Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển chi nhánh đông hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.77 KB, 83 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ kỹ thuật chuyên ngành quản lý kinh tế với đề tài “Một số
biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển chi nhánh Đông Hải phòng” - Mã đề tài 60340410 khóa 2014-2016
(đợtI) tác giả viết dưới sự hướng dẫn của thầy giáo TS.Mai Khắc Thành - Trường
Đại học Hàng Hải Việt Nam. Luận văn này được viết trên cơ sở vận dụng lý luận
chung về huy động vốn trong các ngân hàng thương mại, phân tích thực trạng phát
triển hoạt động huy động vốn tại BIDV Đông Hải phòng để từ đó đề xuất một số
biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển chi nhánh Đông Hải phòng.
Khi viết bản luận văn này, tác giả có tham khảo và kế thừa một số lý luận
chung về huy động vốn và sử dụng những thông tin số liệu từ các sách, tạp chí,
giáo trình, các báo cáo của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Đông Hải
phòng … theo danh mục tham khảo.
Tác giả cam đoan không có sự sao chép nguyên văn từ bất kỳ luận văn nào
hay nhờ người khác viết. Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về cam đoan của
mình và chấp nhận mọi hình thức kỷ luật theo quy định của Trường Đại học Hàng
Hải Việt Nam.

i


LỜI CẢM ƠN
Luận văn: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển chi nhánh Đông Hải phòng”, được hoàn thành
với sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của quý Thầy Cô Viện đào tạo sau Đại học
trường Đại học Hàng Hải Hải phòng, thầy giáo hướng dẫn TS. Mai Khắc Thành,
Ban Giám đốc, các bạn đồng nghiệp tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển chi
nhánh Đông Hải phòng .
Xin trân trọng cảm ơn thầy giáo TS.Mai Khắc Thành, người đã dành nhiều
thời gian, công sức và lòng nhiệt tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện


luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô Viện đào tạo sau Đại học, trường Đại học
Hàng Hải Việt Nam, đã hỗ trợ, gợi ý cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc ,các bạn đồng nghiệp tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển chi nhánh Đông Hải phòng đã giúp tôi thu thập số liệu,
tài liệu, góp ý cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè những người đã động viên ,tận tâm
chia sẻ những khó khăn trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Một lần nữa tác giả xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô và toàn thể quý vị!
TP Hải phòng, ngày tháng năm 2016
Học viên thực hiện

Nguyễn Thị Thanh Thủy

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................i
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................ii

iii


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
2.1
2.2
2.3
2.4

2.5
2.6
2.7
2.8
2.9

Tên bảng
Tổng các khoản thu từ dịch vụ
Tình hình phát triển khách hàng mới
Tình hình kết quả kinh doanh từ 2012 – 2015
Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn
Cơ cấu vốn huy động theo thành phần kinh tế
Cơ cấu huy động theo loại tiền tệ
Quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn
Huy động vốn và sử dụng vốn cho vay theo kỳ hạn tại
BIDV Đồng Hải Phòng
Huy động vốn và sử dụng vốn cho vay theo loại tiền tệ
tại BIDV Đông Hải Phòng

iv

Trang
36
37
37
46
49
52
53
54

54


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số sơ đồ
2.1

Tên sơ đồ
Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày
nay

Trang
4

DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5

Tên hình
Sơ đồ cơ cấu tổ chức BIDV Đông Hải Phòng
Huy động vốn cuối kỳ
Huy động vốn bình quân
Dư nợ tín dụng cuối kỳ
Dư nợ ngắn hạn, trung dài hạn

v


Trang
31
33
33
34
35


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với bất kỳ
doanh nghiệp nào trong đó nhu cầu về vốn là nhu cầu tiên quyết để duy trì và phát
triển sản xuất, nó phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh
doanh, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi các doanh nghiệp đều mong muốn đầu
tư mở rộng sản xuất, đa dạng hóa dịch vụ nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
Là 1 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, thì nhu cầu về
vốn đối với Ngân hàng thương mại lại càng quan trọng bởi không có vốn, ngân
hàng sẽ không thể tồn tại. Trong nền kinh tế, ngành Ngân hàng được coi là huyết
mạch, là kênh huy động vốn có tầm quan trọng đặc biệt, hoạt động tín dụng ngân
hàng đã góp phần không nhỏ trong việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp hoạt
động. Để đáp ứng đủ nhu cầu vốn của thị trường, Ngân hàng thương mại phải huy
động vốn từ bên ngoài, nói cách khác Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì việc
huy động vốn đóng một vai trò then chốt.
Không nằm ngoài quy luật chung đó, đối với Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam (BIDV) nói chung và Chi Nhánh BIDV Đông Hải Phòng nói
riêng vấn đề Vốn luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. BIDV Đông Hải Phòng đã
không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng với tiêu chí
“Nhanh chóng, chính xác, thuận tiện” cùng với việc mở rộng mạng lưới giao dịch,
trên cơ sở đó mở đường và tạo mặt bằng vốn tăng trưởng vững chắc. Tuy nhiên,

vốn vẫn là vấn đề “nóng” đối với chi nhánh. Với mức lãi suất có thể gọi là thấp
như hiện nay, Chi nhánh khó có thể thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư cũng như các
doanh nghiệp dẫn đến khó có thể đảm bảo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, đề tài “Biện pháp
nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển
Việt nam – Chi nhánh Đông Hải Phòng” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu
của luận văn.

