Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VKD ở Công ty TNHH MTV đầu tư Việt Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.78 KB, 88 trang )

Luận văn cuối khoá
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được coi như là những tế
bào của xã hội mà sự tồn tại và phát triển của chúng đóng vai trò quan trọng đối
với nền kinh tế quốc dân. Đối với các doanh nghiệp nói chung và công ty bia
Việt Hà nói riêng thì sự phát triển của nó hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động tài
chính của bản thân doanh nghiệp hay nói cách khác là phụ thuộc vào hiệu quả
quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp mình bởi vì,Vốn vừa là cơ sở, vừa là
phương tiện cho quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Hay nói đúng
hơn không có vốn doanh nghiệp không thể thực hiện bất kỳ một hoạt động sản
xuất kinh doanh nào.Hơn nữa, mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi
nhuận. Vì thế, nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay là phải sử dụng vốn


sao cho có hiệu quả. Sử dụng vốn có hiệu quả nghĩa là phải bảo toàn được số
vốn bỏ ra và làm cho đồng vốn không ngừng sinh sôi nảy nở nhưng vẫn dựa trên
cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính tín dụng và quy định của lụât pháp.
Việc sử dụng vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề cấp bách có
tầm quan trọng đặc biệt đối với doanh nghiệp
Qua hai tháng thực tập tại Công ty TNHH MTV Việt Hà, được sự giúp
đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn và các cán bộ phòng kế toán của Công ty đặc
biệt là anh Nguyễn Ngọc Tuấn, em đã từng bước làm quen với thực tế ,vận dụng
lý luận vào thực tiễn của Công ty, Do đã nhận thức được tầm quan trọng của
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, em đã đi sâu nghiên cứu và hoàn thành luận
văn tốt nghiệp với đề tài: " Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
VKD ở Công ty TNHH MTV đầu tư Việt Hà ".

Với phương pháp nghiên cứu kết hợp lý luận với thực tiễn trên cơ sở phân
tích các hoạt động tài chính của công ty, luận văn nhằm nêu rõ bản chất và vai
trò của vốn trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc và nội dung trong công tác
sử dụng vốn của doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

1


Luận văn cuối khoá
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty bia Việt Hà.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương:
Chương I - Những vấn đề lý luận chung về hiệu quả sử dụng VKD.
Chương II - Thực trạng hiệu quả sử dụng VKD ở công ty Việt Hà
Chương III - Một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng VKD ở công ty bia Việt Hà
Do thời gian thực tập, điều kiện nghiên cứu và trình độ kiến thức còn hạn
chế nên luận văn tốt nghiệp của em sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em rất
mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài nghiên
cứu của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô Nghiêm Thị Thà - Tiến sĩ - giảng viên
khoa Tài chính doanh nghiệp – Học viện tài chính cùng tập thể cán bộ phòng kế

toán tài chính của Công ty Việt Hà đã giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành
luận văn tốt nghiệp này.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

2


Luận văn cuối khoá

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN KINH DOANH VÀ
HIỆU QUẢ SỪ DỤNG VKD CỦA DOANH NGHIỆP

1.1. Vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng về VKD
Vốn luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của một
doanh nghiệp, không chỉ là điều kiện tiên quyết đối với sự ra đời của doanh
nghiệp mà nó còn là một trong những yếu tố giữ vai trò quyết định trong quá
trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp .Để định nghĩa “vốn là gì?” các
nhà kinh tế đã tốn rất nhiều công sức và mỗi người đều có những định nghĩa
riêng, theo quan điểm riêng của mình.
Theo quan điểm của Mac (trong Bộ Tư bản) thì phạm trù vốn được khái
quát qua phạm trù tư bản "Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư". Định
nghĩa này đã bao hàm đầy đủ bản chất và tác dụng của vốn
Còn theo David Begg, tác giả cuốn “kinh tế học”, thì vốn bao gồm: vốn

hiện vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hóa đã sản
xuất để sản xuất ra các hàng hóa khác, vốn tài chính là các tiền và các giấy tờ có
giá của doanh ngiệp.
Trong định nghĩa của mình, tác giả đã đồng nhất vốn với tài sản của
doanh nghiệp. Thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả
tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp
được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp.. Bất cứ doanh nghiệp
nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư
cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, mua sắm nguyên vật liệu, trả lãi vay,
nộp thuế…đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được liên
tục, chi phí mua công nghệ và máy móc thiết bị mới… để tái sản xuất mở rộng.
Do vậy vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau

để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường. Số tiền mà
doanh nghiệp thu về sau quá trình tiêu thụ phải bù đắp được chi phí đã bỏ ra và
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

