Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Bằng những ví dụ thực tế ở việt nam khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhâp WTO để làm rõ mối quan hệ của pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.25 KB, 38 trang )

A- LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn
cầu, trong đó ưu tiên thực hiện các công việc theo yêu cầu gia nhập WTO. Đồng
thời tiến hành đẩy mạnh hội nhập đa dạng hóa, đa phương hóa trên tất cả các cấp
độ thế giới, khu vực và song phương. Những nỗ lực hội nhập kinh tế trên tất cả các
cấp độ như vậy đã mang lại các thành quả rất đáng khích lệ trong công cuộc phát
triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của tình hình mới, tiến trình
thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam vẫn đang đứng trước
nhiều khó khăn thách thức do phải tiến hành đồng thời các lộ trình cam kết theo
nhiều cấp độ khác nhau. Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ năm 1995, trải
qua rất nhiều vòng đàm phán đa phương lẫn song phương chúng ta đã thực hiện rất
nhiều nhượng bộ và các cam kết cần thiết cho phù hợp với chuẩn mực chung của
quốc tế. Bên cạnh các cam kết về kinh tế thì các cam kết về lập pháp và cải cách
thể chế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng theo cơ chế thị trường được Việt
Nam đặc biệt coi trọng. Theo đó hàng loạt các luật, pháp lệnh, nghị quyết được ban
hành trước yêu cầu của cộng đồng quốc tế và bản thân các doanh nghiệp trong
nước khi bước ra biển lớn. WTO mang lại tác động kép tới pháp luật và thể chế
của nước ta, thúc đẩy hoàn thiện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đáp ứng đòi hỏi
của quá trình đàm phán gia nhập WTO, Quốc hội ta đã phải ban hành 65 luật và
pháp lệnh. Chỉ riêng năm 2005 đã có 25 luật và pháp lệnh, những văn bản pháp lý
mới nhất có liên quan trực tiếp đến các nghĩa vụ thành viên của Việt Nam được gửi
đến Ban thư ký WTO. Trong kiến nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết phê chuẩn
Nghị định thư gia nhập WTO của Chính phủ có các Phụ lục đính kèm đề cập đến
các nội dung áp dụng trực tiếp cam kết của Việt nam liên quan đến 6 văn bản Luật
và danh mục các văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi, bổ sung theo lội trình
mà ta đã đàm phán được, liên quan đến 6 văn bản luật và 1 Nghị quyết của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Rõ ràng là một trong những thách thức lớn nhất khi gia nhập
WTO là sự thử thách về chất lượng pháp luật và năng lực thể chế. Giờ đây, thực
hiện những cam kết không những là nghĩa vụ mà còn là danh dự quốc gia. Thực
chất những cam kết với quốc tế không là gì khác ngoài những ràng buộc về pháp


luật của đất nước và luật của quốc tế. Bài tiểu luận dưới đây, em tìm hiểu về “tác
động của việc gia nhập WTO tới việc hoàn thiện thể chế và pháp luật ở Việt Nam”.
Để môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện, thì việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ


nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của
WTO là cần thiết .
Nhận thấy rõ sự mối quan hệ của pháp luật và kinh tế nhóm chúng tôi mạnh dạn
chọn đề tài: “ Bằng những ví dụ thực tế ở Việt Nam khi chúng ta hội nhập kinh
tế quốc tế, gia nhâp WTO để làm rõ mối quan hệ của pháp luật vầ kinh tế”
2. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu thực tế ở Việt Nam khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế và
gia nhập WTO. Tìm ra mối quan hệ của pháp luật với kinh tế, sự tác động qua lại
của chúng
Nhiệm vụ:
-Nghiên cứu lý luận về pháp luật, kinh tế, tổ chức WTO
- Tìm hiểu nghiên cứu pháp luật của Việt Nam trước và sau khi ra nhập WTO
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện
nay. Khi đất nước ta hội nhập kinh tế quốc tế, ra nhập WTO
3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Là chủ nghĩa Mác-Lênin về kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. về kinh tế và
pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp khái quát hoá, kết hợp với các phương pháp khảo sát, , phân tích,
tổng hợp, so sánh... để phân tích những vấn đề đặt ra.



MỤC LỤC
A: Lời mở đầu
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG
I) Khái quát chung 7
1) Khái quát về WTO 7
2 Lợi ích và thách thức khi Việt Nam ra nhập WTO 10
2.1 Lợi ích 10
2.2 Thách thức 12
3) Khái quát về pháp luật 13
4) Khái quát về kinh tế 14
II Quan hệ giữa pháp luật và kinh tế 15
III Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế ở nước ta 17
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VÀ KINH TẾ Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY KHI RA NHÂP WTO VÀ HỘI NHÂP KINH
TẾ QUỐC TẾ 20
1- Vai trò của pháp luật trong nền kinh tế Việt Nam: 20
1.1 Vai trò của pháp luật đối với kinh tế xã hội chủ nghĩa 20
2 Những phát triển mới của pháp luật Việt Nam khi hội nhập kinh tế, ra nhập tổ
chức WTO 24
2.1. Một số thành tựu cụ thể 25
2.2. Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam 33
CHƯƠNG 3: NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT NHẰM PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 36
1. Vai trò của pháp luật trong thời đại mới. 37
2. Nâng cao trình độ nhận thức pháp luật 39
3. Nâng cao sự quản lý trong việc thự thi pháp luật 41


4. Tăng cường vai trò của pháp luật 42
5. Hoản thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. 45

5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật – một trong những yêu cầu cơ bản của việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam 45
5.1. Nhận diện những hạn chế của hệ Hoản thiện hệ thống pháp luật thống pháp
luật hiện hành 45
5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN 48
C Danh mục tài liệu tham khảo 50

Danh mục từ viết tắt:
WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization).
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
KT : Kinh tế
NN : Nhà nước
HP : Hiếp pháp
TB: Tư bản


B – NỘI DUNG
Chương 1: Lý luận chung
I. Khái quát chung
1) Khái quát về WTO
WTO có tên đầy đủ là Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization).
Tổ chức này được thành lập và hoạt động từ 01/01/1995 với mục tiêu thiết lập và
duy trì một nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh bạch.
Tổ chức này kế thừa và phát triển các quy định và thực tiễn thực thi Hiệp định
chung về Thương mại và Thuế quan - GATT 1947 (chỉ giới hạn ở thương mại hàng
hoá) và là kết quả trực tiếp của Vòng đàm phán Uruguay (bao trùm các lĩnh vực
thương mại hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư).
Các thành viên trong WTO
Tính đến ngày 01/01/2010, tổ chức này có 153 thành viên. Thành viên của WTO là

các quốc gia (ví dụ Hoa Kỳ, Việt Nam…) hoặc các vùng lãnh thổ tự trị về quan hệ
ngoại thương (ví dụ EU, Đài Loan, Hồng Kông…).
Nhiệm vụ của WTO
WTO được thành lập với 04 nhiệm vụ chủ yếu:
• Thúc đẩy việc thực hiện các Hiệp định và cam kết đã đạt được trong khuôn khổ
WTO (và cả những cam kết trong tương lai, nếu có);