1


2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến hiệu quả huy động
vốn của NHTM.
- Phân tích và đánh giá hiệu quả huy động vốn tại BIDV Đông Hải Phòng để
thấy được những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại BIDV
Đông Hải Phòng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại
- Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả huy động vốn tại BIDV Đông Hải Phòng giai
đoạn 2011-2015, trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp để nâng cao hiệu quả huy
động vốn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, các phương pháp nghiên cứu sau đây được sử dụng:
- Phương pháp thu thập thông tin số liệu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
+ Phân tích tổng hợp theo thời gian
+ Phân tích tổng hợp theo nhóm vấn đề, nhóm đối tượng.
- Phương pháp so sánh.


2


CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải có một tổ chức kinh
doanh đặc biệt – chuyên kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ trong quan hệ vay mượn
– đó là NHTM, một trung gian tài chính được hình thành lâu đời nhất. Có thể hiểu
NHTM là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với các nội dung chính là:
Nhận tiền gửi và chi trả hộ cho khách hàng.
Sử dụng số tiền của khách hàng gửi để cho vay.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình cùng với sự phát triển của
nền kinh tế, ngân hàng đã thực hiện thêm những dịch vụ như: chiết khấu thương
phiếu; tài trợ các hoạt động của Chính phủ; cung cấp các dịch vụ tài khoản tiền
gửi; cung cấp các dịch vụ khác như: thanh toán quốc tế, dịch vụ thuê thiết bị; môi
giới đầu tư; dịch vụ ngân hàng điện tử; dịch vụ ngân hàng tự động…
Như vậy, NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ và cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hoạt động của
NHTM ngày càng đa dạng hơn. Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối
với nền kinh tế, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ
hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các yếu tố trên đang
không ngừng thay đổi cùng với đời sống kinh tế, chính trị xã hội. Chính vì vậy
cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện các
dịch vụ mà chúng cung cấp như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với

bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Sự đa dạng trong các dịch
vụ của ngân hàng được thể hiện ở chức năng của nó:

3


Chức năng ủy

Chức năng tín

Sơ đồ 1. 1: Những chứcthác
năng cơ bản của ngân
hàng đa năng ngày nay
dụng
1.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTM
Chức năng
1.1.2.1.
Nhận tiền gửi
bảo hiểm

NHTM nhận tiền gửi xuất phát từ:

Chức năng
lập kế hoạch
đầu tư

- Yêu cầu khách quan:

Ngân hàng hiện đại
Khi

chủ sở hữu có một lượng tiền tiết kiệm được sau khi đã
chinăng
tiêu cho
Chứccác
năng
Chức
môi giới

thanh toán

các nhu cầu cần thiết hoặc tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định
họ sẽ nghĩ đến việc bảo quản nóChức
nhưnăng
thế nào
an mặt
toàn khi đó giải pháp gửi tiền
quảncho
lý tiền
Chứchàng
năng ngân
vào ngân
sẽ được chọn vì mục đích cất trữ.

Chức năng
tiết kiệm

hàng đầu tư và
Tùy
bảotheo
lãnhlượng tiền nhàn rỗi, tùy kế hoạch sử dụng mà họ sẽ tính toán xem


gửi kỳ hạn nào với số tiền bao nhiêu thì sẽ hiệu quả nhất cho mình. Từ những năm
cuối thập kỷ 60, hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển khi đó người ta nghĩ
đến việc sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng ví dụ thay vì hàng tháng họ
phải mang tiền mặt đến bưu điện trả phí điện thoại hoặc đi trả tiền điện, tiền thuê
nhà, tiền thuê xe,… thì sẽ mất nhiều thời gian và không thuận tiện vì vậy họ sẽ
thông qua các dịch vụ của ngân hàng, “ủy nhiệm” cho ngân hàng thanh toán hộ
trên cơ sở số tiền họ có trong tài khoản tại các ngân hàng. Các doanh nghiệp, tổ
chức trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình có một khoản tiền nhàn rỗi tạm
thời như chưa đến kỳ trả lương, chưa đến kỳ thanh toán tiền mua vật tư,… họ sẽ
giữ lượng tiền đó trong tài khoản tại ngân hàng hoặc chuyển sang gửi tiết kiệm với
kỳ hạn phù hợp.
- Khả năng và nhu cầu của ngân hàng:
Về khả năng, NHTM có kho tàng chắc chắn, an toàn, hệ thống bảo vệ khá
nghiêm ngặt, các điều kiện về bảo mật rất tốt, điều kiện về môi trường luôn luôn
đảm bảo. Mặt khác thông qua tác nghiệp của nhân viên ngân hàng, các quy định,
quy trình gửi rút tiền, các ngân hàng luôn sẵn sàng đáp ứng kịp thời các yêu cầu chi
trả cũng như đảm bảo các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
Về nhu cầu, bản thân ngân hàng là những trung gian tài chính, kiếm lời từ

