Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

THỊ TRƯỜNG các CÔNG cụ PHÁI SINH TRÊN THẾ GIỚI và GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN tại VIỆT NAM (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.29 KB, 25 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các công cụ phái sinh (derivatives) là một công cụ tài chính có dòng tiền trong tương lai
phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài sản khác (Hull, 2012). Trên thế giới các công cụ phái
sinh manh nha hình thành từ rất lâu, nhưng vào khoảng những những 1970, các công cụ này bắt
đầu trở nên phổ biến và có những bước phát triển mạnh mẽ cho đến nay. Theo số liệu thống kê của
Ngân hàng thanh toán quốc tế BIS năm 2014, giá trị giao dịch của thị trường phái sinh toàn cầu
khoảng 670.000 tỷ USD, trong đó doanh số của thị trường phi tập trung cao gấp 10 lần so với thị
trường tập trung. Thị trường công cụ phái sinh được đánh giá là thị trường hoạt động nhộn nhịp
nhất trên thế giới với doanh số giao dịch lên đến hàng nghìn tỷ USD mỗi ngày. Chỉ tính riêng thị
trường ngoại hối, giá trị giao dịch trung bình hàng ngày năm 2013 đã đạt 6.671 tỷ USD, chiếm gần
19% doanh số toàn thị trường.
Công cụ phái sinh ra đời trước hết nhằm mục đích quản trị rủi ro về giá Trong giai đoạn
đầu khi mới xuất hiện, tài sản cơ sở của các hợp đồng phái sinh chủ yếu là hàng nông sản như gạo,
ngô, bông,... và mục đích đầu tiên của các công cụ phái sinh là nhằm phòng ngừa rủi ro về biến
động giá của các tài sản cơ sở này. Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, ngày nay
hàng hóa cơ sở của các giao dịch phái sinh đã trở nên phong phú và đa dạng hơn rất nhiều, từ
nguyên vật liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất như dầu mỏ, thép, kim loại màu, bông,... đến các
sản phẩm trên thị trường tài chính như ngoại tệ, chứng khoán, chỉ số chứng khoán, lãi suất... Do
vậy, các công cụ phái sinh có thể được sử dụng nhằm mục đích kinh doanh chênh lệch giá, đầu tư
và cả mục đích đầu cơ. Ngoài ra, các công cụ phái sinh được giao dịch trên thị trường là nguồn
thông tin hiệu quả hình thành giá của tài sản cơ sở. Khi các công cụ phái sinh được giao dịch trên
thị trường sẽ hình thành các mức giá của chính các công cụ này và trở thành nguồn thông tin hiệu
quả trong việc xác định giá của tài sản cơ sở. Tính thanh khoản và giá trị giao dịch của thị trường
phái sinh trên thế giới rất lớn nên khó để một thế lực kinh tế nào có thể thao túng giá nên các thông
tin giá cả của thị trường rất đáng tin cậy, từ đó sẽ giúp nền kinh tế giúp cân đối giữa sản xuất và
tiêu thụ. Bên cạnh đó, công cụ phái sinh giúp tăng cường hiệu quả của thị trường tài chính nói
chung thông qua việc các bên tham gia thị trường có cơ hội tiếp cận thông tin một cách công bằng,
ngăn chặn được tình trạng độc quyền hay lũng đoạn giá. Đấy cũng là lý do vì sao 92% trong số 500
công ty lớn nhất thế giới đã sử dụng các công cụ phái sinh để quản trị rủi ro về giá (Deutsche Borse


AG, 2008) và nhiều nước trên thế giới đã ban hành nhiều chính sách và các quy định nhằm quản lý
và phát triển các giao dịch này. Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố về giá cả, tỷ giá, lãi suất sẽ
biến động nhiều hơn theo quy luật cung cầu và do vậy các rủi ro sẽ xẩy ra nhiều hơn. Khi mà các
rủi ro về biến động giá có thể xẩy đến bất cứ lúc nào với các nhà đầu tư và ngày càng gia tăng trong
quá trình hội nhập, thì phát triển thị trường các công cụ phái sinh được xem như là lá chắn quan
trọng để hạn chế rủi ro của thị trường đối với những nhà đầu tư.
Trong khi đó tại Việt Nam, khái niệm công cụ phái sinh chưa thực sự phổ biến và nhiều
nhà đầu tư cá nhân, doanh nghiệp cũng chưa hiểu rõ về các công cụ này. Một số người cho rằng,
các công cụ phái sinh chỉ những ưu điểm như: bảo hiểm rủi ro về giá hàng hóa, công cụ để đầu tư
và tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, số khác lại cho rằng, tham gia thị trường này giống như đánh
bạc, chủ yếu là nhờ vào vận may. Tại Việt Nam thị trường công cụ phái sinh hầu như chưa phát


2
triển, mới chỉ manh nha hình thành ở một vài tài sản cơ sở như hàng nông sản (cà phê, cao su) và
ngoại hối. Đối với hàng nông sản, các giao dịch phái sinh trên thế giới chủ yếu thực hiện qua các
sàn giao dịch, nhưng hiện nay Sàn giao dịch hàng hóa Việt Nam mặc dù đã được thành lập từ năm
2010 vẫn chưa thực hiện được vai trò là trung gian cho các nhà sản xuất, xuất khẩu gặp gỡ nhau để
thỏa mãn nhu cầu về phòng vệ rủi ro giá cả hàng hóa; cũng chưa trở thành kênh đầu tư hiệu quả
cho các nhà đầu tư. Các nhà sản xuất, xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vẫn phải thực hiện
nghiệp vụ phái sinh thông qua các sàn giao dịch hàng hóa lớn của thế giới. Còn đối với những
doanh nghiệp có nguồn thu chi bằng ngoại tệ lại gặp phải rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái, do
vậy, nếu thị trường công cụ phái sinh ngoại hối tại Việt Nam phát triển, các doanh nghiệp này sẽ
được cung cấp đầy đủ các công cụ phòng ngừa rủi ro khi có nhu cầu. Theo Bodnar (2011), khi đối
mặt với rủi ro ngoại hối, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro vẫn
chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 70%).
Ngược lại, tài sản cơ sở là ngoại hối được giao dịch nhiều trên thị trường phi tập trung
nhưng doanh số vẫn còn khá khiêm tốn với các công cụ phổ biến là kỳ hạn và hoán đổi. Một vài
công cụ phái sinh khác như quyền chọn ngoại tệ- nội tệ được đưa vào áp dụng thí điểm trong thời
gian ngắn và dừng lại cho đến nay. Các doanh nghiệp Việt Nam không có cơ hội để được sử dụng

các công cụ quản trị rủi ro ngoại hối hữu hiệu mà nhiều doanh nghiệp trên thế giới đang sử dụng.
Sự kém phát triển của thị trường công cụ phái sinh là một thách thức không nhỏ đối với các NHTM
và doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình mở cửa và hội nhập vào thị trường tài chính thế giới. Vì
vậy, vấn đề phát triển thị trường các công cụ phái sinh Việt Nam hiện nay trở nên cấp thiết hơn bao
giờ hết.
Như vậy, nếu không phát triển thị trường công cụ phái sinh, các doanh nghiệp của Việt
Nam sẽ mất đi cơ hội được sử dụng các công cụ hữu hiệu trong việc phòng ngừa rủi ro về biến
động giá cả hàng hóa, biến động tỷ giá và lãi suất như các doanh nghiệp trên thế giới đang áp dụng.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả chọn đề tài “Thị trường các công cụ phái sinh trên
thế giới và giải pháp phát triển tại Việt Nam” làm Luận án tiến sĩ.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến
các công cụ phái sinh ngoại hối, phân tích thực trạng phát triển của các thị trường công cụ phái sinh
ngoại hối trên thế giới để từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nhằm phát
triển thị trường này tại Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu trên, tác giả đặt ra các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Hệ thống lại cơ sở lý luận liên quan đến các công cụ phái sinh ngoại hối và thị trường
công cụ phái sinh ngoại hối, các điều kiện để phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam.
- Phân tích thực trạng phát triển của thị trường CCPS ngoại hối trên thế giới, đặc biệt có
phân tích điển hình thị trường CCPS ngoại hối của một số nước cụ thể (bao gồm cả thị trường còn
phát triển non trẻ đến thị trường đã có bề dày hoạt động); phân tích thực trạng phát triển thị trường
CCPS ngoại hối của Việt Nam và đánh giá những kết quả đạt được cũng như hạn chế và đưa ra các
nguyên nhân cho thực trạng này.


3
- Dự báo và xác định xu hướng phát triển của các thị trường CCPS nói chung và thị trường
CCPS ngoại hối trên thế giới, quan điểm về phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam;
đồng thời trên cơ sở kết quả khảo sát các điều kiện phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại Việt
Nam tác giả sẽ đưa ra các giải pháp phát triển thị trường hơn nữa thị trường CCPS ngoại hối.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Trong Luận án tiến sĩ, tác giả giới hạn đối tượng nghiên cứu là thị
trường công cụ phái sinh đối với tài sản cơ sở là ngoại hối và trên cơ sở lý luận, khái quát hóa sự
hình thành và phát triển thị trường CCPS trên thế giới để tập trung nghiên cứu sự hình thành và
phát triển thị trường CCPS ngoại hối Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Do tài sản cơ sở trong các hợp đồng phái sinh đa dạng, phong phú nên nội dung nghiên cứu
về thị trường các CCPS cũng rất rộng. Để nội dung đề tài có tính tập trung, tác giả giới hạn phạm vi
nghiên cứu ở thị trường CCPS ngoại hối. Lý do, nhu cầu sử dụng CCPS ngoại hối có thể phát sinh
trong các doanh nghiệp thuộc bất kỳ lĩnh vực nào (xuất nhập khẩu, thương mại, đầu tư, sản xuất,
dịch vụ). Trong khi đó, thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam đang hình thành nhưng chưa phát
triển. Mặt khác, theo nghiên cứu của Bodnar (2011), trong lĩnh vực ngoại hối, các doanh nghiệp có
xu hướng sử dụng nhiều các công cụ phái sinh này để phòng vệ rủi ro hơn là sử dụng các biện pháp
nghiệp vụ khác.
Về mặt thời gian, phần thực trạng thị trường CCPS thế giới và tại Việt Nam tác giả sử dụng
liệu từ năm 2008 cho đến năm 2014. Tuy nhiên, tùy theo yêu cầu của một số nội dung cụ thể như
phần phân tích về lịch sử hình thành và phát triển thị trường công cụ phái sinh trên thế giới và Việt
Nam, dữ liệu được sử dụng từ khi các thị trường mới được thành lập. Mộ t số số liệu thống kê được
dùng trong bài có thể khác nhau nhưng không đáng kể và không làm ảnh hưởng đến việc phân tích
sự phát triển của toàn thị trường. Sự chênh lệch giữa các số liệu này là do việc làm tròn số trong
quá trình thống kê và phân tích của tác giả.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, để hoàn thành đề tài
luận án tiến sĩ này, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, cụ thể như sau:
- Tác giả thu thập số liệu thứ cấp từ các nguồn đáng tin cậy như các đề tài nghiên cứu khoa
học, kỷ yếu hội thảo, bài đăng tạp chí, các nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước, đồng thời tham gia các hội thảo trong nước và quốc tế liên quan đến việc phát triển thị
trường CCPS tại Việt Nam nhằm thu thập thông tin và số liệu về lịch sử hình thành và thực trạng
phát triển của thị trường CCPS trên thế giới và Việt Nam.
- Thực hiện việc điều tra, khảo sát thực tế thông qua mẫu phiếu khảo sát đối với các doanh

nghiệp trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai để thu thập thông tin, lấy ý kiến
đánh giá về việc sử dụng các CCPS tại các doanh nghiệp này. Đối tượng trả lời phiếu khảo sát là
các cán bộ quản lý (trưởng/phó phòng ban, Giám đốc bộ phận, Giám đốc công ty) chịu trách nhiệm
mảng hoạt động tài chính- kinh doanh của doanh nghiệp hoặc cán bộ, nhân viên các phòng ban
XNK, kinh doanh, tài chính. Tác giả đã tiến hành khảo sát 135 doanh nghiệp trong các lĩnh vực