• Tạo diễn đàn để các thành viên tiếp tục đàm phán, ký kết những Hiệp định, cam
kết mới về tự do hoá và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại;
• Giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên WTO; và
• Rà soát định kỳ các chính sách thương mại của các thành viên.
Cơ cấu tổ chức WTO
Cơ cấu tổ chức của WTO bao gồm (xếp theo thứ tự thẩm quyền từ cao xuống
thấp):
• Hội nghị Bộ trưởng: Bao gồm các Bộ trưởng thương mại – kinh tế đại diện cho
tất cả các nước thành viên; Họp 2 năm 1 lần để quyết định các vấn đề quan trọng
của WTO;
• Đại hội đồng: Bao gồm đại diện tất cả các thành viên; thực hiện chức năng của
Hội nghị Bộ trưởng trong khoảng giữa hai kỳ hội nghị của cơ quan này; Đại hội
đồng cũng đóng vai trò là Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) và Cơ quan rà soát
các chính sách thương mại;
• Các Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Thương mại dịch vụ, Các vấn đề Sở hữu trí
tuệ liên quan đến Thương mại; Các Uỷ ban, Nhóm công tác: Là các cơ quan được
thành lập để hỗ trợ hoạt động của Đại hội đồng trong từng lĩnh vực; tất cả các
thành viên WTO đều có thể cử đại diện tham gia các cơ quan này;
• Ban Thư ký: Ban Thư ký bao gồm Tổng Giám đốc WTO, 03 Phó Tổng Giám đốc
và các Vụ, Ban giúp việc với khoảng 500 nhân viên, làm việc độc lập không phụ
thuộc vào bất kỳ chính phủ nào.
Quá trình thông qua quyết định trong WTO

Về cơ bản, các quyết định trong WTO được thông qua bằng cơ chế đồng thuận. Có
nghĩa là chỉ khi không một nước nào bỏ phiếu chống thì một quyết định hay quy
định mới được xem là “được thông qua”.
Do đó hầu hết các quy định, nguyên tắc hay luật lệ trong WTO đều là “hợp đồng”
giữa các thành viên, tức là họ tự nguyện chấp thuận chứ không phải bị áp đặt; và
WTO không phải là một thiết chế đứng trên các quốc gia thành viên.
Tuy nhiên, trong các trường hợp sau quyết định của WTO được thông qua theo các
cơ chế bỏ phiếu đặc biệt (không áp dụng nguyên tắc đồng thuận):
• Giải thích các điều khoản của các Hiệp định: Được thông qua nếu có 3/4 số phiếu
ủng hộ;
• Dừng tạm thời nghĩa vụ WTO cho một thành viên: Được thông qua nếu có 3/4 số
phiếu ủng hộ;
• Sửa đổi các Hiệp định (trừ việc sửa đổi các điều khoản về quy chế tối huệ quốc


trong GATT, GATS và TRIPS): Được thông qua nếu có 2/3 số phiếu ủng hộ.
2 Lợi ích và thách thức khi Việt Nam ra nhập WTO
2.1 Lợi ích
Khi tham gia vào WTO, chúng ta có thể thấy những ảnh hưởng lớn trên cả cấp vĩ
mô và vi mô. Lợi ích lớn nhất mà Việt Nam thu được từ hội nhập là thị trường xuất
khẩu thuận lợi cho Việt Nam mở rộng. Do VN được hưởng qui chế MFN vô điều
kiện, theo đó hàng hóa Việt Nam sẽ được cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ
khác, không còn vướng nhiều rào cản về thuế và hạn ngạch như hiện nay nữa
(Hiện nay, thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm tới 90% khối lượng
thương mại thế giới). Từ đó sẽ tăng cường tiềm lực kinh tế thông qua việc đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài. Cụ thể:
- Hiệp định đa sợi MFA qui định bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu bằng số lượng đối
với hàng dệt may.
- WTO qui định bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu bằng số lượng thay thế bằng thuế đối
với sản phẩm gạo.

- WTO qui định mức thuế thấp đối với sản phẩm sử dụng nhiều lao động.
- Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần kinh
tế. Khi gia nhập vào WTO và cam kết thực hiện các nguyên tắc tự do hóa thương
mại giữa các thành phần kinh tế, giữa trong nước và nước ngoài, Việt Nam sẽ phải
cải cách mạnh hơn các luật lệ sao cho phù hợp với thông lệ chung của quốc tế. Qua
đó, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và thông thoáng cho mọi thành phần kinh
tế.
- Nền kinh tế Việt Nam sẽ ít bị tổn thương hoặc bị tấn công bởi những hành vi bảo
hộ mậu dịch hoặc trừng phạt kinh tế của các quốc gia khác trong trường hợp có
tranh chấp kinh tế, thương mại hay những lý do chính trị nào đó, thị trường cho
hàng hóa của Việt Nam sẽ được mở rộng và ổn định hơn. Và do vậy, lợi ích từ
thương mại quốc tế của chúng ta sẽ tăng.
- Tự do hóa giá cả nông sản sẽ có lợi cho các quốc gia sản xuất nông nghiệp. Bảo
hộ giá nông sản của các quốc gia phát triển giảm xuống sẽ mở rộng hơn nữa thị
trường nông sản của Việt Nam.
- Chi phí kinh doanh sẽ giảm vì hiện tại lĩnh vực dịch vụ là khu vực được Nhà
nước bảo hộ nhiều nhất. Hậu quả là năng lực cạnh tranh và chất lượng dịch vụ kém
và giá cao. Khi gia nhập vào WTO, độc quyền của những ngành này sẽ phải bãi bỏ,
buộc các doanh nghiệp này phải cải cách, cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng và
hạ giá dịch vụ, hiệu quả cho toàn nền kinh tế sẽ lớn hơn.


- Với hiệp định những biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMS) đã
tạo thêm sự đảm bảo quốc tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Đời sống nhân dân được cải thiện.
2.2 Thách thức
Như vậy, lợi ích của Việt Nam khi gia nhập WTO khá rõ: “Việt Nam không thể tự
bảo vệ mình trước sự bảo hộ của các nước khác khi nằm ngoài WTO”. Tuy nhiên
gia nhập WTO không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho mình mà doanh nghiệp phải
đối mặt với những thách thức:

- Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải trao qui chế tối huệ quốc, qui chế đối xử quốc
gia cho các quốc gia thành viên khác của WTO, nghĩa là tiến hành giảm thuế quan
và ràng buộc tất cả các dòng thuế, đồng thời phải dỡ bỏ các hàng rào phi thuế trong
một thời gian nhất định. Mức độ cam kết giảm thuế phụ thuộc nhiều vào kết quả
đàm phán đa phương và song phương đối với các mặt hàng cụ thể. Vì vậy cạnh
tranh sẽ khốc liệt hơn ở thị trường nội địa.
- Toàn bộ thể chế kinh tế phải chuyển đổi nhằm thích ứng với sự phát triển nhanh
chóng của quan hệ thương mại đầu tư, chuyển giao công nghệ, nếu không sẽ gặp
khó khăn trước những đối thủ cạnh tranh hùng mạnh, các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ không được bảo vệ khi xảy ra tranh chấp thương mại.
- Thách thức thứ hai là những vấn đề nảy sinh từ việc thúc đẩy nhanh chóng tiến
trình cải cách khu vực kinh tế nhà nước, chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và
dịch vụ. Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, vai trò của khu vực kinh tế
nhà nước tiếp tục suy giảm, trong khi việc thực hiện và các biện pháp thực hiện
mục tiêu đó lại mang tính xã hội và ảnh hưởng tới nhiều tầng lớp xã hội có liên
quan. Mặt khác, cải cách sẽ khiến cho tốc độ tăng trưởng trong công nghiệp quốc
doanh chậm lại trong một thời gian, một phần do đầu tư vào khu vực này giảm,
phần nữa là các xí nghiệp yếu kém sẽ thu hẹp sản xuất, đóng cửa hoặc chuyển sang
lĩnh vực kinh doanh mới. Nguy cơ phá sản đối với các loại hình doanh nghiệp tăng
lên. Công nghệ và trình độ dân trí có chuyển biến lớn, nhưng khoảng cách tụt hậu
còn xa so với phần lớn các nước trên thế giới.
- Những thách thức trong lĩnh vực nông nghiệp thậm chí còn lớn hơn, do trên 75%
dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, trong khi đó diện tích canh tác bình quân
trên một lao động thấp, phương thức canh tác lạc hậu nên giá thành nông sản nhìn
chung sẽ cao hơn mặt bằng giá thế giới. Khi những rào cản thương mại được bãi
bỏ hoặc giảm thiểu, nông sản nhập khẩu từ các nước phát triển với giá thấp sẽ gây


