Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TÓM tắt nội DUNG GIÁO TRÌNH lưu HÀNH nội bộ LỊCH sử hóa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.54 KB, 22 trang )

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

TÓM TẮT NỘI DUNG GIÁO TRÌNH
LƯU HÀNH NỘI BỘ
LỊCH SỬ HÓA HỌC
MÃ SỐ:………
Chủ nhiệm:
TS.Nguyễn Thị Thu Hà
Đồng chủ nhiệm: Ths. Đỗ Thị Thủy
Ths.Phạm Thu Oanh
Đơn vị: Khoa Khoa học Tự nhiên

Hải Phòng, năm 2016


1.Tính cấp thiết, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Lịch sử của hóa học có thể được coi như bắt đầu từ lúc Robert
Boyle tách hóa học từ khoa giả kim thuật trong tác phẩm The Skeptical
Chemist (Nhà hóa học hoài nghi) vào năm 1661 nhưng thường được đánh
dấu bằng ngày Antoine Lavoisier tìm ra khí ôxy vào năm 1783. Hóa học có
bước phát triển mạnh và phân hoá vào thế kỷ 19. Những nghiên cứu của
Justus von Liebig về tác động của phân bón đã thành lập ra ngành Hóa nông
nghiệp và cung cấp nhiều nhận thức cho ngành hóa vô cơ. Cuộc tìm kiếm
một hóa chất tổng hợp thay thế cho chất màu indigo dùng để nhuộm vải là
bước khởi đầu của những phát triển vượt bậc cho ngành hóa hữu cơ và
dược. Một đỉnh cao trong sự phát triển của ngành hóa học chính là phát
minh bảng tuần hoàn nguyên tố của Dmitri Ivanovich Mendeleev và Lothar
Meyer. Nghiên cứu trong hóa học đã phát triển trong thời kỳ chuyển tiếp
sang thế kỷ 20 đến mức các nghiên cứu sâu về cấu tạo nguyên tử đã không
còn là lãnh vực của hóa học nữa mà thuộc về vật lý nguyên tử hay vật lý hạt


nhân. Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu này đã mang lại nhiều nhận
thức quan trọng về bản chất của sự biến đổi chất hóa học và của các liên kết
hóa học. Các động lực quan trọng khác bắt nguồn từ những khám phá trong
vật lý lượng tử thông qua mô hình quỹ đạo điện tử.
Lịch sử hóa học là cuốn giáo trình nhằm cung cấp cho người đọc,
nghiên cứu một cái nhìn gần như đầy đủ về sự ra đời của các nguyên tố, các
hợp chất được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Sự phát triển của lịch sử
kéo theo sự phát triển của lịch sử hóa học. Mà ở đó có thể nhận thấy những
tìm tòi, phát hiện, phát minh của loài người ngày càng vĩ đại.
Hiện nay, bộ môn Hóa học trường ĐH Hải Phòng đang sử dụng cuốn
Lịch sử Hóa học của tác giả Nguyễn Đình Chi xuất bản năm 1975.
2.Lý do chọn vấn đề biên soạn:
- Giúp sinh viên ngành Sư phạm Hóa và các chuyên ngành khác
có thể tìm hiểu, nắm vững kiến thức cơ bản về lịch sử Hóa học thế giới
và Việt Nam trải qua một số giai đoạn.
- Giáo trình này cũng sẽ thuận lợi cho sinh viên trong việc tham
khảo và sử dụng trong các giáo án giảng dạy sau này.
- Vấn đề biên soạn phù hợp với hoạt động chuyên môn, thiết thực
cho sự nghiệp phát triển đào tạo sinh viên trỏe thành giáo viên hóa học
PTTH.
3.Mục tiêu khoa học của giáo trình:
- Giúp sinh viên hệ ĐH Sư phạm Hóa nắm vững thêm kiến thức
lịch sử hóa học và hóa học phát triển thực tế ngày nay.
- Các giảng viên quan tâm, sinh viên sư phạm có thể sử dụng giáo
trình như một tài liệu tham khảo trong quá trình công tác của mình.


4.Phương pháp biên soạn:
- Phương pháp kế thừa truyền thống: Nghiên cứu kế thừa các tài
liệu liên quan đến hóa học và lịch sử hóa học xuất bản trong và ngoài nước.

- Phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu chương trình đào
tạo trình độ đại học theo hệ thống tín chỉ của trường ĐH Hải Phòng; nghiên
cứu đề cương chi tiết học phần “ Lịch sử hóa học”.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: trao đổi với cán bộ giảng
viên hóa học về lịch sử phát triển hóa học.
5.Tóm tắt nội dung giáo trình
Giáo trình được viết trong 6 chương và 1 phụ lục (4 chủ đề):
CHƯƠNG 1: HÓA HỌC THỜI KỲ CỔ ĐẠI
CHƯƠNG 2: THỜI KÌ GIẢ KIM THUẬT (HÓA HỌC TRONG THỜI KÌ
TRUNG CỔ)
CHƯƠNG 3: THỜI KÌ HÓA HỌC KĨ THUẬT VÀ HÓA Y HỌC
CHUƠNG 4: HOÁ HỌC TRONG THỜI KỲ XUẤT HIỆN THUYẾT
PHLÔGISTÔN
CHƯƠNG 5: HÓA HỌC Ở CHÂU ÂU THẾ KỈ 18
CHƯƠNG 6: THUYẾT ÔXY VỀ SỰ CHÁY VÀ CUỘC CÁCH MẠNG
TRONG HÓA HỌC
PHẦN PHỤ LỤC
CHỦ ĐỀ 1 : SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NGHỀ THỦ CÔNG HÓA HỌC
Ở VIỆT NAM THỜI XƯA
CHỦ ĐỀ 2: LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG HIỆN ĐẠI (ĐÚC ĐỒNG)
CHỦ ĐỀ 3: LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG HIỆN ĐẠI (THỦY TINH)
CHỦ ĐỀ 4: HÓA HỌC SONG HÀNH CÙNG THỜI GIAN
CHƯƠNG 1: HÓA HỌC THỜI KỲ CỔ ĐẠI
Cho đến ngày nay, những bằng chứng của khảo cổ học, đặc biệt là của
nhân hình học đã hình dung một cách cụ thể con đường tiến hóa từ vượn
thành người như sau: Cách đây vào khoảng vài chục triệu năm trên trái đất
có một giống vượn hình người sinh sống. Loài vượn này sau đó chia làm
hai ngành,mỗi ngành đi theo con đường riêng của mình. Một ngành trở
thành giống khỉ hình người, hiện nay vẫn còn tồn tại. Một ngành khác là tổ
tiên của loài người. Cách đây vào khoảng ba triệu năm, ngành vượn hình

người trong quá trình tiến hóa của mình đã bắt đầu biết chế tạo công cụ, rồi
biết dùng lửa và giữ lửa. Những công cụ xưa nhất được các nhà khảo cổ tìm
thấy năm 1968, đó là những mảnh đá mà con người nguyên thủy – người
vượn dùng để săn thú dữ, chặt cây.
Tại khu vực các rộng lớn như: Á – Âu – Bắc Phi các nhà khảo cổ học
cũng đã tìm thấy một số di vật đạt đến một trình độ văn minh nhất định,
được xuất hiện dần dần: Trung Quốc (sớm nhất), Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai


Cập, Hi Lạp, La Mã (muộn nhất). Khu vực Lưỡng Hà có những tấm đất sét
khắc chữ hình nêm từ 3000 năm trước công nguyên ghi lại cách sản xuất
các kim lại, sắt, đồng, bạc, chì từ quặng, có những tượng múa tôn giáo, từ
4000 năm trước
Tư liệu ghi chép trên những tấm đá, tấm đất sét nung, thanh tre non,
giấy lao sậy (papirút Ai Cập) cho thấy lao động cần cù đi đến sáng tạo ra
nhiều sản phẩm gồm đồ mỹ nghệ bằng ngọc quý, vàng, bạc, đồ gốm, đồ
thủy tinh, vải vóc, thuốc nhuộm… Và đã để lại cho ngày nay những di vật
quý giá như: đền đài, lăng mộ, kho báu, dụng cụ lao động, sinh hoạt…
Từ bầy vượn, động lực gì đã thúc đẩy họ tiến lên xây dựng được
loài người xa hội văn minh ngày nay? Khoa học đòi hỏi phải vẽ lại con
đường mà những bầy người nguyên thủy đã trải qua để trở thành những
công xã thị tộc, rồi thành bộ lạc cộng sản nguyên thủy, sau đó hình thành
những quốc gia chiếm hữu nô lệ tuy đã bị diệt vong nhưng còn để lại những
công trình văn minh vĩ đại như Kim tự tháp ở Ai Cập, Acropon ở Hy Lạp
bức trường thành vĩ đại ở Trung Quốc... và cuối cung cho đến thế giới ngay
nay bằng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, các nhà sử học, khảo
cổ học... dần tái hiện lại con đường mà loài người đã đi qua trên những
trang của cuốn lịch sử tiến hóa nhân loại.
1.1. Kiến thức hóa học trong xã hội cộng sản nguyên thủy
Khi con người chưa tiến hóa hết vẫn còn làm người tinh khôn sống