4
như xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ, xây dựng và đã thu về được 120 phiếu trả lời, trong đó
có 105 phiếu trả lời hợp lệ. Dữ liệu trong 105 phiếu trả lời hợp lệ này đã được tác giả dùng để phân
tích bằng công cụ phân tích định lượng.
- Phỏng vấn trực tiếp hoặc qua điện thoại, email các chuyên gia về công cụ phái sinh tại
một số Ngân hàng thương mại Việt Nam như Vietcombank, Maritimebank, Techcombank,
Vietinbank, BIDV, VIB về việc cung cấp các sản phẩm công cụ phái sinh ngoại hối, những thuận
lợi khó khăn, những bất cập trong việc triển khai các giao dịch phái sinh ngoại hối tại các ngân
hàng.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp đối chiếu – so sánh để phân tích, đánh giá thực trạng thị
trường CCPS trên thế giới trong mối liên hệ so sánh, đối chiếu các đối tượng được phân tích với
nhau; phân tích các điều kiện phát triển một số thị trường CCPS trên thế giới và Việt Nam nhằm đề
xuất các giải pháp có tính khả thi giúp phát triển thị trường CCPS tại Việt Nam.
Trong phần dự báo quy mô thị trường công cụ phái sinh toàn cầu, tác giả đã sử dụng mô
hình ARIMA và phần mềm SPSS để xử lý chuỗi số liệu về quy mô thị trường thông qua chỉ tiêu về
giá trị danh nghĩa của các hợp đồng đang còn hiệu lực từ năm 1998 đến năm 2014. Số liệu thứ cấp
tác giả tổng hợp từ các báo cáo (báo cáo quý, báo cáo năm, báo cáo 3 năm) của Ngân hàng thanh
toán bù trừ BIS.
5. Tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Các nghiên cứu ở nước ngoài
Nghiên cứu về lợi ích và cả những tác động tiêu cực của CCPS nói chung đối với thị
trường tài chính cũng như toàn bộ nền kinh tế có các tác giả như Randall (2001), Eric & Junghoon

(2005), Chow, Li and Liu (2005) hay Anna (2009). Các công trình này tập trung nghiên cứu
nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008 và một số cuộc khủng hoảng kinh tế tại một số nước khác và vai trò của CCPS
trong các cuộc khủng hoảng này. Các nghiên cứu này không đề cập riêng đến CCPS ngoại hối.
Một số các tác giả khác lại nghiên cứu các ứng dụng thực tiễn của công cụ phái sinh trong
phòng vệ rủi ro thông qua phân tích các ảnh hưởng của công cụ phái sinh đối với rủi ro và giá trị
của doanh nghiệp, như Sohnke, Gregory và Jennifer (2009), Peter M. Garber (1998), Mark (1995)
hay Rene (2004). Trong một số nghiên cứu khác của Söhnke, Gregory và Frank (2006), Bodnar,
Gregory, Richard và Charles W (1995), Bodnar, Gregory và Richard (1996), Bodnar, Gordon và
Gunther Gebhardt (1998), Bodnar. và Giambona (2012), Downi David, McMillanvà Ed Nosal
(1996) hay Yahagida Munehiko và Koji Inui (1995) phân tích về tình hình sử dụng các công cụ
phái sinh cũng như thái độ về việc sử dụng các công cụ phái sinh của các doanh nghiệp trên thế
giới, đặc biệt nhấn mạnh các doanh nghiệp tại Mỹ, Đức, Canada, Nhật Bản. Tuy vậy, chưa có
nghiên cứu nào đề cập cụ thể và trực tiếp về tình hình sử dụng các CCPS, đặc biệt là CCPS ngoại
hối tại Việt Nam. Các nghiên cứu này cũng không đề cập đến điều kiện để phát triển thị trường
CCPS.
Liên quan đến các điều kiện phát triển thị trường CCPS, trong Báo cáo nghiên cứu
“Derivatives market development” ở dạng sách trắng, do Tổ chức Giải pháp thị trường Aberta


5
(Aberta Market solutions Ltd) của Vancouver, Cananda ấn hành vào năm 2003 có đã đề cập đến
một số yếu tố chủ yếu trong xây dựng một thị trường phái sinh mới như các thành phần tham gia
thị trường, nguồn luật điều chỉnh, vai trò của việc tạo ra các CCPS mới. Tuy nhiên, nghiên cứu mới
chỉ dừng lại ở việc mô tả sơ lược các yếu tố tạo nên thị trường, chứ chưa đề cập và phân tích sâu
đến các điều kiện đó. Trong báo cáo nghiên cứu The world’s commodity exchanges: past - present
– future của UNCTAD (2006) có đề cập đến các điều kiện thành lập Sàn giao dịch, tuy nhiên, chưa
nhấn mạnh đến các yếu tố thúc đẩy sự phát triển của các Sàn giao dịch, đặc biệt là các Sàn giao
dịch CCPS ngoại hối. Một số nghiên cứu khác đề cập đến các khía cạnh liên quan trực tiếp đến sự
phát triển thị trường CCPS, đó là yếu tố về hệ thống pháp luật điều chỉnh CCPS, như Paul Latimer

(2008) nghiên cứu về các quy định đối với các giao dịch phái sinh OTC tại Úc; Hui (2012) phân
tích quá trình phát triển thị trường CCPS cũng như sơ lược về các quy định pháp lý với thị trường
CCPS tại Trung Quốc.
Đây là những các công trình nghiên cứu nổi trội về các vấn đề liên quan đến nội dung của
luận án mà tác giả tiếp cận được, nhưng trong số này chưa có nghiên cứu nào đề cập toàn diện đến
các điều kiện phát triển thị trường CCPS nói chung và thị trường CCPS ngoại hối nói riêng tại Việt
Nam, đặc biệt trong thời kỳ mở cửa và hội nhập với thị trường tài chính thế giới.
5.2 Các nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam cũng đã có một số các nghiên cứu về thị trường CCPS và CCPS ngoại hối,
như Hồ Thúy Ái (2007) phân tích các ứng dụng công cụ ngoại hối phái sinh vào việc bảo hiểm rủi
ro tỷ giá, Việt Bảo (2007) phân tích về tình hình phát triển nghiệp vụ tài chính phái sinh ở Việt
Nam, Nguyễn Thị Thanh Hương (2007) đề cập đến giải pháp kế toán nhằm phát triển thị trường
công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam, Nguyễn Thúy (2008) bàn về việc phát triển các công cụ
phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam, hay Phạm Thu Thủy (2011) nghiên cứu kinh nghiệm
phát triển thị trường công cụ phái sinh ở các nền kinh tế mới nổi và đưa ra những định hướng cho
thị trường Việt Nam, Đinh Thị Thanh Long (2014) đề cập đến thực trạng giao dịch phái sinh ngoại
hối tại Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào phân tích sâu và toàn diện về thực trạng phát
triển thị trường CCPS cũng như đánh giá các điều kiện để phát triển thị trường này tại Việt Nam.
Một số nghiên cứu khác chỉ mới dừng lại ở cấp độ là Luận văn thạc sỹ và khóa luận tốt
nghiệp đại học, như Bùi Thị Xuân (2010) bàn về ứng dụng các công cụ ngoại hối phái sinh ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, Lê Thị Khánh Phương (2009) phân tích các biện pháp phát triển
công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá tại các NHTM Việt Nam, Vũ Trần Thanh Long
(2012) tìm hiểu về một số thị trường chứng khoán phái sinh trên thế giới và khả năng áp dụng tại
Việt Nam. Đề tài NCKH cấp cơ sở của Huỳnh Thị Hương Thảo (2014) cũng chỉ bàn về việc sử
dụng công cụ tài chính phái sinh trong quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam chứ không đi sâu vào phân tích thị trường CCPS ngoại hối cũng như các điều kiện hình thành
và phát triển thị trường này tại Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Phát triển hoạt động và mở rộng mặt
hàng giao dịch qua Sở giao dịch hàng hóa trong thời kỳ hội nhập, Bộ Công Thương phối hợp với
MUTRAP, 2012 lại tập trung vào phát triển thị trường CCPS hàng hóa thông qua việc mở rộng
danh mục mặt hàng được giao dịch qua Sở giao dịch. Nghiên cứu của Phạm Nguyễn Hoàng (2011)

đã đề cập đến điều kiện hình thành và phát triển thị trường tương lai tại Việt Nam, tuy nhiên, chỉ
mới nêu các điều kiện để phát triển thị trường đối với hợp đồng tương lai, bao gồm (1) điều kiện về


6
thể chế, luật pháp, (2) điều kiện về kinh tế- tài chính, (3) điều kiện về kỹ thuật. Kết quả nghiên cứu
của Phạm Nguyễn Hoàng (2011) và của Tổ chức Giải pháp thị trường Aberta, Canada (2003) là cơ
sở và gợi ý quan trọng về các điều kiện phát triển thị trường CCPS nói chung; trên nền tảng đó, tác
giả đã lựa chọn và phân tích kỹ các điều kiện quan trọng quyết định đến sự phát triển thị trường
CCPS ngoại hối của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập vào thị trường tài
chính toàn cầu.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của tác giả, qua các công trình nghiên cứu kể trên chưa
có công trình nào nghiên cứu đầy đủ cả về lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng các CCPS ngoại hối trên
thế giới và Việt Nam; các nghiên cứu trên chưa đánh giá toàn diện các điều kiện phát triển của thị
trường các CCPS ngoại hối ở Việt Nam trong tương quan so sánh, đối chiếu với sự các điều kiện
phát triển của thị trường CCPS ngoại hối của một số nước trên thế giới.
6. Bố cục của đề tài:
Nhằm giải quyết các mục tiêu đề ra, đề tài được bố cục theo 3 chương (chưa bao gồm Lời
mở đầu và kết luận, nội dung):
Chương 1: Cơ sở lý luận về công cụ phái sinh và thị trường các công cụ phái sinh ngoại hối
Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường các công cụ phái sinh ngoại hối trên thế giới và
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thị trường các công cụ phái sinh ngoại
hối tại Việt Nam
7. Những điểm mới của luận án
Nhằm giải quyết mục tiêu đề ra của Luận án, nghiên cứu của tác giả trong Luận án tiến sĩ
này đã đạt được một số điểm mới như sau:
- Hệ thống lại cơ sở lý luận về CCPS và CCPS đối với tài sản cơ sở là ngoại hối, đưa ra
được các định nghĩa cụ thể gắn liền với các dạng thức của CCPS ngoại hối đồng thời phân tích và
đưa ra được các điều kiện để phát triển thị trường CCPS ngoại hối trong bối cảnh Việt Nam mở cửa

và gia nhập thị trường tài chính toàn cầu nói chung và ngoại hối nói riêng.
- Phân tích và đánh giá được tình hình phát triển chung của thị trường CCPS trên thế giới
và thị trường CCPS ngoại hối nói riêng (có phân tích 3 trường hợp điển hình là Nhật Bản, Ấn Độ
và Trung Quốc), qua đó rút ra được những bài học kinh nghiệm về phát triển thị trường CCPS cho
Việt Nam. Tác giả không chỉ phân tích về thực trạng phát triển CCPS ngoại hối của Việt Nam mà
còn đánh giá được các điều kiện để phát triển thị trường này dựa trên các phân tích so sánh và
nghiên cứu thực tiễn qua kết quả khảo sát các DN và phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực phái
sinh tại các NHTM của Việt Nam.
- Dựa trên đánh giá các điều kiện phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam, tác
giả đã đề xuất các giải pháp cụ thể, chặt chẽ và có tính khả thi theo các điều kiện đó để nhằm phát
triển thị trường CCPS ngoại hối, đặc biệt là các giải pháp này gắn với bối cảnh Việt Nam đang gia
nhập vào thị trường tài chính thế giới nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng.