sức ép lớn cho kinh tế nông thôn, nhiều đơn vị kinh doanh nông nghiệp có thể sẽ bị
phá sản. Số người này sẽ di chuyển về thành phố, làm trầm trọng thêm tình trạng

thất nghiệp.
- Hiện tại, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng gia công, chúng ta
sẽ không được hưởng lợi khi gia nhập WTO, khi quy định qui tắc xuất xứ để
hưởng ưu đãi là trị giá nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hóa tại nước được
hưởng phải thấp hơn 65%.
Có thể nói khi gia nhập vào WTO, Việt Nam nhận được nhiều lợi ích nhưng cũng
đối mặt với nhiều thách đố . Nhưng về tổng thể những lợi ích dài hạn cho quốc gia
chiếm ưu thế.
3) Khái quát về pháp luật
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và phụ thuộc vào
các điều kiện kinh tế xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật xuất hiện từ khi chế độ tư hữu về tài sản và sự phân hóa xã hội thành giai
cấp xuất hiện, giữa các giai cấp có lợi ích đối kháng không thể điều hòa được.
Trong khi giai cấp thống trị bao giờ cũng muốn hướng hành vi của mọi người vào
lợi ích riêng của họ. Do đó khi nắm trong tay các phương tiện quyền lực, giai cấp
thống trị chọn lọc giữ lại, thừa nhận các trật tự chuẩn mực phù hợp với lợi ích của
họ và biến chúng thành các trật tự xã hội, các quy tắc xử sự chung bắt buộc mọi
thành viên trong xã hội phải tuân theo nhằm phục vụ lợi ích riêng của giai cấp
thống trị.
4) Khái quát về kinh tế
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội
liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mỗi
quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy cho
cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích.
Nguyên nghĩa của khái niệm này là "kinh bang tế thế" là các công việc mà một vị
vua phải đảm nhiệm: chăm lo đời sống vật chất của bề tôi, chăm lo đời sống tinh

thần của cộng đồng. KINH trong KINH BANG- trị nước và TẾ trong TẾ THẾgiúp đời! (do vua Minh Trị của Nhật đã yêu cầu dịch ra từ tiếng Latinh, nhờ chữ
này mà Minh Hoàng lôi kéo được tầng lớp tri thức Nho giáo đi kinh doanh, buôn


bán và làm giàu)
Nghĩa hẹp của từ này chỉ "hoạt động sản xuất và làm ăn của cá nhân hay hộ gia
đình" như trọng câu: Gia đình tôi chuyển đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Nghĩa rộng của từ này chỉ "toàn bộ các hoạt động sản xuất, trao đổi, phân phối, lưu
thông" của cả một cộng đồng dân cư, một quốc gia trong một khoảng thời gian,
thường là một năm. Thí dụ câu: Kinh tế Việt Nam dự kiến đạt mức độ tăng trưởng
là 8,2% năm 2006.
Khái niệm kinh tế đề cập đế các hoạt động của con người có liên quan đến sản
xuất, phân phối, trao đổi, và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên định nghĩa về
kinh tế đã thay đổi theo lịch sử các hoạt động kinh tế. Nói đơn giản kinh tế có
nghĩa là:" Dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và hạn hẹp, con người và xã hội loài
người tìm cách trả lời 3 câu hỏi:" Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? và Sản
xuất cho ai?"
II) Quan hệ giữa pháp luật và kinh tế
- Pháp luật là yếu tố thượng tầng xã hội, còn kinh tế thuộc về yếu tố của cơ sở hạ
tầng.
- Pháp luật sinh ra trên cơ sở hạ tầng và bị quy định bởi cơ sở hạ tầng của pháp
luật. Cơ sở hạ tầng là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của phTrong mối
liên hệ với kinh tế, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác, pháp luật lại có sự
tác động ngược trở lại một cách mạnh mẽ đối với kinh tế.
Trước hết, các quan hệ kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra
đời của pháp luật, mà còn quyết định toàn bộ nội dung, hình thức, cơ cấu và sự
phát triển của nó. Như Mác đã viết : “ Trong thời đại nào cũng thế, chính là vua
chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa lại ra
lệnh cho những điều kiện kinh tế được. Chẳng qua chế độ pháp luật về chính trị,
cũng như về dân sự chỉ là cái việc nói lên, ghi chép lại quyền lực của những quan

hệ kinh tế”.
Sự lệ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở những mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất: cơ cấu nền kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định thành phần cơ cấu hệ
thống các ngành luật.
Thứ hai: tính chất nội dung của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định
tính chất, nội dung của các quan hệ pháp luật, tính chất phương pháp điều chỉnh
cua pháp luật.
Thứ ba: chế độ kinh tế, thành phần kinh tế tác động quyết định tới sự hình thành,
tồn tại các cơ quan, tổ chức và thể chế pháp lý, phương thức hoạt động của các cơ


quan bảo vệ pháp luật và thủ tục pháp lý.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng có tác động trở lại đối với kinh tế theo những xu
hướng tích cực hoặc tiêu cực khác nhau:
Tác động tích cực: nếu pháp luật được ban hành phù hợp với các quy luật kinh tế xã hội thì nó tác động tích cực đến sự phát triển các quá trình kinh tế, cũng như cơ
cấu của nền kinh tế, ở đây, sự tác động cùng chiều giữa pháp luật và các quá trình
kinh tế xã hội (chẳng hạn khi pháp luật thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lí của
nhà nước tạo điều kiện giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội…).
Khi pháp luật thề hiện phù hợp với nền kinh tế: Pháp luật thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản ánh đúng trình độ kinh tế dẫn
tới kinh tế phát triển, pháp luật tạo hành lang tốt cho kinh tế phát triển
Ví Dụ: Pháp luật tư sản thời kì đầu, sau thắng lợi của cách mạng tư sản đã thể hiện
rõ nội dung tiến bộ so với pháp luật phong kiến và có tác động tích cực góp phần
xóa bỏ những quan hệ kinh tế - xã hội lỗi thời lạc hậu, cũng cố và thúc đẩy sự phát
triển của những quan hệ kinh tế - xã hội mới hình thành trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Nhưng đến thời kì đế quốc chủ nghĩa nó đã tác động tiêu cực đến các quá
trình kinh tế, chính trị, xã hội gây nhiều phản ứng mạnh mẽ, đe dọa trật tự xã hội tư
bản. Để khắc phục nhược điểm đó các nhà nước tư bản đã nhiều lần điều chỉnh,
phải thay đổi đường lối để pháp luật thích ứng được tình hình. Pháp luật xã hội chủ

nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động dưới sự
lảnh đạo của Đảng cộng sản, phản ánh đúng đắn trình độ phát triển của chế độ kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Cho nên pháp luật xã hội chủ nghĩa có nội dung tiến bộ và giữ
vai trò tích cực trong việc tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tác động tiêu cực: khi pháp luật không phù hợp với các quy luật pháp triển kinh tế
- xã hội được ban hành do ý chí chủ quan của con người thì nó sẽ kìm hãm toàn bộ
nền kinh tế.,hoặc một bộ phận của nền kinh tế (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
bằng các mệnh lệnh, quy định hành chính đối với các hoạt động kinh tế, đã làm
nền kinh tế bị trì trệ dẩn đến khủng hoảng)
Tuy nhiên; trong bước quá độ chuyển từ cơ chế kinh tế này sang cơ cấu kinh tế
khác, các quan hệ kinh tế cũ chưa hoàn toàn mất đi, quan hệ kinh tế mới đang hình
thành và phát triển nhưng chưa ổn định thì pháp luật có thể tác động kích thích sự
phát triển kinh tế ở những mặt, lỉnh vực này nhưng lại kìm hãm sự phát triển kinh
tế ở những mặt, lỉnh vực khác.
Ví Dụ: pháp luật của xã hội phong kiến trong thời kì cuối lạc hậu, không phù hợp


với nền sản xuất công nghiệp
Tóm lại kinh tế và pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau.
Chúng không thể tách rời nhau. Nếu kinh tế mà không có sự quản lý của pháp luật
sẽ dẫn tới rối loạn và lệch hướng về kinh tế. Ngược lại, pháp luật sinh ra từ nhu cầu
chủ quan, bắt nguồn trực tiếp từ những đòi hỏi kinh tế. Vì vậy, muốn nền kinh tế
phát triển thì cần phải vận dụng tốt mối quan hệ này tức là pháp luật phải phù hợp
với sự phát triển của kinh tế.

II Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế ở nước ta
Ở nước XHCN trong đó có nước ta, hệ thống pháp luật được chia thành các ngành
luật khác nhau trong đó có ngành luật kinh tế. Theo nghĩa truyền thống thì luật
kinh tế là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp

và giữa doanh nghiệp với các cơ quan Nhà nước về quản lí kinh tế.
Trong khoa học pháp lí khái niệm trên được hiểu là khái niệm luật kinh tế theo
nghĩa hẹp. Theo nghĩa này thì luật kinh tế là một ngành luật có đối tượng điều
chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng.
Từ khi pháp lệnh hợp đồng kinh tế hết hiệu lực và hợp đồng kinh tế (hợp đồng
kinh doanh, thương mại) được điều chỉnh bằng nhiều văn bản quy phạm pháp luật
thuộc nhiều ngành luật khác nhau như luật dân sự, luật thương mại, luật đầu tư…
Do ngành luật kinh tế cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn là “pháp luật kinh tế”.
Theo nghĩa này thì luật kinh tế bao gồm tất cả các ngành luật không những điều
chỉnh mối quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với cơ
quan Nhà nước mà còn điều chỉnh các quan hệ xã hội khác, liên quan mật thiết với
kinh doanh, thương mại như luật thương mại, luật dân sự, luật đầu tư, luật phá
sản…Mặt khác trong thời gian gần đây, để phù hợp với việc VN gia nhập WTO, tổ
chức thương mại thế giới, thì pháp luật cho hoạt động kinh doanh, thương mại phải
tiếp tục phát triển để phù hợp với pháp luật và thong lệ quốc tế. Với tinh than trên
thì khái niệm kinh doanh va hoạt động thương mại được quy định trong luật kinh
doanh và thương mại được hiểu theo nghĩa rộng: kinh doanh là việc thực hiện liên
tục một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hay cung ứng dịch vụ/thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Về việc hình thành các tổ chức kinh tế đại diện cho các doanh nghiệp theo tưng
giới, ngành là cần thiết, song do khâu quản lý nhà nước còn bất cập, chưa chặt chẽ


nên nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh. Các hiện tượng tiêu cực như mạo đăng tài
khoản, chiếm dụng trụ sở, chủ doanh nghiệp lợi dụng kẻ hở của pháp luật và những
yếu kém trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế để thao túng không phải là cá
biệt. Có những tổ chức pháp nhân tự ý lập doanh nghiệp trái phép, thậm chí lập ra
các doanh nghiệp “ma”. Một số doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước, sau
khi chạy được tư cách pháp nhân hoàn chỉnh thì lại không kinh doanh theo đăng kí
pháp nhân, “vượt rào” trong sản xuất kinh doanh, hoặc thiếu năng động, tự chủ

trong hoạch toán kinh tế, tổ chức sản xuất kinh doanh theo kiểu “lãi thì hưởng, lỗ
thì nhà nước chịu”.
Hoạt dộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp do tách
rời sự quản lý của pháp luật hoặc do sự phân định chức năng chưa rõ rang nên có
những bước chệch choạng nhất định. Việc thực hiện dân chủ về kinh tế trong nội
bộ từng doanh nghiệp còn nhiều mặt yếu lớn, bất cập như thiếu công bằng, không
bằng phẳng trong ăn chia, nhập nhằng giữa nguyên tắc phân phối lao động với
phân phố theo vốn đầu tư nên dẫn đến tình trạng người lao động thiếu quan tâm
đến sản xuất kinh doanh, đến sự phát triển và vị thế doanh nghiệp.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích xã
hội còn nhiều mặt chưa hài hòa chưa thỏa đáng, nên chưa thực sự nâng cao tính
tích cực, tự giác của chế định xã hội kinh tế nhằm xây dựng, bảo vệ tổ quốc nói
chung và xây dựng hệ tống chính trị vững mạnh nói riêng trong điều kiện nền kinh
tế thị trường.
Trở ngại lớn nhất là vấn đề hoạch toán kinh tế, nhất là đối với các doanh nghiệp
nhà nước tình trạng “lãi giả, lỗ thật” hoành hành, vì cơ chế tực hiện vẫn còn nhiều
điểm chưa hoàn toàn đoạn tuyệt với cơ chế quan liêu bao cấp. Hơn nữa, hệ thống
văn bản pháp luật trong lĩnh vực này chưa thực sự định hình, nhất là các bộ luật
đang hình thành hoặc mới hình thành như luật đầu tư chứng khoán, Luật phá sản,
Luật đình công…đang là vấn đề nhạy cảm, chưa được hiểu và chấp hành nhất
quán, đầy đủ. Đặc biệt, việc đăng kí tư cách pháp nhân và chịu sự kiểm soát của
pháp nhân trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một số tổ chức kinh tế và
doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước cũng có sự bất cập, thậm chí coi nhẹ.
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VÀ KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY KHI RA NHÂP WTO VÀ HỘI NHÂP KINH TẾ QUỐC TẾ
1- Vai trò của pháp luật trong nền kinh tế Việt Nam:
1.1 Vai trò của pháp luật đối với kinh tế xã hội chủ nghĩa:
Trước hết cần phải khẳng định bất cứ sự đánh giá thấp nào về vai trò pháp luật



