1990-2000 2002 2003 2004 2005
Mỹ 92.010 134.946 129.352 222.437 -12.714
Trung
Quốc
2.195 2.518 -152 1.805 11.306
Nhật Bản 25.409 32.281 28.800 30.951 45.781
Anh 73.378 50.300 62.187 94.862 101.099
Châu Âu 276.335 265.815 286.106 334.915 554.802
Các nước

phát triển
434.586 485.111 514.806 686.262 646.206
Thế giới 492.566 539.540 561.104 813.068 778.725
(Nguồn: ‘‘Báo cáo đầu tư thế giới 2006’’, UNCTAD)
Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy Mỹ vẫn là quốc gia có lượng vốn
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cao nhất trên thế giới, đạt hơn 222 tỷ USD
trong năm 2004, chiếm 27,36% tổng vốn FDI thế giới, gần với tổng FDI ra
của toàn Châu Âu (279.830 triệu USD). Cho đến thời điểm 2004, đây được
coi là mức đầu tư kỉ lục của Mỹ. Năm 2002 đầu tư FDI của Mỹ ra thế giới là
134.946 triệu USD, năm 2003 là 119.405 triệu USD. So với các nước khác thì
rõ ràng nguồn vốn FDI của Mỹ luôn luôn chiếm một tỉ lệ rất lớn và là nguồn
vốn không thể thiếu trên thế giới.
Bảng 1.2: Lũy kế FDI ra thế giới theo khu vực (1980-2005)
Đơn vị: triệu USD
Năm/
Khu vực
1980 1990 2000 2004 2005
Mỹ 215.375 430.521 1.316.247 2.063.998 2.051.284
Trung - 4.455 27.768 35.005 46.311
13
Quốc
Nhật 10.652 201.441 278.442 370.544 386.581
Anh 80.434 229.307 897.845 1.268.532 1.237.997
Châu Âu 212.570 810.277 3.050.067 5.305.463 5.475.025
Các nước
phát triển
498.921 1.642.187 5.578.431 9.093.607 9.271.932
Thế giới 571.228 1.791.092 6.471.435 10.325.240 10.671.889
(Nguồn: ‘‘Báo cáo đầu tư thế giới 2006’’, UNCTAD)
Nhìn bảng số liệu trên ta có thể thấy ngay lượng FDI ra của các nước

phát triển chiếm 90% tổng lượng vốn FDI đầu tư ra trên thế giới và lượng vốn
qua các năm luôn tăng. Trong đó lượng vốn FDI ra của Mỹ luôn chiếm vị trí
lớn nhất trong tổng lượng vốn đầu tư FDI ra trên thế giới, cụ thể tính đến năm
1990 lượng vốn FDI của Mỹ ra thế giới là 430.521 triệu USD chiếm 24,04%,
tính đến năm 2000 là 1.316.247 triệu USD chiếm 20,34%, năm 2005 là
2.052.284 triệu USD chiếm 19,23% FDI toàn thế giới.
Bảng 1.3: Số lượng Công ty mẹ và công ty con phân chia theo khu vực (tính
đến năm 2005)
Khu vực Công ty mẹ Công ty con
Nước phát triển 50.520 247.241
EU 36.003 199.303
Anh 2.169 13.485
Mỹ 2.418 24.607
Nhật 4.149 4.710
Nước đang phát triển 18.029 335.338
Châu á - TBD 14.791 293.875
Đông á 11.049 245.310
Trung Quốc 2.000 215.000
Hồng Kông 948 9.072
Đông Nam á 314 33.892
Đông Âu và CIS 1.178 107.812
(Nguồn: ‘‘Báo cáo đầu tư thế giới 2005’’, UNCTAD)
Ta có thể thấy ngay các công ty xuyên quốc gia (TNCs) – các công ty
14
có vai trò quan trọng trong việc thu hút FDI ở các nước đang phát triển có số
lượng ít hơn nhiều so với các nước phát triển (khoảng hơn 3 lần). Đặc biệt ta
có thể thấy Hoa Kỳ là nước có nhiều nhất các TNCs và các công ty con của
chúng. Chính các TNCs này là một nguồn FDI quan trọng của thế giới và nó
ngày càng đóng vai trò to lớn trong FDI của thế giới. Chúng là nhân tố quan
trọng tạo ra lượng vốn FDI ra nước ngoài lớn nhất của Hoa Kỳ.