7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CỤ PHÁI SINH VÀ THỊ TRƯỜNG
CÔNG CỤ PHÁI SINH NGOẠI HỐI
1.1 Công cụ phái sinh
Vào thập niên 40 thế kỷ XIX, Chicago đã trở thành một trung tâm thương mại lớn của Hoa
Kỳ, do vậy, những người nông dân trồng lúa mì từ khắp nơi đều quy tụ về Chicago để bán sản
phẩm của họ. Nếu giá cả tăng lên, nông dân luôn sẵn sàng đẩy mạnh sản xuất, nhưng ngược lại nếu
giá cả giảm sút sẽ xảy ra hiện tượng bán tống bán tháo hàng loạt dẫn đến những trường hợp không
đủ nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Còn các thương nhân luôn đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn
do biến động trong giá cả gây nên. Một cơ chế để có thể giảm thiểu hay hạn chế những rủi ro trên
là nhu cầu bức thiết. Bằng những thoả thuận trước về giá cả, người mua cũng như người bán có thể
phòng ngừa được những rủi ro do biến động giá cả trong tương lai gây nên. Năm 1848, Sở giao
dịch thương mại Chicago (CBOT) được thành lập nhằm mục đích trước hết là quy tụ các nông dân
và thương nhân trong buôn bán ngũ cốc. Sở đã tiêu chuẩn hóa khối lượng và chất lượng sản phẩm
giúp các bên dễ dàng trong việc định giá và thúc đẩy hoạt động mua bán hàng hóa. Chỉ sau đó một
vài năm, loại hợp đồng future đầu tiên, hợp đồng giao sau (to-arrive contract) được ra đời. Hợp

đồng "to-arrive" này cho phép bên bán được giao hàng sau tại một thời điểm nhất định đã được
thỏa thuận trước trong hợp đồng. Vào năm 1973, Sở giao dịch quyền chọn Chicago (The Chicago
Board Options Exchange- CBOE) bắt đầu giao dịch các hợp đồng quyền chọn mua (call options)
đối với 16 loại cổ phiếu. Thực tế thì trước đó các loại hợp đồng quyền chọn đã được giao dịch,
nhưng chỉ đến năm này Sở giao dịch quyền chọn Chicago (CBOE) mới áp dụng thành công các
mẫu hợp đồng đã được Sở tiêu chuẩn hóa. Còn hợp đồng quyền chọn bán (put options) bắt đầu
được giao dịch trên sàn từ năm 1977. Giờ đây Sở giao dịch quyền chọn Chicago cung cấp các hợp
đồng quyền chọn với hơn 1.000 loại cổ phiếu và nhiều chỉ số cổ phiếu khác nhau. Từ các tài sản cơ
sở đầu tiên chỉ là nông sản, đến nay, có thể nói bất kỳ một loại hàng hóa, dịch vụ nào cũng có thể
trở thành tài sản cơ sở của các giao dịch phái sinh.
Trên thế giới, phái sinh là một khái niệm quen thuộc đối với nhiều nhà đầu tư, đầu cơ, các
tổ chức tài chính và phi tài chính. “Phái sinh” được dịch từ nguyên gốc tiếng Anh là “derivative”,
có nghĩa là “bắt nguồn từ” hay “phát sinh từ”. Phái sinh được định nghĩa là một công cụ tài chính
mà giá trị của nó phụ thuộc vào (bắt nguồn từ) giá trị của các biến cơ sở hay tài sản cơ sở
(underlying assets), là một công cụ tài chính có khoản thu nhập trong tương lai được phát sinh từ
giá trị của các tài sản cơ sở hay là các công cụ tài chính mà khoản thu nhập của chúng sẽ bắt nguồn
từ khoản thu nhập của các công cụ tài chính khác. Trong trường hợp này “phái sinh” được coi là
các công cụ. Tại Việt Nam, trong Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 (khoản 23. Điều 4) thuật
ngữ sản phẩm phái sinh được giải thích là công cụ tài chính được định giá theo biến động dự kiến
về giá trị của một tài sản tài chính gốc như tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ hoặc tài sản tài chính
khác.
Về mặt ngôn ngữ, từ “phái sinh” (derivative hoặc derivatives) trong các tài liệu trên được
dùng như một danh từ và hầu hết các định nghĩa đều thừa nhận phái sinh là một loại công cụ tài
chính; số còn lại coi đó là một dạng tài sản hay một loại chứng khoán hoặc hợp đồng. Tuy khác
nhau trong cách diễn đạt và chưa hoàn toàn thống nhất trong mô tả và gọi tên khái niệm này, song
tất cả định nghĩa đều có một điểm chung là giá trị của phái sinh đều được bắt nguồn từ giá trị của


8
các công cụ khác hoặc từ giá trị của các tài sản khác. Theo tác giả, nên hiểu “phái sinh” là một

dạng công cụ vì ngay từ khi ra đời, bản thân “phái sinh” đã trở thành phương tiện giúp cho các đối
tượng sở hữu nó đạt được một mục đích nhất định là phòng ngừa rủi ro về biến động giá cả. Không
nên chỉ xem phái sinh là một dạng tài sản vì nếu như vậy thì phái sinh phải luôn đem lại giá trị
dương về tiền như tất cả các loại tài sản khác, trong khi rõ ràng phái sinh có thể đưa lại giá trị âm.
Phái sinh cũng không hoàn toàn giống như chứng khoán, vì bản chất của hai loại này là khác nhau.
Chứng khoán như cổ phiếu hay trái phiếu ra đời nhằm mục đích huy động hay tăng vốn, trong khi
phái sinh ra đời từ yêu cầu bảo hiểm rủi ro về giá.
CCPS hàm chứa trong nó quyền đối với những lợi ích mà những người sở hữu công cụ
phái sinh nhận được trong tương lai. Một khi công cụ hàm chứa các lợi ích trong tương lai thì sẽ
làm phát sinh các nhu cầu đối với lợi ích đó, như nhu cầu trao đổi, chuyển nhượng và mua bán
CCPS. Như vậy, thị trường CCPS hình thành khi xuất hiện nhiều nhu cầu về trao đổi, chuyển
nhượng, mua bán các CCPS. Lúc này, các CCPS sẽ được thể hiện dưới dạng các hợp đồng, trong
đó quy định cam kết thực hiện nghĩa vụ của một hoặc các bên tham gia hợp đồng. Giá cả của tài
sản cơ sở trong các hợp đồng phái sinh đều được xác định và thỏa thuận trước tại thời điểm ký kết
hợp đồng; tuy nhiên việc thực hiện các cam kết thường được diễn ra sau một khoảng thời gian nhất
định nên giá cả thị trường của các tài sản cơ sở hoặc giá trị các biến số cơ sở khi đó sẽ thay đổi. Sự
thay đổi này sẽ làm thay đổi dòng tiền trong tương lai của các CCPS, hay nói cách khác thu nhập
trong tương lai của các CCPS cũng sẽ thay đổi theo. Nói tóm lại, công cụ phái sinh là một công cụ
tài chính mà thu nhập trong tương lai của nó phụ thuộc vào sự thay đổi của các biến số cơ sở, như
giá của hàng hóa, tỷ giá, lãi suất, chỉ số chứng khoán hay các loại chỉ số khác.
Các CCPS bao gồm những loại cơ bản sau đây: công cụ kỳ hạn (forwards), công cụ hoán
đổi (swaps), công cụ tương lai (futures), công cụ quyền chọn (options).
Công cụ kỳ hạn là công cụ tài chính được áp dụng để mua bán một số lượng nhất định tài
sản cơ sở ở một thời điểm xác định trong tương lai theo một mức giá đã được thỏa thuận trước.
Công cụ tương lai có thể coi là một hình thức đặc biệt của công cụ kỳ hạn, là hình thức chuẩn hóa
của công cụ kỳ hạn được giao dịch trên thị trường có tổ chức. Công cụ tương lai là thỏa thuận mua
bán các tài sản cơ sở trong tương lai với mức giá được xác định trước và khi giao dịch trên thị
trường thì sẽ được thể hiện dưới dạng hợp đồng tương lai. Công cụ hoán đổi được xem là một
chuỗi các thỏa thuận giữa hai bên tham gia để trao đổi các dòng tiền trong tương lai. Trong công cụ
hoán đổi, thông thường một bên sẽ thực hiện thanh toán dòng tiền ngẫu nhiên (random outcome),

bên còn lại có thể thực hiện thanh toán bằng những khoản cố định (fixed payments) hoặc cũng có
thể thanh toán bằng những khoản biến đổi khác (floating or variable payments). Công cụ quyền
chọn là một thỏa thuận trong đó người mua quyền chọn trả cho người bán quyền chọn một khoản
tiền gọi là phí quyền chọn để có quyền lựa chọn (chứ không có nghĩa vụ) về việc mua hay bán một
loại hàng hóa nhất định tại một mức giá xác định vào một thời điểm xác định trong tương lai hoặc
bất cứ lúc nào kể từ ngày ký kết hợp đồng cho đến một thời điểm xác định trong tương lai.
Công cụ phái sinh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Thứ nhất, các công cụ phái
sinh được sử dụng nhằm quản trị rủi ro về giá. Việc tạo ra các công cụ phái sinh đã làm cho các rủi
ro xảy trong tương lai có thể được mua bán, trao đổi. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất
nhập khẩu, các tổ chức tài chính và phi tài chính, các nhà đầu tư có thể sử dụng các công cụ phái


9
sinh, phổ biến như: công cụ kỳ hạn, công cụ tương lai, công cụ hoán đổi... để bảo vệ chính mình
tránh những rủi ro do thay đổi giá nguyên vật liệu, hàng hóa, tỷ giá, lãi suất... nhằm mục đích giảm
thiệt hại đối với các dòng tiền trong tương lai. Chính những lợi ích này trở thành yếu tố quan trọng
giúp các công cụ tài chính phái sinh ngày càng được sử dụng rộng rãi: 92% trong số 500 công ty
lớn nhất thế giới đã sử dụng các công cụ phái sinh để quản trị rủi ro về giá (Deutsche Borse, 2008).
Thứ hai, các công cụ phái sinh được sử dụng nhằm mục đích kinh doanh chênh lệch giá. Nếu giá
của tài sản cơ sở trong các hợp đồng phái sinh không trùng khớp với giá giao ngay của tài sản cơ sở
đó tính theo cùng một thời điểm thì các nhà đầu tư sẽ có cơ hội kinh doanh chênh lệch giá bằng
cách mua với giá thấp và đồng thời bán với giá cao. Thứ ba, các công cụ phái sinh được sử dụng
nhằm mục đích đầu cơ. Mục đích nguyên thủy của các công cụ phái sinh nói chung là phòng ngừa
rủi ro về giá, nhưng đầu cơ mới là mục đích thu hút nhiều thành phần tham gia vào thị trường phái
sinh. Theo thống kê của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), chỉ có một phần rất nhỏ các hợp đồng
tương lai được kết thúc bằng việc giao hàng thực sự, nghĩa là phần lớn các giao dịch tương lai sẽ là
nhằm mục đích kinh doanh chênh lệch giá và đầu cơ. Thứ tư, các công cụ phái sinh được giao dịch
trên thị trường là nguồn thông tin hiệu quả hình thành giá của tài sản cơ sở. Khi các công cụ phái
sinh được giao dịch trên thị trường sẽ hình thành các mức giá của chính các công cụ này và trở
thành nguồn thông tin hiệu quả trong việc xác định giá của tài sản cơ sở. Thông tin giá cả sẽ giúp

cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ: dựa vào cung cầu trên thị trường, người sản xuất cũng như người
tiêu dùng sẽ quyết định sản xuất hoặc tiêu thụ bao nhiêu hàng hóa dựa trên giá thị trường. Thứ
năm, các CCPS giúp tăng cường hiệu quả của thị trường tài chính nói chung. Thị trường phái sinh
giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Các bên tham gia thị trường có cơ hội tiếp cận thông
tin một cách công bằng, do vậy ngăn chặn được tình trạng độc quyền hay lũng đoạn giá và gián tiếp
tăng cường tính hiệu quả của thị trường tài chính nói chung. Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế, các công cụ phái sinh cũng có những mặt hạn chế mà các nhà đầu tư nên cân nhắc
trước khi quyết định tham gia vào các giao dịch phái sinh.
1.2 Thị trường các công cụ phái sinh ngoại hối
Hiểu một cách đơn giản, thị trường là nơi diễn ra việc trao đổi, mua bán hàng hóa. Tuy
nhiên, trên thực tế, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, người mua và người bán không
cần phải gặp gỡ trực tiếp tại một địa điểm nhất định để thỏa thuận về trao đổi hàng hóa, hay nói
cách khác việc mua bán không còn cần đến một nơi cụ thể về mặt địa lý như trước nữa. Do vậy,
khái niệm thị trường không nhất thiết phải gắn với một nơi cụ thể về mặt địa lý để có thể diễn ra
việc trao đổi hay mua bán hàng hóa. Thị trường các công cụ phái sinh có thể được hiểu là cơ chế
hay tập hợp các thỏa thuận về mua bán các lời hứa, các cam kết về việc chuyển giao tài sản và
thanh toán với những điều kiện đã được quy định trước.
Theo nghĩa rộng, ngoại hối là toàn bộ tiền nước ngoài, phương tiện chi trả bằng ngoại tệ,
các chứng từ có giá ghi bằng ngoại tệ, vàng, đá quý (Lê Văn Tư, 2009) hay còn bao gồm cả đồng
nội tệ được sử dụng trong thanh toán quốc (theo Pháp lệnh ngoại hối năm 2006 của Việt Nam). Tuy
nhiên, các phương tiện thanh toán khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với ngoại tệ nên trong phạm vi
luận án này, ngoại hối được hiểu theo nghĩa hẹp là ngoại tệ. Trên cơ sở khái niệm về thị trường
công cụ phái sinh, kết hợp với khái niệm về ngoại hối, ta có thể định nghĩa thị trường các công cụ
phái sinh ngoại hối là thị trường công cụ phái sinh có tài sản cơ sở là ngoại tệ, là cơ chế hay tập


