Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Ảnh hưởng của phát triển sản xuất cây trồng có giá trị tới chi tiêu cho giáo dục của hộ nông dân xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.34 KB, 107 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thời kỳ đổi mới đã đem đến sự “thay da đổi thịt “trên đất nước ta ở tất
cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục. Thành tựu của ngành giáo dục
Việt Nam bắt đầu từ thời điểm đối mới, sau gần 30 năm chúng ta đã đưa tỷ lệ
mù chữ từ 2 con số xuống còn một tỷ lệ rất thấp, từng bước phổ cập giáo dục
tiểu học, tiến tới phổ cập bậc Trung học cơ sở và Phổ thông trung học. Thế
nhưng, đó cũng là một lĩnh vực mà nó chất chứa quá nhiều vấn đề tồn đọng.
Tỷ lệ mù chữ khu vực nông thôn vẫn luôn vượt trên 2 lần so với khu vực đô
thị, đặc biệt là đối với nữ giới. Có nhiều lý do dẫn tới những bất cập về giáo
dục ở khu vực nông thôn. Theo GS.TS Tô Duy Hợp (Viện Xã hội học, Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam) trong bản tham luận tại hội thảo “Vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân: kinh nghiệm của Trung Quốc và Việt
Nam”do Viện Xã hội học tổ chức, đã lý giải về thực trạng bất cập nói
trên:“một trong những thách thức to lớn đối với khu vực nông thôn là do sức
ép trong chi tiêu cho giáo dục”. Khi đời sống của nhân dân nông thôn nhiều
nơi vẫn còn thiếu thốn thì những khoản chi tiêu cho giáo dục trở thành quá
sức. Với một khoản tiền eo hẹp, con em gia đình nghèo có điều kiện học tập
kém hơn, mua sắm sách vở và dụng cụ học tập ít hơn, đi học thêm ít hơn…
Rõ ràng, khi đời sống của người nông dân còn chưa đảm bảo, mức thu nhập
từ nông nghiệp còn quá thấp thì chi tiêu cho giáo dục là vấn đề đáng để quan
tâm giải quyết. Nhưng giải quyết như thế nào thì vẫn còn là một câu hỏi lớn.
Cái gốc của vấn đề ở đâu? Nếu thu nhập từ nông nghiệp của hộ nông dân tăng
cao thì chi tiêu cho giáo dục sẽ như thế nào?
Thu nhập của hộ nông dân có từ nhiều nguồn, nhưng chủ yếu vẫn là từ
sản xuất nông nghiệp. Đối với một xã thuần nông như Tân Kỳ thì điều này
càng chính xác. Hiện nay, xã đang chú trọng phát triển một số cây trồng có
giá trị, chủ yếu là các loại rau như su hào, hoa lơ và bắp cải.

1



Rau xanh là loại thực phẩm thiết yếu có vai trò quan trọng trong cuộc
sống con người. Trong một vài năm gần đây, rau xanh lại trở thành sản phẩm
nông nghiệp giúp cho nhiều hộ nông dân thoát nghèo và vươn lên làm giàu
như Thanh Trì (Hà Nội), xã Viên Sơn (Hà Tây), La Hường (Đà Nẵng)…
Những cánh đồng rau cho thu nhập 50, 100, 150 triệu/ha/năm đã xuất hiện ở
nhiều nơi. Ở những vùng này, từ khi phát triển sản xuất rau, chất lượng giáo
dục cũng đều có những biến đổi theo hướng tích cực cùng chất lượng cuộc
sống của người dân.
Xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương là một xã thuần nông, thu nhập
của người dân chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp. Từ khi bắt đầu thực hiện
đề án “cánh đồng cho thu nhập cao giai đoạn 2007-2010” do Đảng bộ UBND
xã đề ra, cây rau đã trở thành cây trồng chủ lực của nhiều hộ nông dân, giúp
cho nhiều hộ thoát nghèo. Giá trị sản xuất rau năm 2009 của toàn xã là 14 307
triệu đồng chiếm 31,75% giá trị sản xuất nông nghiệp và chiếm 16,1% tổng
giá trị sản xuất toàn xã. Trong khi đó, giá trị sản xuất lúa chỉ có 4975,2 triệu
đồng, chiếm 11,1% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp và chiếm 5,6% tổng giá
trị sản xuất của xã. Điều đó cho thấy hiệu quả kinh tế trồng rau cao hơn nhiều
lần so với trồng lúa. Rau đã trở thành loại cây trồng chủ lực mang tới nguồn
thu chủ yếu cho người dân nơi đây. Thu nhập chính của nhiều hộ nông dân
trong xã được nâng lên rõ rệt. Cũng trong thời gian này, chất lượng giáo dục
đào tạo tại xã cũng có rất nhiều biến chuyển tích cực. Phải chăng phát triển
sản xuất rau có tác động tới chi tiêu cho giáo dục của người dân của xã? Hiệu
quả kinh tế từ sản xuất rau tại xã ra sao? Chi tiêu cho giáo dục của người dân
trong xã như thế nào? Phát triển sản xuất rau tác động như thế nào tới chi tiêu
cho giáo dục của hộ nông dân trong xã?
Như vậy, tại những vùng phát triển sản xuất rau, khi cuộc sống của
người nông dân đã có nhiều tiến triển thì chi tiêu cho giáo dục của họ như thế
nào? Khi thu nhập của người dân chủ yếu từ xuất rau thì họ phân phối thu


2


nhập cho giáo dục ra sao? Phát triển sản xuất rau có ảnh hưởng gì tới chi tiêu
cho giáo dục của hộ nông dân? Việc nghiên cứu về ảnh hưởng của phát triển
sản xuất rau tới chi tiêu cho giáo dục của hộ nông dân tại những địa bàn này
là vô cùng cần thiết.
Nhằm làm rõ những vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Ảnh
hưởng của phát triển sản xuất cây trồng có giá trị tới chi tiêu cho giáo dục
của hộ nông dân xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu những ảnh hưởng của phát triển sản xuất cây trồng có giá
trị nhất là rau tới chi tiêu cho giáo dục của hộ nông dân tại xã Tân Kỳ, huyện
Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất
những cây trồng này tại địa phương.