2.2. Chính sách và cơ cấu đầu tư ra nước ngoài của Mỹ
2.2.1. Chính sách thị trường và cơ cấu đầu tư của Mỹ theo khu vực
Với xu hướng vươn tới lợi nhuận cao, các công ty Mỹ đầu tư ra nước
ngoài thường tập trung phát triển tư bản tư nhân vừa và nhỏ nhưng lại sử
dụng trình độ kỹ thuật hiện đại với cung cách làm ăn “kiểu Mỹ” đã khiến cho
các nước có trình độ phát triển thấp cảm thấy khó hợp tác. Chính vì vậy, khi
quyết định lựa chọn một thị trường đầu tư, các công ty Mỹ đặt ra các ưu tiên
hàng đầu là:
(10)
• Một thị trường rộng lớn, hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện, có cơ chế
tốt bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ, môi trường luật lệ kinh doanh mang
tính chuyên nghiệp cao
• Chi phí lao động nói riêng và cho sản xuất nói chung thấp, lực lượng
lao động có tay nghề cao
• Có khả năng tiếp cận các nguyên liệu cần thiết
• Chính sách đầu tư, đặc biệt là chính sách về thuế, có nhiều ưu đãi
• Sự ổn định về chính trị
• Sự ổn định về tiền tệ.
Trong các ưu tiên của mình, các nhà đầu tư Mỹ đã coi yếu tố thị trường
và cơ sở hạ tầng (bao gồm cả cơ sở hạ tầng cứng và mềm) là yếu tố quan
15
trọng hơn các yếu tố chi phí và nguồn nguyên liệu,...Kết quả là, trong những
năm qua, Anh, Canada, Hà Lan, Australia, Đức, Thụy Sỹ, Nhật là những quốc
gia nhận đầu tư nhiều nhất của Mỹ, chỉ riêng 7 thị trường lớn nhất đã thu hút
tới 53,07% tổng đầu tư ra nước ngoài của Mỹ (chi tiết xem bảng 1.4). Rõ ràng
đầu tư của các công ty Mỹ chủ yếu là nhằm vào các quốc gia có thu nhập cao
(dung lượng thị trường lớn) và trình độ phát triển cơ sở hạ tầng cao.
Bảng 1.4: Thị trường đầu tư lớn nhất của Mỹ tính đến năm 2005
STT Tên nước
Vốn tiếp nhận

(Triệu USD)
Tỷ trọng (%)
1 Anh 323.796 15,64
2 Canada 234.831 11,34
3 Hà Lan 181.384 8,76
4 Australia 113.385 5,48
5 Đức 86.319 4,17
6 Thụy Sỹ 83.424 4,03
7 Nhật Bản 75.491 3,65
Tổng FDI của Mỹ 2.069.983 100,00
(Nguồn: “Inbound and outbound US Direct Investment with leading
partner country, 6/2007”, USDOC, BEA)
Theo số liệu chính thức của Mỹ, hiện nay đầu tư của Mỹ có mặt ở hầu
hết các nước trên thế giới. Nhưng nếu xét theo từng khu vực đầu tư, trong giai
đoạn 1996-2006, có tới 52,19% tổng đầu tư của Mỹ tập trung vào các nước
Châu Âu. Châu Mỹ La Tinh đứng thứ hai với 18,62%. Cả Châu Phi và Trung
Đông chỉ chiếm hơn 2%. Cơ cấu này là hoàn toàn phù hợp với định hướng thị
trường đã nêu ở trên. Ngoài ra có khoảng 2,81% số vốn được đầu tư ở nhiều
quốc gia khác (chi tiết xem bảng 1.5). Đáng lưu ý là khu vực Châu á-Thái
Bình Dương (TBD), là thị trường mới, hiện nằm trong tầm quan tâm của Mỹ,
đã thu hút được một tỷ trọng khá lớn là 16,55% vốn đầu tư (Năm 2006: đạt tỉ
16
lệ cao nhất-18,11%). So với các nước phát triển Châu Âu, các nước khu vực
Châu á-TBD không thể so sánh được về các yếu tố thu hút đầu tư của Mỹ
cũng như về dung lượng thị trường nhưng lại nằm trong chiến lược mở rộng
ảnh hưởng của Mỹ nên có được những ngoại lệ.
Bảng 1.5: Tỉ trọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ phân theo khu
vực giai đoạn 1996-2006
Đơn vị tính: phần trăm(%)
Năm/