theo từng bầy, sinh sống chủ yếu bằng cách thu nhặt và hái lượm những thứ
có sẵn trong thiên nhiên. Trải qua nhiều thế kỉ đấu tranh quyết liệt với thiên
nhiên để sinh tồn, con người mới nắm một số kiến thức rời rác về hóa học.
1.2. Hóa học thực hành ở Ai Cập
Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở đông bắc châu Phi,
tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất
nước Ai Cập. Là một trong sáu nền văn minh phát sinh một cách độc lập
trên thế giới. Nền văn minh Ai Cập được thống nhất lại vào năm 3150 TCN
(theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập) với sự thống nhất chính
trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời vị pharaoh đầu tiên. Lịch sử của Ai
Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai
đoạn hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ vương
quốc Sơ kỳ Đồ đồng, Trung vương quốc tương ứng giai đoạn Trung kỳ Đồ
Đồng và Tân vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng.
Do vậy có thể coi người Ai Cập cổ đại là “ông tổ” của ngành hóa
học thực hành. Họ đã có những khám phá và phát minh vô cùng quan trọng
giúp phát triển ngành hóa học hiện đại, và đến nay cũng còn nhiều câu hỏi bỏ
ngỏ cho những công trình vĩ đại mà họ để lại.
1.3. Các ngành thủ công hóa học ở vùng Lưỡng Hà


1.4. Kiến thức hóa học ở Trung Quốc và Ấn Độ thời thượng cổ
1.5. Một số quan niệm về bản chất của vật chất ở Trung quốc và Ấn Độ
1.6. Triết học tự nhiên ở Hy Lạp cổ
1.7. Hóa học ở Alexăngđri và những tài liệu hóa học cổ nhất
1.7.1. Hoàn cảnh lịch sử ở Alexăngđri
1.7.2. Những tài liệu hóa học cổ nhất
a. Thời kì trước khi Ai Cập thuộc Hy Lạp
b. Thời kì Ai Cập thuộc Hy Lạp
c. Thời kì La Mã.

1.7.3. Những đóng góp của viện Hàn lâm khoa học Alexăngđri
1.8. Hóa học ở đế quốc La Mã trong những thế kỷ đầu công nguyên
1.8.1. Lịch sử hóa học ở đế quốc La Mã
1.8.2. Hai tác phẩm phản ánh trình độ tư tưởng triết học về vật chất và kiến
thức hóa học
a. Bài thơ “Về bản chất sự vật” (gồm 6 cuốn).
b. Bộ “Lịch sử tự nhiên”.
1.8.3. La Mã bước vào đêm đen trung cổ
1.9. Hóa học ở Ấn Độ và Trung Quốc trong các thế kỉ đầu công nguyên
1.9.1. Hóa học ở Ấn Độ trong các thế kỉ đầu công nguyên
1.9.2. Hóa học ở Trung Quốc trong các thế kỉ đầu công nguyên
CHƯƠNG 2: THỜI KÌ GIẢ KIM THUẬT
(HÓA HỌC TRONG THỜI KÌ TRUNG CỔ)
2.1. Vài nét về thời kì trung cổ ở châu Âu
* Hoàn cảnh lịch sử:
Thời trung cổ ở Châu Âu bắt đầu từ các thế kỉ 3-4 cho đến thế kỉ
17, đây là thời kì mà các chế độ phong kiến và phương thức sản xuất phong
kiến thống trị ở Tây Âu.
Dưới chế độ phong kiến người lao động phụ thuộc vào giai cấp
phong kiến thông trị. Tuy nhiên họ còn có thể sử dụng một phần lao động
tự do và có một ít sở hữu phương tiện lao động và phương tiện sản xuất cho
nên nó có phần hào hứng trong lao động, vì vậy phương thức sản xuất
phong kiến là một bước tiến so với phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ.
2.2. Giả kim thuật của người Ả Rập
2.3. Đóng góp của các nhà giả kim thuật Châu Âu vào sự phát triển
Hóa Học
CHƯƠNG 3: THỜI KÌ HÓA HỌC KĨ THUẬT VÀ HÓA Y
HỌC
3.1. Sự phát triển văn hóa khoa học trong thời kì Phục Hưng



Phục Hưng là một phong trào văn hóa trải dài từ thế kỉ 14 đến thế
kỉ 17, khởi đầu tại Ý vào hậu kì Trung Cổ và sau đó lan rộng ra phần còn lại
của Châu Âu.
Nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của thời kì văn hóa Phục Hưng là bắt
nguồn từ sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế
trên nền móng giai cấp phong kiến đang trên đà sụp đổ. Những trói buộc về
tình cảm và tự do cá nhân thông qua những giáo lí khắt khe và luật pháp hà
khắc của chế độ phong kiến đã cản trở sự phát triển của giai cấp tư sản.
Phong trào văn hóa Phục Hưng ra đời trong thời gian mà khoa học có nhiều
thành tựu quan trọng, các phát minh như: nấu thép nghề in, các kiến thức về
thiên văn và địa lí đã đảo lộn quan niệm phản khoa học của chế độ phong
kiến. Phong trào văn hóa Phục Hưng diễn ra đầu tiên ở Ý vì có quan hệ tư
bản xuất hiện sớm, sau đó lan rộng ra các nước Tây Âu và Trung Âu khác
như: Anh, Pháp…
Nội dung phong trào Phục Hưng xoay quanh về con người, đề cao con
người. Phong trào Phục Hưng chủ yếu là chống lại giáo hội và giai cấp phong
kiến. Họ lên án, đả kích sự tàn bạo và dốt nát, giả nhân giả nghĩa của các giáo
sĩ và bọn quý tộc phong kiến. Họ phủ nhận quan niệm của giáo hội cho rằng
thượng đế là trung tâm, những trò bịp bợm xấu xa của giáo hội và giáo Hoàng
trở thành tiêu điểm của sự châm biếm và chế nhạo.
3.2. Sự phát triển luyện kim trong các thế kỉ 14 – 16
Trong thời Trung Cổ, sự tiến bộ của luyện kim rất chậm chạp, tại các nước
Châu Âu người ta chế sắt bằng phương pháp luyện sắt hạt trong những lò
nhỏ. Mãi đến thế kỉ 14 mới xuất hiện những lò cao nhỏ đầu tiên có quạt thổi
không khí.
Vào thế kỉ thứ 10 tại miền Xacxong (phía Đông nước Đức),
Hunggari, Thụy Điển đã bắt đầu chế luyện quặng đồng.
3.3. Hóa y học
Sự Phục Hưng nền văn hóa cổ đại tạo nên những trào lưu mới trong

nhiều ngành khoa học, trong hóa học sự xuất hiện trương phái Hóa y học là
một trong những ngành biểu hiện của trò lưu đó. Thực ra việc dùng các
khoáng vật để chữa bệnh và trang sức cùng với những thứ thuốc lấy từ cây
cỏ và động vật đã được nhiều dân tộc biết đến từ thời cổ đại, nhưng trước
thế kỉ 16, các loại thuốc chế từ khoáng vật mới được dùng rất hạn chế.
3.4. Sự phát triển sản xuất hóa học trong các thế kỉ 15 – 17
Nhiều chất quan trọng được chở từ các nước phương Đông và Ai Cập tới
.Vào thế kỷ 15, ở Châu Âu bắt đầu xuất hiện sự chuyên môn hóa những
nghành sản xuất nhỏ như axit, kiềm, muối, dược phẩm và 1 số chất hữu
cơ.Các axit vô cơ (axit sunfuric, axitnitric) được bắt đầu sản xuất ở Châu
Âu vào khoảng năm 1300.Tuy nhiên mãi sau này người ta mới biết cách sản