1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu.
- Nghiên cứu phát triển sản xuất rau trên địa bàn xã và tình hình chi
tiêu cho giáo dục của hộ nông dân xã.
- Nghiên cứu những ảnh hưởng của phát triển sản xuất rau trên địa bàn
xã tới chi tiêu cho giáo dục của hộ nông dân
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần tăng cường những ảnh
hưởng tích cực và hạn chế bớt những ảnh hưởng tiêu cực trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của phát triển cây trồng có giá trị (tại xã Tân Kỳ
là rau, chủ yếu tập trung vào ba loại rau vụ đông là su hào, bắp cải và hoa lơ)
tới chi tiêu cho giáo dục tại các hộ nông dân này ở xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ,

tỉnh Hải Dương. Chủ yếu tập trung vào các hộ sản xuất rau trong gia đình có
con cái đi học.

3


1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung
Đề tài đi sâu nghiên cứu về hiệu quả sản xuất rau và chi tiêu cho giáo
dục của hộ nông dân trồng rau trên địa bàn xã, đồng thời phân tích được
những ảnh hưởng của việc phát triển sản xuất rau tại xã tới chi tiêu cho giáo
dục của người dân.
* Phạm vi không gian
Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải
Dương.
* Phạm vi thời gian
Đề tài được thực hiện trong thời gian từ tháng 1 năm 2010 tới tháng 5
năm 2010. Nghiên cứu những vấn đề liên quan tới đề tài trong thời gian từ
năm 2007 (thời điểm bắt đầu phát triển mô hình sản xuất rau tại xã) tới năm
2009.

4


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số lý luận cơ bản
2.1.1.1 Lý luận về hiệu quả kinh tế
a, Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế (HQKT) là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của

các hoạt động kinh tế. Nâng cao hiệu quả kinh tế là một đòi hỏi khách quan
của một nền sản xuất xã hội. (Nguyễn Hữu Ngoan, 2005)
Khái niệm về HQKT có thể được tóm tắt theo 3 quan điểm sau:
* HQKT theo quan điểm thứ nhất cho rằng: HQKT được xác định
bởi tỷ số giữa kết quả thu được (như các nuồn lực, vật lực, tiền vốn…) và chi
phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Theo quan điểm này, HQKT được thể hiện qua
công thức sau:
Kết quả thu được
HQKT = ----------------------Chi phí bỏ ra
H = Q/C
Ưu điểm: Phản ánh rõ việc sư dụng nguồn lực thể hiện thông qua chi
phí sản xuất.
Nhược điểm: Không phản ánh được quy mô của HQKT, có thể trong
tực tiễn tỉ lệ có đạt cao, song mức độ đạt được không đáng kể do lượng tuyệt
đói nhỏ và lợi ích kinh doanh mang lại không nhiều. quan điểm này cũng
chưa phân tích được được tác động, sự ảnh hưởng của các yếu tố nguồn lực tự
nhiên.
* HQKT theo quan điểm thứ hai cho rằng: HQKT được do bằng
hiệu số giữa giá trị sản xuất dạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt hiệu quả
đó. Theo quan điểm này, HQKT được thể hiện qua công thức sau:
HQKT = Kết qủa thu được – Chi phí bỏ ra
H=Q-C

5


Ở đây nó phản ánh quy mô HQKT song không rõ rệt và chưa phản ánh
hết mong muốn của nhà sản xuất kinh doanh, chưa xác định được năng suất
lao động xã hội và khả năng cung cấp sản phẩm cho xã hội của các cơ sở sản
xuất có lợi nhuận như nhau.

* HQKT theo quan điểm thứ ba cho rằng: khác với 2 quan điểm
trên, trươc tiên phải xem xét HQKT trong thành phần biến động giữea chi phí
và kết quả sản xuất. Hiệu qủ sản xuất được biểu hiện bằng tỷ số giữa phần
tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí, hay còn là quan hệ tỷ số
giữa kết quả bổ sung và chi phí bổ sung. Theo quan điểm này, HQKT được
thể hiện qua công thức sau:
Phần tăng thêm của kết quả thu được
HQKT = -------------------------------------------------Phần tăng thêm của chi phí bỏ ra
H = ∆Q/∆C
Có nghĩa là so sánh giữa 2 kỳ về chất lượng kết quả, chi phí (mỗi loại
cây con, con trên một đơn vị diện tích…) nhưng vẫn chưa đầy đủ. Bởi vì
trong thực tiễn kết quả sản xuất đạt được luôn là hệ quả của chi phí có sẵn
cộng với chi phí bổ sung mà ở mức chi phí có sẵn khác nhau thì HQKT của
chi phí bổ sung cũng khác nhau.
Tóm lại, các quan điểm về HQKT cuối cùng đều có chung một quan
điểm, đó là sự so sánh giữa:
- Toàn bộ yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra.
- Phần tăng thêm tuyệt đối (hoặc tương đối) của các yếu tố đầu ra.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác
các yếu tố đầu tư, các nguồn lực tự nhiên và các phương thức quản lý. Nố
được thể hiên bằng hệ thống các chỉ tiêu thống kê nhằm các mục tiêu cụ thể
của chính sách phù hợp với yêu cầu của xã hội.

6


b,Nội dung và ý nghĩa của hiệu quả kinh tế
* Xét về mặt nội dung thì HQKT cho ta thấy được:
- Mối liên hệ mật thiết giữa các đầu ra và đầu vào.
- So sánh giữa lượng kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra.

- Từ quan hệ tương đối, tuyết đối thì HQKT được thể hiện bằng các giá
trị tổng sản phẩm, tổng thu nhập, lợi nhuận, tỷ xuất lợi nhuận.
*Ý nghĩa
+ Hiệu quả kinh tế quyết định lợi ích của người sản xuất, của doanh
nghiệp và của Nhà nước. Trong sản xuất, từ kết quả thu được, trước tiên
người ta phải khấu trừ đi chi phí bỏ ra. Sản xuất có hiệu quả thì phần dư ra
càng lớn. Phần dư ra của kết quả sản xuất chính là lợi ích của người sản xuất,
doanh nghiệp và Nhà nước.
+ Hiệu quả kinh tế được nâng cao thì người sản xuất càng thu được
nhiều lợi nhuận, người tiêu dùng sẽ được cung cấp hàng hoá và dịch vụ với
giá rẻ hơn và chất lượng hàng hoá cao hơn.
Như vậy, hiệu quả kinh tế là vấn đề mà cả nhà sản xuất và người tiêu
dùng, cả xã hội đều quan tâm.
c, Phân loại hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế được phân chia theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo
khía cạnh cần phản ảnh.
*Căn cứ theo mức độ khái quát, hiệu quả kinh tế chia ra
+ Hiệu quả kinh tế: là so sánh giữa kết quả kinh tế với chi phí bỏ ra để
đạt được kết quả đó.
+Hiệu quả xã hội: là kết quả của các hoạt động kinh tế xét trên khía
cạnh công ích, phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội như tạo việc làm, xoá
đói giảm nghèo, giảm tệ nạn xã hội…
+ Hiệu quả môi trường: thể hiện ở việc bảo vệ tốt hơn môi trường như
tăng độ che phủ đất, giảm ô nhiễm đất, nước, không khí…