Khu vực
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 TB
Canada 11,27 11,09 9,81 9,84 10,06 10,45 10,30 10,62 10,03 10,93 10,34 10,43
EU 48,97 48,79 51,81 51,63 52,22 52,86 53,16 55,20 55,05 51,98 52,45 52,19
Mỹ
Latinh
19,61 20,75 19,66 20,88 20,25 19,15 17,90 16,80 16,07 17,13 16,92 18,65
Châu
Phi
1,03 1,30 1,41 1,08 0,90 1,07 0,99 1,12 1,02 1,08 1,07 1,10
Trung
Đông
1,04 1,01 1,07 0,90 0,83 0,90 0,94 0,95 0,90 1,06 1,11 0,97
Châu á-
TBD
17,55 16,62 15,96 15,68 15,74 15,57 16,71 15,30 16,94 17,82 18,11 16,55
Khu vực
khác
4,53 3,44 2,28 0,99 - - - - - - - 2,81
(Nguồn: />2.2.2. Chính sách lĩnh vực và cơ cấu đầu tư của Mỹ theo lĩnh vực
Thông qua đầu tư, Mỹ muốn duy trì các nước trong mối quan hệ hợp
tác phụ thuộc, làm cho cơ cấu ngành kinh tế của các nước phù hợp với các
biến đổi cơ cấu kinh tế của Mỹ. Trong đầu tư ra nước ngoài của Mỹ giai đoạn
1996-2006, lĩnh vực công nghiệp chiếm hơn 30% tổng vốn, trong đó ngoài
dầu mỏ, khai khoáng đáng chú ý là các ngành hóa chất, điện tử, thiết bị công
nghiệp và xây dựng là những ngành có hàm lượng công nghệ cao; lĩnh vực
dịch vụ chiếm gần gần 5,41%, riêng ngành tài chính bảo hiểm đã chiếm tỷ
trọng gần 30%, thương mại chiếm 6,56%.
17
Cơ cấu các lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài của Mỹ ở bảng 1.6 đã phản

ánh mục tiêu chính sách về lĩnh vực đầu tư của Mỹ. Với mục tiêu phát triển
các ngành hiện đại có hàm lượng công nghệ cao, đổi mới tài sản cố định
nhanh nhằm đảm bảo cho sự phát triển kinh tế cao và ổn định, có khả năng
chi phối điều khiển trực tiếp thế giới, Mỹ đầu tư ra nước ngoài để nâng cao
hiệu quả tư bản của mình, chuyển giao những công nghệ đã lỗi thời. Nhưng
khi đầu tư ra nước ngoài, Mỹ luôn có ý đồ nắm và kiểm soát các nguồn
nguyên liệu chiến lược, trước hết là dầu mỏ, các loại khoáng sản, cao su... và
các ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng như chế tạo, điện tử, thiết bị
công nghiệp và xây dựng, ngân hàng, thương mại...
Bảng 1.6: Tỉ trọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ theo lĩnh vực giai
đoạn 1996 – 2006
Đơn vị: phần trăm(%)
Năm/ Ngành 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 TB
Khai khoáng - - - 5,96 5,48 5,44 5,06 4,83 4,82 5,43 5,71 5,34
Dầu mỏ 9,46 9,65 9,12 - - - - - - - - 9,41
Dịch vụ công
cộng
- - - 1,85 1,67 1,75 1,63 - - - - 1,73
Sản xuất 33,39 31,96 28,99 26,92 26,13 22,46 20,89 20,97 19,52 21,04 21,12 24,91
-Thực phẩm 3,90 3,76 3,53 1,91 1,79 1,46 1,19 1,56 1,35 1,43 1,36 2,11
-Hóa chất 9,41 8,77 7,94 6,72 5,76 5,42 5,11 5,17 5,04 5,44 5,44 6,38
-Kim lọai 2,05 1,82 1,82 1,77 1,64 1,49 1,29 1,21 1,19 1,10 0,97 1,49
-Máy móc 3,81 3,46 3,09 1,77 1,69 1,21 1,14 1,18 1,06 1,28 1,35 1,91
-Điện tử 4,00 3,59 3,21 4,53 5,31 4,67 3,67 3,28 3,16 3,56 3,88 3,90
-Phương tiện
vận tải
4,04 4,08 3,39 3,56 3,79 2,77 2,80 2,71 2,40 2,29 2,33 3,10
-Ngành sản
xuất khác
6,77 6,47 6,00 - - - - 5,87 5,32 5,94 5,78 6,02