xuất axit đặc. Chẳng hạn dầu Cuporozo mãi đến nửa sau thế kỉ 16 mới được
nhắc đến trong tác phẩm.Việc sản xuất dầu cuporozo mãi đến thế kỉ 18 mới
phát triển.Việc điều chế axit clohidric đặc được Glaobe mô tả lần đầu tiên
vào thế kỉ 17. Axitnitric (nước mạnh) - vì được dùng nhiều trong các phòng
thí nghiệm giả thuật kim để hòa tan kim loại và điều chế nước cường toan
(aqua regis) nên đến cuối thời Trung cổ đã sở thành một loại sản phẩm hàng
hóa.Vào thế kỷ 15 ở Venexi đã có ngành sản xuất axit nitric.
CHƯƠNG 4: HOÁ HỌC TRONG THỜI KỲ XUẤT HIỆN THUYẾT
PHLÔGISTÔN
4.1. Hoàn cảnh xã hội và sự phát triển khoa học tự nhiên vào nửa sau thế
kỷ 17
Vào giữa thế kỷ 17, sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển rộng rãi ở
châu Âu. Nền công nghiệp cũng trở nên nhộn nhịp và mở rộng, các ngân
hàng xuất hiện, nhiều công ty buôn bán lớn ra, đời giai cấp tư sản công
nghiệp và thương mại ngày càng có ảnh hưởng lớn tới chính trị. Họ chi tiền
cho các cuộc chiến tranh và tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Quan hệ sản xuất phong kiến ở Tây Âu bắt đầu tan rã nhanh chóng.
Lao động làm thuê dần dần thay thế cho lao động nông nô, nông dân bần
cùng hoá và bắt đầu xuất hiện những quân đội thất nghiệp lang thang trên
hè phố đi xin việc làm. Nhiều cuộc nội chiến tranh nổ ra nhằm tranh giai cấp
hoặc tranh giành thị truờng.
4.2. Tình hình hoá học và các tiền đề để phát triển khoa học vào nửa sau thế
kỷ 17
Vào thế kỷ 17, trong khi cơ học, vật lý học, thiên văn học đã đạt
được nhiều thành tựu thì hóa học vẫn còn ở trạng thái lạc hậu. Trào lưu
chính trong hóa học là khoa y học, với đỉnh cao phát triển là những công
trình của Van Henmon và những người kế tục ông. Nhiệm vụ đặt ra trước
các nhà khoa học (mà phần lớn là thầy thuốc và dược sĩ) bó hẹp vào mục
tiêu thực dụng của y học. Các dữ kiện thực tế và quan sát thực nghiệm được
bổ sung rất chậm và không được tổng kết. Các nhà khoa học vẫn chưa nắm
được phương pháp phân tích các chất và hỗn hợp.
4.3. Sự xuất hiện quan niệm mới về hiện tượng cháy và thở
Sự phát triển mạnh mẽ công nghiệp luyện kim vào thế kỉ 17 đặt ra
cho hóa học nhiệm vụ giải thích quá trình khử kim loại từ quặng và các hiện
tượng xảy ra khi nung nóng kim loại. Về mặt thực tế, vấn đề này đã được
tìm hiểu từ lâu nhưng về mặt lí thuyết vẫn chưa có cách giải thích nào thỏa
mãn. Người ta cho rằng khi nung nóng trong không khí, kim loại bị “chết”
và biến thành “đất chết” (xỉ, tro, vôi), và khi khử (nung với than), kim loại
lại được hồi sinh.


4.4. RôBớc Bôi và sự ra đời của “Khoa học Hóa học”
Trong lịch sử phát triển hóa học thế kỷ 17 nổi bật lên vài trò của
nhà bác học Anh xuất sắc RôBớc Bôi (Robert Boyle) (1627 – 1691), con
người mà Enghen đánh giá là “đã làm cho Hóa học trở thành khóa học”.
Hoạt động của ông phản ánh rực rỡ các trào lưu mới trong khóa học lúc đó

và trước hết là chống lại những quan điển phản động của triết học kinh viện
và những tàn dư lạc hậu của thời kỳ giả kim thuật.Là một người theo trào
lưu triết học quy nạp của Bêcơn, Bôi là một trong những đại diện nổi bật
nhất của hóa học thực nhiệm. Ông tìm kiếm và tập hợp các dữ kiện thực
nghiệm rồi từ đó khái quát hóa và nêu ra những kết luật lý thuyết.
4.5. Những nhà hóa học đồng thời với Bôi
4.5.1. Ixắc Niutơn (1643 – 1727)
Quan điểm lý thuyết của Niutơn về hóa học dựa trên cơ sở thuyết
hạt mang tính chất tôn giáo. Ông cho rằng ban đầu thượng đế tạo ra những
vật chất dưới hạt rắn nặng cứng không thể xuyên qua và linh động. Bản
chất của các hạt này không đổi và sự biến đổi của các vật thể chẳng qua là
những quá trình phân tách, kết hợp và vận động của những hạt không đổi
đó.
4.5.2. Tômat Vilit (1621 – 1675)
Một trong những nhà hóa học khác ở Anh cùng thời với Bôi là
Tomat Vitlit. Trong bản luận văn “Về sự lên men hay sự chuyển động của
các vật thể vô cơ tự nhiên” xuất bản năm 1659, ông đã nêu vấn đề về thành
phần hợp thành của vật thể như những chất tạo thành khi phân hủy vật thể.
4.5.3. Nicôla Lêmêry (1645 – 1715)
Giáo trình hóa học của Lêmêry được mở đầu bằng định nghĩa :"Hóa
học là một nghệ thuật dạy cách phân tích các chất có chứa trong vật thể trộn
lẫn. Theo tôi, những vật thể trộn lẫn được tạo thành trong thiên nhiên là: các
khoáng vật, thực vật và động vật ”. Định nghĩa này phản ánh sự lệ thuộc
của hóa học vào y học và dược học. Tuy nhiên, trong định nghĩa chưa đề
cập đến việc nghiên cứu về mặt lý thuyết các hiện tượng và quá trình hóa
học. Vì vậy, hóa học được Lêmêry gọi là nghệ thuật chứ không phải khoa
học.
4.5.4. Vihen Hombec (1652 – 1715)
Mặc dù lạc hậu về quan điểm lý thuyết, Hombec là một nhà một nhà
thực nghiệm và quan sát có tài, ví dụ khi nấu nóng trong bình cầu hỗn hợp

cupơrôzơ sắt và borắc, lần đầu tiên ông chế được axit boric. Hombec còn
nghiên cứu các loại hợp kim, đặc biệt là những hợp kim nhẹ gồm 3 kim loại
thiếc, chì, bitmut. Ông còn đề ra các công thức làm mực, làm sơn… hoàn
thiện các phương pháp phân tích kim loại quý.


4.5.5. Iôhan Cunken ( 1630 – 1703)
Là một nhà giả kim học, ông cũng góp phần khám phá ra phốtpho,
đã nghiên cứu nhiều về công nghệ sản xuất thủy tinh, đặc biệt là cách sản
xuất thủy tinh màu. Ông cũng đã xác định sự giống và khác nhau giữa các
chất kiềm thực vật (pootat) thu được từ những các loại cây khác nhau. Mặc
dù là nhà giả kim thuật trung thành, Cunken bóc trần không thương tiếc sự
giả dối và các học thuyết mơ hồ cảu các nhà giả kim thuật khác. Ví dụ như:
ông đã phản đối học thuyết về dung môi vạn năng và thuốc chữa bệnh vạn
năng…
4.5.6. Iôhan Iôkhim Bêkhe (1653 – 1682)
Các quan điểm lý thuyết của Bêkhe nói chung rất lạc hậu và được
trình bày bằng ngôn ngữ rất khó hiểu. Ông là người tán thành học thuyết giả
kim thuật ông cho rằng mọi vật đều có thành phần phức tạp.
Ông coi sự cháy là quá trình phân hủy vật thể thành các thành phần
dưới tác động của lửa. Một vật thể cháy được cấu tạo từ chất đất béo và lưu
huỳnh ngoài ra còn có thành phần của muối nữa. Khi nung nóng các kim
loại không quý, có một thành phần bay hơi của kim loại được giả phóng vá
sự tăng khối lượng kim loại khi vôi hóa kim loại là do sự kết hợp “chất lửa”
vào kim loại. Bêkhe còn có ý kiến cho rằng muối và axit cấu tạo từ đất và
nước.
4.6. Sự sáng lập ra thuyết Phlôgistôn - G.E.Stan
4.6.1. Hoàn cảnh và sự hình thành khoa học ở thế kỷ 17
Ở thế kỷ 17, sự phát triển ngành luyện kim, ngành sản xuất thủy
tinh và nhiều ngành kỹ thuật khác đã đặt ra những nhu cầu lớn về nhiên