7


Trong các loại hiệu quả thì hiệu quả kinh tế quan trọng nhất, nhưng
không thể bỏ qua hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Vì vậy, nói đến

hiệu quả kinh tế, người ta thường có ý bao hàm cả hiệu quả xã hội và hiệu
quả môi trường.
* Căn cứ vào phạm vi, hiệu quả kinh tế chia ra
+ Hiệu quả kinh tế quốc dân (tính chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc
dân).
+ Hiệu quả kinh tế của vùng lãnh thổ (tính riêng cho từng vùng).
+ Hiệu quả kinh tế ngành: tính riêng cho từng ngành: trồng trọt, chăn
nuôi hay hẹp hơn.
+ Hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực, các yếu tố đầu vào.
(Nguyễn Hữu Ngoan, 2005)
2.1.1.2 Lý luận về giáo dục
*Nguồn gốc và khái niệm giáo dục
Từ khi loài người xuất hiện trên trái đất thì cũng đồng thời xuất hiện
hiện tượng giáo dục. Trong quá trình tìm kiếm các phương tiện để sống, con
người đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải truyền thụ kinh nghiệm cho
lớp người sau. Từ đó việc giáo dục bắt đầu được những người có kinh nghiệm
nhất, hiểu biết nhất tiến hành. Thật chất của giáo dục là truyền thụ kinh
nghiệm lịch sử xã hội cho thế hệ sau, nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc
sống xã hội và lao động sản xuất. Ðó là nét đặt trưng cơ bản của giáo dục với
ý nghĩa là một hiện tượng xã hội mà chúng ta cần tìm hiểu. Chính điều này đã
đem đẩy con Người hình thành và phát triển các đường hướng giáo dục, văn
hoá. Giáo dục vì thế chỉ xuất hiện trong môi trường cộng đồng, không xuất
hiện con người sống cách ly ngoài cộng đồng.
Khái niệm: Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ
thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm

8


cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu

cầu đề ra.
Giáo dục là hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy giáo dục của
một nước". (trích “từ điển tiếng Việt”, 1994)
Các khái niệm trên, về quan điểm chung, đều cùng có một ý nghĩa.
Chúng biểu hiện trên hai mặt, đó là mặt triết lý giáo dục và khoa học giáo
dục. Triết lý giáo dục là sự áp dụng của triết học tự thân đối với việc nghiên
cứu những vấn đề, mà những vấn đề đó nằm trong phạm vi giáo dục và khoa
học giáo dục giúp đỡ với ý nghĩa phương pháp kỹ thuật, công cụ sẽ được
dùng để nghiên cứu những mục đích được hoạch định thông qua triết lý giáo
dục, mối quan hệ giữa khoa học và triết học giáo dục đồng đẳng mật thiết
không thể tách rời. Ðây chính là ý nghĩa đích thực của giáo dục.
* Mục tiêu của giáo dục:
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ( trích “Luật Giáo dục”, 2005).
*Ðối tượng của giáo dục:
+ Quá trình giáo dục là đối tượng của giáo dục học: Quá trình giáo dục
là quá trình hình thành cá nhân con người được tổ chức một cách có mục đích
và có kế hoạch, căn cứ vào những mục đích và những điều kiện do xã hội quy
định, được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục và học tập trong một
thời gian và không gian nhất định; nhằm giúp người học chiếm lĩnh những
kinh nghiệm xã hội của loài người, nhờ đó mà hình thành các phẩm chất năng
lực của cá nhân theo những yêu cầu của xã hội. Quá trình giáo dục theo quan
niệm trên đây chính là đối tượng nghiên cứu của giáo dục học.

9



+ Quá trình giáo dục tổng thể cũng như các quá trình bộ phận đều được
tạo thành bởi các yếu tố sau: Chủ thể giáo dục (người giáo dục) khách thể
(hoặc đối tượng) giáo dục (người học), mục đích giáo dục, nội dung, phưong
pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục.
- Giáo dục cá nhân: Do các cá nhân có nhiều sự khác biệt về vật lý,
tâm lý, tâm linh, giai cấp xã hội và khả năng, nên học đường ngày nay cần có
đường hướng giáo dục cá nhân. Mục đích của cuộc sống con người gồm hai
bổn phận: Bổn phận đối với chính bản thân và bổn phận đối với chính tha
nhân. Trong hai bổn phận này, bổn phận đối với chính mình là cần trước nhất.
Trước hết, ta phải xây dựng chân chính bản thân mình sau mới nghĩ đến việc
xây dựng cho người khác.
- Giáo giục gia đình: Gia đình là môi trường đầu tiên của xã hội, tất cả
bằng tình cảm thông qua tình cảm mà thuyết phục và giáo dục và được đứa
trẻ tiếp nhận một cách hồn nhiên vô tư, từ đó tác động một cách trực tiếp, cá
nhân làm cho đứa trẻ phát triển cả hai phía cạnh thể chất lẫn tinh thần, bằng
sự giáo dưỡng của cha mẹ. Gia đình còn là một thiết chế xã hội tương đối ổn
định, gia đình có truyền thống gương mẫu giá trị riêng, mỗi đứa trẻ sinh ra
trong gia đình đều có sự tiếp nhận các truyền thống khuôn mẫu riêng có ấy
của gia đình.
- Giáo dục xã hội: Vai trò giáo dục này không chỉ hạn chế trong việc
cung ứng cấp thời mà phải biết tìm hiểu chiều hướng phát triển lâu dài, hàng
mấy mươi, mấy trăm năm của xã hội.
"Càng ngày người ta càng nhận thấy vai trò quan trọng của giáo dục
không phải là nhằm nơi cung cấp những người thợ cho xã hội, mà là ở nơi
cung cấp những trái tim, những khối óc cho xã hội” (Bùi Đình Văn, 1996).
Thật vậy, chính những trái tim, khối óc ấy đem lại cho xã hội những
luồng máu mới, những nhiệt tình mới, những sáng kiến mới làm cho xã hội
luôn trẻ trung sinh động và tiến hóa thêm lên.