Bán buôn 8,44 7,45 6,87 7,10 7.14 7,73 6.88 6,77 6,04 6,53 6,89 6,56
Tài chính,
bảo hiểm
36,66 38,53 41,51 19,71 19,54 20,26 21,02 21,22 23,09 24,28 23,17 26,27
Dịch vụ 4,76 5,34 5,91 6,58 6,48 5,29 4,50 4,66 5,06 5,35 5,53 5,41
Ngành khác 6,68 7,06 7,61 31,89 33,57 37,06 40,01 41,54 41,48 37,37 37,58 29,26
(Nguồn: />18
2.2.3. Chính sách đầu tư của Mỹ vào khu vực Châu á - Thái Bình Dương
Đối với Mỹ, "Châu á có ý nghĩa then chốt đối với đời sống kinh tế Mỹ
cũng như đối với đời sống hàng ngày của người dân Mỹ. Đó là vùng đất béo
bở nhất xét từ góc độ đảm bảo việc làm và xuất khẩu của người dân Mỹ" - đây
là lời phát biểu của Trợ lý thư ký Nhà Trắng vào đầu thập kỷ 90. Sự mất cân
bằng trong buôn bán với khu vực này đã làm cho Mỹ phải tìm mọi cách để
thu hẹp thâm hụt buôn bán song phương với từng bạn hàng. Tạo ra một khu
vực thương mại và đầu tư tự do Châu á-TBD là một kế hoạch hấp dẫn mang
lợi ích kinh tế cho Mỹ. Tuy Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á-TBD (APEC) ra
đời năm 1989 và Mỹ là một trong số 12 nước thành viên sáng lập nhưng sau
năm 1993 Mỹ mới bắt đầu tham gia APEC. Cần lưu ý rằng, phần lớn đầu tư
của Mỹ tại Châu á (trừ Nhật Bản) là vào sản xuất những mặt hàng xuất khẩu
trở lại Mỹ chứ không nhằm vào tiêu thụ tại thị trường địa phương (bởi vì thu
nhập người dân ở các quốc gia này rất thấp). Thêm vào đó, những điều kiện
áp dụng với ĐTNN của các quốc gia này thường làm giảm lượng việc làm
cho các công dân Mỹ. Những hàng hoá xuất khẩu sang các nước Châu á
thông qua hoạt động FDI thường là bán thành phẩm và nguyên liệu, được sử
dụng tại các công ty có vốn FDI của Mỹ và rồi lại được xuất khẩu trở lại Mỹ.
Những đặc điểm này trái hẳn với đặc điểm chung của dòng FDI ra nước ngoài
của Mỹ. Tuy nhiên, với chiến lược "Dính líu và mở rộng" mà chính quyền
B.Clinton đưa ra tháng 2 năm 1995 là: phát huy vai trò siêu cường duy nhất,
tạo môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế, duy trì lợi ích kinh tế và
an ninh ở các khu vực, từng bước thiết lập một trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh

đạo, Mỹ đã chấp nhận những điểm bất lợi ban đầu trong đầu tư vào khu vực
này. Để đạt mục tiêu đã đề ra, chiến lược của Mỹ là:
19
• Mỹ tiến hành chuyển hướng các hoạt động đầu tư từ Bắc Mỹ sang
Đông á, nhằm tận dụng sự tăng trưởng nhanh và năng động của các nền
kinh tế này để phục vụ chính sách thương mại mở rộng - chính sách của
chính quyền Clinton trước đây, và tiến tới giảm sự mất cân bằng trong
buôn bán giữa Mỹ và Đông á.
• Tăng nhanh dung lượng và cơ cấu vốn đầu tư sang các thị trường mới
nổi ở Châu á, đặc biệt là ASEAN và Trung Quốc nhằm tiếp thêm nhiên
liệu cho các nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh của Châu á, từng bước
thâm nhập vào hoạt động kinh tế của khu vực này.
• Là một nền kinh tế tự do theo chủ nghĩa thực dụng, Mỹ tiếp tục tăng
cường hoạt động đầu tư ở Châu á theo cấp độ vĩ mô, chuyển vốn đầu tư
vào các xí nghiệp, công ty ở Châu á do Mỹ “đỡ đầu” nhằm duy trì
chúng trong hệ thống các công ty xuyên quốc gia và trong vòng kiềm
toả của Mỹ. Lợi ích của các công ty Mỹ sẽ tập trung chuyển từ các
ngành chế biến dầu mỏ sang các ngành công nghiệp chế tạo hiện đại
khác của Châu á.
• Tăng cường thực hiện các chính sách đầu tư song phương với các nước
Châu á nhằm tạo nên kết cấu hợp tác kinh tế “hình dẻ quạt” để làm cơ
sở phát triển các mối quan hệ kinh tế mới ở khu vực Châu á - TBD
Cũng trong những năm gần đây, Mỹ càng tỏ ra tích cực hơn trong việc
đẩy mạnh quan hệ đầu tư với các nước Châu á. Các chuyến viếng thăm Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Australia trong thời gian cầm quyền
của cựu Tổng thống B.Clinton là nhằm thiết lập các mối quan hệ song phương
Mỹ - Trung Quốc, Mỹ - Nhật Bản, Mỹ - Hàn Quốc và các tam, tứ giác quyền
lực Mỹ - Nhật - Hàn Quốc - Trung Quốc ở Châu á. Với các nước ASEAN,
Mỹ coi trọng địa bàn hấp dẫn này, tích cực ủng hộ sự phục hồi kinh tế tài
20

chính năm 1997-1998 và tích cực gây ảnh hưởng của mình trong các Hội nghị
thượng đỉnh gần đây của khối ASEAN. Với Trung Quốc, Mỹ tăng cường đầu
tư với khối lượng lớn vào nước này nhằm tăng tỷ phần đầu tư của Mỹ so với
các nước trong khu vực. Ngoài ra, Mỹ cũng thâm nhập vào kinh tế các nước
Đông Dương, trong đó có Việt Nam, Mianma, hình thành một thế chiến lược
khai thác thị trường Châu á cả bề rộng lẫn bề sâu và trên mọi hướng.
Thực tế là lượng đầu tư của Mỹ vào khu vực này đã có nhiều biến động
trong giai đoạn 1996-2005. Mặc dù thị trường đầu tư lớn nhất vẫn là Nhật
Bản, Australia, Trung Quốc, Singapore, đầu tư vào những thị trường các nước
nhỏ nhóm “các nước khác” có xu hướng gia tăng về quy mô.
Bảng 1.7: Lũy kế FDI của Mỹ vào các nước Châu á - TBD năm 2005
Đơn vị tính: Triệu USD
Quốc gia Vốn tiếp nhận (Triệu USD) Tỉ trọng (%)
Australia 113.385 5,48
Trung Quốc 16.877 0,82
Hồng Kông 37.884 1,83
ấn Độ 8.456 0,41
Indonesia 9.948 0,48
Nhật Bản 75.491 3,65
Hàn Quốc 18.759 0,91
Malaysia 9.993 0,48
New Zealand 4.809 0,23
Philipin 6.649 0,32
Singapo 48.051 2,32
Đài Loan 13.374 0,65
Thái Lan 8.556 0,41
Các nước khác 4.616 0,22
21
Châu á - TBD 376.849 18,21
Thế giới 2.069.983 100