4


những khoản tiền “tạm thời nhàn rỗi” của người này đem tài trợ cho nhu cầu của
người kia với mức lãi suất cao hơn, hoặc đầu tư vào những dự án đem lại mức lợi
nhuận cao hơn. Chính vì vậy ngân hàng phải huy động vốn hay nhận tiền gửi từ
khách hàng.
Nhận tiền gửi là hoạt động tạo điều kiện cho những hoạt động khác của ngân
hàng và theo suốt quá trình tồn tại và phát triển của mỗi NHTM. Nền kinh tế càng
phát triển thì nhu cầu gửi tiền sẽ càng gia tăng, thông qua hoạt động nhận tiền gửi

ngân hàng tập hợp được một số tiền tạm thời chưa sử dụng của các chủ sở hữu để rồi
sử dụng lượng tiền đó đem tài trợ lại cho nền kinh tế.
1.1.2.2. Tài trợ
Là các hoạt động mà ngân hàng sử dụng nguồn vốn đã huy động được để
cung cấp cho các đối tượng có nhu cầu với những điều kiện do hai bên thỏa thuận.
Hoạt động này bao gồm:
Cho vay (Tín dụng):
Tín dụng ngân hàng là một quan hệ giao dịch giữa ngân hàng chuyển giao
tiền cho các chủ thể khác được sử dụng trong một thời gian nhất định và bên nhận
tiền phải cam kết hoàn trả theo thời hạn thỏa thuận.
Đây là hoạt động giữ vị trí đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng vì hoạt động này tạo ra cho NHTM khoản thu
nhập chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của NHTM.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau người ta có thể chia thành các loại cho vay
khác nhau:
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: Cho vay bất động sản, cho vay công
nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay xây dựng,…
+ Căn cứ vào thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn, Cho vay trung và dài hạn
+ Căn cứ vào phương pháp hoàn trả: Cho vay trả góp, cho vay hoàn trả theo
yêu cầu,…
+ Căn cứ vào thành phần kinh tế: Cho vay quốc doanh và ngoài quốc doanh.
Thông qua hoạt động tín dụng các NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã

5


hội của mình, góp phần làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở
rộng và từ đó đời sống dân chúng được cải thiện.
Đầu tư:
NHTM có thể sử dụng nguồn vốn để đầu tư như đầu tư vốn trực tiếp vào các

doanh nghiệp dưới dạng góp vốn, thành lập công ty, hùn vốn dưới hình thức liên
doanh, liên kết. Đây cũng là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra lợi
nhuận ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh của mình cũng giống như các doanh
nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế ngân hàng có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi,
ngân hàng có thể gửi khoản tiền đó vào các tổ chức tín dụng khác hay đầu tư trái
phiếu Chính phủ để tăng thêm lợi nhuận.
Cho thuê tài chính:
Là hoạt động tín dụng trung gian, dài hạn trên cơ sở các hợp đồng cho thuê tài
sản giữa bên cho thuê là NHTM với khách hàng. Khi kết thúc hợp đồng khách
hàng có thể mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận
trong hợp đồng thuê. Trong thời gian thuê các bên không được đơn phương chấm
dứt hợp đồng.
1.1.2.3. Thực hiện các dịch vụ
Ngoài hoạt động huy động vốn, cho vay các NHTM còn thực hiện một loạt
các dịch vụ khác cho khách hàng như:
+ Dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước:
Ngày nay, khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động thương mại càng trở
nên đa dạng nhu cầu thanh toán qua ngân hàng không dùng tiền mặt ngày càng
chiếm vị trí chủ đạo trong các hoạt động kinh tế. Hàng loạt các phương thức thanh
toán được các ngân hàng thực hiện như ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thanh toán
séc, thanh toán bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng, thanh toán qua thẻ
tín dụng,…Đồng thời, các ngân hàng cũng chú trọng đầu tư các trang thiết bị, cơ
sở vật chất áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động ngân hàng để đảm bảo thời
gian thanh toán nhanh nhất và chính xác, an toàn.
Thực hiện tốt các dịch vụ thanh toán góp phần tăng thu nhập ổn định cho

6


ngân hàng. Hiện nay xu hướng nguồn thu về dịch vụ thanh toán ngày càng tăng và

chiếm một tỷ lệ lớn về tổng thu trong kinh doanh của ngân hàng. Đồng thời góp
phần làm tăng tốc độ chu chuyển nguồn vốn, tiết kiệm thời gian, làm giảm khối
lượng tiền tệ lưu thông, tiết kiệm chi phí in ấn, kiểm đếm tiền,… Ngân hàng thực
hiện tốt công tác thanh toán sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến giao
dịch từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác huy động vốn và cho vay của
ngân hàng.
+ Dịch vụ bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có
quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghiệp vụ tài chính thay cho khách
hàng (bên được bảo lãnh) trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh. Thông thường các
NHTM áp dụng các hình thức bảo lãnh như: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu,
bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng,…
+ Bảo quản vật có giá:
Đây là một trong những dịch vụ lâu đời nhất được các NHTM thực hiện. Có
hai hình thức bảo quản vật có giá là két sắt bảo quản ký thác và bảo quản an toàn
vật có giá.
Két sắt bảo quản ký thác được lập ra để cho khách hàng thuê, khách hàng có
quyền kiểm tra tài sản có giá của họ bất kỳ thời điểm nào. Ngân hàng chỉ cung cấp
kho bảo quản, két sắt và điều kiện an toàn.
Bảo quản an toàn vật có giá là nhiệm vụ trông nom, quản lý giấy tờ có giá
như là một đại lý đối với khách hàng.
+ Các dịch vụ khác:
Ngoài những nghiệp vụ chủ yếu nêu trên ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ
khác như mua bán, trao đổi ngoại tệ, dịch vụ ủy thác, quản lý tiền mặt,…
Các hoạt động của NHTM đều có mối quan hệ mật thiết hữu cơ, làm tiền đề,
điều kiện cho nhau vì vậy NHTM phải thực hiện tốt đồng bộ tất cả các hoạt động.
1.1.3. Vai trò của các NHTM trong nền kinh tế