10



Giáo dục xã hội là giáo dục góp phần phát triển, làm thay đổi bộ
mặt của xã hội. Và chính giáo dục đã góp phần đào tạo những người
quản lý nhà văn hoá, những nhà hoạt động xã hội và một đội ngũ công
nhân lành nghề năng động sáng tạo, nắm vững công nghệ.
"Giáo dục và tiến bộ xã hội có mối liên hệ với nhau. Muốn cho đất
nước ta phát triển, đầu tư một cách đúng mức và cần quan tâm hơn nữa
đến nghành giáo dục. Và đến lượt mình, giáo dục tốt sẽ tạo ra một
nguồn nhân lực dồi dào với số lượng lớn có giá trị cao về mọi mặt” (Bùi
Đình Văn, 1996).
*Hệ thống giáo dục quốc dân
(1) Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường
xuyên.
(2) Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
a) Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
b) Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông;
c) Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;
d) Đại học, trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học) đào tạo
trình độ cao đẳng, trình độ đại học; đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ khi
được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép. Viện nghiên cứu khoa học
đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ
khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép.
(theo “Luật Giáo dục 2005” và “Luật Giáo dục sửa đổi và bổ sung 2009).
2.1.1.3 Lý luận về thu nhập và chi tiêu
*Thu nhập của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà
hộ và các thành viên của hộ nhận được trong một thời gian nhất định, bao
gồm:
(1) Thu từ tiền công, tiền lương;
(2) Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (đã trừ chi phí sản

xuất và thuế sản xuất);

11


(3) Thu từ sản xuất ngành nghề phi nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (đã trừ
chi phí sản xuất và thuế sản xuất);
(4) Thu khác được tính vào thu nhập (không tính tiền rút tiết kiệm,
bán tài sản, vay thuần tuý, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn nhận
được).
*Chi tiêu hộ gia đình là tổng số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các
thành viên của hộ đã chi cho tiêu dùng trong một thời gian nhất định, bao
gồm cả tự sản, tự tiêu về lương thực, thực phẩm, phi lương thực, thực phẩm
và các khoản chi tiêu khác (biếu, đóng góp...). Các khoản chi tiêu của hộ
không bao gồm chi phí sản xuất, thuế sản xuất, gửi tiết kiệm, cho vay, trả nợ
và các khoản chi tương tự.
Chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và
giá trị hiện vật mà hộ gia đình và các thành viên của hộ đã chi cho tiêu dùng
bình quân cho một người trong một thời gian nhất định.
Chi tiêu bình quân một người một tháng của hộ gia đình được tính
theo công thức sau:
Tổng chi tiêu của hộ trong kỳ
Chi tiêu bình quân =
Số thành viên x số tháng trong kỳ
*Chuẩn nghèo là mức thu nhập (hoặc chi tiêu) bình quân đầu người
được dùng làm tiêu chuẩn để xác định người nghèo hoặc hộ nghèo. Những
người hoặc hộ có thu nhập (hoặc chi tiêu) bình quân đầu người thấp hơn
chuẩn nghèo được coi là người nghèo hoặc hộ nghèo.
- Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được xác định bằng giá trị của một
rổ hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu đảm bảo khẩu phần ăn duy trì với

nhiệt lượng tiêu dùng một người một ngày là 2100 Kcal.
- Chuẩn nghèo chung được xác định bằng chuẩn nghèo lương thực, thực
phẩm cộng với mức chi tối thiểu cho các mặt hàng phi lương thực, thực

12


phẩm, gồm nhà ở, quần áo, đồ dùng gia đình, học tập, văn hoá giải trí, y tế,
đi lại, thông tin liên lạc, v.v...
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm là phần trăm số hộ có mức thu
nhập/chi tiêu bình quân đầu người thấp hơn chuẩn nghèo lương thực, thực
phẩm, được tính theo công thức sau:
Tỉ lệ nghèo lương thực,
=
thực phẩm trong kỳ (%)

Số hộ nghèo lương thực,
thực phẩm trong kỳ

x 100

Tổng số hộ trong kỳ
Tỷ lệ nghèo chung là phần trăm số người có mức chi tiêu bình quân
đầu người thấp hơn chuẩn nghèo chung, được tính theo công thức sau:
Tỉ lệ nghèo chung
trong kỳ (%) =

Số người nghèo chung
trong kỳ
x 100

Tổng số dân trong kỳ

(nguồn: />Bắt đầu từ tháng 1/2009, Việt Nam quy định chuẩn nghèo mới. Theo
quy định này, hộ nông dân có thu nhập bình quân đầu người từ 300.000 đồng
một tháng trở xuống, hộ thành thị từ 390.000 đồng trở xuống sẽ được xếp vào
diện hộ nghèo, được hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
2.1.2 Những yếu tố ảnh hưởng tới phát triển sản xuất rau và chi tiêu cho
giáo dục ở nông thôn
2.1.2.1 Nhóm yếu tố ảnh hưởng tới phát triển sản xuất rau
*Các nhân tố về điều kiện tự nhiên: Đây là các yếu tố có ảnh hưởng
lớn tới năng suất và sản lượng của cây trồng đặc biệt là với sản xuất rau. Tân Kỳ
là một xã nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa rất thuận lợi cho nhiều loại rau, đặc
biệt là rau vụ đông ưa nhiệt độ thấp. Tuy nhiên trong một vài năm gần đây, thực
tế cho thấy thời tiết bất thường. Mùa đông đến muộn, mưa nhiều, ít rét hoặc
nắng nóng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất rau.