10
hợp các thỏa thuận về mua bán các lời hứa, các cam kết về việc chuyển giao ngoại tệ và thanh
toán với những điều kiện đã được quy định trước.
Các giao dịch được thực hiện trên thị trường phái sinh ngoại hối bao gồm:

Giao dịch kỳ hạn ngoại hối là giao dịch mà hai bên cam kết mua, bán với nhau một lượng
ngoại tệ với một mức tỷ giá xác định ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng và việc giao nhận/thanh
toán sẽ được thực hiện vào một thời điểm xác định trong tương lai.
Giao dịch tương lai ngoại hối là giao dịch mà trong đó 2 bên thỏa thuận mua bán một số
lượng ngoại tệ nhất định theo tỷ giá xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng và việc chuyển giao và
thanh toán ngoại tệ sẽ được thực hiện vào một ngày trong tương lai. Về bản chất, giao dịch tương
lai ngoại hối giống với giao dịch kỳ hạn ngoại hối và được giao dịch trên sàn tập trung.
Công cụ hoán đổi được sử dụng phổ biến trong giao dịch ngoại hối dưới hai hình thức sau:
(1) giao dịch hoán đổi ngoại hối (foreign exhcange swap) và (2) giao dịch hoán đổi tiền tệ
(currency swap). Hoán đổi ngoại hối được hiểu là giao dịch trong đó một bên đồng ý bán cho bên
kia một đồng tiền nhất định tại một thời điểm và đồng thời cam kết mua lại chính đồng tiền đó vào
một thời điểm khác trong tương lai với các mức tỷ giá được thỏa thuận từ trước. Trong giao dịch
hoán đổi ngoại hối sẽ xẩy ra việc trao đổi thực sự giữa hai đồng tiền (chỉ trao đổi số tiền gốc) vào
hai thời điểm thỏa thuận trong hợp đồng với mức tỷ giá đã được xác định và thỏa thuận trước. Như
vậy, hợp đồng hoán đổi ngoại hối bao gồm 2 hợp đồng, có thể kết hợp một hợp đồng ngoại hối giao
ngay với một hợp đồng ngoại hối kỳ hạn (spot – forward swap) hoặc kết hợp hai hợp đồng ngoại
hối kỳ hạn có các ngày giá trị khác nhau (forward –forward swap). Giao dịch hoán đổi tiền tệ là
cam kết của hai bên nhằm trao đổi các dòng lãi suất của các đồng tiền khác nhau trong một thời kỳ
nhất định, đồng thời trao đổi số tiền gốc vào thời điểm đáo hạn của hợp đồng hoán đổi tiền tệ theo
mức giá thỏa thuận trước (BIS, 2015); hoặc có thể số tiền gốc sẽ được trao đổi vào hai thời điểm
xác định trước là lúc bắt đầu thực hiện hợp đồng và lúc đáo hạn hợp đồng (số tiền gốc cho cả hai
đồng tiền phải được xác định sẵn từ trước).
Giao dịch quyền chọn ngoại hối là giao dịch trong đó người mua hợp đồng quyền chọn có
quyền nhưng không có nghĩa vụ phải thực hiện giao dịch đã cam kết với người bán quyền chọn,
trong khi đó bên bán hợp đồng quyền chọn có nghĩa vụ phải thực hiện giao dịch đã cam kết khi bên
mua có yêu cầu theo tỷ giá đã thỏa thuận trước. Để dành quyền chọn mua/bán ngoại hối, người
mua quyền phải trả một khoản chi phí nhất định (premium cost- phí quyền chọn) cho người bán
quyền.
Người mua quyền (holder)- là người bỏ ra chi phí để có được quyền chọn và có quyền yêu
cầu người bán quyền thực hiện quyền chọn theo ý của mình. Người bán quyền (writer)- là người

nhận chi phí mua quyền từ người mua quyền, do vậy, có nghĩa vụ phải thực hiện quyền chọn theo
yêu cầu của người mua quyền. Tỷ giá thực hiện (exercise hay strike rate) – là tỷ giá sẽ được thực
hiện nếu người mua quyền yêu cầu thực hiện quyền chọn. Trong trường hợp quyền chọn mua (Call
Option) tỷ giá thực hiện quyền chọn là tỷ giá tại đó người nắm giữ quyền chọn có quyền mua đồng
tiền cơ sở từ người bán quyền chọn. Trong trường hợp quyền chọn bán (Put Option) tỷ giá thực
hiện quyền chọn là tỷ giá tại đó người nắm giữ quyền chọn có quyền bán đồng tiền cơ sở cho người
bán quyền chọn. Có 2 loại hợp đồng quyền chọn: quyền chọn mua (call options) và quyền chọn bán


11
(put options). Hợp đồng quyền chọn mua là hợp đồng trong đó người mua quyền có quyền, chứ
không phải có nghĩa vụ, mua một số lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn đã được xác
định trước. Hợp đồng quyền chọn bán là hợp đồng trong đó người mua quyền có quyền, chứ không
phải có nghĩa vụ phải bán một lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn được xác định trước.
Tham gia vào thị trường công cụ phái sinh có nhiều chủ thể với nhiều mục đích khác nhau.
Tuy nhiên, các thành phần chính tham gia thị trường có thể kể đến là người phòng vệ rủi ro tỷ giá,
nhà kinh doanh chênh lệch giá hay nhà đầu cơ. Người phòng vệ rủi ro sử dụng các công cụ phái
sinh để hạn chế những rủi ro do các yếu tố thị trường biến động. Mục đích chính của nhóm chủ thể
này không phải là tìm kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng các công cụ phái sinh, mà muốn dùng công
cụ phái sinh nhằm giảm thiểu hoặc phòng tránh rủi ro gặp phải để chắc chắn khoản lợi nhuận mình
kiếm được. Người kinh doanh chênh lệch giá thực hiện cùng lúc 2 hay nhiều giao dịch phái sinh để
tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá giữa các giao dịch đó. Hoạt động kinh doanh chênh lệch giá
hầu như không có rủi ro. Họ tận dụng sự thiếu hiệu quả của thị trường khi cùng lúc, giá của cùng
một loại tài sản khác nhau trên hai hoặc nhiều thị trường. Đây là nhóm người đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động của các thị trường vì họ phát hiện các sự thiếu hiệu quả về giá, giúp cho sự
điều chỉnh được mau chóng và cần thiết. Nhà đầu cơ sử dụng các công cụ phái sinh để đánh cược
với nhận định về sự biến động lên xuống của thị trường. Giao dịch đầu cơ có nhiều rủi ro cho
người thực hiện, nhưng có thể mang lại lợi nhuận rất lớn nếu người sử dụng phán đoán đúng xu
hướng của thị trường. Mục đích sử dụng công cụ phái sinh của họ không phải là phòng ngừa rủi ro
mà nhằm tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên, việc xác định mục đích tham gia thị trường của các chủ thể là

rất khó, vì trong nhiều trường hợp các chủ thể thay đổi mục đích ban đầu từ phòng vệ rủi ro hay
kinh doanh chênh lệch giá sang hoạt động đầu cơ. Các chủ thể tham gia thị trường bao gồm các tổ
chức tài chính, các tổ chức phi tài chính, và các nhà đầu tư cá nhân, các công ty hay tập đoàn.
Theo tính chất tập trung, thị trường công cụ phái sinh được chia thành thị trường tập trung
(the exchange) và thị trường phi tập trung (off-exchange hay OTC). Ngoài ra, có thể chia thị trường
CCPS theo từng loại công cụ: thị trường kỳ hạn, thị trường tương lai, thị trường quyền chọn và thị
trường hoán đổi.
1.3 Các điều kiện phát triển thị trường công cụ phái sinh ngoại hối
(1) Nhu cầu sử dụng công cụ phái sinh ngoại hối
Cũng giống như bất kỳ một thị trường nào khác, điều kiện ra đời và phát triển của thị
trường công cụ phái sinh ngoại hối bắt nguồn từ nhu cầu sử dụng công cụ phái sinh từ người mua
và người bán. Lịch sử ra đời công cụ phái sinh trên thế giới đã cho thấy công cụ này ra đời trước
hết từ nhu cầu của người mua và người bán muốn bảo hiểm rủi ro về giá đối với các tài sản cơ sở.
Dần dần, các công cụ phái sinh được phát triển đa dạng hơn về chủng loại để đáp ứng cả những
nhu cầu về đầu tư, đầu cơ và kinh doanh chênh lệch giá. Ở những nước thị trường tài chính phát
triển mạnh, các nhà đầu tư có thể sử dụng các công cụ phái sinh như là một trong những công cụ
đầu tư hiệu quả.
(2) Tài sản cơ sở
Tài sản cơ sở ngoại hối chính là nền tảng để phát triển thị trường này. Không có thị trường
ngoại hối không thể có thị trường công cụ phái sinh ngoại hối. Giá trị các công cụ phái sinh ngoại