7



Ngân hàng được định nghĩa là một loại hình tổ chức tài chính trung gian có
vai trò quan trọng trong nền kinh tế chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Trên thực tế một ngân hàng hiện đại phải thực hiện rất nhiều vai trò mới có thể duy
trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội:
Vai trò trung gian: Ngân hàng là trung gian giữa người có tiền tiết kiệm như
người dân, các tổ chức để cho những cá nhân tổ chức khác vay vốn đầu tư vào kinh
doanh, tiêu dùng.
Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua
hàng hóa và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới
thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền đúc, tiền giấy.
Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất
khả năng thanh toán.
Vai trò đại lý: đại diện những người cho vay để quản lý và bảo vệ tài sản,
phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán.
Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của Chính
phủ góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.

8


1.2. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm vốn của NHTM [3]
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập thông qua việc huy
động, đi vay để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực
chất vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá

trình sản xuất kinh doanh, phân phối, tiêu dùng, mà người chủ sở hữu gửi vào ngân
hàng với các mục đích khác nhau, họ chỉ có quyền sở hữu còn quyền sử dụng vốn
tiền tệ họ chuyển nhượng cho ngân hàng, để rồi ngân hàng phải trả cho họ một
khoản thu nhập. Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân
phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục
vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động
đó lại quyết định đến việc tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động của NHTM
Nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng có vai trò hết
sức quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh
của mỗi ngân hàng. Vốn là yếu tố quyết định đến khả năng sinh lời, khả năng cạnh
tranh cũng như khả năng phòng chống rủi ro của ngân hàng.
- Vốn là cơ sở để ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Đối với bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh thì đều phải có vốn, muốn mở rộng sản xuất cũng cần phải có vốn vì thế
tăng vốn luôn là mục tiêu của các doanh nghiệp vì quy mô vốn thể hiện năng lực của
doanh nghiệp. Riêng với hoạt động của các ngân hàng thương mại với đặc thù kinh
doanh tiền tệ thì vốn là cơ sở để ngân hàng tiến hành tất cả các nghiệp vụ kinh
doanh của mình bởi đối với ngân hàng vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà
còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng muốn mở rộng kinh doanh, thu
được lợi nhuận, tăng uy tín thì ngoài vốn ban đầu thì cần phải thường xuyên quan
tâm tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng.
- Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín

9


dụng, thông thường so với những ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có các
khoản mục đầu tư kém đa dạng, khối lượng và phạm vi tín dụng nhỏ hơn. Trong
khi các ngân hàng lớn có nhiều vốn đầu tư cho vay được cả thị trường trong nước

và quốc tế, thì ngân hàng nhỏ thiếu vốn sẽ bị giới hạn cho vay trong phạm vi hẹp.
Thêm vào đó khả năng vốn hạn hẹp nên ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy với
những biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn từ các thành
phần kinh tế và dân cư. Ngân hàng có vốn ít sẽ hiếm khi có điều kiện mở rộng đầu
tư vào cơ sở hạ tầng, công nghệ. Mặt khác ngân hàng cũng sẽ bỏ lỡ cơ hội tham gia
vào các danh mục đầu tư dài hạn như mua trái phiếu Nhà nước, trái phiếu công
trình,… thu lợi nhuận cao. Với xu thế ngân hàng đa năng như hiện nay việc tham
gia của ngân hàng vào thị trường chứng khoán là quan trọng, quy mô về vốn của
ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn thậm chí giữ vai trò quyết định tới sự thâm nhập
của Ngân hàng thương mại vào thị trường này.
- Vốn quyết định năng lực thanh toán của ngân hàng, đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thương trường từ đó quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó:
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường các ngân hàng phải giữ
được chữ tín, mà uy tín của ngân hàng thể hiện bằng khả năng chi trả của ngân hàng
khi đáo hạn. Vốn khả dụng càng cao thì khả năng thanh toán càng cao vì khả năng
thanh toán tỷ lệ thuận với nguồn vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng nói
riêng, nguồn vốn lớn sẽ giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, tăng khả năng
cạnh tranh, nâng cao uy tín và vị thế trên thị trường. Tiềm năng vốn lớn là điều kiện
đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần kinh
tế, xét cả về quy mô khối lượng tín dụng cũng như chủ động về khối lượng tiền, thời
hạn cho vay, lãi suất có thể thấp hơn các ngân hàng khác, từ đó ngân hàng sẽ thu hút
được nhiều khách hàng, doanh số kinh doanh tăng, đây là điều kiện làm tăng lợi
nhuận của ngân hàng, dẫn đến làm tăng vốn tự có, tăng quy mô hoạt động vật chất
kỹ thuật của ngân hàng.
- Vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính vươn tới kinh
doanh đa năng:

10



Với xu hướng ngân hàng đa năng như hiện nay, hoạt động ngân hàng không
chỉ đơn giản như hoạt động của ngân hàng truyền thống, mà còn vươn tới nhiều
lĩnh vực khác như mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, hoạt động thuê mua,
bảo lãnh, mua bán nợ, kinh doanh trên thị trường chứng khoán,… Hình thức kinh
doanh đa năng giúp ngân hàng phân tán được rủi ro, tạo thêm vốn, cơ hội thuận lợi
cho ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường
Tóm lại, vốn đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với
từng ngân hàng thương mại nói riêng chính vì vậy huy động vốn luôn là hoạt động
được ưu tiên hàng đầu. Nguồn vốn không chỉ giúp ngân hàng thương mại tồn tại,
hoạt động được mà nó còn cho phép NHTM mở rộng quy mô hoạt động, vươn tới
nhiều lĩnh vực mới giúp ngân hàng có đủ uy tín và sức mạnh để tồn tại và phát
triển trên thương trường.
1.2.3. Nguồn vốn của NHTM
Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại có thể phân chia theo nhiều cách khác
nhau: theo thời gian (ngắn hạn, dài hạn), theo loại tiền tệ (nội tệ, ngoại tệ), theo đặc
điểm của nguồn (nợ, tiền vay). Tiếp cận theo cách phân chia trên bảng tổng kết tài
sản nguồn vốn của ngân hàng thương mại được chia thành:
1.2.3.1. Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng [3]
Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các chủ
sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh
doanh thể hiện dưới dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao,
NHTM không phải hoàn lại, nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt
động mở rộng quy mô của mình như liên doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới,…
Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau:
Vốn tự có ban đầu:
Vốn này được hình thành từ ban đầu khi mới thành lập ngân hàng. Tùy theo
từng loại hình ngân hàng (quốc doanh hay cổ phần) mà vốn này có thể do ngân
sách Nhà nước cấp hay do các cổ đông góp vốn. Vốn này là một trong những điều
kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng.


11


Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể gia tăng vốn của chủ sở hữu theo
nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc từng điều kiện cụ thể.
Trong điều kiện thu nhập ròng của ngân hàng lớn các ngân hàng có xu hướng
chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu còn được bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm
nếu là ngân hàng cổ phần hoặc được cấp thêm từ NSNN nếu là ngân hàng quốc
doanh để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, công nghệ
hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ sở hữu do Nhà nước quy định.
Đây không phải là nguồn thường xuyên song nó giúp ngân hàng có được
lượng vốn chủ sở hữu khi cần thiết.
Các quỹ của ngân hàng:
Quỹ dự phòng rủi ro: được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù
đắp những tổn thất xảy ra.
Quỹ bảo toàn vốn: Nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát.
Ngoài ra còn có các quỹ khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,… nguồn
hình thành các quỹ này là thu nhập sau thuế của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử
dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng của
các quỹ.
1.2.3.2. Nguồn tiền gửi
Tiền gửi thanh toán: Hay còn gọi là tiền gửi có thể phát hành séc (tiền gửi giao
dịch, tiền gửi theo yêu cầu). Mục đích gửi khoản tiền vào ngân hàng không phải để
hưởng lãi mà là nhằm sử dụng các tiện ích do ngân hàng cung cấp như thanh toán
hộ, chi trả hộ, thu hộ. Thời kỳ đầu ngân hàng còn thu phí trên số dư tiền gửi này
nhưng về sau để khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không thu phí,
hiện nay để cạnh tranh với nhau các ngân hàng còn trả tiền lãi cho các số dư tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng, mặc dù vậy mức lãi suất

này là rất thấp nên chi phí huy động vốn của loại tiền gửi này là rất thấp đây chính là
ưu điểm của nguồn vốn này. Tuy nhiên, tính ổn định của nguồn vốn này là thấp nhất

12


vì mục đích của món tiền gửi này là dùng để thanh toán nên khách hàng có thể rút ra
bất cứ lúc nào mà ngân hàng không được phép từ chối. Biến động của tiền gửi thanh
toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ, hoặc địa bàn hoạt động của
ngân hàng. Để đo độ biến động phức tạp của nguồn vốn này, ta có thể đo tần suất
biến động hoặc số vòng quay, hoặc dựa vào các con số thống kê trong lịch sử mà
ngân hàng đưa ra kết luận. Khi sử dụng nguồn vốn tiền gửi thanh toán ngân hàng
phải thận trọng nếu không rủi ro chi trả sẽ xảy ra, điều này có thể làm giảm uy tín
của ngân hàng, hoặc phải tốn chi phí để đi vay.
Ở Mỹ tiền gửi giao dịch không hưởng lãi chiếm khoảng 30% tiền gửi ngân
hàng mặc dù theo một đạo luật Liên bang Mỹ từ năm 1933 ngân hàng không được
thanh toán lãi suất trên tiền gửi giao dịch nhưng nhiều ngân hàng chấp nhận trả chi
phí giao dịch qua bưu điện hay cung cấp các dịch vụ miễn phí khác do đó vẫn thu
hút được một lượng lớn tiền gửi thanh toán.
Để huy động được nguồn tiền gửi thanh toán ngân hàng cần phải khuyến
khích các cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài khoản thanh toán đồng thời cũng cần
phải nâng cấp các tiện ích và dịch vụ do ngân hàng cung cấp kèm theo như: dịch
vụ thẻ, dịch vụ thanh toán,…
Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và khách
hàng về thời hạn gửi tiền trong khoảng thời gian này ngân hàng có quyền chủ động
sử dụng số tiền đó, khi khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn cần phải báo trước
và phải được sự chấp thuận của ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh do các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội tạo ra từ các quỹ như quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ
các nguồn thu nhập của doanh nghiệp,… khi họ biết trước được thời điểm sử dụng