liệu, đặc biệt là than gỗ dùng để khử quặng kim loại. Từ đó hoạt động của
các nhà hóa học tập trung vào việc tìm cách sử dụng nhiên liệu một cách
tiết kiệm và hợp lý, đồng thời tìm ra những chất thay thế cho than gỗ. Các
tác phẩm hóa học lúc này dành phần lớn nội dung để giải thích hiện tượng
cháy và sự vôi hóa kim loại.
4.6.2. Tiểu sử về Gioocgiơ Ecnet Stan
Gioocgiơ sinh ngày 21 tháng 10 năm 1659 tại Đức. Năm 1683, ông
tốt nghiệp khoa y trường đại học Y-en và trở thành thầy thuốc. Ban đầu ông
làm giáo sư y khoa ở Y-en và từ năm 1693, ông được mời đến xứ Galơ làm
giáo sư Y học và Hóa học. Từ năm 1711, ông là thầy thuốc cung đình của
quốc vương Phổ ở Beclin. Vốn nổi tiếng là thầy thuốc có tài, năm 1726
Stan được mời sang Petecbua chữa bệnh cho thống soái Mensicốp – cận
thần số một của hoàng đế Nga Pie đệ nhất.
4.6.3. Tình hình hóa học và tiền đề phát triển của thuyết Phlôgistôn
Lúc mới được Stan đề xướng, thuyết Phlôgistôn chưa được các nhà
hóa học thừa nhận, sau này nhờ hoạt động của các học trò của Stan (những


người vừa là nhà hóa học lý thuyết,vừa là nhà hóa học thực nghiệm và kỹ
thuật hóa học) mà thuyết Phlôgistôn được thừa nhận rộng rãi trong giới hóa
học.
4.7. Hoạt động của các nhà hóa học vào đầu thời kì Phlôgistôn
4.7.1. Fridic Hôpman (1660 – 1742)
Fridic Hôpman (1660 – 1742) là một người bạn của Stan ở Galơ.
Hôpman nghiên cứu y học và hóa học ở trường Y- en và từ năm 1681 trở
thành cán bộ giảng dạy ở đây. Năm 1693 ông được mời làm giáo sư ở
trường đại học Galơ và giữ trách nhiệm này trong suốt 48 năm.
4.7.2. Hecman Buahavơ (1668 – 1738)
Hecman Buahavơ (1668 – 1738) nhà hóa học nổi tiếng Hà Lan
cùng thời với Stan. Ông là người theo môn phái triết học chiết trung của

Spinôza (1632 -1677). Từ năm 1702, Buahavơ là giáo sư y học ở trường đại
học Lâyđen và ít lâu sau trở thành giáo sư hóa học và thực vật học. Ngoài ra
ông còn là một thầy thuốc nổi tiếng khắp Châu Âu.
4.7.3. Echiên Frăngxoa Giôphroa (1672 – 1731)
Echiên Frăngxoa Giôphroa (1672 – 1731) nhà hóa học nổi tiếng
cùng thời với Stan ở Pháp. Ông là giáo sư y học và hóa học ở vườn thực vật
Hoàng Gia và được coi là nhà sáng lập ra học thuyết ái lực hóa học. Năm
1718, Giôphroa trình bày trước Viện hàn lâm khoa học Pari “bảng ái lực”
của mình. Các bảng này được xây dựng trên cơ sở các nghiên cứu của ông
về tác dụng của axit với bazo và các chất khác.
4.7.4. Iôhan Iunke (1683 – 1759)
Iôhan Iunke (1683 – 1759) là giáo sư y học ở Galơ. Vào năm 1730 đã
xuất bản cuốn sách gồm 2 tập mang tên “Tóm lược về hóa học lý thuyết và hóa
học thực hành dưới dạng bảng”. Để giải thích sự tăng trọng lượng của kim loại
khi vôi hóa, ông nêu ra quan điểm về “tính nhẹ tuyệt đối” của Phlôgistôn với ý
nghĩa như là Phlôgistôn có “trọng lượng âm”, cho nên khi nung nóng Phlôgistôn
bay ra khỏi kim loại thì trọng lượng kim loại tăng lên. Quan điểm như vậy không
những làm phức tạp thêm vấn đề mà còn dẫn thuyết Phlôgistôn đến mâu thuẫn
mới.
4.7.5. Iôhan Henric Pốt (1692 – 1777)
Iôhan Henric Pốt (1692 – 1777) là học trò của Stan và Hôpman ở
Đức. Ông đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu hóa kỹ thuật, đặc biệt là
lĩnh vực sản xuất sứ. Pốt giải thích Phlôgistôn như một thứ lưu huỳnh nào
đó.
CHƯƠNG 5: HÓA HỌC Ở CHÂU ÂU THẾ KỈ 18
5.1. Hoàn cảnh xã hội và điều kiện phát triển hóa học ở Châu Âu vào nửa sau
thế kỉ 18


Từ giữa thế kỉ 18 những tài liệu hóa học thực nghiệm tích lũy được

ngày càng nhiều đã tạo điều kiện để tiếp tục xem xét lại các quan niệm cũ
về các chất và biến đổi của chúng, đồng thời hoạt động của các nhà hóa học
cũng có những chuyển biến rõ rệt. Trước hết là sự phát tiển các phương
pháp phân tích hóa học định tính, trong đó có nhiều phương pháp sau này
trở thành kinh điển. Nhờ vậy người ta đã có thể bước đầu nghiên cứu một
cách hệ thống thành phần các chất, chủ yếu các chất có nguồn gốc khoáng
vật. Phương pháp phân tích trọng lượng của hóa học phân tích định lượng
xuất hiện vào nửa sau thế kỷ 18. Lúc đầu nhiệm vụ của nó chỉ là xác định
độ chứa tương đối của axit và bazơ trong các muối và khoáng vật. Vào cuối
thế kỷ 18 đã xuất hiện một số phương pháp phân tích thể tích (phương pháp
định phân) đầu tiên.
5.2. M.V. Lômônôxốp và nền hóa hóa học Nga giữa thế kỉ 18
5.2.1. Nền hóa học Nga giữa thế kỉ 18
Trước thế kỉ 18, nội dung chủ yếu của nền hóa học Nga là các hoạt
động thực hành và kĩ thuật với một số công xưởng sản xuất tư bản chủ nghĩa và
các phòng bào chế.
Đầu thế kỉ 18, công nghiệp và thương mại của Nga có sự phát triển
nhanh chóng đòi hỏi phải tổ chức đào tạo cán bộ và phát triển nghiên cứu
khoa học.
5.2.2. M.V. Lômônôxốp (1711 - 1765)
a. Tiểu sử
M.V. Lômônôxốp là một nhà bác học vĩ đại, một trong những đại
diện xuất sắc nhất của nền khoa học Nga thế kỉ 18.
Mikhain Vaxiliêvic Lômônôxốp, sinh năm 1711 ở gần Khômmôgôra
thuộc tỉnh Ackhăngen, vùng biển phía bắc nước Nga, con trai của một
người nông dân vừa làm ruộng, vừa đánh cá. Quê hương ông là nơi không
bị ảnh hưởng của các cuộc xâm lăng và ách chiếm hữu ruộng đất bởi địa
chủ nên trở thành một vùng trù phú có trình độ văn hóa phát triển cao, là
nơi sinh ra những người dũng cảm, những nhà sáng chế.
b. Các nghiên cứu

Lômônôxốp là người chống đối quyết liệt lí thuyết giả kim thuật,
triết học kinh viện và các lý thuyết thần bí. Các hoạt động khoa học của ông
đều dựa trên tư tưởng duy vật tiên tiến thời đó và sự phê phán các quan
niệm lạc hậu, đặc biệt các quan niệm về các “chất lỏng không có trọng
lượng”. Trong các luận văn khoa học Lômônôxốp xuất phát từ 3 quan điểm
mà ông luôn coi là cơ sở, đó là: Thuyết nguyên tử-phân tử về cấu tạo chất,
thuyết động học phân tử và nguyên lý bảo toàn vật chất và vận động.
c. Đánh giá


Hoạt động phong phú của Lômônôxốp đã có ảnh hưởng đến sự phát triển
khoa học ở nước Nga sau này và cho đến nay tên tuổi của Lômônôxốp vẫn
được coi là ngọn cờ tiêu biểu đầu tiên cho truyền thống sáng tạo độc lập và
truyền thống yêu nước của các nhà hóa học Nga.
5.3. Một số nhà hóa học – Phlôgistôn xuất sắc giữa thế kỉ 18
Ở Đức vào giữa thế kỷ 18 nhà hóa học nổi tiếng là A.X.Macgraph
(A.S. Margraff) (1709 - 1782). Ông sinh ở Bec-lin trong gia đình một nhà
bào chế, lúc còn nhỏ được cha và một người bạn của cha là Nâyman dạy
cho dược học và hóa học, sau đó ông học tiếp ở các trường đại học
Phranphuốcna-Mainơ và Strasbua rồi nghiên cứu y học ở trường đại học
Galơ nơi mà các truyền thống lý thuyết của Stan còn đang nóng hổi. Năm
1734 ông chuyển đến Frâybec nghiên cứu hóa học, khai mỏ và luyện kim.
+ Clot Giodep Gieofroa (1685-1752): Tìm ra phương pháp dùng kiềm để xà
phòng hóa và dùng dung dịch muối để tách ra xà phòng.
+ Gian Elo (J.Hellot) (1685-1766): Có công nghiên cứu và mô tả
một cách đúng đắn tác dụng của kiềm, oxyt kẽm và cuporozơ kẽm với các
axit, đồng thời lại tìm cách “phân tích” kẽm. Ông còn xây dựng lí thuyết về
nhuộm vải, nghiên cứu cách tách riêng vàng, bạc trong các hợp kim và xác
định thành phần của chúng.
+ Ăngri Lui Đuyamen (A.L. Duhamen) (1700 - 1782): Xác định