(Nguồn: “Survey of current business, 6/2006”, BEA)
Các chiến lược kinh tế thương mại của Mỹ bao giờ cũng được đặt trong
các chương trình điều chỉnh tổng thể nhằm thích ứng thậm chí làm thay đổi
các xu thế phát triển của thế giới theo hướng có lợi cho họ. Do đó, trong các
tính toán chiến lược nói chung, các chính sách kinh tế thương mại nói riêng,
Mỹ thường lưu ý đến vị thế và ảnh hưởng của các nước lớn chứ không phải là
các nước nhỏ. Chẳng hạn, trong sự điều chỉnh chiến lược kinh tế Châu á-
TBD, Mỹ rất quan tâm đến vị thế và những chuyển đổi về chính sách của các
nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Australia. Ngược lại, các nền kinh tế này,
kể cả Nhật Bản dường như đều lựa theo “thái độ” của Mỹ để điều chỉnh chính
sách kinh tế đối ngoại của mình. Một ví dụ rất dễ thấy là, sau sự bình thường
hoá quan hệ Việt Nam - Mỹ, đầu tư của Nhật và một số quốc gia khác vào
Việt Nam mới bắt đầu khởi sắc, mặc dù Việt Nam đã thực sự chuyển đổi sang
nền kinh tế mở kể từ đầu năm 1986. Bởi lẽ rất đơn giản là nền kinh tế Mỹ
được mọi nền kinh tế trên thế giới coi như là hình mẫu của sự phát triển và lợi
ích của họ gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ cũng
có thói quen rất ít bỏ qua các cơ hội phát triển mang lại từ quốc gia nhỏ nhất.
Việt Nam có thể tận dụng vị trí địa lý-chính trị và địa lý-kinh tế của mình,
một vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với sự tái hoạch định chiến lược kinh tế
Châu á-TBD, để phát triển quan hệ kinh tế nói chung và đầu tư nói riêng với
Mỹ. Chính việc Mỹ nối lại quan hệ với Việt Nam là nhằm để tăng cường ảnh
hưởng của quốc gia này ở ĐNA về mọi phương diện. Mỹ muốn tạo dựng lại
hình ảnh mới của mình ở khu vực này sau thời kỳ chiến tranh lạnh bằng việc
thể hiện vai trò dẫn dắt của nền kinh tế Mỹ trong APEC bằng việc tạo lập các
địa bàn đầu tư mới ở khu vực Đông Nam á (ĐNA), Đông á, hiện là những thị
trường đầu tư thương mại hấp dẫn, tỷ suất lợi nhuận cao mà Nhật Bản, theo
22
đó, đang chuyển dần những khoản đầu tư của mình ra khỏi các địa bàn đầu tư
Châu Âu, Bắc Mỹ để trở về. Do vậy, mặc dù Mỹ chưa đánh giá hết các lợi thế
của một nền kinh tế nhỏ bé như Việt Nam, trong bối cảnh quốc tế hiện nay,

Việt Nam đã trở thành một nhân tố “đáng kể” để Mỹ phải tính đến trong
chiến lược kinh tế Châu á-TBD của họ. Điều này cũng đặt ra cho phía Việt
Nam là, trong phương hướng phát triển quan hệ đầu tư với Mỹ, quan niệm về
lợi ích phải được đặt trong một cách nhìn dài hạn, rộng lớn có tính đến vị thế
kinh tế, chính trị của mình.
Bảng 1.8: Lũy kế FDI của Mỹ vào các nước Châu á-TBD theo quốc gia,
lĩnh vực năm 2005
Đơn vị: triệu USD
Nước/
Ngành
Châu á-
TBD
Australi
a
Hồng
Kông
Nhật
Bản
Hàn
Quốc
Singapo
Sản xuất 80.951 13.174 2.369 15.264 8.251 14.307
Điện tử 23.864 616 998 3.026 2.328 9.016
Phương
tiện vận tải
7.565 1.840 31 758 696 7.822
Bán buôn 26.369 2.532 6.643 8.024 1.144 1.886
Tài chính –
Bảo hiểm
65.651 6.455 10.134 34.032 1.949 -