12
hối được đánh giá dựa vào sự biến động tỷ giá giữa các cặp ngoại tệ nên phát triển thị trường ngoại
hối là một phần quan trọng trong phát triển thị trường công cụ phái sinh ngoại hối. Để một thị
trường công cụ phái sinh ngoại hối phát triển, đồng bản tệ của nước đó cũng nhất thiết phải là đồng
tiền có khả năng chuyển đổi cao và được giao dịch nhiều trên thị trường.
(3) Những cơ sở pháp lý cho các giao dịch phái sinh ngoại hối
Bất cứ một thị trường nào cũng đòi hỏi phải có luật lệ điều chỉnh nhằm hướng các hoạt
động của thị trường được minh bạch, công bằng, đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể tham gia. Thị

trường công cụ phái sinh ngoại hối rõ ràng phức tạp và khó quản lý hơn nhiều so với thị trường
ngoại hối, do vậy càng đòi hỏi hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ và thống nhất. Hầu hết các
nước đều có hệ thống các văn bản luật điều chỉnh các giao dịch trên thị trường phái sinh.
Đối tượng giao dịch trên thị trường công cụ phái sinh ngoại hối không đơn thuần là ngoại
tệ mà là các công cụ tài chính thể hiện các quyền liên quan đến mua bán ngoại tệ. Các quyền này
cần phải được luật hóa, cụ thể hơn là, trong các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động phái
sinh cần phải đưa ra định nghĩa rõ ràng về các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ những giao dịch phái
sinh và các cơ chế thực thi. Hơn nữa, đối với những giao dịch phái sinh ngoại hối trên thị trường
tập trung còn có thêm các đối tượng trung gian ngoài người mua và người bán. Hoạt động của các
trung gian cũng phải được giám sát và quy định chặt chẽ để đảm bảo họ thực hiện đúng tất cả các
nghĩa vụ trên thị trường. Trong trường hợp có vi phạm, sàn giao dịch sẽ phải tự điều chỉnh và giám
sát để lành mạnh hóa thị trường và thay mặt chính phủ cung cấp một khung pháp lý toàn diện và
bao quát để giám sát hoạt động phái sinh. Ở Việt Nam, các giao dịch phái sinh ngoại hối do Ngân
hàng Nhà nước trực tiếp quản lý, do vậy, hầu hết các văn bản luật điều chỉnh hoạt động này tại Việt
Nam đều do NHNN ban hành.
(4) Điều kiện vật chất, kỹ thuật và nguồn nhân lực
Cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố quan trọng trong sự phát triển thị trường công cụ phái
sinh, cả tập trung và phi tập trung. Đó bao gồm cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại, đặc biệt là công
nghệ tin học, hệ thống các sàn giao dịch, kho bãi, hệ thống các tiêu chuẩn về hàng hóa, hợp đồng.
Đối với thị trường tập trung, điều kiện trước hết là xây dựng hệ thống sàn giao dịch và tập hợp các
tiêu chuẩn áp dụng cho hợp đồng mẫu được giao dịch trên sàn. Tuy vậy, một điều kiện thuận lợi
trong phát triển thị trường công cụ phái sinh ngoại hối so với các thị trường phái sinh hàng hóa là
không cần phải xây dựng hệ thống kho bãi rộng lớn để lưu giữ các hàng hóa, không cần phát triển
hệ thống dịch vụ logistic hỗ trợ cho việc giao hàng khi kết thúc các hợp đồng giao dịch phái sinh.
Nhưng bù lại, các nhà kinh doanh trên thị trường CCPS ngoại hối lại phải trang bị hệ thống mạng
lưới các máy tính với các phần mềm chuyên dụng về phân tích thị trường, định giá các CCPS ngoại
hối, đồng thời kết nối giao dịch giữa sàn và các thành viên, giữa các sàn với nhau, hệ thống bảng
điện cho biết các giao dịch niêm yết trên thị trường.
Trên thị trường ngoại hối nói chung và thị trường CCPS ngoại hối nói riêng tương đối phức
tạp về kỹ thuật và tương đối mới mẻ đối với các thị trường non trẻ như Việt Nam nên yếu tố nguồn

nhân lực lại càng phải được coi trọng. Do vậy, để phát triển thị trường CCPS ngoại hối cần có được
đội ngũ cán bộ, chuyên viên, các kỹ thuật viên, các thành viên của các sàn giao dịch am hiểu về các
nghiệp vụ phái sinh, có năng lực phân tích phán đoán thị trường tốt, nhạy bén với các thông tin và


13
quan trọng nữa là có nhiệt huyết và đạo đức để không những thực hiện được các giao dịch và còn
kiểm soát tốt các rủi ro cho doanh nghiệp và cho các ngân hàng.
(5) Các công cụ phái sinh ngoại hối
Cũng giống như các công cụ phái sinh với các tài sản cơ sở khác, trong lĩnh vực ngoại hối,
các CCPS cũng bao gồm bốn loại chủ yếu: tương lai, kỳ hạn, hoán đổi và quyền chọn. Ngoài ra,
trên các thị trường phái sinh ngoại hối phi tập trung còn xuất hiện rất nhiều công cụ mới, còn gọi là
các công cụ phái sinh ngoại lai, được xây dựng dựa trên các công cụ cơ bản, nhưng mang những
đặc điểm và tính chất riêng biệt để phù hợp với các nhu cầu cụ thể. Hàng năm, có nhiều loại công
cụ được ra đời hoặc sửa đổi bổ sung và cũng có những công cụ biến mất do không còn phù hợp và
không còn thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng.
1.4 Sự cần thiết phải phát triển thị trường công cụ phái sinh trong điều kiện hội nhập
kinh tế và tài chính quốc tế nói chung và ngoại hối nói riêng tại Việt Nam
Ngày nay, nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đang có xu hướng xích lại gần nhau
thông qua quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế. Không một nước nào có thể phát triển trong thế cô
lập với thế giới, do vậy, các nước đều hướng đến việc mở cửa nền kinh tế, kéo theo sự chu chuyển
của dòng hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các nước. Nhu cầu về trao đổi ngoại hối ngày càng tăng
tạo tiền đề cho sự phát triển của thị trường ngoại hối, tạo sự đa dạng về các tài sản cơ sở cho thị
trường công cụ phái sinh ngoại hối. Trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế
giới từ ngày 11/1/2007, Việt Nam phải thực hiện các cam kết về mở cửa nền kinh tế, trong đó bao
gồm cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính. Cụ thể, trong dịch vụ
ngân hàng, Việt Nam đã đưa ra cam kết mở cửa đối với các lĩnh vực như “ngoại hối, các công cụ tỷ
giá và lãi suất, bao gồm các sản phẩm như hợp đồng hoán đổi, hợp đồng kỳ hạn”. Việt Nam dỡ bỏ
tất cả các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng lai, nới lỏng các giao dịch chuyển vốn của cá nhà đầu
tư nước ngoài và việc vay nước ngoài của tổ chức cư trú và chỉ áp dụng biện pháp quản lý ngoại

hối trong những trường hợp ngoại lệ nhằm duy trì an ninh tài chính và tiền tệ quốc gia. Tỷ giá biến
động theo cung cầu của thị trường sẽ làm gia tăng rủi ro cho các nhà xuất nhập khẩu, nhà đầu tư
cũng như các ngân hàng và buộc họ phải sử dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro mà phổ biến
nhất vẫn là thông qua các công cụ phái sinh ngoại hối. Như vậy, quá trình tự do hóa kiểm soát
ngoại hối sẽ thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển, đồng thời tạo động lực cho thị trường công cụ
phái sinh ngoại hối.
Trong mối quan hệ tương hỗ, các công cụ phái sinh ngoại hối sẽ tạo điều kiện cho Việt
Nam phát triển và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế và tài chính thế giới. Phát triển thị trường công
cụ phái sinh nghĩa là Việt Nam đang đi đúng xu thế của nhiều nước phát triển trên thế giới. Thị
trường công cụ phái sinh ngoại hối trong nước liên thông được với thị trường công cụ phái sinh thế
giới sẽ rút ngắn khoảng cách giữa các nền kinh tế- tài chính, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
cho các ngân hàng trong lĩnh vực cung cấp các sản phẩm phái sinh, đồng thời tạo cơ hội cho các
nhà sản xuất kinh doanh, nhà đầu tư trong nước được tiếp cận với các công cụ phái sinh trên thị
trường thế giới. Bên cạnh đó, trong quá trình hội nhập quốc tế, thị trường công cụ phái sinh ngoại
hối của Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với những khó khăn có nguyên nhân từ bên ngoài, như tác
động của các khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và khu vực, sự biến động của tỷ giá hối đoái
hay lãi suất của ngoại tệ do các cú sốc về kinh tế hay các chính sách quản lý ngoại hối. Việt Nam


14
tiếp tục theo đuổi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có nghĩa vụ thực hiện các
cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng nên vẫn phải tôn trọng và thừa
nhận các yếu tố và quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường, đồng thời không thể nằm ngoài xu
hướng phát triển chung của thị trường công cụ phái sinh ngoại hối thế giới, do vậy, sự hình thành
thị trường công cụ phái sinh tại Việt Nam dù sớm dù muộn cũng là một thực tế khách quan.
Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp XNK tham gia trên thị trường phần lớn không nhằm
mục đích bảo hiểm rủi ro tỷ giá, một mặt vì ý thức của doanh nghiệp Việt Nam về biến động và
phòng ngừa rủi ro tỷ giá chưa cao; mặt khác, do quy định và sự giám sát chặt chẽ của NHNN về tỷ
giá và biên độ giao động tỷ giá nên các doanh nghiệp XNK chỉ tham gia thị trường với hoạt động
mua bán ngoại tệ dựa trên các khoản thanh toán phát sinh từ hợp đồng cơ sở tức hợp đồng ngoại

thương. Trên thị trường ngoại hối Việt Nam, đối tượng tham gia chủ yếu là các ngân hàng thương
mại được phép kinh doanh ngoại hối. Các ngân hàng thương mại Việt Nam đóng vai trò là nhà tạo
thị trường, sẽ luôn sẵn sàng yết giá mua bán ngoại tệ hai chiều để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của
khách hàng. Hoạt động này sẽ tạo ra lợi nhuận cho các ngân hàng dựa trên chênh lệch giá mua và
giá bán ngoại tệ. Bên cạnh đó, bản thân các ngân hàng thương mại cũng có nhu cầu tham gia vào
các công cụ phái sinh tiền tệ- lãi suất nhằm mục đích cân đối lại trạng thái ngoại hối, giảm rủi ro
khi lãi suất hay tỷ giá biến động. Theo kết quả phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực phái sinh
tại một số NHTM Việt Nam, hiện nay tỷ trọng doanh số giao dịch phái sinh ngoại hối, tiền tệ tại
các ngân hàng thương mại ngày một tăng cao và chiếm khoảng 10-20% các giao dịch tiền tệ cơ sở;
trong đó khách hàng là các ngân hàng thương mại khác vẫn chiếm tỷ lệ khá cao (Nguyễn Thị
Quỳnh Nga, 2014). Hiện nay, các quy định liên quan đến giao dịch phái sinh tiền tệ, lãi suất, ngoại
hối đều chưa thừa nhận các mục đích khác ngoài mục đích phòng vệ rủi ro cho các đối tượng tham
gia; nhưng tương lai Việt Nam phải tính đến xu hướng đầu tư thông qua các công cụ phái sinh tiền
tệ, lãi suất, ngoại hối.
Với sự phát triển mạnh mẽ của công cụ phái sinh phái sinh trên thị trường tài chính quốc tế
và với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển hoạt động ngân hàng Việt Nam theo hướng
hiện đại, các công cụ phái sinh đã từng bước xuất hiện tại thị trường Việt Nam: Đầu tiên là một số
công cụ phái sinh tiền tệ (kỳ hạn, hoán đổi), tiếp đến là công cụ phái sinh lãi suất (hoán đổi, quyền
chọn), công cụ phái sinh hàng hóa và gần đây là công cụ phái sinh tín dụng. Nhu cầu phát triển
công cụ phái sinh tại thị trường Việt Nam ngày càng đa dạng hơn. Trong quá trình thực hiện, các
ngân hàng được phép cung cấp công cụ phái sinh đã xây dựng quy trình nghiệp vụ và biện pháp
phòng ngừa rủi ro và ký kết hợp đồng khung với đối tác ở nước ngoài để thực hiện đối ứng các giao
dịch đã cung cấp cho khách hàng; định kỳ hàng tháng báo cáo NHNN về tình hình thực hiện sản
phẩm. Việc cung cấp sản phẩm phái sinh của các ngân hàng thương mại thời gian qua, về cơ bản
đạt hiệu quả và đảm bảo an toàn sẽ là nền tảng cho việc phát triển công cụ phái sinh tiền tệ trong
thời gian tới.