tiền, họ gửi những khoản tiền này vào ngân hàng nhằm mục đích thu lợi và an
toàn. Ngân hàng thường phải trả lãi cao cho số dư tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, nên
chi phí huy động thường cao nhưng bù lại tính ổn định của nguồn vốn này lại cao
Ngân hàng có thể yên tâm sử dụng mà không sợ bị rủi ro về khả năng chi trả.
Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền do dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích

13


an toàn và sinh lợi đây thường là khoản tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng số
tiền gửi của ngân hàng và có tính ổn định cao nhất. Mục đích của người gửi tiền là
nhằm hưởng lãi suất chính vì vậy lãi suât là yếu tố được người gửi quan tâm nhất,
lãi suất huy động tỷ lệ thuận với thời gian gửi tiền sẽ khuyến khích khách hàng gửi
tiền với thời hạn gửi dài hơn.
Lãi suất chi trả cho người gửi tiết kiệm bao giờ cũng là cao nhất chính vì vậy
huy động nguồn vốn này sẽ có chi phí huy động lớn nhất. Để huy động được
nguồn vốn này, ngân hàng cần chú ý tới nhu cầu tiết kiệm từ dân cư, lượng tiền gửi
phụ thuộc vào thu nhập của dân cư, vào xu hướng tiết kiệm, các đặc tính về dân sốxã hội, tình hình kinh tế xã hội. Muốn huy động nguồn tiền gửi tiết kiệm ngân hàng
cần phải chú ý đến các yếu tố thuộc về khách hàng này và điều chỉnh lãi suất huy
động cho phù hợp.
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng
yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn, sự thay đổi đặc biệt là
tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng. Qui mô của tiền
gửi rất lớn so với các nguồn khác, thông thường chiếm trên 50% tổng nguồn vốn
và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự dữ bắt buộc do vậy chi phí tiền gửi thường cao
hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với
các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác.
Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay.
Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường quan tâm tới lãi suất

thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền
tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy
tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng,…đều ảnh hưởng
tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và
tính ổn định của nguồn tiền. Vào dịp tết, nguồn tiết kiệm cũng như tiền gửi của
doanh nghiệp có xu hướng giảm sút đặc biệt là trong điều kiện tình trạng thanh
toán bằng tiền mặt vẫn là hình thức phổ biến nhất trong các giao dịch kinh tế ở

14


nước ta hiện nay. Tại những thành phố lớn, nơi tập trung các tầng lớp dân cư có
thu nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn, thu nhập gia tăng là điều kiện để các
gia đình tăng quy mô và kỳ hạn của các khoản tiền gửi. Như vậy, ngân hàng cần
phải nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền để có biện pháp quản lý và sử
dụng thích ứng tuy nhiên ngân hàng thường rất khó dự tính được chính xác việc
thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi
Phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM có thể phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và
chứng chỉ tiền gửi với đặc điểm có kỳ hạn và khoản lãi được hưởng thường là hấp
dẫn. Hình thức huy động này được thực hiện với mục đích sử dụng vốn cụ thể với
số lượng và thời gian phát hành nhất định khi cần thiết. Đặc điểm của khoản nợ
này có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác. Hiện nay, ở
Việt Nam có một số giấy tờ có giá có thể được mua bán trên thị trường, trong khi
đó ở các nước có thị trường tài chính phát triển thì việc mua bán các công cụ nợ
diễn ra khá phổ biến và sôi động. Hiện nay, nhu cầu vốn trung và dài hạn còn rất
lớn chính vì vậy việc phát hành giấy tờ có giá kỳ hạn dài đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo và gia tăng nguồn vốn trung và dài hạn cho ngân hàng. Huy động
vốn bằng việc phát hành giấy tờ có giá thường có lãi suất hấp dẫn hơn các loại tiền
gửi có cùng kỳ hạn do vậy chi phí huy động nguồn vốn này cao tuy nhiên loại vốn
này lại có tính ổn định và tính “lỏng” vì có thể đưa ra mua bán trên thị trường vốn.

Theo kinh nghiệm cho thấy việc huy động vốn từ trái phiếu khá phổ biến ở
các nước. Ở Nhật Bản, vốn huy động từ phát hành trái phiếu có kỳ hạn 1 năm, 2
năm và 5 năm là rất phổ biến trong đó trái phiếu kỳ hạn 5 năm chiếm quá nửa
trong tổng số trái phiếu phát hành và chúng được nắm giữ bởi các Công ty bảo
hiểm, các Hợp tác xã nông nghiệp và rất nhiều tổ chức đầu tư khác. Loại kỳ phiếu
có kỳ hạn 1 năm cũng có sức hấp dẫn đặc biệt đối với các cá nhân và chiếm một tỷ
trọng đáng kể trong tổng lượng trái phiếu phát hành. Ở Mỹ, các NHTM có khoản
mục tiền gửi có kỳ hạn chiếm gần 50% và chủ yếu thể hiện dưới dạng chứng chỉ
tiền gửi, với các chứng chỉ tiền gửi thường có kèm theo quy định về kỳ hạn cố định
với một mức lãi suất được xác định trước hoặc theo thỏa thuận và không có giới