XHCN đều không những đối lập với kinh nghiệm lịch sử mà còn không phù hợp
quan điểm chủ nghĩa Mac – Lê nin và quan điểm của Đảng ta. Dự báo khoa học về
pháp luật xã hội chủ nghĩa đã được C.Mac đề cập trong tác phẩm phê phán cương
lĩnh Gôta. Sau đó Lê nin trong tác phẩm Nhà Nước Cách mạng đã chứng minh
rằng dưới chủ nghĩa xã hội đòi hỏi khách quan pháp luật trước hết trong chính đặc
điểm của kinh tế. Người viết: “Nếu không muốn rơi vào không tưởng thì sau khi
lật đổ chủ nghĩa tư bản chớ nên nghĩ rằng người ta có thể tức khắc làm việc cho xã
hội mà cần phải có một tiêu chuẩn pháp lí nào cả, vả chăng việc xóa bỏ chủ nghĩa
tư bản không thể đem lại ngay lập tức cho những tiền đề kinh tế như vậy”. Pháp
luật dưới chủ nghĩa xã hội với tư cách là người điều chỉnh việc phân phối sản phẩm
và phân phối lao động giữa các thành viên trong xã hội. Như vậy theo V.I Lênin sự
tồn tại của pháp luật xã hội chủ nghĩa do tính chất của lao động và phân phối sản
phẩm. Chính vì thế Lênin viết tiếp: “ Ở giai đoạn đầu của mình chủ nghĩa cộng sản
chưa thể chin muồi về mặt kinh tế”… do đó còn phải giữ lại chân trời hẹp của pháp
luật tư sản, lấy trạng thái kinh tế để đi đến khẳng định nhu cầu phải có pháp luật và
tính chất của nó. Pháp luật trong chủ nghĩa xã hội tồn tại trước hết vì đòi hỏi kinh
tế đến lượt mình nó sẽ trở thành phương tiện quản lý Nhà nước, chỉ khi Nhà nước
nhận thức được nhu cầu phải điều chỉnh bằng pháp luật, và ban hành pháp luật một
cách khách quan phù hợp với nhu cầu phát triển tiến bộ của xã hội hoàn toàn
không được quan điểm một cách đơn giản thuần túy pháp luật là phương tiện của
Nhà nước trong tay Nhà nước có quyền ban hành theo ý chủ quan của mình.
Thực tiển xây dựng chủ nghĩa xã hội trong 70 năm qua ngày càng làm sáng rõ luận
điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin. Đảng ta từng bước khắc phục những thiếu sót và
sai lầm về việc thực hiện pháp luật và khẳng định quản lí đất nước bằng pháp luật
chứ không chỉ bằng đạo lí.
Nước ta, trong tiến trình đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế trong điều kiện toàn
cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trước bối cảnh lịch sử mới chúng ta có những thời
cơ mới song phải đối mặt với những thách thức cực kì to lớn. Con đường phải vượt
qua là phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; lấy chủ

nghĩa Mac – Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nan cho hành
động nâng cao hiệu lực quản lí của bộ máy nhà nước trên mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội; tiếp tục bảo vệ các giá trị chuẩn mực và các giá trị văn hóa dân tộc
Pháp luật đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lí
kinh tế xã hội chủ nghĩa.


Chức năng tổ chức và quản lí kinh tế có pham vi rộng và phức tạp bao gồm nhiều
mối quan hệ, nhiều vấn đề mà Nhà nước cần xác lập, điều tiết và giải quyết như:
hoạch định các chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ
tài chính, tiền tệ, giá cả…toàn bộ các quá trình tổ chức và quản lý từ hoạch định
các chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch cho tới tổ chức thực hiện trên
thực tế, kiểm tra giám sát tổng kết và đánh giá kết quả… đều đòi hỏi sự hoạt động
tích cực của Nhà nước tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy quá trình phát triển
đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực. Do tính chất phức tạp
(nhiều vấn đề, nhiều quan hệ cần giải quyết) và phạm vi rộng (trên quy mô toàn
quốc) của chức năng quản lí kinh tế, Nhà nước không thể tham gia váo quá trình
quản lý cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý hành chính – kinh tế. quá trình đó
không thể thực hiện nếu như không dựa vào pháp luật. Chỉ pháp luật với những
đặc thù của nó mới là cơ sở để đảm bảo cho Nhà nước thực hiện chức năng của
mình trong lĩnh vực kinh tế
Quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam những năm qua đã là một thực
tiển sinh động khẳng định vai trò của pháp luật. Tình trạng thiếu hệ thống quy
phạm pháp luật kinh tế, cũng như sự tồn tại quá lâu những văn bản quy phạm pháp
luật kinh tế của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm giảm hiệu lực quản lý
của Nhà nước, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam và làm phát sinh
nhiều hiện tượng tiêu cực như tham ô, lãng phí…Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI,
nhiều văn bản pháp luật kinh tế được ban hành kịp thời phù hợp tình hình mới đã
có tác dụng thiết thực tăng cường hiệu lực của Nhà nước, thúc đẩy sự phát triển
của kinh tế mang lại những thành tựu bước đầu quan trọng. Đại hội Đảng lần thứ

XI đã xác định nền kinh tế nước ta hiên nay là: “Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước…bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch,
quy hoạch, chính sách sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ
lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”. Đại hội cũng khẳng định
phải tiếp tục “ đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gở mọi trở ngại về cơ chế
chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật
mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình
thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân đầu tư kinh doanh theo
các hình thức do luật định và pháp luật bảo vê”.
Với cơ mới, hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng của các quan


hệ kinh tế, các chủ thể, lợi ích, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Nhà nước có
nhiệm vụ bảo đảm cho nền kinh tế ổn định, phát triển, có tính tổ chức cao và theo
định hướng đã chọn. Không thể quản lý theo lối cũ bằng các biện pháp hành chính
mệnh lệnh mà phải đổi mới cơ chế quản lý.
Điều 26 Hiến pháp quy định “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý
nhà nước giữa các ngành các cấp”.
Quản lý kinh tế bằng pháp luật là nguyên tắc hết sức quan trọng trong bối cảnh nền
kinh tế thị trường. Với những thuộc tính vốn có, pháp luật bảo đảm xác lập mối
quan hệ kinh tế phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị trường bảo đãm vận hành cơ chế
để ngăn chặn và xử lý những trường hợp vi phạm trong quản lý kinh doanh.
Trước yêu cầu đó cần hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nước ta để tạo ra một
môi trường pháp lý phù hợp cho sự phát triển kinh tế thị trường. Hiến pháp mới
ban hành là văn bản cơ bản khẳng định những nguyên tắc nền tảng trên lĩnh vực
kinh tế.
Trước mắt cần khẩn trương sữa đổi, bổ sung và ban hành mới một hệ thống văn

bản pháp luật kinh tế phù hợp với yêu cầu mới. Để đãm bảo thực sự sự bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm long tin giữa các nhà doanh nghiệp trong và
ngoài nước với pháp luật, cần phải ban hành các văn bản luật do cơ quan quyền lực
cao nhất là Quốc hội ban hành. Trước mắt cần phải sớm ban hành bộ luật dân sự và
một số luật khác liên quan đến vấn đề sở hữu.
Phát triển nền kinh tế có kế hoạch là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Trong điều kiện kinh tế thị trường cần kết hợp kế hoạch với thị trường, bảo
đảm sự thống nhất giữa lợi ích kinh tế toàn dân với lợi ích kinh tế của các tổ chức
sản xuất kinh doanh. Các đơn vị kinh tế của các địa phương được quyền chủ động
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm kết quả hoạt động của
mình, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước.
Để quản lý kinh tế hiệu quả Nhà nước cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật kinh tế, bộ máy quản lý kinh tế đã chuyển trọng
tâm từ quản lý trực tiếp sang quản lý hành chính kinh tế ở tầm vĩ mô với những nội
dung mới:
- Định hướng và tạo môi trường thuận lợi để nền kinh tế phát triển;
- Xây dựng một hệ thống pháp luật kinh tế đầy đủ để tạo ra tự do và bình đẳng
trong hoạt động kinh tế của mọi thành phần kinh tế;
- Tổ chức cung cấp thông tin, dịch vụ cho các chủ thể tham gia kinh tế;