15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH

NGOẠI HỐI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.1 Thực trạng phát triển thị trường công cụ phái sinh ngoại hối trên thế giới
Giá trị giao dịch trung bình hàng ngày của thị trường giao dịch phái sinh ngoại hối năm
2013 đã đạt 6.671 tỷ USD, tăng gần 3 lần so năm 2004 và gấp 1,5 lần so với năm 2007. Điều này
cho thấy thị trường công cụ phái sinh ngoại hối hoạt động rất nhộn nhịp với tốc độ phát triển chung
khá cao. Trong đó, dẫn đầu là thị trường Anh với doanh số 1.263 tỷ USD mỗi ngày, chiếm gần
19% doanh số toàn thị trường. Tuy vậy, nếu xét riêng trên từng thị trường bộ phận (tập trung và phi
tập trung), tỷ trọng và thứ tự của giao dịch phái sinh ngoại hối không giống nhau.
Thị trường giao dịch phái sinh ngoại hối tập trung có doanh số rất khiêm tốn so với các thị
trường khác như lãi suất (chiếm tỷ trọng áp đảo trên 90%) hay chỉ số chứng khoán và chỉ chiếm
khoảng 2% giá trị các hợp đồng giao dịch trong kỳ trong giai đoạn từ 2008-2014. Năm 2008, thị
trường công cụ phái sinh ngoại hối (xét theo giá trị danh nghĩa) đạt giá trị nhỏ nhất, điều này có thể
do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ. Tuy nhiên, quy mô của thị trường
giao dịch phái sinh ngoại hối ngay sau đó đã tăng lên và đạt 314,4 tỷ USD vào năm 2010. Xu
hướng tăng tiếp tục trong giai đoạn từ 2011-2013 với tốc độ trung bình khoảng 10%/năm và giảm
nhẹ vào năm 2014, đạt 377,2 tỷ USD. Trên thị trường phái sinh OTC toàn cầu, xét cả ở hai chỉ số
giá trị danh nghĩa và giá trị thị trường, phái sinh ngoại hối đứng vị trí thứ hai sau phái sinh lãi suất
(phái sinh lãi suất luôn chiếm tỷ trọng áp đảo, khoảng 60-70%). Tính đến cuối tháng 12 năm 2014,
giá trị danh nghĩa của các hợp đồng ngoại hối đạt gần 76 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 12% thị
trường phái sinh OTC và cũng là giá trị cao nhất trong cả giai đoạn 2008-2014. Trong giai đoạn
2008-2014, giá trị thị trường của các công cụ phái sinh ngoại hối vào năm 2008 với 4.084 tỷ USD,
mặc dù vào năm này giá trị danh nghĩa chỉ là 50.043 tỷ USD so với 2.495 tỷ USD giá trị thị trường
và 75.880 giá trị danh nghĩa của năm 2014 (BIS, 2015a). Điều này thể hiện thị trường công cụ phái
sinh ngoại hối năm 208 ẩn chứa nhiều bất ổn và rủi ro. Sau khủng hoảng tài chính, các CCPS nói
chung và CCPS ngoại hối nói riêng ít bất ổn hơn, thể hiện tỷ lệ giữa giá trị thị trường và giá trị
danh nghĩa nhỏ hơn so với giai đoạn khủng hoảng. Xét theo cơ cấu công cụ phái sinh ngoại hối, các
hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi ngoại hối chiếm gần một nửa giá trị danh nghĩa của tất cả hợp đồng
ngoại hối còn hiệu lực. Năm 2014, giá trị thị trường của công cụ hoán đổi tiền tệ là 1.351 tỷ USD,
trong khi giá thị thị trường của toàn bộ công cụ phái sinh ngoại hối là 2.945 tỷ USD (BIS, 2015a).
Trên thị trường CCPS ngoại hối, nhóm khách hàng phi tài chính chiếm khoảng 12,7% so

với 87,3% của nhóm khách hàng tài chính (BIS, 2015a). Tuy tỷ trọng sử dụng công cụ phái sinh
của nhóm khách hàng phi tài chính không tăng so với nhóm khách hàng tài chính, nhưng số lượng
các công ty sản xuất, kinh doanh sử dụng các công cụ phái sinh vẫn ngày một tăng khi mà sự biến
động trên thị trường tài chính xảy ra thường xuyên và liên tục hơn (Bodnar, 2011). Theo số liệu
thống kê, các doanh nghiệp ở các nước phát triển như Nhật Bản, Úc, Anh, Mỹ vẫn là những nước
có tỷ lệ sử dụng các CCPS cao nhất thế giới. Còn nếu xét theo loại hình doanh nghiệp, có khoảng
78% doanh nghiệp tài chính sử dụng công cụ phái sinh; con số này ở các doanh nghiệp phi tài
chính là 56% (Bodnar, 2011), trong đó, doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên vật liệu chiếm 71%,
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa 67%, và cuối cùng là doanh nghiệp dịch vụ, chiếm 46%.


16
Hệ thống các văn bản pháp lý điều chỉnh giao dịch phái sinh nói chung và ngoại hối nói
riêng được coi là điều kiện quan trọng trong việc thúc đẩy và đảm bảo sự phát triển ổn định của hệ
thống thị trường các công cụ phái sinh của mỗi nước. Nghiên cứu cho thấy, ở những nước có thị
trường CCPS phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Úc, Anh đều có hệ thống pháp luật chặt chẽ và cập
nhật để luôn phù hợp với những biến động trên thị trường. Hầu hết các nước đều nhắm đến việc
tăng cường giám sát và giải quyết vấn đề rủi ro hệ thống đối với khu vực tài chính-ngân hàng, tăng
cường quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng và lĩnh vực giám sát, đảm bảo tính minh
bạch và hạn chế rủi ro đối với các CCPS. Ngoài ra, nhóm nước G20 (trong đó có Anh, Mỹ, Nhật
Bản, Úc, Canada...) đã ký thỏa thuận về việc sẽ tăng cường giám sát thị trường CCPS nói chung và
thị trường CCPS phi tập trung nói riêng để đảm bảo sự phát triển bền vững cho toàn thị trường.
2.2. Thị trường công cụ phái sinh ngoại hối của một số nước
Mục đích của tác giả khi chọn phân tích 3 thị trường này là nhằm tìm kiếm sự đa dạng
trong quá trình xây dựng và vận hành các thị trường hiện tại của các nước, từ nước có thị trường
công cụ phái sinh lâu đời như Nhật Bản, đến nước cũng đã có thị trường công cụ phái sinh và đạt
được những thành công nhất định như Ấn Độ và cuối cùng là xem xét có thị trường CCPS khá non
trẻ như trường hợp Trung Quốc. Ngoài ra, trong các bài học kinh nghiệm rút ra từ việc phân tích sự
hình thành và phát triển của các thị trường Nhật Bản, Ấn Độ hay Trung Quốc đều đi từ giai đoạn
mới hình thành đến giai đoạn phát triển về sau. Một số bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt

Nam:
Thứ nhất, dù tôn trọng quy luật của thị trường, nhưng Nhà nước vẫn phải đóng then chốt và
chủ đạo trong việc thúc đẩy sự phát triển thị trường công cụ phái sinh thông qua việc ban hành các
văn bản pháp luật kịp thời để phù hợp với bối cảnh và điều kiện phát triển kinh tế của mỗi nước
trong từng thời kỳ.
Thứ hai, tùy điều kiện kinh tế và từng giai đoạn phát triển của từng nước để ưu tiên phát
triển thị trường công cụ phái sinh đối với từng tài sản cơ sở cụ thể và từng loại CCPS cụ thể. Tuy
vậy, vẫn phải đa dạng các CCPS để có thể thỏa mãn được tất cả các nhu cầu của khách hàng. Chú
trọng phát triển thị trường tài sản cơ sở để làm tiền đề cho phát triển thị trường CCPS. Thứ ba, thị
trường CCPS vừa là thị trường tự do, vừa là thị trường chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp
luật. Phải dung hòa được hai đặc điểm này, do vậy, phải xác lập một khuôn khổ quản lý và pháp lý
toàn diện, nhất quán, tăng cường tính minh bạch và công khai để thị trường công cụ phái sinh phát
triển và tăng trưởng hiệu quả. Đặc biệt, chú trọng ngay từ đầu việc quản lý thị trường công cụ phái
sinh phi tập trung vì tính phức tạp và đa dạng của nó. Thứ tư, chú trọng đến việc đào tạo các
chuyên gia về công cụ phái sinh và ban hành các quy định nhằm giúp thị trường vận hành trơn tru
và hiệu quả. Đối với các thị trường công cụ phái sinh được coi là non trẻ, các cơ quản quản lý
không khuyến khích, thậm chí hạn chế hoạt động giao dịch phái sinh nhằm mục đích đầu cơ mà
thay vào đó là thúc đẩy mạnh mục đích phòng vệ rủi ro về giá.
Qua nghiên cứu thị trường CCPS ngoại hối thế giới và một số trường hợp điển hình, Việt
Nam nên lựa chọn CCPS là kỳ hạn để ưu tiên phát triển trước. Như trường hợp của Trung Quốc,
trong thời kỳ đầu mới hình thành thị trường nước này đã chọn các công cụ phái sinh đơn giản như
công cụ kỳ hạn đối với thị trường phi tập trung và công cụ tương lai đối với thị trường tập trung,
rồi sau đó mới tính đến việc triển khai áp dụng các công cụ phái sinh phức tạp hơn như quyền


17
chọn, hoán đổi và các công cụ lai tạo khác. Ngoài ra, để thực sự thúc đẩy nhu cầu sử dụng CCPS,
bản thân các doanh nghiệp phải thay đổi nhận thức về CCPS trên cơ sở đó xây dựng triết lý kinh
doanh mới về vấn đề đầu tư. Một trong những tính chất của thị trường công cụ phái sinh là “đánh
cược” vào sự biến động giá trong tương lai dựa trên dự đoán; trong khi đó bản thân việc dự đoán

luôn có xác suất đúng, nên kết quả thu được từ việc tham gia giao dịch tương lai có thể rơi vào
trạng thái lãi hoặc lỗ. Chính vì vậy, tính chất “gambling” (đánh bạc) của thị trường công cụ phái
sinh là khó tránh khỏi và thậm chí còn rõ rệt hơn nhiều so với mua bán hàng hóa trên thị trường cơ
sở. Điều này đòi hỏi việc tuyên truyền một triết lý kinh doanh mới: “đầu tư chứ không phải cờ
bạc”, nhất là tại các nước không cho phép loại hình casino tồn tại phổ biến.
2.3. Thực trạng phát triển thị trường các công cụ phái sinh ngoại hối tại Việt Nam
Thị trường CCPS ngoại hối Việt Nam vẫn mới chỉ phát triển ở mức độ thấp. Nhiều doanh
nghiệp vẫn còn khá lạ lẫm với các công cụ phái sinh và hầu hết các doanh nghiệp chưa từng sử
dụng các công cụ này, mặc dù xét về mặt lịch sử phát triển, các CCPS đã manh nha xuất hiện ở thị
trường tài chính-tiền tệ Việt Nam từ những năm 90 của thế kỷ trước. Các CCPS ngoại hối tại Việt
Nam hầu hết được bắt đầu áp dụng từ những chương trình triển khai áp dụng thí điểm của Ngân
hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại. Trên thị trường ngoại hối Việt Nam các giao
dịch giao ngay vẫn chiếm tỷ trọng hoàn toàn áp đảo, trên 90% doanh số giao dịch toàn thị trường,
trong khi các giao dịch phái sinh chiếm chưa tới 10%. Năm 2011, thị trường CCPS ngoại hối tại
Việt Nam có mức độ tăng trưởng cao nhất, tăng 26,7% so với doanh số năm trước, nhưng cũng chỉ
chiếm khoảng 9,5% tổng giá trị của thị trường. Điều này hoàn toàn trái ngược với thực trạng hoạt
động của thị trường ngoại hối trên thế giới, nơi các giao dịch phái sinh chiếm tới hơn 60%. CCPS
kỳ hạn được đánh giá là CCPS đơn giản nhất, dễ dàng áp dụng nhất và theo nghiên cứu về sự phát
triển của các công cụ phái sinh nhiều nước trên thế giới thì công cụ kỳ hạn thường ra đời sớm hơn
cả.
Tại Việt Nam, từ những năm 90 của thế kỷ trước, CCPS kỳ hạn đã được áp dụng trong
giao dịch tiền tệ tại các NHTM. Vào thời điểm đó, chưa có văn bản pháp lý cụ thể nào quy định về
các giao dịch kỳ hạn ngoại hối, nhưng các ngân hàng vẫn thực hiện các giao dịch này dựa trên quy
định tại điều 7, Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 về việc các ngân hàng được phép kinh doanh
sản phẩm tiền tệ. Công cụ kỳ hạn và hoán đổi là phổ biến nhất trong các các giao dịch phái sinh đối
với tài sản cơ sở là tiền tệ đang triển khai tại các NHTM, trong đó, tỷ trọng giá trị các hợp đồng kỳ
hạn tiền tệ so với hoán đổi tiền tệ vẫn có phần trội hơn, đặc biệt là vào các năm 2008 (68,7%), năm
2011 (78%). Các nghiệp vụ khác như quyền chọn tiền tệ, tương lai tiền tệ và hoán đổi lãi suất chỉ
được thực hiện tại một số ngân hàng, doanh số giao dịch không cao và tần suất không đều đặn và
liên tục. Hiện tại, công cụ quyền chọn chỉ áp dụng giữa ngoại tệ với ngoại tệ, chứ chưa được áp

dụng giữa ngoại tệ với nội tệ. Việc ngừng thí điểm quyền chọn nội tệ tại Việt Nam bắt đầu từ năm
2009 và cũng chưa biết chính xác thời điểm nào thì các NHTM sẽ được tiếp tục triển khai trở lại
công cụ phái sinh quyền chọn nội tệ.
Thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả nhất định:
Thứ nhất, thị trường công cụ phái sinh ngoại hối Việt Nam mới manh nha hình thành, còn
rất non trẻ, nhưng nếu so với các thị trường khác như phái sinh hàng hóa hay chứng khoán thì vẫn
có những bước tiến đáng kể.