13


Đất đai từng vùng cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả
sản xuất rau. Không phải bất cứ vùng đất nào cũng có thể sử dụng chuyên
canh rau. Đất đai là nhân tố tạo nên lợi thế so sánh về sản xuất rau của từng
vùng. Đối với xã Tân Kỳ, là một vùng thuần nông nên đất đai khá màu mỡ,
rất phù hợp trồng rau. Đây cũng là một trong những nguyên nhân giúp Tân
Kỳ phát triển sản xuất rau, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
* Các nhân tố về điều kiện kinh tế - xã hội: Sản xuất rau còn chịu sự
chi phối của thị trường, các quy luật kinh tế, sự biến động giá cả đầu vào, đầu
ra và các nguồn lực khác. Sự ứng dụng tiến bộ của khoa học kĩ thuật, tất cả
đều ảnh hưởng tới kết quả cuối cùng.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực nông

nghiệp thì sự dồi dào về nguồn lực (điều kiện tự nhiên, lao động, vốn, đất đai,
kiến thức thị trường, khả năng quản lý…) đều có ý nghĩa quyết định đến
thắng lợi cuối cùng. Trong sản xuất rau cũng vậy, nếu chủ động về nguồn lực
thì sẽ có điều kiện để thực hiện tốt hơn quá trình sản xuất do phải áp dụng
nhiều quy trình kỹ thuật phức tạp.
* Các nhân tố về kỹ thuật
- Giống: là yếu tố góp phần lớn tới việc tăng năng suất cây trồng, ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất. Nếu giống cây tốt thì khả năng thích
nghi, khả năng chống chịu và năng suất cao, chất lượng tốt. Nhất là đối với
những cây ngắn ngày như rau. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giúp người
nông dân nâng cao trình độ canh tác giống, tăng hiệu quả khai thác giống. Tại
xã Tân Kỳ, vấn đề này cũng chưa thực sự làm tốt.
- Thời vụ gieo trồng: Cây rau thông thường là những loại cây ngắn
ngày. Mỗi loại cây trồng nói chung cũng như mỗi loại cây rau nói riêng đều
có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Mỗi loại rau lại có thời vụ gieo
trồng khác nhau. Thời vụ gieo trồng của rau được tính từ khi đặt hạt giống,
gieo hạt cho tới hết thời gian thu hoạch. Chỉ khi gieo trồng đúng thời vụ thì

14


sản xuất mới thuận lợi và cho năng suất, chất lượng cao. Nếu trái vụ thì sản
xuất sẽ gặp nhiều khó khăn, cây sinh trưởng và phát triển chậm do thời tiết
không thuận lợi. Do vậy, để nâng cao năng suất và chất lượng rau, người dân
ngoài việc phải chăm sóc đầy đủ, hợp lý còn cần phải bố trí cơ cấu cây trồng
đúng mùa vụ.
- Kỹ thuật làm đất: Làm đất là khâu đầu tiên tuy đơn giản nhưng không
thể thiếu trong sản xuất cây vụ đông và đặc biệt là sản xuất rau. Rau có thể
sinh trưởng và phát triển tốt trên nhiều loại đất khác nhau. Nhưng với mỗi
loại rau khác nhau, yêu cầu kỹ thuật làm đất, thiết kế rãnh luống cũng khác

nhau. Nên muốn cho năng suất cao, chất lượng tốt thì phải được chăm sóc cẩn
thận, đúng kỹ thuật vun xới, làm cỏ… thường xuyên.
- Công tác phòng trừ sâu bệnh: Do đặc tính sinh lý và kỹ thuật của rau
là loại cây thường bị nhiều sâu bệnh, hơn nữa lại được trồng vào mùa vụ có
điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát triển. Vì vậy, cần có biện pháp hữu hiệu
để phòng trừ bảo vệ rau: chọn giống có khả năng kháng sâu bệnh tốt; thường
xuyên kiểm tra phát hiện và có biện pháp can thiệp diệt trừ sâu bệnh kịp thời.
Đặc biệt đối với sản xuất rau hiện nay là sử dụng các loại thuốc trừ sâu hợp lý
đảm bảo cây phát triển tốt mà không ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng.
2.1.2.2 Nhóm yếu tố ảnh hưởng tới chi tiêu cho giáo dục
* Thu nhập
Giáo dục là một loại hàng hoá công cộng không thuần tuý, chi phí tăng
thêm khi có thêm một người sử dụng khác không. Tại Việt Nam thì chi phí
cho giáo dục là khá lớn. Thu nhập là một trong những yếu tố hàng đầu ảnh
hưởng tới chi tiêu của người dân cho giáo dục, nhất là người dân nông thôn.
Thu nhập nhiều thì gánh nặng chi tiêu cho giáo dục sẽ được giảm nhẹ, mọi
điều kiện cơ sở vật chất cho giáo dục được đảm bảo. Khi thu nhập không ổn
định thì người dân chi tiêu cho giáo dục hạn chế hơn hoặc không chi tiêu cho
giáo dục.

15


* Nhận thức và tâm lý
Đối với chi tiêu của hộ nông dân cho giáo dục cũng chịu sự ảnh hưởng
rất nhiều của tư tưởng người nông dân. Khi người nông dân nhận thức được
tầm quan trọng của giáo dục, họ sẽ chịu bỏ chi phí đầu tư cho giáo dục - thậm
chí có thể hi sinh nhiều thứ khác để tăng chi tiêu cho giáo dục nhằm giúp con
cái thoát nghèo. Nhưng nếu nhận thức không tốt thì thông thường tâm lý là
chỉ “học cho biết “chi tiêu rất hạn chế. Có một số quan niệm sai lầm như đi

học tốn tiền còn đi làm ngay thì kiếm được tiền nên chỉ học hết lớp 9 hay là ở
nhà thiếu người làm nên ở nhà đi làm đỡ phải thuê người khác… khiến cho
người nông dân ngừng chi tiêu cho giáo dục, nhất là với con gái. Điều này do
quan niệm trọng nam khinh nữ, và tâm lý người nông dân thường không nhìn
xa trông rộng.
* Điều kiện kinh tế xã hội
Điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi vùng là khác nhau. Yếu tố này là yếu tố
tác động từ cộng đồng. Tác động của yếu tố này tới chi tiêu cho giáo dục theo
nhiều hướng. Nhiều khi theo xu hướng tâm lý đám đông. Tại các thành phố
lớn điều kiện kinh tế, xã hội tốt thì lại có điều kiện chi tiêu cho giáo dục nhiều
hơn. Người dân sẵn sang chi tiêu cho giáo dục lại là đa số. Trái lại theo tâm lý
chung thì ở những vùng nông thôn chi tiêu cho giáo dục sẽ ít hơn. Có thể do
chi phí cho giáo dục rẻ hơn ở những nơi kinh tế xã hội phát triển hơn như
tỉnh, thành phố…
* Chính sách của Nhà nước
Đây là yếu tố ảnh hưởng lớn trên tầm vĩ mô tới chi tiêu của hộ nông
dân cho giáo dục. Đối với giáo dục, hệ thống chính sách của Nhà nước có tác
động tới sự sinh tồn, phát triển, hoạt động của hệ thống giáo dục. Thông qua
hệ thống chính sách, Nhà nước quản lý chi tiêu chung của chính phủ cũng như
mỗi người dân cho giáo dục như điều chỉnh học phí, khuyến khích trợ cấp cho
người nghèo đi học...