- Điều tiết kinh tế thị trường, hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường;
- Chăm lo phúc lợi xã hội cho mọi thành viên xã hội, chú ý quan tâm đến các đối
tượng xã hội
2 Những phát triển mới của pháp luật Việt Nam khi hội nhập kinh tế, ra nhập tổ
chức WTO
Những phát triển mới trong hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn này thể hiện ở
những nét lớn cơ bản sau đây. Thứ nhất là có những phát triển mới rất quan trọng
trong nhận thức lý luận về nhà nước và pháp luật nói chung, về hệ thống pháp luật
nói riêng. Quan điểm, định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, là sự thể hiện
quá trình đổi mới tư duy, gắn liền với quá trình hoạch định và thực hiện đường lối
đổi mới toàn diện đất nước và xuất phát từ những tiền đề kinh tế, chính trị – xã hội
và những ảnh hưởng, tác động của xu thế hội nhập kinh tế – quốc tế. Quan điểm đó
là cơ sở cho hoạch định chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật với
những mục tiêu rất cụ thể, được xác định rõ ràng: xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đổi mới căn
bản cơ chế xây dựng và hoàn thiện pháp luật, phát huy vai trò và hiệu lực của pháp
luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân.Nhận thức lý luận về Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là bước phát triển vận dụng sáng tạo những
nguyên lý phổ biến, những giá trị chung của nhân loại về Nhà nước pháp quyền
với những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Bản chất của Nhà nước pháp quyền là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đảm bảo tính thống nhất của quyền
lực nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
- Khẳng định và đề cao vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội; đảm
bảo tính tối cao của Hiến pháp trong đời sống xã hội;
- Bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền con người, nâng cao trách nhiệm pháp lý
giữa Nhà nước và công dân;
- Từng bước nhận thức và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Nhà nước trong việc


thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực.
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Thứ hai, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng đầy đủ, thiết thực hơn và ngày
càng tăng cường, đảm bảo tính khả thi.
Trong hơn hai mươi năm đổi mới, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng, ban hành và
từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm sự phát triển của đất nước trong
khuôn khổ của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho các quan hệ xã hội
hiện hữu trong từng giai đoạn được phát triển đúng đắn, tạo nên một trật tự pháp
luật ổn định, góp phần làm nên diện mạo của Nhà nước pháp quyền ngày hôm nay.
Trong thời gian qua, không chỉ các đạo luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước ngày càng hoàn thiện, tiến độ lập pháp được đẩy nhanh và chất lượng
hoạt động lập pháp ngày càng được nâng cao, mà các đạo luật và bộ luật trong lĩnh
vực kinh doanh, thương mại, tài chính, tín dụng, đầu tư, đất đai, sở hữu trí tuệ, các
vấn đề xã hội, giáo dục, y tế, đặc biệt là các bộ luật về thủ tục hành chính và tư
pháp đã được xây dựng, ban hành, đáp ứng kịp thời yêu cầu điều chỉnh pháp luật
đối với các quan hệ đa dạng trong nền kinh tế thị trường đang ngày càng hội nhập
sâu hơn, toàn diện hơn với nền kinh tế toàn cầu và khu vực tạo nên một thể chế thị
trường thống nhất, đồng bộ.
Thứ ba, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng thể hiện rõ ràng, đầy đủ tính chất
dân chủ, nhân đạo và nhân văn cao cả, tính công khai, minh bạch.
Ở Việt Nam, các đạo luật ngày càng nhiều hơn, giữ vị trí chủ đạo, trực tiếp điều
chỉnh các quan hệ xã hội, từng bước khắc phục sự lạm dụng các văn bản dưới luật.
Pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố văn bản quy phạm pháp luật
ngày càng hoàn thiện, đảm bảo tính dân chủ trong sáng kiến pháp luật, quy trình
làm luật, thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân, các chuyên gia vào quá trình
xây dựng, thẩm định và phản biện các văn bản. Tính công khai, minh bạch của hệ
thống pháp luật tạo khả năng để người dân tiếp cận pháp luật và dịch vụ pháp lý
nhanh hơn, giản tiện và ít tốn kém hơn. Nhà nước Việt Nam đã tiến hành chế độ
phát hành công báo công khai, đăng tải pháp luật (và các dự thảo luật) trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Toà án nhân dân tối cao đã tiến hành công bố
công khai các quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân

tối cao… Nhà nước thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính, tăng cường các đạo
luật về thủ tục tố tụng, các cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật – tăng cường pháp
luật về đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện chính sách hình sự theo xu hướng giảm


nhẹ hình phạt…
Thứ tư, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, hài hoà, thống nhất với
giá trị pháp lý chung của quốc tế và khu vực.
Tất cả các văn bản pháp luật được Nhà nước Việt Nam ban hành trong thời gian
qua đều thể hiện nguyên tắc tôn trọng các cam kết, các Điều ước quốc tế. Mặt
khác, sự hợp tác quốc tế trong xây dựng pháp luật, sự tiếp nhận những giá trị, tinh
hoa của nhân loại trong xây dựng pháp luật trên cơ sở đảm bảo sự hài hoà giữa văn
hoá truyền thống và hiện đại là yêu cầu mang tính nguyên tắc được quán triệt trong
quá trình lập pháp, thi hành và áp dụng pháp luật. Chúng ta có thể nhận thấy rõ
điều này được thể hiện trong sự gắn kết giữa mục tiêu và các nguyên tắc của hệ
thống pháp luật Việt Nam với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương
ASEAN cũng như các văn kiện quốc tế khác. Việt Nam đã và đang tiến hành hoàn
thiện hệ thống pháp luật của mình phù hợp với cam kết WTO về sở hữu trí tuệ, hệ
thống thuế, pháp luật đầu tư, pháp luật doanh nghiệp…, cải cách hệ thống thủ tục
hành chính, thủ tục tố tụng tư pháp, hệ thống trọng tài, luật sư…, pháp luật cạnh
tranh chống độc quyền, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, luật phá sản v.v… Việt
Nam cũng đã ban hành Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình,
Luật Phòng, chống tham nhũng và nhiều văn bản luật khác.
Pháp luật Việt Nam có sự thay đổi rất lớn, để phù hợp với nền kinh tế thị trường,
khi Viêt Nam mở cửa hội nhập kinh tế thế giới. Thể hiện rõ nét thông qua 2 bản
hiến pháp 1946 và hiến pháp 1992. Năm 1946 miền bắc mới giành chính quyền ,
nền kinh tế còn gặp rấ nhiều khó khăn. Với nền kinh tê quan liêu bao cấp, hiến
pháp 1946 quy định: Loại hình kinh tế là sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân ), là
loại hình sở hữu mà một cộng đồng các thành viên của xã hội chiếm chung tư liệu
sản xuất ở những qui mô khác nhau , liên kết với nhau trong lao động và có địa vị

ngang nhau về kinh tế. Việc sử dụng, chi phối tơ liệu sản xuất đều phục tùng lợi
ích xã hội là khi tư liệu sản xuất thuộc toàn xã hội thì sản xuất hàng hóa và Trao
đổi hàng hóa sẽ không còn.Trong giai đoạn xã hội chủ nghĩa khi đó thì sản phẩm
lao động không còn bị người bóc lột chiếm hữu mà được phân phối theo lợi ích
ngơời lao động , dùng cho nhu cầu chung của xã hội.
Còn sau đại hội VI đất nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới. Nền kinh tế có sự mở
rộng, giao lưu quốc tế. thì hiến pháp 1992 lại có sự thay đổi mới cho phù hợp với
tình hình kinh tế mới
- Hiến Pháp năm 1992 :Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trơờng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN . Cơ


cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất ,kinh doanh đa
dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng. Các thành
phần kinh tế: kinh tế quốc doanh , KT tập thẻ , KT cá thể , kinh tế tư bản tư nhân
và KT tư bản nhà nước , KT có vốn đầu tơ nước ngoài.
Điều 20 : KT tập thể do công dân góp vốn , góp sức lực hợp tác sản xuất , kinh
doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện , dân chủ và
cùng có lợi.NN tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có
hiệu quả.
Điều 21 : KT cá thể , kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức SX , KD
được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong những
ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.KT gia đình được khuyến khích phát triển.
Điều 24 :NN thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động KT đối ngoại , phát triển
các hình thức quan hệ KT với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập , chủ quyền và cùng có lợi , bảo vệ thúc đẩy sản xuất trong nước.
Điều 25 : NN khuyến khích các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tơ vốn , công nghệ
vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, Pháp luật và thông lệ quốc tế , đảm
bảo quyền sở hữu hợp tác đối với vốn , tài sản và các quyền lợi khác của các tổ
chức, cá nhân nước ngoài.Doanh nghiệp có vốn đầu tơ nước ngoài không bị quốc

hữu hoá.
Nền KT nước ta qua từng thời kì đã phát triển ngày càng đa dạng phong phú, đáp
ứng đơợc nhu cầu của xã hội . Trước kia nền KT chỉ bó buộc trong phạm vi lãnh
thổ nay đã phát triển ra phạm vi quốc tế. Nền Kt vốn nghèo nàn lạc hậu biến thành
một nền KT quốc dân theo CNXH với nền công nghiệp và Nông nghiệp hiện đại ,
khoa học kĩ thuật tiên tiến.
2. Một số thành tựu cụ thể:
Về số lượng, trong những năm 2004 – 2009, Quốc hội đã ban hành 103 luật và các
bộ luật. Ngoài ra còn rất nhiều các văn bản pháp quy do Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước ban hành. Trước đây, từ năm
1946 đến năm 1986, Quốc hội chỉ ban hành được 32 văn bản (Hiến pháp, luật, bộ
luật); trong thời kỳ Đổi mới, từ năm 1987 đến 1992, Quốc hội khoá VIII đã ban
hành 32 văn bản; Quốc hội khoá IX (1992 – 1997) ban hành 41 văn bản.
Các văn bản pháp luật giai đoạn này đã thể hiện những nội dung về những định
hướng chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010 của
Đảng, cụ thể:


2.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế
trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Cùng với sự đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm
hoạt động của Đảng phù hợp với Hiến pháp và pháp luật là quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, của Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân, các thiết chế, tổ chức xã hội.
Các luật tổ chức: Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân,
HĐND và UBND… không ngừng được hoàn thiện. Các luật có liên quan đến hoạt
động của các cơ quan nhà nước cũng được ban hành như: Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2008; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND và UBND năm 2004; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2007; Luật Cán

bộ, công chức năm 2008.
Theo Chiến lược lập pháp, Nhà nước Việt Nam tiến hành xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về tổ chức cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phù
hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước; Chính phủ tập trung vào
chức năng quản lý, điều hành vĩ mô, thực hiện đúng vai trò là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất. Đến năm 2010 sẽ xoá bỏ vai trò chủ quản của cơ quan hành
chính đối với doanh nghiệp để các cơ quan này tập trung làm tốt chức năng quản lý
nhà nước theo luật, đẩy mạnh xã hội hoá một số dịch vụ công (TP. Hồ Chí Minh
đang triển khai tổ chức Thừa phát lại). Đặc biệt, cải cách thủ tục hành chính là một
nội dung quan trọng trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước. Đề
án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý Nhà nước giai
đoạn 2007-2010 được Thủ tướng ban hành theo Quyết định số 30/QĐ – TTg ngày
10/01/2007 đã được triển khai và kết thúc giai đoạn 1 với việc công bố bộ thủ tục
hành chính của các bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là một đề án
lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân, doanh nghiệp. Các bộ luật tố
tụng tư pháp (dân sự và hình sự) đã xác định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp, trung tâm là Toà án, bảo đảm Toà án xét xử
độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử
của Toà án sơ thẩm và Toà án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử,
đề cao nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng tư pháp nói chung. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
không những chỉ ghi nhận và đề cao nguyên tắc tự định đoạt của đương sự mà còn


xác định lại vị trí, vai trò tố tụng của Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và
các chủ thể khác trong tố tụng dân sự như luật sư, công chứng viên, giám định
viên… Có thể nói, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 là bước đầu pháp điển hoá
pháp luật về tố tụng dân sự, góp phần khắc phục những hạn chế trong pháp luật về
tố tụng dân sự nói riêng. Gần đây, Luật Thi hành án dân sự được ban hành năm

2008 đã tăng cường cơ sở pháp lý cho cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu,
quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.
2.2. Tăng cường xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân
Trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật, vấn đề lồng ghép giới, bảo đảm
bình đẳng giới là một yêu cầu quan trọng. Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống
bạo lực trong gia đình đã được ban hành. Các văn bản pháp luật như Luật Sở hữu
trí tuệ (được sửa đổi, bổ sung năm 2009); Luật Kinh doanh bất động sản; Luật Nhà
ở… đã được ban hành nhằm hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước,
nhất là Toà án trong việc bảo vệ các quyền tự do, dân chủ. Luật Tương trợ tư pháp
năm 2007; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009; Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009; Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998
được sửa đổi, bổ sung năm 2005 đã củng cố cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền
con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
2.3. Các đạo luật và bộ luật đã chú trọng xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân sự,
kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà
quan trọng nhất là pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc
công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm Thành tựu nổi bật nhất với
việc ban hành Bộ luật dân sự năm 2005 là sự thống nhất pháp luật về hợp đồng.
Tiếp theo là sự thống nhất pháp luật doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp năm 2005),
mặc dù Luật Doanh nghiệp Nhà nước vẫn tiếp tục có hiệu lực, rồi tiếp đến là thống
nhất pháp luật đầu tư. Còn Luật Thương mại thì đã được phát triển theo hướng mở
rộng và chuyên biệt hóa. Đây là những điểm sáng của quá trình xây dựng và hoàn
thiện thể chế thị trường ở Việt Nam, là cơ sở cho sự thống nhất hệ thống “luật đầu
tư”, tạo tiền đề cho hoàn thiện thể chế thị trường định hướng XHCN. Đến nay,
Luật Doanh nghiệp năm 2005; Luật Đầu tư năm 2005; Luật Nhà ở năm 2005; Luật
Giao dịch điện tử năm 2005… đã tạo cơ sở cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường;
ban hành các đạo luật về tài nguyên, môi trường theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ,