18
Thứ hai, dù chưa đầy đủ và hoàn chỉnh, nhưng hiện tại ở hầu hết các thị trường phái sinh
bộ phận đều đã có các văn bản pháp quy đầu tiên quy định và điều chỉnh các giao dịch phái sinh.
Thứ ba, thị trường CCPS ngoại hối và lãi suất phát triển khá sôi động.
Thứ tư, một số ngân hàng đã mạnh dạn triển khai một số sản phẩm phái sinh mới, như kỳ
hạn lãi suất (Ngân hàng Techcombank), kỳ hạn và hoán đổi giá cả hàng hóa (Ngân hàng MB), cung
cấp dịch vụ môi giới công cụ tương lai ngoại tệ (Ngân hàng VCB).
Bên cạnh đó, sau hơn 10 năm được cấp phép chính thức và hợp pháp, thị trường vẫn bộc lộ
những bất cập và hạn chế cần khắc phục để thúc đẩy hơn nữa việc sử dụng các công cụ tài chính
phái sinh trong tương lai tại Việt Nam.
Thứ nhất, tỷ trọng giao dịch phái sinh vẫn chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trên thị trường ngoại
hối Việt Nam, chưa đầy 10% ngay cả thời điểm năm 2011 khi doanh số giao dịch đạt giá trị lớn
nhất.
Thứ hai, qua phân tích ở trên cho thấy, thị trường các công cụ phái sinh Việt Nam nhìn
chung mới chỉ dừng lại ở việc tạo ra sản phẩm, chứ chưa thúc đẩy được việc sử dụng các sản phẩm.
Thứ ba, các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ và CCPS chậm thay đổi,
chưa tương thích với thay đổi của thị trường.
Thứ tư, thị trường thiếu tính thanh khoản do số lượng các chủ thể tham gia thị trường còn
hạn chế.
Thứ năm, các CCPS ngoại hối đã triển khai tại một số NHTM Việt Nam chưa phong phú,
chưa đa dạng, chưa tạo nhiều tiện ích nên chưa hấp dẫn đối với khách hàng, vì vậy số lượng khách

hàng là DN tham gia còn khá khiêm tốn.
Thực trạng này là do một số nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, Việt Nam vẫn duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết thông qua các biên độ
biến động tỷ giá, do vậy, việc sử dụng công cụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro về biến động giá
không còn mang nhiều ý nghĩa thực tiễn.
Thứ hai, tâm lý e ngại tìm hiểu các công cụ tài chính mới của các doanh nghiệp.
Thứ ba, các chuyên gia các NHTM Việt Nam đều cho rằng, hiện nay vẫn phổ biến tâm lý
sợ bị truy cứu trách nhiệm khi áp dụng các công cụ phòng ngừa nhưng không thành công và coi
đây là một trong những trở ngại lớn để các NHTM có thể triển khai đưa các CCPS đến với các DN.
Thứ tư, mức độ hiểu biết về CCPS của các chủ thể tham gia thị trường cũng không đồng
đều và chưa cao.
Thứ năm, dù NHNN liên tiếp ban hành các văn bản pháp luật mới nhằm điều chỉnh hoạt
động giao dịch ngoại hối phái sinh nhưng nhiều quy định trong đó lại chưa hướng đến mục tiêu là
nhằm phát triển thị trường mà chủ yếu để nhằm ổn định thị trường.


19
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÁC
CÔNG CỤ PHÁI SINH NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM
3.1. Dự báo quy mô và xu hướng phát triển thị trường công cụ phái sinh ngoại hối
Tác giả sử dụng số liệu thống kê của Ngân hàng thanh toán quốc tế BIS về thị trường
CCPS ngoại hối từ năm 1998 đến năm 2014 và thông qua mô hình ARIMA để dự báo quy mô thị
trường CCPS ngoại hối trên thế giới đến năm 2020. Kết quả dự báo cho thấy quy mô thị trường
công cụ phái sinh tập trung sẽ đạt 487,71 tỷ USD vào năm 2015 và đến năm 2020 sẽ đạt khoảng
510 tỷ USD. Tương tự, theo kết quả dự báo, tổng giá trị các hợp đồng còn hiệu lực trên thị trường
công cụ phái sinh phi tập trung vào năm 2015 sẽ đạt xấp xỉ 77.027 tỷ USD và đến năm 2020 sẽ là
một thị trường khổng lồ với doanh số đạt gần 100.000 tỷ USD. Xu hướng chung của thị trường
CCPS ngoại hối thế giới đến năm 2020 là tăng trưởng đều.
Thị trường công cụ phái sinh tại Việt Nam mới chỉ manh nha hình thành và phát triển ở
mức độ thấp, số liệu thống kê về các giao dịch phái sinh ngoại hối chưa được thống kê một cách

liên tục trong nhiều năm nên tác giả không thể tiến hành dự báo cho thị trường công cụ phái sinh
Việt Nam bằng mô hình ARIMA như trường hợp thị trường CCPS ngoại hối thế giới. Số liệu thống
kê mà tác giả thu thập được từ năm 2008 đến năm 2014 về quy mô các giao dịch phái sinh ngoại
hối của các NHTM tại Việt Nam cho thấy, thị thường CCPS ngoại hối đang trong xu hướng tăng
trưởng, tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng chưa cao và chưa ổn định. Do vậy, tác giả dự báo quy mô thị
trường dựa trên kết quả phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực phái sinh ngoại hối tại các NHTM
Việt Nam. Theo các chuyên gia, tốc độ trưởng của thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam vẫn ở
mức thấp, khoảng 5-10%/năm. Quy mô giao dịch phái sinh ngoại hối tại Việt Nam năm 2014 đạt
98.788 tỷ VND (tổng hợp theo các báo cáo tài chính hợp nhất của các NHTM). Như vậy, dự báo
đến năm 2020, quy mô các giao dịch phái sinh ngoại hối tại Việt Nam ước đạt từ 123.485 tỷ VND
đến 148.182 tỷ VND.
Ngoài ra, tác giả cũng nhận thấy 3 xu hướng phát triển thị thị trường CCPS ngoại hối đó là:
(1) thị trường công cụ phái sinh ngoại hối phi tập trung vẫn sẽ là trung tâm của thị trường phái sinh
ngoại hối toàn cầu; (2) xu hướng hợp nhất các thị trường công cụ phái sinh; (3) xu hướng tiêu
chuẩn hoá sản phẩm trên thị trường công cụ phái sinh.
3.2. Quan điểm phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam
Vấn đề phát triển thị trường ngoại hối đã được nhấn mạnh trong văn kiện của Đảng: “Tiếp
tục hoàn thiện thể chế về tiền tệ, tín dụng và ngoại hối. Từng bước mở cửa thị trường dịch vụ ngân
hàng phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nước và cam kết quốc tế; phát huy vai
trò chủ động điều hành chính sách, quản lý thị trường tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và thanh tra, giám
sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô và góp phần tăng
trưởng kinh tế;...” “... Điều hành chính sách lãi suất, tỉ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường
(trích Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020). Ngoài ra, trong Đề án phát triển thị trường
CKPS cũng nêu rõ, về dài hạn các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ cũng sẽ được tập trung giao
dịch thống nhất trên Sở giao dịch chứng khoán với các CCPS chứng khoán và hàng hóa. Đây thực


20
sự là một bước tiến dài của Việt Nam trong nỗ lực xây dựng thị trường công cụ phái sinh chứng
khoán nói riêng và hệ thống thị trường công cụ phái sinh nói chung.

3.3. Phân tích các điều kiện phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam
Qua phần phân tích về các điều kiện phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam, tác
giả rút ra một số nhận xét như sau:
(1) Nhu cầu về các công cụ phái sinh: Theo kết quả khảo sát 49,5% doanh nghiệp cho
rằng, họ không tiếp cận được với các công cụ phái sinh là do các ngân hàng và các doanh nghiệp
cung cấp không quảng bá về các công cụ này, chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nguyên nhân khách
quan, mặc dù các chuyên gia của các ngân hàng được phỏng vấn đều khẳng định đã làm tốt công
tác quảng bá cho công cụ phái sinh. Điều này có nghĩa rằng, các ngân hàng cần đánh giá lại hiệu
quả thực sự của hoạt động quảng bá các sản phẩm phái sinh đến các khách hàng và cần có những
bước cải tiến tích cực hơn.
(2) Tài sản cơ sở: Tài sản cơ sở cho các công cụ phái sinh ngoại hối chính là các ngoại tệ
tự do chuyển đổi và đây cũng là điều kiện quan trọng để đa dạng các công cụ phái sinh và phát
triển thị trường CCPS ngoại hối. Thị trường CCPS ngoại hối phát triển phải được dựa trên nền tảng
thị trường ngoại hối cơ sở phát triển. Trên thị trường ngoại hối giao ngay và trong hoạt động thanh
toán quốc tế, tỷ trọng giao dịch với đô la Mỹ vẫn chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 60%. Ngoài các ngoại tệ
tự do chuyển đổi, đồng Việt Nam cũng được sử dụng trong các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi,
nhưng vẫn còn bị hạn chế trong nhiều trường hợp như giao dịch trái chiều giữa NHNN và NHTM
hay trong giao dịch quyền chọn.
(3) Điều kiện về thể chế, pháp lý: Thể chế kinh tế thị trường là điều kiện tiên quyết cho
việc hình thành nhu cầu giao dịch các sản phẩm phái sinh khác nhau. Thị trường chứng khoán nói
chung và thị trường hợp đồng tương lai nói riêng là thuộc tính của nền kinh tế thị trường. Kinh tế
thị trường với những hệ giá trị và quy luật kinh tế của nó sẽ là nền tảng quan trọng nhất để hình
thành một cách tự phát hoặc có tổ chức nhu cầu giao dịch tương lai đi kèm với những đặc trưng
vốn của của loại hình thị trường này. Vì thế, việc tiếp tục kiên trì thúc đẩy và hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường sẽ tạo ra môi trường sống cho thị trường CCPS.
(4) Điều kiện vật chất, kỹ thuật và nguồn nhân lực: Hiện nay, điều kiện cơ sở vật chất, nền
tảng công cụ thông tin tại các NHTM Việt Nam cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao dịch phái sinh.
Theo kết quả khảo sát, điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin- kỹ thuật hiện nay chưa đáp
ứng được nhu cầu phát triển giao dịch phái sinh qua sàn giao dịch. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực
kinh doanh phái sinh ngoại hối tại các NHTM của Việt Nam vẫn còn hạn chế về kiến thức chuyên

môn và kinh nghiệm thực tiễn.
(5) Các công cụ phái sinh: Các CCPS chưa đa dạng và nhiều như trên thị trường thế giới,
tuy vậy, bước đầu các CCPS đã hình thành đủ để đáp ứng những nhu cầu đầu tiên của các DN, như
công cụ kỳ hạn, hoán đổi, tương lai, quyền chọn. Công cụ kỳ hạn và hoán đổi khá phổ biến trên thị