15


hạn về số tiền gửi tối thiểu. Khoản mục này bao gồm các chứng chỉ tiền gửi có thể
chuyển nhượng giá trị lớn khoảng 100.000USD hoặc hơn – những chứng chỉ tiền
gửi hưởng lãi mà ngân hàng sử dụng để huy động vốn từ các khách hàng quen
thuộc. Để hạn chế việc rút trước hạn đối với tiền gửi có kỳ hạn, thì các ngân hàng
Mỹ có một quy định hết sức chặt chẽ là việc rút trước hạn đó sẽ bị xử phạt và mức
phạt có thể vượt cả mức tiền lãi được hưởng tính đến ngày rút tiền.
1.2.3.3. Nguồn tiền vay
Tiền gửi là nguồn tiền do khách hàng chủ động mang đến cho ngân hàng,
ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để kinh doanh. Tuy nhiên không phải lúc
nào nguồn tiền gửi cũng đủ đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng, chính vì
vậy khi nhu cầu cho vay vượt quá khả năng hiện có của ngân hàng, ngân hàng có
thể đi vay để đáp ứng.
Ngân hàng thương mại có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau:
- Vay từ ngân hàng trung ương:
Ngân hàng thương mại có thể vay từ ngân hàng trung ương qua các hình thức
như chiết khấu, tái chiết khấu, hình thức vay này thông qua thị trường mở. Ngân

hàng thương mại thường nắm giữ một lượng giấy tờ có giá, khi cần tiền mặt, ngân
hàng thương mại đưa lượng giấy tờ này cầm cố tại ngân hàng trung ương, thông
qua lãi suất chiết khấu mà ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh được cung tiền
tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại còn có thể vay từ các nguồn ngắn hạn như vay để bù
đắp dự trữ thiếu hụt, nâng cao khả năng thanh toán, nâng cao khả năng thanh
khoản. Các khoản vay này thường là trong thời gian rất ngắn. Trong những trường
hợp đặc biệt NHTM vẫn có thể vay NHNN để cho vay lại nền kinh tế theo kế
hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi nhưng khoản vay này thường bị
hạn chế về số lượng đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.
Vay ngân hàng trung ương để cho vay các dự án mà Chính phủ chỉ định
Lãi suất vay từ ngân hàng trung ương thường là ưu đãi nhưng để vay được
nguồn vốn này lại phụ thuộc vào chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.

16


- Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Khi thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển, ngân hàng thương mại có thể
vay từ các tổ chức tín dụng khác. Nghiệp vụ này sẽ tạo ra thị trường liên ngân hàng
trong nước và quốc tế. Lãi suất đi vay thường cao hơn vay từ ngân hàng trung
ương, quy mô món vay phụ thuộc vào thị trường, về kỳ hạn có thể co giãn, hoặc là
rất ngắn hoặc có thể tới 3-5 năm.
Nguồn tiền đi vay không phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm tiền gửi
đồng thời ngân hàng cũng chủ động được thời gian hoàn lại nhưng lãi suất lại cao.
Ngân hàng có thể đi vay bằng cách phát hành các giấy tờ có giá như phát
hành các trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hiện nay hình thức vay
từ việc phát hành các giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng ngày càng cao so với tổng
lượng tiền đi vay của các ngân hàng. Bởi hình thức phát hành giấy tờ có giá là một
phần của chiến lược huy động vốn tiền gửi của Ngân hàng, lãi suất của các giấy tờ

có giá do Ngân hàng phát hành ra sẽ thấp hơn lãi suất đi vay, tuy nhiên Ngân hàng
phải mất thêm chi phí in ấn, phát hành và quảng cáo cho các giấy tờ có giá này.
Vay từ nước ngoài:
Theo Nghị định 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ về quy chế
quản lý vay và trả nợ nước ngoài thì các Ngân hàng thương mại có thể vay vốn
trung và dài hạn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước, các Ngân
hàng thương mại Việt Nam hiện nay có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng
rãi với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành
cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được áp dụng theo lãi suất trên thị trường tiền tệ
thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các NHTM Việt Nam phải chấp hành một hạn mức
tín dụng do nước ngoài quy định, hạn mức này phải do Chính phủ hoặc NHNN
Việt Nam bảo lãnh, theo Nghị định 134/CP thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài
cho một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó, nhưng hạn
mức trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến thời điểm vay mới. Như vậy, muốn
tận dụng được hạn mức tín dụng nước ngoài các Ngân hàng thương mại Việt Nam
phải thực hiện tốt khâu hoàn trả. Các khoản vay nước ngoài của các Ngân hàng