được rằng bazơ của muối ăn chính là xút ăn da và bazơ này còn có cả trong
borắc, muối glaube và xoda. Ông cũng xác định sự khác nhau giữa potat ăn
da và xút ăn da, đã nghiên cứu các nguồn chứa 2 loại bazơ này trong tự
nhiên. Ông cũng đề ra đề án đầu tiên về cách lấy xoda từ muối mỏ.
5.4. Các nhà hóa học khí Blêc và Cavendis
Henri Cavenđis (Henry Cavendish) (1731-1810). Cavenđis xuất
thân từ một gia đình quý tộc giàu có. Năm 1749 ông vào học ở trường đại
học Kembrit tuy nhiên sau 4 năm ông vẫn chưa tốt nghiệp đại học và năm
1753 ông trở về sống với cha ở Luân Đôn. Ông xây dựng tại lâu đài riêng
một phòng thí nghiệm và suốt đời tiến hành nghiên cứu tại phòng thí
nghiệm đó. Năm 1760 ông được bầu làm hội viên Hội hoàng gia Luân đôn
tức là Viện hàn lâm khoa học Anh.
5.5. Sự khám phá ra oxy. Pristly và Sile
5.5.1.Pristly và sự khám phá ra oxi
5.5.2. Carl Wilhelm Scheele
5.6. Những bước chuẩn bị cho sự sụp đổ của thuyết Phlôgistôn


CHƯƠNG 6: THUYẾT ÔXY VỀ SỰ CHÁY VÀ CUỘC CÁCH
MẠNG TRONG HÓA HỌC
6.1. Sự phát triển của khoa học trong thời kì cách mạng tư sản Pháp
Cuối thế kỉ 19, nước Pháp bước vào thời kì sục sôi cách mạng.
Trong khi các đẳng cấp đặc quyền là tăng lữ và quý tộc sống cực kì xa hoa
thì đời sống của nhân dân lao động lại hết sức đói khổ. Giai cấp tư sản đã
lớn mạnh cũng đòi hỏi phải có những cải cách để tạo điều kiện cho công
nghiệp và thương nghiệp phát triển.
6.2. Ăngtoan Lôrăng Lavoaziê
6.2.1. Khái quát về nhà bác học
Tên tuổi của nhà bác học thiên tài Ăngtoan Lôrăng Lavoaziê (Antonie
Loran Lavoisier) người sáng lập ra hoá học hiện đại, thuộc vào danh sách

những nhân vật vĩ đại mà thời gian không thể làm mờ nhạt được. Đó là nhà
bác học nổi tiếng nhất trong số các nhà bác học của thời kì cách mạng tư
sản Pháp.
6.2.2. Giai đoạn 1743 – 1766
Vào năm 1764, Viện hàn lâm khoa học Pari tổ chức cuộc thi “tìm
phương pháp tốt nhất để thắp sáng đường phố trong những thành phố lớn”,
Lavoaziê đã tham gia cuộc thi với một lòng nhiệt tình lớn và bản lĩnh cao.
Ông đã tự giam mình trong buồng tối trong 6 tuần lễ liền để phân biệt được
chính xác độ sáng của các nguồn sáng khác nhau. Kết quả là phương án của
ông được thưởng huy chương vàng năm 1766.
6.2.3. Giai đoạn 1766 – 1789
Năm 1787 Lavoaziê cùng với Bectole được giao nhiệm vụ tiến hành viện
sản xuất thử các loại thuốc súng mới trong đó có diêm tiêu được thay thế
bằng muối Bectole (kali clorat) và một số chất phụ trợ khác. Với mong
muốn tăng thu nhập cho nhà nước và bản thân, Lavoaziê đã đưa ra những
đề nghị về một hàng rào thuế quanh Pari. Năm 1787, đề nghị này được chấp
nhận đã gây một làn sóng phản đối trong những người buôn bán và nông
dân thường xuyên qua lại Pari buôn bán các sản phẩm nông nghiệp.
6.2.4. Năm 1789 – 1796
Lavoaziê bị đưa lên máy chém, nhà toán học nổi tiếng người Pháp đã
nói: “Chỉ cần một nháy mắt là người ta chặt xong một cái đầu, nhưng có lẽ
hàng trăm năm cũng chưa tạo ra một cái đầu như thế”. Lavoaziê đã đón cái
chết một cách dũng cảm, điều này không những chứng tỏ ông là một nhà
bác học vĩ đại mà còn là một con người vĩ đại, thể hiện đầy đủ bản lĩnh và
tính cách trung thực của mình trong cả những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.
Năm 1796, bản án được xem xét lại, người ta phục hồi danh dự cho
Lavoaziê và trả lại tài sản đã tịch biên cho người vợ góa của ông là bà
Maria Lavoaziê.



6.2.5. Kết luận
Chúng ta có thể thấy những mâu thuẫn trong con người của một nhà bác
học thiên tài. Một mặt các công trình nghiên cứu mang lại những lợi ích vô
cùng to lớn cho nhân loại, một bên là hoạt động tài chính của một nhà tư bản.
Tấn bi kịch của cuộc đời Lavoaziê là bài học về thái độ chính trị cho các nhà
khoa học trong hoàn cảnh cuộc cách mạng đang diễn ra quyết liệt, nó đòi hỏi
một nhà khoa học trung thực phải có nhận thức nhạy bén và chính xác không
những đối với các hiện tượng tự nhiên mà còn cả những biến chuyển trong xã
hội và dứt khoát phải chuyển mình theo trào lưu tiến bộ.
Chính vì có những điểm mâu thuẫn phức tạp trong tiểu sử Lavoaziê
mà suốt trong 2 thế kỉ qua, việc đánh giá hoạt động và công lao của nhà bác
học vĩ đại này vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất.
6.3. Những đóng góp của Lavoaziê trong lĩnh vực hóa khí và thuyết Ôxy về sự
cháy
Cho đến năm 1774, Lavoaziê mới đi đến bước quyết định trong việc
công kích và cơ sở của thuyết Phlôgistôn. Dựa trên kết quả thí nghiệm của
mình về sự đốt cháy các chất, Lavoaziê đi đến kết luận là không khí không
phải là một vật thể đơn giản như các nhà bác học lúc đó thừa nhận mà là
một hỗn hợp hay hợp chất của một số chất khí có tính chất khác nhau.
Trong không khí có một phần duy trì sự cháy và liên kết với chất cháy (lúc
đầu Lavoaziê nhầm khí này với khí cacbonic do Blếch khám phá ra, nhưng
sau đó ông lại tự chứng minh là không phải). Tháng 2 năm 1774 ông làm
thí nghiệm và đưa đến kết luận: Phần không khí duy trì sự cháy là chất khí
“thuận lợi nhất cho sự hô hấp” đồng thời phần không khí còn lại sau khi
nung nóng kim loại hay đốt cháy vật thể và không bị kim loại ấy vật thể hấp
thụ thì không thuận lợi đối với sự cháy và thở.
Lavoaziê đã xây dựng một lý thuyết về axit. Lý thuyết này được trính
bày trước Viện hàn lâm khoa học Pari ngày 5 tháng 11 năm 1777 và được
đăng báo năm 1780 dưới tên “Luận văn về bản chất axit và các nguyên tố
hợp thành chúng”. Luận điểm cơ bản của lý thuyết này là: Không khí tinh

khiết nhất và thuận lợi cho sự thở (tức là oxy) chính là nguyên tố tạo thành
tính axit, nguyên tố này có mặt trong mọi axit và quyết định tính axit, ngoài
ra trong axit còn có thêm một vài nguyên tố khác và những nguyên tố sau
làm cho các axit phân biệt với nhau.
6.4. Thí nghiệm phân tích nước và sự hoàn thành việc xây dựng thuyết
ôxy
Thiết bị thí nghiệm gồm một nòng súng dài một đầu nối với thiết bị tạo ra
hơi nước, còn đầu kia nối với dụng cụ thu các chất khí tạo thành. Khi cho
nước đi qua nòng súng nóng đỏ, hai nhà bác học nhận thấy nếu luồng hơi
nước khá chậm thì nó bị phân tích hoàn toàn và trong dụng cụ thu khí dưới