21
trường CCPS tiền tệ, lãi suất, ngoại hối; trong khi công cụ tương lai và quyền chọn được sử dụng
rất hạn chế.
3.4. Các giải pháp nhằm phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam
Giải pháp 1: Các NHTM cần chú trọng việc quảng bá và giới thiệu các công cụ phái sinh
đến các doanh nghiệp
Theo kết quả khảo sát của tác giả, không phải các doanh nghiệp Việt Nam không có nhu
cầu áp dụng các công cụ này, mà chủ yếu là do không doanh nghiệp không có thông tin về các
công cụ phái sinh cũng như chưa hiểu được bản chất của công cụ. Nguyên nhân khách quan cho
tình hình này là các ngân hàng và doanh nghiệp cung cấp chưa chú trọng đến công tác quảng bá và
chia sẻ thông tin về các công cụ phái sinh. Về phía các ngân hàng cung cấp các công cụ phái sinh,
cần tăng cường giới thiệu- giải thích- thuyết trình cho khách hàng về lợi ích và cả những hạn chế
của các sản phẩm phái sinh; tư vấn về việc áp dụng các sản phẩm phái sinh trong từng trường hợp
cụ thể khi khách hàng cần công cụ để phòng ngừa rủi ro.
Giải pháp 2: Các NHTM cần đa dạng hóa cơ cấu các sản phẩm phái sinh
Hiện nay, trên thị trường CCPS ngoại hối Việt Nam chủ yếu phổ biến hai công cụ là kỳ
hạn và hoán đổi, trong khi đó công cụ quyền chọn được áp dụng rất hạn chế. Để khắc phục tình
trạng này, các NHTM có thể nghiên cứu, đề xuất với NHNN cho phép lựa chọn để triển khai các
quyền chọn ngoại lai phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam và phù hợp với nhu cầu của các
nhà phòng vệ rủi ro hoặc các nhà đầu tư.
Giải pháp 3: Các NHTM chú trọng phát triển nguồn nhân lực
Do đặc thù của lĩnh vực hoạt động kinh doanh ngoại hối phái sinh, yêu cầu cán bộ, nhân
viên kinh doanh tại các ngân hàng không chỉ có chuyên môn về các nghiệp vụ, không chỉ năng
động, nhạy bén, am hiểu thị trường tài chính, mà còn phải là những con người có đạo đức nghề

nghiệp, trung thực trong kinh doanh. Vì vậy các NHTM cần phải: quan tâm đến công tác tuyển
dụng nhân sự; tổ chức các lớp đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, thông qua các khóa học đào tạo
ngắn hạn trong và ngoài nước để vừa nâng cao trình độ vừa tạo ra cơ hội làm quen với môi trường
kinh doanh và hiện đại của thị trường phái sinh quốc tế; có chính sách đãi ngộ thích đáng để thu hút
và giữ chân nhân tài; thường xuyên bồi dưỡng nhận thức và nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho các
nhân viên.
Giải pháp 4: Hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
Các ngân hàng có thể học hỏi cách xây dựng hệ thống thông tin từ những ngân hàng nước
ngoài, mua thêm các trang thiết bị hệ thống máy tính liên lạc hay ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến
mới nhất, thiết lập các phần mềm quản lý dữ liệu phù hợp với từng ngân hàng để hỗ trợ cho ngân
hàng trong việc ra quyết định và tư vấn cho khách hàng các thông tin cần thiết về các sản phẩm
phái sinh.
Giải pháp 5: Các NHTM cần tăng cường quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối


22
Song song với việc chuẩn hóa mô hình, cơ cấu tổ chức và quy trình hoạt động của phòng
kinh doanh ngoại tệ, để các NHTM có thể áp dụng tích cực các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh, bản
thân các ngân hàng cần có chính sách quản trị rủi ro hoạt động kinh doanh ngoại tệ một cách hiệu
quả.
Giải pháp 6: Đẩy mạnh các dịch vụ ngân hàng liên quan đến ngoại tệ
Thực hiện giao dịch phái sinh ngoại hối chỉ là một trong những nghiệp vụ kinh doanh của
NHTM và nó có mối quan hệ mật thiết với các nghiệp vụ khác như nghiệp vụ giao ngay, nghiệp vụ
thanh toán quốc tế, nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán. Do vậy nếu đẩy mạnh các dịch vụ ngân hàng
liên quan đến ngoại tệ sẽ gián tiếp giúp khách hàng sử dụng các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh của
ngân hàng nhiều hơn.
Giải pháp 7: Các doanh nghiệp sử dụng cần chủ động và tích cực tìm hiểu về các công cụ
phái sinh
Theo kết quả khảo sát của tác giả, nhiều doanh nghiệp còn chưa biết đến khái niệm CCPS
chứ chưa nói đến có hiểu biết về các ứng dụng của công cụ trong phòng vệ rủi ro về tỷ giá và lãi

suất. Do vậy, bản thân các doanh nghiệp phải thực sử chủ động và tích cực trong việc tìm hiểu và
cập nhật các kiến thức về CCPS nhằm phòng vệ rủi ro cho chính doanh nghiệp của mình; làm đa
dạng các chủ thể tham gia thị trường, tăng tính thanh khoản cho thị trường; đồng thời góp phần
thúc đẩy thị trường CCPS ngoại hối của Việt Nam phát triển.
Giải pháp 8: Cần thay đổi quan niệm về “lỗ” trên thị trường công cụ phái sinh
Cần có phương pháp đánh giá theo thông lệ quốc tế về “lãi” và “lỗ” trên thị trường công cụ
phái sinh để các DN Nhà nước có thể tham gia tích cực vào thị trường công cụ phái sinh, thúc đẩy
tính thanh khoản của thị trường.
3.5. Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường công cụ phái sinh ngoại hối tại Việt
Nam
Ngoài ra, tác giả cũng đã đề xuất một số kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước như hoàn
chỉnh các văn bản pháp lý điều chỉnh các giao dịch phái sinh, cụ thể như nới rộng hoặc dỡ bỏ kỳ
hạn tối đa của hợp đồng kỳ hạn, cho phép các ngân hàng thương mại tự xác định tỷ giá kỳ hạn, xem
xét mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng giao dịch hoán đổi ngoại hối giữa NHTM và các DN, mở
rộng kỳ hạn giao dịch và hạn mức doanh số giao dịch quyền chọn so với quy định thí điểm, cho
phép các tổ chức tín dụng khác ngoài ngân hàng thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ nhằm gia
tăng số lượng các nhà cung cấp, nâng cao tính cạnh tranh cho thị trường. Ngoài ra, NHNN cần đẩy
nhanh việc nới rộng biên độ giao động và tiến đến áp dụng chế độ tỷ giá, chế độ lãi suất linh hoạt
và tự do, xây dựng hành lang quản lý rủi ro về trạng thái ngoại hối mở tại các NHTM theo chuẩn
và thông lệ quốc tế; nghiên cứu áp dụng hợp đồng khung ISDA nhằm giúp các bên hợp đồng tiết
kiệm thời gian, công sức và hạn chế được rủi ro.
Còn về phía Hiệp hội ngân hàng và doanh nghiệp cần hỗ trợ tổ chức các hội thảo và đào
tạo chuyên đề, phối hợp với các NHTM nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, nhà đầu tư về sử
dụng công cụ phái sinh, hỗ trợ cung cấp thông tin và số liệu thống kê cho các doanh nghiệp, các
nhà đầu tư và các nhà nghiên cứu độc lập.


23



24
KẾT LUẬN
Công cụ phái sinh ngày càng phổ biến trên thị trường tài chính thế giới và được các tổ chức
tài chính và phi tài chính, các công ty đầu tư, các tập đoàn đa quốc gia, các nhà kinh doanh cá nhân
sử dụng như là một công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa rủi ro về biến động giá và nhằm cả mục đích
đầu tư, đầu cơ vào chính các công cụ phái sinh này để thu lợi nhuận. Thị trường CCPS ngoại hối
trên thế giới chưa phải là thị trường có doanh số lớn nhất, nhưng tính đến cuối năm 2014, thị
trường CCPS phi tập trung cũng đã đạt quy mô 630.152 tỷ USD, thị trường tập trung đạt 64.843 tỷ
USD (BIS, 2015a và BIS, 2015b.).
Tại Việt Nam, thị trường CCPS ngoại hối đã và đang hình thành và cũng đã có những bước
tăng trưởng nhất định trong khoảng 20 năm qua. Hầu hết các NHTM tại Việt Nam đều đã triển khai
các giao dịch phái sinh tiền tệ (từ giao dịch kỳ hạn, hoán đổi hay quyền chọn), tuy nhiên quy mô
các giao dịch nếu so với các nước trên thế giới thì còn quá khiêm tốn. Nhiều doanh nghiệp Việt
Nam vẫn còn khá lạ lẫm với các công cụ phái sinh và hầu hết các doanh nghiệp chưa từng sử dụng
các công cụ này để nhằm phòng ngừa rủi ro về tỷ giá hay lãi suất.
Để có thể đề xuất được những giải pháp khả thi nhằm phát triển thị trường CCPS ngoại hối
tại Việt Nam, cần phân tích thực trạng phát triển thị trường CCPS trên thế giới và kinh nghiệm phát
triển của một số thị trường CCPS ngoại hối cụ thể; đồng thời phải phân tích thực trạng CCPS ngoại
hối và rút ra được những mặt còn hạn chế cũng như nguyên nhân của những hạn chế nay. Bên cạnh
đó, cũng cần phải đánh giá khách quan và toàn diện các điều kiện để phát triển thị trường này tại
Việt Nam. Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, Luận án đã giải quyết được các vấn đề
cụ thể sau:
- Đã hệ thống hóa lại cơ sở lý luận về CCPS và thị trường CCPS ngoại hối, như về khái
niệm, đặc điểm, bản chất của các CCPS và các ứng dụng thực tiễn của nó; đưa ra được các điều
kiện để phát triển thị trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực tài chính và ngoại hối.
- Đã phân tích quá trình hình thành thị trường CCPS tại Việt Nam, đặc biệt là phân tích rõ
thực trạng hoạt động của thị trường CCPS ngoại hối trên cơ sở xâu chuỗi và so sánh các quy định
pháp lý của Việt Nam về thị trường này. Tác giả cũng đã phân tích thực trạng thị trường CCPS trên
thế giới, có phân tích điển hình ba thị trường cụ thể là Nhật bản, Ấn Độ và Trung Quốc, từ đó rút ra

được những bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào trường hợp của Việt Nam.
- Luận án phân tích rõ được các nguyên nhân và cản trở cho việc phát triển thị trường
CCPS ngoại hối tại Việt Nam, như sự hạn chế về thông tin, nhận thức và thái độ của DN về CCPS,
một số quy định về giao dịch phái sinh ngoại hối chưa thực sự theo kịp với nhu cầu của thị trường.
- Luận án cũng đã đưa ra được những dự báo về quy mô cũng như xu hướng phát triển của
thị trường CCPS ngoại hối trên thế giới và Việt Nam, đồng thời trên cơ sở quan điểm phát triển thị
trường CCPS ngoại hối tại Việt Nam, các giải pháp và kiến nghị được đề xuất có tính khả thi cao.


25
Để thị trường ngoại hối Việt Nam có thể nhanh chóng phát triển và hoàn thiện, tiến tới hội nhập với
các thị trường ngoại hối khu vực và thế giới, đòi hỏi rất nhiều thời gian và nỗ lực từ nhiều phía: từ
phía NHNN đóng vai trò là người tổ chức, điều hành thị trường, từ các NHTM, là những thành viên
chủ yếu trên thị trường, từ các DN và các chủ thể khác tham gia giao dịch trên thị trường.
Mặc dù đã cố gắng và nghiêm túc trong quá trình nghiên cứu, Luận án chắc chắn không
tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những đóng góp quý báu của
các nhà khoa học và những độc giả quan tâm đến đề tài để tác giả có điều kiện học hỏi và hoàn
thiện các nghiên cứu của mình.
Xin trân trọng cảm ơn.


×