17


thương mại Việt Nam đều do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp kiểm soát và quản lý.
Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải qua Ngân hàng Nhà nước xét duyệt, các Ngân
hàng thương mại có quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ nước ngoài, qua
đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Tỷ trọng của nguồn tiền vay trong tổng nguồn vốn thường thấp hơn nguồn
tiền gửi, đồng thời các khoản đi vay thường là có thời hạn và quy mô xác định
trước nên tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân
hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết;
ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử
dụng, nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy

nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho
tiền gửi với cùng kì hạn. Các khoản vay Ngân hàng Nhà nước và vay ngân hàng
khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán
tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. Vay Ngân hàng Nhà
nước phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Việc vay mượn
các ngân hàng khác trên cùng địa bàn cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng
đang thiếu phương tiện thanh toán. Muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị
trường liên ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc
tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao cho ngân hàng.
Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các dự án, tài trợ cho trang thiết
bị và bất động sản của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Các nhân tố ảnh hưởng
quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và ổn định vĩ mô, sau đến là các kỹ thuật
nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện
đối với người cho vay. Mặc dù lãi suất thường cao hơn các nguồn khác, song ngân
hàng vẫn phải sử dụng phát hành giấy nợ trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp
ứng được yêu cầu như ổn định, quy mô đủ lớn trong khoảng thời gian xác định.

18


1.2.3.4. Nguồn khác
NHTM còn có thể tạo lập vốn kinh doanh cho mình thông qua việc thực hiện
một số nghiệp vụ như: làm trung gian thanh toán, làm nghiệp vụ đại lý, … Qua đó
NHTM có thể sử dụng một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi đáng kể trong quá trình
thu hộ hoặc chi hộ khách hàng. Các khoản vay này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm
bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung, dài hạn;
là giải pháp tình thế trong hoàn cảnh khó khăn cho NHTM.
Các nguồn khác này thường không lớn, việc gia tăng các nguồn này nằm

trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả
năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.
1.2.4. Một số tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn
1.2.4.1. Chỉ tiêu định lượng đánh giá hiệu quả huy động
vốn của ngân hàng
a. Nguồn vốn tăng trưởng ổn định
Vốn huy động của NHTM phải đủ lớn và có sự tăng trưởng ổn định về số
lượng để thỏa mãn nhu cầu tín dụng, thanh toán cũng như các hoạt động kinh doanh
ngày càng tăng của Ngân hàng. Tuy nhiên, vốn huy động được phải luôn ổn định về
mặt thời gian. Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn nhưng lại không ổn
định, thường xuyên có những dòng tiền lớn bị rút ra thì lượng vốn dành cho đầu tư,
cho vay không lớn, hiệu quả huy động vốn không cao, thường xuyên phải đối đầu
với vấn đề thanh khoản. Kết quả, trong nhiều trường hợp ngân hàng sẽ phải gặp rủi
ro lớn là mất khách hàng. Ngược lại, nếu nguồn vốn huy động được ổn định, dù nhỏ
thì cũng có thể yên tâm sử dụng số tiền đó vào các hoạt đông chắc chắn, lâu dài và
thu được lợi nhuận cao.
VHĐ năm nay – VHĐ năm trước
Tốc độ tăng trưởng =
Vốn huy động

100% x
Vốn huy động năm trước

19


Chỉ tiêu này được đánh giá qua mức độ tăng giảm nguồn vốn huy động và số
lượng vốn huy động có kỳ hạn. Nguồn vốn tăng đều qua các năm, có độ gia tăng
đều đặn, đạt mục tiêu nguồn vốn đặt ra là nguồn vốn tăng trưởng ổn định.
b. Cơ cấu nguồn vốn

Vốn huy động loại i
Tỷ lệ loại vốn huy động i =

x 100%
Tổng nguồn vốn huy động

Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh từng loại vốn huy động so với
tổng vốn huy động. Qua đó, đánh giá tính ổn định của từng loại nguồn vốn huy
động cũng như khả năng tạo được nền vốn lâu dài và ổn định.
Tỷ trọng nguồn vốn huy động có thể phân chia theo một số tiêu thức sau:
+ Theo kỳ hạn huy động: ngắn hạn, dài hạn.
+ Theo loại tiền tệ: nội tệ, ngoại tệ.
+ Theo nguồn hình thành: huy động dân cư, tiền gửi TCKT, tiền gửi tổ chức
tài chính.
c. Cơ cấu nguồn vốn huy động phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn
Cơ cấu hợp lý không có tình trạng bất hợp lý giữa nguồn vốn huy động với
nhu cầu sử dụng vốn và có thể đáp ứng tối đa nhu cầu sử dụng vốn.
Tổng nguồn vốn huy động/ tổng dư nợ cho vay và đầu tư: Chỉ tiêu này đánh
giá khả năng huy động vốn của chi nhánh để phục vụ cho vay, chỉ tiêu này còn
đánh giá ngân hàng có sử dụng hiệu quả vốn huy động để cho vay hay không.
Chỉ tiêu phản ánh tương quan giữa huy động vốn và sử dụng vốn, là một
thước đo thường được các ngân hàng chú trọng nhiều nhất. Chỉ tiêu nên được duy
trì ở mức hợp lý tùy thuộc vào tiềm lực của ngân hàng. Tuy nhiên nếu chỉ tiêu này
tăng mạnh cho thấy ngân hàng có lượng vốn dự phòng ít hơn để tài trợ cho sự tăng
trưởng của ngân hàng và để bảo vệ nó trước sự biến động của nguồn vốn huy động,
đặc biệt đối với một ngân hàng chủ yếu dựa vào nguồn tiền gửi của khách hàng để
tài trợ cho tăng trưởng tín dụng.

20



×