16


2.1.3 Một số chủ trương, chính sách của Nhà nước liên quan
*Về sản xuất rau: Quyết định số 107/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ Về một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, chế biến, tiêu
thụ rau, quả, chè an toàn đến năm 2015 Ban hành một số chính sách hỗ trợ
phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả, chè an toàn đến năm 2015, với

các nội dung chủ yếu sau đây:
1. Ngân sách Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, kênh
mương tưới tiêu cấp 1, trạm bơm, điện hạ thế. Ngân sách địa phương hỗ trợ
đầu tư chợ bán buôn, kho bảo quản, xúc tiến thương mại, chuyển giao tiến bộ
kỹ thuật rau, quả, chè an toàn; chứng nhận cơ sở sản xuất rau, quả, chè an
toàn. Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương trình Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết
định.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương bố trí kinh phí đã được phân bổ hàng năm
hỗ trợ giống, khuyến nông vùng sản xuất rau, quả, chè an toàn tập trung.
3. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu
trách nhiệm chỉ đạo, triển khai phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả,
chè an toàn trên phạm vi địa phương; quyết định các vùng sản xuất, chế biến,
tiêu thụ rau, quả, chè an toàn tập trung; ban hành chính sách hỗ trợ phát triển
sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả, chè an toàn; bố trí kinh phí và thực hiện
hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả, chè an toàn thuộc
thẩm quyền địa phương.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo phát triển sản xuất,
chế biến rau, quả, chè an toàn trên phạm vi cả nước; hướng dẫn điều kiện, tổ
chức, hoạt động của các tổ chức chứng nhận sản xuất rau, quả, chè an toàn
theo VIETGAP; giám sát chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm rau, quả, chè

17


an toàn trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ; ban hành tiêu chí về cơ sở hạ tầng
vùng sản xuất rau, quả, chè an toàn tập trung đáp ứng yêu cầu sản xuất theo
VIETGAP; bố trí kinh phí, thực hiện hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất, chế

biến rau, quả, chè an toàn thuộc thẩm quyền của Bộ.
*Về giáo dục: Chỉ thị số 02/2008/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ
về đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
Nội dung như sau:
1, Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị cần quán triệt sâu sắc
quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu; tập trung triển khai thực hiện mạnh mẽ, đồng bộ các giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục, đào tạo, nhằm thực hiện
mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá của đất nước.
2, Xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là
mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước
ta. Cần đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài gắn với xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, với phong trào làm kinh tế giỏi, xóa đói, giảm
nghèo và xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, học đi đôi với hành. Phát triển
các hình thức học tập chính quy đi đôi với phát triển, đa dạng hóa các hình
thức học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người được học tập thường
xuyên, học suốt đời.
3, Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị cần tập trung chỉ đạo
xác định, cụ thể hóa các mục tiêu nhiệm vụ và giải pháp triển khai các hoạt
động xây dựng xã hội học tập theo Đề án của Chính phủ về việc xây dựng xã
hội học tập giai đoạn 2005 - 2010, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác
khuyến học, khuyến tài, trong đó lưu ý xây dựng tổ chức Hội Khuyến học
Việt Nam vững mạnh, hoạt động thiết thực, có hiệu quả.

18


2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình phát triển sản xuất rau tại Việt Nam

Với Việt Nam hiện nay, sản phẩm rau là một mặt hàng nông sản xuất
khẩu quan trọng. Năm 2009, diện tích rau của Việt Nam đạt 443263 ha với
nhiều chủng loại phong phú. Đây là thế mạnh của nước ta so với những nước
khác trong khu vực với nhiều loại rau được trồng tập trung chủ yếu ở đồng
bằng sông Hồng, trong đó chủ yếu là rau ăn thân, ăn củ. Hạn chế trong sản
xuất rau ở nước ta là quy trình canh tác còn khá lạc hậu, chủ yếu tập trung vào
một số loại truyền thống, chưa áp dụng đồng bộ khoa học công nghệ, diện
tích canh tác thì manh mún, không tập trung, khó áp dụng kĩ thuật tiên tiến,
năng suất thấp và chỉ đáp ứng chủ yếu nhu cầu tiêu dùng trong nước, còn
chưa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu với số lượng lớn.
Về chế biến, ở nước ta hiện có khoảng 90 nhà máy chế biến với tổng
công suất khoảng 250 nghìn tấn/năm. Nhưng nhìn chung hoạt động chưa phát
triển do giá nguyên liệu cao, cơ sở vật chất kĩ thuật còn chưa đáp ứng được
yêu cầu xuất khẩu, công tác quản lý còn chưa chặt chẽ. Chính vì thế mà chất
lượng sản phẩm không cao. Do nguyên liệu đầu vào không đảm bảo được yêu
cầu về thuốc bảo vệ thực vật nên chất lượng kém, chưa đủ tiêu chuẩn xuất
khẩu. Ngoài ra, sản phẩm không gắn với thị trường, mẫu mã đơn điệu, vùng
sản xuất và xưởng chế biến cách xa nhau nên chi phí sản xuất cao.
Rau quả Việt Nam chủ yếu vẫn sản xuất phục vụ nhu cầu nội địa và tập
trung chủ yếu ở các thành phố lớn và các vùng đô thị như Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh khoảng 106-159 kg/người. Tuy nhiên so với mức bình quân trên
thế giới thì còn ít hơn khoảng 69kg/người/năm.
Tóm lại, ngành sản xuất rau ở nước ta có những thành tựu và khó khăn
như sau:

19


 Thành tựu
- Việc sử dụng thuốc BVTV của nông dân đã dần theo định hướng chỉ

đạo của cơ quan chuyên ngành, đảm bảo được hiệu quả cao và an toàn cho
người sử dụng và nông sản, người dân đã ý thức hơn về môi trường trong việc
sử dụng thuốc trừ sâu và BVTV.
- Hiện nay số lượng nông dân được tập huấn về thuốc bảo vệ thực vật, quản lý
dịch hại tổng hợp trên cây rau ngày càng tăng cao.
 Khó khăn
- Quy mô sản xuất rau còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa hình thành những
vùng sản xuất lớn nên đầu tư và ứng dụng khoa học kĩ thuật khó khăn.
- Khi triển khai các dự án sản xuất, nông hộ tham gia còn trông chờ, ỷ lại
vào sự hỗ trợ của Nhà nước, sự dao động của hộ tham gia mô hình khi so sánh
hiệu quả giữa trồng rau với trồng cây khác.
- Nguồn nước tưới trong thời gian qua thiếu trầm trọng do tình trạng
hạn hán kéo dài.
- Giá vật tư nông nghiệp còn cao, nhiều hàng kém chất lượng.
2.2.2 Tình hình giáo dục tại Việt Nam
Năm học 2008-2009, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên, tăng
2,86% so với năm học 2004-2005; trong đó số học sinh học nghề tăng 2,14
lần; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,41 lần; số sinh viên cao đẳng,
đại học tăng 1,75 lần, nâng tỷ lệ sinh viên cao đẳng, đại học trên một vạn dân
tăng 1,6 lần; số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng 2,5 lần.
Hiện nay, cả nước có trên 9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700
trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và huyện, 1.300 trung tâm tin học,
nhiều trường đại học triển khai các chương trình đào tạo từ xa. Ngoài ra, có
nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ có yếu tố nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Một xã hội học
tập đã hình thành rõ nét ở Việt Nam.

20



Trong những năm gần đây, công tác quản lý chất lượng đã đặc biệt được
chú trọng. Đã hình thành các tổ chức chuyên trách về đánh giá và kiểm định
chất lượng. Ngoài Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng cấp trung ương
được thành lập vào tháng 8/2004, phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng đã
được thành lập tại 55 trong số 63 Sở Giáo dục và Đào tạo (87%), 55 đơn vị
chuyên trách về đảm bảo chất lượng được thành lập ở các trường đại học và
cao đẳng. Tới tháng 7/2008, đã có 114/163 (70%) trường đại học tự đánh giá,
trong đó có 40 trường được đánh giá ngoài.
Các trường phổ thông chất lượng cao được hình thành ở nhiều địa
phương. Nhiều trường đại học đã tổ chức dạy học theo các chương trình tiên
tiến quốc tế. Tới tháng 7/2008 có 24 chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế
đang được thực hiện ở 17 trường đại học giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh.
Đã tăng cường sự gắn kết giữa hoạt động khoa học công nghệ với hoạt động
đào tạo sau đại học, tập trung vào các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công
nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, khoa học nông-lâm-ngư và khoa học giáo
dục. Để đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp nhân lực cho các lĩnh vực kinh tếxã hội, nâng cao hiệu quả đào tạo, trong 2 năm gần đây ngành giáo dục đào
tạo đã tích cực đẩy mạnh việc thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu xã hội.
Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được công nhận chuẩn quốc
gia về xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập
THCS. Đến 7/2008 đã có 42/63 tỉnh, thành phố (67%) đạt chuẩn phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi; 42/63 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS. Tỷ lệ
dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ của cả nước là 94%; số năm học trung bình
của dân số từ 15 tuổi trở lên là 9,6. Sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nam
và nữ ngày càng được thu hẹp. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng
nam nữ trong giáo dục cơ bản.
Công tác xã hội hoá giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo dục
đã đạt được những kết quả bước đầu. Các lực lượng xã hội tham gia ngày

21



càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, giám sát, đánh giá và hiến kế
cho giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường, đóng
góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngân sách Nhà
nước đầu tư cho giáo dục tăng liên tục từ 15,5% năm 2001 lên 20% năm
2007. Trong năm 2007, khoảng 25% tổng chi phí của xã hội cho học tập là
đóng góp của người dân. Bên cạnh đó, cũng đã huy động được sự đóng góp
của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội và đầu tư nước ngoài.
Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm học
2008-2009, cả nước có gần 6.000 cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu
học, 33 trường THCS, 651 trường THPT, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường
trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục
ngoài công lập. Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công
lập ngày càng tăng. Năm học 2008-2009, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công
lập là 15,6% (năm 2004 là 11,8%), trong đó tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%;
học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%; học nghề là 31,2%; sinh viên cao
đẳng, đại học là 11,8%.
Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt tăng cơ hội
học tập cho trẻ em gái, trẻ em người dân tộc, con em các gia đình nghèo và trẻ
em khuyết tật. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ
khác đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính
sách được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập. 53% số học sinh sinh viên
cả nước được miễn giảm học phí.
Từ năm học 2008-2009, học sinh học nghề, sinh viên cao đẳng, đại học có
hoàn cảnh khó khăn được vay để chi trả cho việc học hành (752.000 người
được vay với mức tối đa 800.000 đồng/tháng).
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có tiến
bộ rõ rệt. Đến năm học 2008-2009 có 278 trường dân tộc nội trú của trung