cái chuông sẽ thu được hoàn toàn “không khí cháy” (hyđrô). Dùng cân để
xác định độ tăng trọng của nòng súng (do tạo thành oxyt sắt), đồng thời xác
định lượng hyđrô tạo thành và so sánh với trọng lượng nước ban đầu. hai
nhà bác học thấy hoàn toàn phù hợp. Như vậy, bằng thí nghiệm Lavoaziê đã
củng cố vững chắc qua niệm của mình về thành phần cấu tạo nước. Ngoài
ra thí nghiệm của Lavoaziê và Mơsniê còn có ý nghĩa thực tế quan trọng ở
chỗ nó tạo ra một phương pháp mới điều chế hyđrô để nạp vào các khinh
khí cầu vừa rẻ, vừa được nhiều, đáp ứng nhu cầu lớn ở Pháp lúc đó.
6.5. Nguyên lý bảo toàn khối lượng và những công trình nhiệt hóa học
của Lavoaziê
Để tổng kết các công trình của mình, năm 1789 Lavoisier đã xuất bản
cuốn sách Traité Élémentaire de Chimie (Các biến đổi của hóa học). Với
những hình vẽ tuyệt vời do vợ ông minh họa. Cuốn sách gây chấn động Thế
giới và lập tức được dịch ra nhiều thứ tiếng như tiếng Anh, Đức, Hà Lan, Tây
Ban Nha, Ý… Chỉ 2 năm sau khi cuốn sách ra đời, người đứng đầu thuyết
nhiên tố là Richard Kirwan đã đầu hàng vô điều kiện.
Đối với hóa học hữu cơ Lavoaziê cũng có nhiều đóng góp. Ông đã
nghiên cứu sự đốt cháy các chất hữu cơ và nhận thấy khi đó luôn luôn tạo

thành nước và “không khí có thể cố định” (khí CO 2), từ đó ông kết luận
rằng các chất mà ta gọi là hữu cơ chủ yếu cấu tạo từ cacbonvà hyđro.
Lavoaziê cũng không bỏ qua vấn đề về vai trò của nước trong quá
trình dinh dưỡng thực vật và cơ chế giải phóng ôxi do quá trình hô hấp của
lá cây xanh. Vấn đề này là trung tâm chú ý của các nhà sinh vật học, hóa
học và vật lý học thời đó. Trong luận văn “Luận về sự phân hủy nước bởi
các chất thực vật”. Được viết năm 1786, Lavoaziê đã nêu ý kiến cho rằng
trong quá trình dinh dưỡng của cây cối, nước đã bị phân hủy tạo thành
“không khí sống” (ôxy).
6.6. Học thuyết về nguyên tố của Lavoaziê và bảng danh pháp hóa học
Cho đến năm 1785 khi thuyết oxy của Lavoaziê đã được hình thành
và được nhiều nhà bác học thừa nhận thì vấn đề danh pháp hóa học lại được
đặt ra. Mùa hè năm 1786 các bác học K.L. Bectôlê, A.Fuôccroa và Gitông
đờ Moocvô, những người đầu tiên thừa nhận thuyết oxy đã cùng với
Lavoaziê bắt tay vào việc xây dựng một danh pháp hóa học mới trên cơ sở
cải cách bản danh pháp của đờ Moocvô. Ngày 18 tháng 4 năm 1787 nhóm
này đệ trình lên viện Hàn lâm khoa học Pari một bản đề án trong đó trình
bày những nguyên lí lập thành tên gọi các chất.
6.7. Cuộc phản công cuối cùng của phái Phlôgistôn và sự toàn thắng của
thuyết oxy
Lý thuyết của Lavoaziê nhanh chóng lan tràn sang các nước ở châu
Âu. Ở Anh Gion Blêc nhanh chóng vào hàng ngũ những người theo thuyết


oxy, còn ở Đức quê hương của thuyết Phlôgistôn thì M.H. Claprôt
(M.H.Klaproth) là người đầu tiên rời bỏ thuyết Phlôgistôn. Năm 1792,
trong một phiên họp của Viện hàn lâm khoa học Beclin, Claprôt đã báo cáo
và trình diễn các thí nghiệm của Lavoaziê và toàn bộ Viện hàn lâm khoa
học đều thừa nhận tính đúng đắn của lý thuyết mới.
6.8. Các nhà hóa học Pháp cùng thời với Lavoaziê

6.8.1. Lui Becna Gittông đờ Moocvô (1737-1816)
6.8.2. Ăngtoan Frăngxoa đờ Fuốccroa (1755 - 1809)
6.8.3. Clôt Lui Bectôlê (1748-1822)
6.8.4. Lui Nicôla Vôcơlanh (1763 - 1829)
6.8.5. Giăng Ăngtoan Saptan (1756 – 1832)
6.8.6. Nicôla Lơblăng (1742 - 1806)
6.9. Hóa học Đức vào cuối thế kỉ 18
Vào những năm 90 của thế kỉ 18 thuyết oxy của Lavoaziê được các
nhà bác học châu Âu tiếp nhận một cách gần như thoải mái. Lúc này nhìn
chung hóa học của toàn châu Âu đang phát triển trong trào lưu hóa phân
tích, đó là quá trình tích lũy các tài liệu thực nghiệm và hoạt động của các
nhà hóa học Đức cũng có nhiều nét chung với hoạt động của các nhà hóa
học Pháp. Mặc dù Đức và Pháp lúc đó đang bị ngăn cách bởi “bức tường
cách mạng”. Các nhà hóa học hai nước đều phải giải quyết những vấn đề
gần giống nhau nhằm phục vụ các nhu cầu về hóa học, kĩ thuật mà nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa đang phát triển đề ra.
6.10. Sự phát triển hóa học Nga thế kỉ 18
6.10.1. Sơ lược chung
Vào cuối thế kỷ 18 các công trình hóa học và hóa học kỹ thuật cũng
như các hoạt động điều tra khảo sát tự nhiên của các nhà hóa học Nga đã
phát triển khá rộng rãi. Những hoạt động này đến chừng mực nào đó có liên
quan đến nền hóa học Đức. Tuy rằng một số đông các nhà hóa học nổi tiếng
Nga lúc này là những người di cư từ các nước khác đến nhưng truyền thống
của hóa học Nga từ thời Lomonoxop vẫn có ảnh hưởng mạnh đến sự phát
triển hoá học của đất nước này.
Thời kỳ từ năm 1725 đến năm 1800 trong lịch sử hóa học ở Nga
được gọi là thời kỳ “ Viện hàn lâm” vì lúc đó đa số các nhà hóa học nổi
tiếng đều làm việc tại viện hàn lâm khoa học Petecbua.



6.10.2. Nhà hóa học Lăcman
6.10.3. Nhà hóa học Ivanovit Giêoocgi
6.10.4. Nhà hóa học Xôcôlôp
6.10.5. Nhà hóa học Lovit
6.10.6. Nhà hóa học Zakharop
6.10.7. Nhà hóa học Mikhailovit Xevecgin
6.10.8. Nhà hóa học Musin-Puskin
6.10.9. Nhà hóa học Binhem
6.11. Các nhà hóa học Anh và các nước Châu Âu khác
6.11.1. Các nhà hóa học Anh
Ở Anh cuối thế kỷ XVIII ngoài những nhà hóa học nổi tiếng như
Cavenđis, Pristli… thì Risơt Kiêcvan (R. Kirwan) (1733 – 1812) cũng là
một nhà hóa học có tên tuổi.
Lĩnh vực nghiên cứu: Ngoài những công trình nghiên cứu hóa học
phân tích, Kiêcvan còn nghiên cứu các vấn đề khoáng vật học và địa chất
học. Ông còn nghiên cứu trọng lượng riêng của các dung dịch và “ái lực”
của các axit, bazơ trong muối.
6.11.2. Các nhà hóa học châu Âu khác
a. Nhà hóa học Iukhan Gađôlin (J. Gadolin) (1760 – 1852).
b. Nhà hóa học Giôvani Phabrôni (G. Fabroni) (1752 – 1822)
c. Nhà hóa học Giôvani Antôniô Giôtbect (G.A. Giobert) (1761 – 1834)
d. Nhà hóa học Visenxô Đanđôlô (V. Dandolo) (1758 – 1819)
PHẦN PHỤ LỤC
PHẦN 1: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NGHỀ THỦ CÔNG HÓA
HỌC Ở VIỆT NAM THỜI XƯA
1.1. Sự chế tác công cụ của người nguyên thủy ở Việt Nam
Một phát triển kỹ thuật đặc sắc nhất của thời kỳ này là sự chế tạo
đồ gốm. Bắt nguồn từ sự quan sát những cục đất sét bị nung trong đống lửa
hay đám cháy rừng, người ta nặn thử vài thứ dụng cụ rồi đem nung… và cứ
như thế người ta học dần cách làm các đồ vật bằng gốm: nồi nấu thức ăn, vò