Công ty
quản lý vốn
122.683 77.339 11.634 1.253 312 -
(Nguồn:”Survey of current business, 2006”,USDOC, BEA)
Từ việc nghiên cứu tình hình đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ,
người viết đi vào phân tích thực trạng dòng FDI của Mỹ vào Việt Nam cả về
quy mô vốn và cơ cấu đầu tư để từ đó rút ra những đánh giá khái quát về
thành công cũng như hạn chế của quá trình đầu tư đó.
23
Chương II
Thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam
I. Khái quát về hoạt động FDI của Mỹ vào Việt Nam
1. Vài nét về lịch sử quan hệ Việt-Mỹ
Lịch sử phát triển đầu tư của Mỹ vào Việt Nam gắn chặt với lịch sử
quan hệ giữa hai quốc gia. Trước năm 1975, hoạt động đầu tư của Mỹ chủ yếu
diễn ra ở Sài Gòn và một số tỉnh lân cận ở phía Nam: các dự án đầu tư không
nhiều, chủ yếu là đầu tư của chính phủ Mỹ vào một số ngành kinh doanh dịch
vụ và quốc phòng phục vụ cho quân sự của Mỹ đầu tại Việt Nam.
Kể đầu từ tháng 5 năm 1964, Mỹ áp đặt lệnh cấm vận chống miền Bắc
Việt Nam và từ đầu tháng 5 năm 1975 sau khi nước ta hoàn toàn thống nhất,
Mỹ mở rộng cấm vận với toàn lãnh thổ Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như
thương mại, tài chính, tín dụng, ngân hàng, đầu tư,... Bên cạnh đó Mỹ cũng
khống chế các nước đồng minh và các tổ chức quốc tế do Mỹ thao túng trong
việc đầu tư vào Việt Nam. Sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam, Mỹ thực hiện cấm vận triệt để đối với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực.
Chính sự nhức nhối do cuộc chiến tranh ở Việt Nam, một cuộc chiến tranh mà
nhiều năm sau vẫn ảnh hưởng sâu sắc trong tâm trí của người dân Mỹ, trực
tiếp hay gián tiếp tham gia, đã khiến cho chính quyền Mỹ thực hiện chính
sách cấm vận triệt để ở Việt Nam.
Tuy nhiên, với chủ trương đổi mới đất nước, với chính sách đối ngoại

mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại của Việt Nam và
24
những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Việt Nam, được
khởi xướng bởi chính phủ của cựu tổng thống George W. Bush, phát triển
dưới thời chính phủ Clinton, và tiếp tục bởi chính quyền của tân tổng thống
George W. Bush, mối quan hệ giữa hai quốc gia càng ngày càng được củng
cố và tăng cường. Trong đó, có rất nhiều cột mốc lớn đánh dấu bước phát
triển vượt bậc cả về quan hệ ngoại giao cũng như quan hệ thương mại-đầu tư
giữa hai quốc gia như: Sự kiện Mỹ tuyên bố xóa bỏ hoàn toàn cấm vận đối
với Việt Nam (1994) và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam
(1995); Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ được kí kết
(07/2000) và có hiệu lực (12/2001); Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của WTO (07/11/2006) sau khi kết thúc vòng đám phán Việt Nam–Hoa Kỳ về
việc gia nhập WTO (05/2006)…và còn nhiều cột mốc quan trọng khác (xem
phụ lục 6).
Trong tất cả các mốc lớn đó, bên cạnh việc Mỹ xóa bỏ cấm vận đối với
Việt Nam, sự kiện 2 nước kí kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có thể được
xem là dấu mốc quan trọng nhất trong sự phát triển quan hệ thương mại, đầu
tư Việt-Mỹ, và có tác động to lớn đến sự gia tăng dòng FDI từ Mỹ vào Việt
Nam (Nội dung này sẽ được đi sâu phân tích ở phần thực trạng FDI của Mỹ
vào Việt Nam trước khi Việt Nam gia nhập WTO).
Hiệp định dài gần 120 trang, gồm 7 chương với 72 điều và 9 phụ lục,
đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, sở
hữu trí tuệ và quan hệ đầu tư. Hiệp định được xây dựng trên hai khái niệm
quan trọng. Khái niệm “tối huệ quốc-MFN” mang ý nghĩa hai bên cam kết đối
xử với hàng hóa, dịch vụ, đầu tư của nước kia không kém phần thuận lợi so
với cách đối xử đối với hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, của nước thứ ba (đương
nhiên không kể đến các nước nằm trong liên minh thuế quan hay khu vực
25

×