22



ương, tỉnh, huyện và cụm xã, với khoảng 86.000 học sinh; các trường, lớp hoà
nhập và chuyên biệt đã thu hút hơn 250.000 trẻ khuyết tật đi học.
Những thành tựu của giáo dục nước ta đã khẳng định vai trò quan trọng
của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước. Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác
mà chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của
Chương trình phát triển Liên hiệp quốc trong những năm gần đây có những
tiến bộ đáng kể: từ 0,688, xếp thứ 109 trong số 174 quốc gia vào năm 2000 đã
tăng lên 0,733, xếp thứ 105 trong số 177 quốc gia vào năm 2007. Những
thành tựu của giáo dục đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh
tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới
(Bộ GD&ĐT, 2009).
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu cơ bản nhưng giáo dục nước ta vẫn
còn những bất cập và yếu kém:
Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu tính liên thông
giữa các cấp học và các trình độ đào tạo, trong đó giáo dục nghề nghiệp chưa
được quan tâm đúng mức. Cách thức tổ chức phân luồng trong hệ thống giáo
dục còn thể hiện nhiều lúng túng. Tình trạng mất cân đối giữa cơ cấu trình độ,
cơ cấu ngành nghề đào tạo chậm được khắc phục, chưa đáp ứng được yêu cầu
nhân lực của xã hội.
Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong
thời kỳ mới. Trong giáo dục chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số
lượng với nâng cao chất lượng.
Nội dung, phương pháp giáo dục từ mầm non đến phổ thông đã được
đổi mới nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế; chương trình giáo dục đại học chậm
đổi mới, chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm
vụ giáo dục trong thời kỳ mới. Còn thiếu quy hoạch tổng thể đào tạo đội ngũ


23


nhà giáo từ mầm non đến đại học dẫn đến tình trạng đội ngũ nhà giáo vừa
thừa, vừa thiếu, vừa không đồng bộ về cơ cấu. Bên cạnh sự nỗ lực của tuyệt
đại bộ phận, một số nhà giáo còn có biểu hiện vi phạm đạo đức lối sống, làm
ảnh hưởng xấu tới uy tín của người thầy trong xã hội.
Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Mặc dù
tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường trong những năm gần đây đã có
nhiều cải thiện rõ rệt nhưng tính đến năm 2008 vẫn còn 11% số lớp học ở tình
trạng lớp học tạm, phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư
viện, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học còn
thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường đại học.
2.2.3 Ảnh hưởng của phát triển sản xuất rau tới chi tiêu cho giáo dục tại

một số địa phương
Tại nhiều địa phương, phát triển sản xuất rau đã có những ảnh hưởng
không nhỏ tới chi tiêu cho giáo dục của hộ nông dân. Một trong số đó là xóm
Sơn Thành, xã Tam Hợp (Quỳ Hợp, Nghệ An).
Xóm Sơn Thành có tổng diện tích đất tự nhiên trên 87ha, trong đó đất
sản xuất nông nghiệp chiếm hơn một nửa với 41 ha, dân số có 189 hộ với gần
980 nhân khẩu, chủ yếu là bà con từ huyện Quỳnh Lưu lên khai hoang xây
dựng vùng kinh tế mới từ những năm 1980. Ông Hồ Đình Lý (Bí thư chi bộ
kiêm xóm trưởng Sơn Thành) cho biết: trước đây toàn bộ diện tích đất này
chủ yếu là sản xuất cây lúa nhưng năng suất thấp, năm 2005-2006 hưởng ứng
phong trào xây dựng cánh đồng cho thu nhập 50 triệu/ha do Bộ NN- PTNT,
được chính quyền địa phương vận động, bà con nhân dân đã mạnh dạn
chuyển đổi từ sản xuất cây lúa kém hiệu quả sang trồng các loại cây rau thực
phẩm mang lại giá trị thu nhập cao, đến năm 2007-2008 xóm đã xây dựng

thành công cánh đồng đạt từ 80-100 triệu/ha (Xuân Thống, 2010).
Đặc biệt, năm 2009 được sự tài trợ của Tổ chức PED-Tây Ban Nha, sau
khi tổ chức học tập dự án, tham quan các mô hình, đến tháng 7/2009 xóm Sơn
Thành được triển khai chương trình sản xuất rau an toàn, thực hiện ở vụ đông
năm 2009. Tháng 11/2009 sản phẩm rau sạch Sơn Thành qua kiểm nghiệm

24


đuợc công nhận đạt tiêu chuẩn và được Sở NN-PTNT cấp giấy chứng nhận
rau an toàn.
Xóm Sơn Thành có 189 hộ thì có 49 hộ chuyên trồng cây rau màu, rau
thực phẩm an toàn mang lại thu nhập cao. Để tiếp tục phát huy hiệu quả mô
hình này, ban cán sự xóm đã thành lập tổ sản xuất và tiêu thụ rau an toàn với
trên 49 hộ thành viên tham gia với tổng diện tích gần 12 ha. Thông qua tổ sản
xuất rau này các thành viên được trao đổi, học hỏi những kinh nghiệm trong
quá trình sản xuất cũng như giúp đỡ nhau cùng đi lên. Thu nhập từ những vụ
rau an toàn đã góp phần đáng kể trong việc tăng nguồn thu nhập và nâng cao
đời sống cho người dân nơi đây. Hàng năm, thương hiệu "rau sạch Sơn
Thành" đã cung cấp cho thị trường trong huyện và các huyện lân cận như Quỳ
Châu, Quế Phong, Nghĩa Đàn, Con Cuông, Tương Dương và các huyện miền
xuôi hàng nghìn tấn rau củ quả các loại. Nhờ được sự quan tâm của các cấp,
các ngành trong việc chuyển đổi có hiệu quả cơ cấu cây trồng, vật nuôi mà
hôm nay, xóm Sơn Thành đã thực sự chuyển mình đi lên bằng chính nội lực.
Đời sống của người dân làm ăn ngày càng khấm khá, đến nay thu nhập bình
quân đạt gần 11 triệu đồng/ngươì /năm, 100% số hộ trong xóm có nhà cửa
xây dựng kiên cố, sắm được nhiều phương tiện sinh hoạt đắt tiền, 100% hộ có
điện thắp sáng, con em có điều kiện học hành nên chất lượng giáo dục địa
phương tăng lên đáng kể, bình quân tăng số học sinh giỏi là 30%, không có
học sinh yếu kém, năm 2009, toàn xóm đã có 30 cháu đỗ vào các trường đại

học, cao đẳng là kết quả cao nhất từ trước tới nay. Đặc biệt trong phong trào
"Toàn dân đoàn kết xây dựng thôn văn hoá ở khu dân cư", bà con nhân dân ở
đây đã góp công, góp của xây dựng đường giao thông nông thôn, xây dựng
cổng chào, nhà văn hoá xóm với số tiền lên đến gần 300 triệu đồng; nguời dân
còn tự giác thực hiện tốt các chỉ tiêu, các khoản nghĩa vụ đối với nhà nước
(Xuân Thống, 2010) .

25


×