phát triển bền vững, bảo đảm kết hợp hài hoà giữa việc sử dụng và bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên.
2.4. Không ngừng hoàn thiện pháp luật về giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ;
y tế, văn hoá – thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và
chính sách xã hội.
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Luật Giáo dục năm 2005
(được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009); Luật Đa dạng sinh học năm 2008;
Luật Công nghệ cao năm 2008; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007;
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006; Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009… và rất
nhiều văn bản pháp luật về chính sách xã hội được ban hành. Hiện tại, Dự án Luật
Nuôi con nuôi đang được soạn thảo, dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào năm
2010.5 Hoàn thiện các văn bản áp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, ự, an
toàn xã hội Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với bối cảnh
quốc tế hiện nay, Nhà nước ta vẫn không ngừng quan tâm đến việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia. Các luật liên
quan đến lĩnh vực này đã được ban hành như: Luật An ninh quốc gia năm 2004;
Luật Quốc phòng năm 2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nghĩa vụ
quân sự năm 2005; Luật Công an nhân dân năm 2005; Luật sửa đổi một số điều
Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 2008;…Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã thể hiện chính sách hình sự của Nhà
nước ta là hoàn thiện pháp luật phòng, chống tội phạm trên cơ sở phát huy sức
mạnh của toàn xã hội trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, hoàn
thiện chính sách hình sự theo hướng hạn chế hình phạt tử hình, giảm hình phạt tù,
mở rộng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với các loại tội ít
nghiêm trọng.
2.6. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế, thể hiện trong các lĩnh
vực kinh tế, thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ
môi trường…Trong những năm qua, các đạo luật đã thể hiện việc ưu tiên xây dựng
các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đã khẩn trương hoàn thiện pháp luật theo
yêu cầu gia nhập WTO, thực hiện các cam kết với ASEAN, tham gia đầy đủ vào
AFTA năm 2006, phê chuẩn Hiến chương ASEAN, tiến tới cộng đồng kinh tế châu
Á vào năm 2020.
Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế phù hợp với tập quán thương
mại quốc tế (tăng cường trọng tài, hoà giải). Việt Nam đã ban hành Luật Tương trợ


tư pháp năm 2007, đang tiến hành xây dựng Luật Trọng tài thương mại,…
3. Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
Bất cập rõ nét nhất, bao trùm nhất là tính khả thi, tính hiệu quả của pháp luật còn
rất thấp. Điều này được thể hiện ở chỗ các văn bản của pháp luật càng nhiều hơn
nhưng các đạo luật thay đổi thường xuyên, tốn kém nhiều tiền của, nguồn lực cho
việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật. Chúng ta cũng có thể giải thích rằng
nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi, các quan hệ kinh tế – xã hội chưa ổn định,
luôn nảy sinh vấn đề mới. Tuy nhiên, việc pháp luật, các đạo luật thay đổi thường
xuyên làm cho trật tự pháp luật không ổn định, pháp luật không thực sự đi vào
cuộc sống. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém hiệu quả của hệ thống
pháp luật. Nhưng nguyên nhân đầu tiên, nguyên nhân cơ bản nhất đó là do hệ
thống pháp luật Việt Nam chưa thật sự đồng bộ, chưa đầy đủ và thiếu tính hệ
thống. Nguồn gốc sâu xa của tình trạng này là thực trạng nhận thức về pháp luật và
hệ thống pháp luật chưa khoa học. Chúng ta quan tâm quá nhiều đến lập pháp, ban
hành nhiều đạo luật, nhưng những thay đổi cơ bản trong tư duy, lý luận mới chỉ
được thể hiện ở tầm vĩ mô, trong chính sách và các văn bản pháp luật nên rất khó
và chậm đi vào cuộc sống. Quy trình và thủ tục để pháp luật đi vào cuộc sống quá
phiền hà và tốn kém. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân. Do đó, pháp luật phải phản ánh được ý chí, nguyện vọng và
phục vụ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Mặt khác, điều quan trọng nhất
trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật là phải thấy được vai trò và mối liên
hệ biện chứng giữa pháp luật với đời sống xã hội, mối liên hệ giữa pháp luật với

các bộ phận khác thuộc thượng tầng kiến trúc, hệ tư tưởng chính trị – pháp lý.
Trong thời gian qua, quy trình soạn thảo, ban hành luật đã được đổi mới rất nhiều.
Đa số các dự án luật đều được xây dựng trên cơ sở quy trình lập pháp dân chủ,
tổng hợp ý kiến của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy từ các Dự
thảo đến kết quả ban hành các đạo luật có nhiều cơ quan làm cho kết quả cuối cùng
của văn bản luật chưa phản ánh thực tế yêu cầu cuộc sống. Vì vậy, cần bổ sung quy
định về chủ thể thẩm tra dự án luật. Nên chăng, cần thành lập trong các ủy ban, hội
đồng thẩm tra bao gồm các chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên ngành.
Bên cạnh đó, cần thấy được tính đa dạng của cuộc sống để đảm bảo tính linh hoạt
của pháp luật bên cạnh yêu cầu về tính cưỡng chế, tính nghiêm minh của pháp luật.
Pháp luật là đại lượng chung mang tính thống nhất, phổ biến. Do đó, không thể đòi
hỏi các quy định của các đạo luật quá cụ thể, chi tiết. Các quy phạm pháp luật dù


cụ thể và chi tiết đến đâu, vẫn phải trong một mức độ nhất định mang tính khái
quát. Ví dụ: quy định quá cụ thể như trong Bộ luật Dân sự về tỷ lệ lãi suất ngân
hàng hay như trong Bộ luật Hình sự về mức độ giá trị để truy tố (500.000 đồng
trước đây và 2 triệu đồng hiện nay) là quá gò ép, khiên cưỡng, thiếu thực tế. Một
vụ ăn trộm một đàn vịt 100 con tính theo thời giá chưa đến 2 triệu đồng, chưa thể
khởi tố. Nhưng đàn vịt 100 con đối với bà con nông dân tại huyện Tiên Lãng và
nhiều nơi khác có giá trị lớn và ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân . Trong khi
đó, tại nhiều nơi, nhiều vùng nông thôn, miền núi nước ta trong những năm gần
đây nạn trộm cắp đang có chiều hướng gia tăng.
Tăng cường tính nghiêm minh, tính răn đe của pháp luật phải tiến hành đồng thời
với giáo dục ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, tăng cường các biện pháp
bảo đảm tính thực thi của pháp luật. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp giáo
dục, đề cao các quy tắc xử sự mang tính xã hội với các biện pháp chế tài mang tính
hệ thống, đồng bộ là yêu cầu của điều chỉnh pháp luật, tăng cường đề cao vai trò
pháp luật dân sự và các chế tài mang tính dân sự-kinh tế là yêu cầu của thể chế thị
trường có hiệu quả. Do vậy, suy cho cùng, hiệu quả của pháp luật không chỉ dừng

lại ở các đạo luật và bộ luật, mà là ở các thiết chế, tổ chức, cơ chế thực thi, đặc biệt
là con người.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với quá trình cải cách đổi mới, cần thường xuyên
tổng kết thực tiễn để bổ sung và tăng cường nâng cao trình độ nhận thức lý luận về
nhà nước và pháp luật cho đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các cơ quan, bộ máy nhà
nước, đặc biệt là trong cơ quan hành pháp và tư pháp, bởi vì nếu không có lý luận
soi đường thì hoạt động thực tiễn sẽ hết sức tùy tiện, có thể làm cho pháp luật bị
bóp méo, không có hiệu quả hoặc hiệu quả rất thấp kém. Một trong những yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền là độc lập của tư pháp. Vì vậy, để tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần đề cao và bảo
đảm sự hài hòa giữa tính thống nhất của pháp luật với tính sáng tạo trong xét xử và
thẩm quyền giải thích pháp luật của Tòa án.

CHƯƠNG 3: NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT NHẰM PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan


×