đựng lương thực và hạt giống… Ý thức thẩm mỹ cũng bắt đầu nảy sinh,
người ta dùng mỡ hòa với thổ hoàng bôi lên người để chống rét và làm
bóng da, đính vỏ ốc đẹp lên mái tóc, làm xâu chuỗi đeo ở cổ…
1.2. Những nghề thủ công hóa học ở thời kỳ dựng nước
1.2.1. Một nền văn minh rực rỡ
Đỉnh cao của nền văn minh thời cổ của ta được đánh dấu bằng văn hóa
“Đông Sơn” một nền văn hóa rực rỡ nhất của vùng Đông Nam Á thời cổ. Ở
giai đoạn này nghề luyện đồng thau và đúc đồng thau đã phát triển đến đỉnh
cao, những chiếc trống đồng và thạp đồng Đông Sơn đã làm cho thế giới
phải kinh ngạc về trình độ luyện kim cũng như trình độ văn hóa của “con


người Đông Sơn”. Ngoài ra còn nhiều đồ vật đồng thau khác có loại hình ổn
định mang phong cách độc đáo như các loại rìu, xéo, đục… tượng và đồ
trang sức, nhạc cụ… Các đồ đồng đều được trang trí bằng văn hoa khắc
chìm và các hình vẽ.
1.2.2. Kỹ thuật nấu đồng và đúc đồng
Khi quan sát các khuôn đúc ta nhận thấy người thợ thủ công xưa kia đã nắm
được nhiều tri thức về kim loại học và kỹ thuật đúc. Trước hết là người ta
đã hiểu rất rõ tính chất co dãn thể tích kim loại theo nhiệt độ vì thế trên các
khuôn người ta chú ý tạo ra các đậu ngót để chứa một lượng nước đồng bổ
sung, phòng khi đồng nguội co lại sản phẩm đúc không bị khuyết. Trên các
mép khuôn có đánh dấu để ghi 2 mặt khuôn được chính xác và nhanh.
Người ta cũng đã có những hiểu biết về áp lực của đồng lỏng trong khuôn.
Việc đúc các vật lớn và phức tạp như thạp đồng và trống đồng còn
đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao hơn về nhiều mặt: làm vật mẫu và khuôn, cách
nấu chảy đồng và kỹ thuật tạo nhiệt độ cao trong lò (cấu tạo lò), kỹ thuật
rót, trình độ tính toán phối liệu và tổ chức lao đồng của một tập thể thợ thủ
công…
1.2.2. Kỹ thuật nấu đồng và đúc đồng

Tổ tiên ta đã biết đến nghề luyện đồng và đúc đồng từ lâu. Những cục đồng
thau và xỉ đồng ở các di chỉ thuộc giai đoạn Phùng Nguyên nói lên rằng dân
tộc ta biết nghề luyện đồng muộn nhất cũng là vào nửa đầu thiên niên kỷ
thứ 2 trước công nguyên, tuy nhiên mãi đến giai đoạn Đông Sơn đồ đồng
mới chiếm ưu thế và kỹ thuật chế tạo đồ đồng mới phát triển rực rỡ.
1.2.3. Nghề luyện sắt
Cho đến nay ý kiến chung của nhiều nhà nghiên cứu là nghề luyện sắt của
dân tộc Việt xuất hiện vào cuối giai đoạn Đông Sơn, lúc mà kỹ thuật luyện
đồng đã đạt tới trình độ cao. Ngay từ trước cách mạng tháng 8 năm 1945 ở
Thanh Hóa người ta đã tìm thấy những lưỡi kiếm sắt có lá chắn bằng đồng
và ở Quảng Bình tìm thấy lưỡi giáo sắt có chuôi bằng đồng. Tuy nhiên, mãi
tới gần đây người ta mới phát hiện thấy những bằng chứng hoàn toàn xác
thực của sự tồn tại của những công cụ sắt ở giai đoạn Đông Sơn. Các nhà
khảo cổ học đã tìm thấy những mảnh vỡ của các công cụ sắt và cả những đồ
sắt còn nguyên vẹn như đục, dao… ở các địa điểm khảo cổ học như Đường
Mây, Trung Mầu. Tại khu di tích Đông Sơn người ta cũng đã phát hiện
được nhiều đồ vật sắt như các loại cuốc, mai, búa, giáo… Những phép phân
tích hóa học và phân tích quang phổ cho biết những đồ vật này được đúc
rèn ở trình độ khá cao.
1.2.4. Kỹ thuật sản xuất đồ gốm
Những tư liệu về sản xuất đồ gốm ở thời kỳ dựng nước ngày nay
thu thập được đã khá phong phú. Những dị vật gồm đã góp phần quan trọng


vào việc khám phá ra các giai đoạn phát triển của nền văn minh cổ xưa. Đồ
gốm thời Hùng Vương gồm nhiều loại hình khác nhau. Chủ yếu là những
đồ dùng trong sinh hoạt và một số dụng cụ sản xuất như các nồi hình cầu,
đáy thường lồi hay lõm lên phía trên một ít, hoặc đáy bằng, các loại vò,
bình, chậu, bát đĩa… dọi xe chỉ, chỉ lưới, chày gốm, bàn xoa, bàn đạp…
1.2.5. Hóa học trong đời sống hàng ngày

Những di vật cho thấy rằng con người dưới thời Hùng Vương đã
nắm vững nhiều cách chế biến cách nguyên liệu thiên nhiên để sử dụng
trong đời sống. Tổ tiên ta lúc đó đã rất quen thuộc với việc xe sợi, nghĩa là
biết cách chế tạo các nguyên liệu thực vật như đay, gai, bông, tơ chuối…
thành sợi. Dấu thừng in trên các đồ gốm ở tất cả các di chỉ thuộc mọi giai
đoạn của thời kỳ dựng nước. Dựa trên những dấu vết trên đồ gốm ta thấy
rằng ngay từ giai đoạn Phùng Nguyên tổ tiên ta đã xe được những sợi rất
nhỏ, săn, mịn. Trong các di chỉ của mọi giia đoạn người ta thường tìm thấy
các dọi xe chỉ làm bằng đất nung, đó là bằng chứng của nghề dệt vải.
1.2.6. Thành Cổ Loa và quy mô phát triển mới
Quy mô của thành Cổ Loa và các cung thất, đền đài rất lớn chứng
tỏ người Việt nước Âu Lạc lúc đó đã biết cách xây dựng những công trình
kiến trúc lớn và các nghề thủ công đã phát triển lên một trình độ mới và quy
mô mới. Nghề làm gốm đã mở rộng sang khu vực sản xuất các vật liệu xây
dựng. Nhìn quy mô của thành Cổ Loa còn lại đến ngày nay ta có thể hình
dung rằng lúc đó đã có những công trường thủ công lớn để cung cấp gạch,
ngói và các vật liệu khác. Những lò luyện đồng, luyện sắt cũng hoạt động
nhộn nhịp để cung cấp các công cụ lao động.
1.3. Các nghề thủ công Hóa học trong thời kỳ Bắc thuộc
Nghề gốm tiếp tục phát triển. Ngoài loại gốm tho đã xuất hiện loại
gốm tráng men, nửa sành, nửa sứ. Ngoài các loại gạch thường người ta còn
gặp các loại gạch hình múi bưởi để xây vòm cuốn, gạch tráng men màu
vàng hay xanh nhạt… Nhiều lò nung gốm, sứ, gạch ngói thuộc thời kỳ này
còn để lại di tích ở Thanh Hóa, Hà Bắc… Tất nhiên ngoài gạch ngói để xây
dựng, nhân dân ta lúc đó cũng đã biết đến các chất kết dính.
Nghề nấu thủy tinh ở nước ta được phát triển từ thế kỷ thứ 3. Lúc
ấy người thợ thủ công Việt Nam đã chế tạo được các loại bình, bát, bằng
thủy tinh màu tím, màu xanh… rất đẹp. Ở nhiều mộ cổ thuộc thời kỳ này
người ta gặp những chuỗi hạt trang sức bằng thủy tinh.
1.4. Sự phát triển các nghề thủ công hóa học trong thời kỳ Phong kiến

1.4.1. Hóa học thủ công từ triều đại Đinh đến triều đại Trần
Quân đội thời Đinh, Lê được tổ chức quy củ và trang bị vũ khí tốt
thời đó: giáo, mác, cung, tên, khiên, thuyền chiến… cũng là một nhân tố
thúc đẩy các ngành thủ công hóa học phát triển.


Sang triều đại Trần quy mô và kỹ thuật sản xuất thủ công tiếp tục
phát triển. Trong nước đã xuất hiện những làng thủ công hoặc phường thủ
công chuyên sản xuất một loại sản phẩm nhất định. Triều đình Trần đã lập
Thái y viện để bào chế thuốc và rất chú ý nghiên cứu các dược liệu thảo mộc.
Tại Vạn Kiếp, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã lập một cơ sở trồng cây
thuốc khá rộng tại một hòn núi mang tên Dược sơn.
1.4.2. Sự phồn thịnh của những làng sản xuất thủ công hóa học
Vào thời kỳ này nghề luyện kim ở 2 miền phát triển với một quy mô lớn. Ở
vùng núi việc khai mỏ đuợc mở rộng, không những đủ cung cấp cho nhu
cầu trong nước mà còn dư để xuất khẩu. Ở đàng ngoài nhiều kim loại được
khai thác và chế luyện như sắt, đồng, vàng, bạc, chì, kẽm… Có những mỏ
khai thác kim loại tập trung đến hàng vạn thợ. Ở đàng trong kim loại cũng
khá dồi dào. Người thợ thủ công lúc này đã nắm chắc kỹ thuật chế luyện
đồng thau.
1.4.3. Sự trì trệ của ngành thủ công hóa học dưới triều đại Nguyễn
Do có nhiều hiểu biết về khoa học và kỹ thuật Vũ Duy Thanh có
tầm mắt nhìn rộng rãi và đã đề nghị nhiều kế sách để duy tân đất nước
nhưng triều đình nhà Nguyễn kiêu căng, ngu dốt, không hiểu được tình thế,
đã bỏ qua các đề nghị cải cách của ông và của nhiều người khác. Với đường
lối chính trị thiển cận và phản động, triều đại Nguyễn đã đẩy nước ta lâm
vào cuộc khủng hoảng triền miên. Những mầm mống của phương thức sản
xuất mới bị bóp nghẹt, các nghề thủ công bị bó hẹp vào mục tiêu phục vụ
cuộc sống xa xỉ của giới quý tộc và chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu tối
thiểu của nhân dân. Mặt khác, tình trạng nhân dân bị bần cùng hóa, loạn lạc

xảy ra lung tung đã hạn chế điều kiện để phát triển sản xuất, không thể áp
dụng các kỹ thuật mới vào sản xuất.
PHẦN 2: LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG HIỆN ĐẠI (ĐÚC ĐỒNG)
1. Làng nghề đúc đồng Đại Bái
Muốn ăn cơm trắng cá trôi,
Thì về làng Bưởi đánh nồi với anh
(Ca dao)
Những đồ đồng do thợ thủ công Đại Bái làm từng chiếm vị trí rất quan
trọng, được nhân dân ta ưa chuộng. Cho nên, khi nói nghề đúc đồng Việt Nam,
người ta thường nói đến Đại Bái. Thậm chí, trong bộ sách lớn “Đại Nam nhất
thống chí” do Sử quán triều Nguyễn soạn, khi nói đến đồ đồng cả nước cũng
chỉ nhắc đến đồ đồng Đại Bái.
2. Nghề đúc đồng Ngũ Xã
Nghề đúc đồng Ngũ Xã được coi là 1 trong 4 nghề tinh hoa bậc cao
của Thăng Long xưa. Điều này được thể hiện trong câu vè:
Lĩnh hoa Yên Thái,


Đồ gốm Bát Tràng,
Thợ vàng Định Công,
Thợ đồng Ngũ Xã.
Mỗi khi nhắc đến nghề đúc đồng, không ai trên khắp đất nước lại
không nhắc đến làng nghề đúc đồng Ngũ Xã, cái tên này đã gắn liền với tên
làng từ thế kỷ XVII của kinh thành Thăng Long xưa.
3. Làng nghề đúc đồng Phước Kiều
Bí quyết và thương hiệu
Nghề đúc đồng có những bí quyết riêng để có thể tạo ra được
những sản phẩm nổi tiếng mà nhiều nơi biết đến. Một trong những bí quyết
đó là pha hợp kim. Qua thời gian tồn tại, phát triển, nghề đúc làng Phước
Kiều đã tích luỹ được những kinh nghiệm lớn. Để có được sản phẩm (nhất

là các loại nhạc khí) người thợ phải mất nhiều thời gian, công sức với sự tỉ
mỉ, khéo léo trong việc làm khuôn.
4. Đúc đồng Tống Xá
Trải qua gần 900 năm, nghề đúc đồng ở làng Tống Xá, xã Yên Xá,
huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định vẫn tồn tại vững bền và phát triển mạnh mẽ,
đem đến cuộc sống no đủ cho người dân trong vùng.
5. Làng nghề đúc đồng Phú Lộc Tây ở Khánh Hòa
Cách đây 5 năm, làng đúc đồng Phú Lộc Tây thuộc huyện Diên
Khánh (Khánh Hòa) là một làng nghề buồn, bởi gần như những nhà lò
không còn thổi lửa do không có khách mua.
Tưởng chừng làng nghề đã có trên 100 tuổi nằm nép mình bên dòng
sông Cái này sắp bị xoá sổ nhưng giờ đây, có một sự trỗi dậy thật kỳ lạ ở
nơi này. Lớp nghệ nhân trẻ tuổi đang phát huy tinh hoa của thế hệ cha ông
đi trước áp dụng phương pháp mới trong sản xuất để tạo ra sản phẩm không
những giữ được dáng vẻ truyền thống, mà còn sắc sảo hơn.
PHẦN 3: LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG HIỆN ĐẠI (THỦY TINH)
1. Lịch sử ra đời của thủy tinh
2. Các phương pháp sản xuất thủy tinh
2.1. Phương pháp Crown (vương miện)
2.2. Phương pháp ống xi lanh
2.3. Phương pháp kính kéo nổi
2.4. Phương pháp thủy tinh tan
3. Tổng quan về thủy tinh
3.1. Thành phần và thuộc tính của thủy tinh
3.2. Tính chất của thủy tinh
4. Làng nghề thổi thủy tinh ở Việt Nam
4.1. Làng nghề thổi thủy tinh Xối Chì (Nam Thanh - Nam Trực - Nam
Định)



4.2. Làng nghề Giáp Long (xã Thống Nhất, Thường Tín, Hà Nội)
PHẦN 4: HÓA HỌC SONG HÀNH CÙNG THỜI GIAN
1. Lịch sử tìm ra các nguyên tố nhóm VIA
1.1. Lưu huỳnh (S)
1.2. Oxi (O) (1774)
1.3. Selen (Se) (1817)
1.4. Telu (Te) (1782)
1.5. Poloni (Po) (1898)
2. Giải thưởng cao quý Nobel hóa học
3.Những con số thú vị của giải Nobel.
4. Một số tiến bộ trong lĩnh vực hóa học hiện đại
4.1. Chiếc cốc nano đi trước thời đại của người La Mã
4.2.Ngọn lửa Hy Lạp
4.3.Thủy tinh dẻo
4.4. Thuốc giải cho mọi chất độc
4.5.Vũ khí tia nhiệt
4.6. Bê tông La Mã
4.7. Thép Damascus
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Đình Chi (1975), Lịch sử hóa học, NXB Khoa học và kỹ
thuật.
2. John Warren (2005). "War and the Cultural Heritage of Iraq: a
sadly mismanaged affair", Third World Quarterly, Volume 26, Issue 4 & 5,
p. 815-830.
3. Will Durant (1980). The Age of Faith (The Story of Civilization,
Volume 4), p. 162-186. Simon & Schuster. ISBN 0671012002.
4. Felix Klein-Frank (2001), "Al-Kindi", in Oliver Leaman & Hossein
Nasr, History of Islamic Philosophy, p. 174. London: Routledge.
5. Pullman, Bernard (2004). The Atom in the History of Human
Thought. USA: Oxford University Press In

6. “Joseph Priestley”. Chemical Achievers: The Human Face of
Chemical Sciences. Chemical Heritage Foundation. 2005
7. Proust, Joseph Louis (1754-1826)”. 100 Distinguished Chemists.
European Association for Chemical and Molecular Science. 2005.
8. Inventor Alessandro Volta Biography”. The Great Idea Finder. The
Great Idea Finder. 2005
9. John Dalton”. Chemical Achievers: The Human Face of Chemical
Sciences. Chemical Heritage Foundation. 2005.



×