3


Luận văn cuối khoá
có lãi. Số tiền ban đầu đã được tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá
trình này diễn ra liên tục bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Theo giáo trình tài chính học (Học viện tài chính) thì: "Vốn kinh doanh
trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt". Tiền được coi là vốn

phải thoả mãn những điều kiện sau:
Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định. Hay tiền
phải được bảo đảm bằng một lượng tài sản có thực.
Hai là: Tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định đủ để
tiến hành kinh doanh.
Ba là: Khi đã có đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích
sinh lời. Như vậy, trong 3 điều kiện trên thì điều kiện 1, 2 được coi là điều kiện
cần để tiền trở thành vốn, còn điều kiện 3 được coi là đặc trưng cơ bản của vốn.
Tiền không thể là vốn nếu tiền không vận động nhằm mục đích sinh lời. Sự vận
động của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh có thể được hình dung qua sơ
đồ sau:
TSLĐ

T-H

. . . SX . . . H' . . . T'

(T' > T)

ĐTLĐ
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được bắt đầu là vốn ở hình thái
tiền tệ mà doanh nghiệp phải bỏ ra để mua tư liệu lao động và đối tượng lao
động phục vụ cho quá trình sản xuất. Lúc này vốn đầu tư từ hình thái tiền tệ
chuyển sang hình thái hàng hoá. Qua quá trình tạo ra sản phẩm lao vụ và dịch
vụ, vốn vẫn ở hình thái hàng hoá. Cuối cùng khi tiêu thụ xong hàng hoá (sản

phẩm, lao vụ và dịch vụ) vốn lại từ hình thái hàng hoá chuyển sang hình thái
tiền tệ. Như vậy, trong suốt quá trình vận động đồng vốn có thể thay đổi hình
thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải
là giá trị, song với giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Nhờ có sự vận động đó, đồng
vốn mới có khả năng sinh lời, giúp cho các doanh nghiệp đạt được mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

4



Luận văn cuối khoá
Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất
cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình
sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản
xuất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục
Do có rất nhiều quan niệm về vốn nên rất khó có một định nghĩa chính xác
va hoàn chỉnh về vốn. Tuy nhiên có thể hiểu một cách khái quát về vốn như sau:
VKD của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được
đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Như vậy, có thể thấy một cách rõ ràng rằng: Để tiến hành sản xuất kinh
doanh thì bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải có vốn. Vốn là điều kiện đầu
tiên và có ý nghĩa quyết định đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

Tuy nhiên phải quản lý và sử dụng vốn như thế nào lại có ý nghĩa quan trọng
ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của doanh nghiệp.
Do đó, để quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, ta phải nhận thức đầy
đủ về những đặc trưng cơ bản sau của vốn.
Thứ nhất: Vốn phải đại diện cho 1 lượng giá trị tài sản. Điều này có
nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình
như: Nhà cửa, đất đai, bản quyền phát minh sáng chế... Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì những tài sản
vô hình ngày càng phong phú, đa dạng và giữ vai trò quan trọng trong việc tạo
ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Thứ hai: Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản
lý chặt chẽ. Nếu không xác định chủ sở hữu thì việc sử dụng vốn và tài sản sẽ

lãng phí và kém hiệu quả.
Thứ ba: Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một hàng hoá đặc biệt. Sở dĩ
ta nói vốn là một hàng hoá vì nó có giá trị và giá trị sử dụng như mọi hàng hoá
khác. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Tuy nhiên vốn lại khác những hàng
hoá khác. Đó là quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn có thể gắn với nhau
nhưng cũng có thể tách rời nhau.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

5


Luận văn cuối khoá

Thứ tư: Vốn phải được tích tụ, tập trung đến 1 lượng nhất định mới có thế
phát huy được tác dụng. Do vậy các doanh nghiệp không chỉ có nhiệm vụ khai
thác tiềm năng về vốn mà còn phải tìm cách thu hút các nguồn vốn.
Thứ năm: Vốn có giá trị về mặt thời gian, điều này rất có ý nghĩa khi bỏ
vốn đầu tư và tính hiệu qủa của đồng vốn mang lại.
1.1.2 . Phân loại VKD
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì vốn kinh doanh của
doanh nghiệp bao gồm 2 loại vốn là VCĐ và VLĐ.
1.1.2.1 . Vốn cố định của doanh nghiệp:
Quản lý vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác
quản lý tài chính doanh nghiệp. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh,
sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó –

tài sản cố định và được tuân theo tính quy luật nhất định. Vì vậy để quản lý, sử
dụng có hiệu quả vốn cố định trước hết cần nghiên cứu tính chất và đặc điểm
của tài sản cố định trong doanh nghiệp
Trong nền sản xuất hành hóa, để tiến hành sản xuất sản phẩm, bao giờ
cũng có các yếu tố: sức lao động, tư liệu sản xuất và tiền. Căn cứ vào tính chất
và tác dụng tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất được chia làm hai
bộ phận: đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tài sản cố định là những tư liệu
lao động chủ yếu dược tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện
vận tải, các công trình kiến trúc, các chi phí mua bằng phát minh sang
Khác với đối tượng lao động, đặc điểm cơ bản của tài sản cố định-những tư
liệu lao động chủ yếu là chúng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều

chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tài sản cố định bị hao mòn song
chúng vẫn giữ nguyên hình thái biểu hiện vật chất ban đầu. Chỉ khi nào chúng
đã bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì
khi đó chúng mới cần được thay thế đổi mới.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

6


Luận văn cuối khoá
Bên cạnh những đặc điểm nêu trên, một tư liệu lao động chỉ được coi là tài

sản khi nó là sản phẩm của lao động. Do đó, tài sản cố định không chỉ có giá trị
sử dụng mà còn có giá trị. Nói cách khác tài sản cố định phải là một hàng hóa
như mọi hàng hóa thông thường khác. Thông qua mua bán trao đổi nó có thể
chuyển quyền sở hữu và quyền sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể khác trên thị
trường tư liệu sản xuất. Việc quản lý tài sản cố định trên thực tế là một công
việc phức tạp. Để giảm nhẹ khối lượng quản lý về tài chính kế toán, người ta có
những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn của một tài sản cố định.
Thông thường một tư liệu lao động phải được đồng thời thỏa mãn hai tiêu chuẩn
sau đây mới được coi là tài sản cố định:
- Phải có thời gian sử dụng tối thiểu một năm trở lên.
- Phải có giá trị tối thiểu đến một mức độ nhất định. Riêng tiêu chuẩn
này thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp vói tình hình thời giá của từng thời

kỳ. Hiện nay theo quy định là TSCĐ phải có trị giá từ 5 triệu đồng trở lên.
Qua những phân tích nêu trên, có thể rút ra định nghĩa về tài sản cố định
trong doanh nghiệp như sau:
Tài sản cố định trong doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu mà
đặc điểm của chúng là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó,
giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu
tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm của
chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, để mua sắm, xây dựng tài sản cố
định trước hết cần phải có một số vốn nhất định. Vốn tiền tệ ứng trước để mua
sắm, xây dựng tài sản cố định hữu hình hoặc những chi phí đầu tư cho những
tài sắm cố định không có hình thái vật chất được gọi là vốn cố định của doanh

nghiệp. Là khoản tiền ứng trước về tài sản cố định, quy mô của vốn cố định sẽ
quyết định quy mô của tài sản cố định. Song đặc điểm vận động của tài sản cố
định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định. Trên ý
nghĩa của mối liên hệ này, có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động
của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh như sau:
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

7


Luận văn cuối khoá
- Vốn cố định được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Có đặc điểm này

là do tài sản cố định có thể phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất, vì thế vốn cố
định-hình thái biểu hiện bằng tiền của nó được tham gia vào các chu kỳ sản xuất
tương ứng.
- Vốn cố định được luân chuyển từng phần. Khi tham gia vào quá trình
sản xuất, giá trị sử dụng của tài sản giảm dần. Theo đó vốn cố định cũng được
tách ra làm hai phần: một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm (dưới
hình thức chi phí khấu hao) tương ứng giảm dần giá trị sử dụng tài sản cố định.
Kết thúc sự biến thiên nghịch chiều đó, cũng là lúc tài sản cố định cũng hoàn
thành một vòng luân chuyển.
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về vốn cố định:
Vốn cố định của một doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng
trước về tài sản cố định, mà đặc điểm của nó là chu chuyển giá trị dần dần từng

phần trong nhiều chu kỳ kinh doanh và hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái
sản xuất,được tài sản cố định về mặt giá trị
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là một bộ phận quan trọng của vốn
đầu tư nói riêng, của vốn sản xuất nói chung. Quy mô của vốn cố định và trình
độ quản lý, sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng đến trình độ trang bị kỹ thuật. Do ở
vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó lại tuân theo tính quy luật riêng nên
việc quản lý vốn cố định được coi là một trọng điểm của công tác tài chính
doanh nghiệp.
1.2.1.2. Vốn lưu động:
Trong phần trên ta đã biết rằng, tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao
động và tư liệu lao động Đúng vậy, mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành sản
xuất kinh doanh, ngoài tư liệu lao động ra còn phải có đối tượng lao động. Đối

tượng lao động khi tham gia quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật
chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình
chế biến hợp thành thực thể của sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm
được thực hiện.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

8


Luận văn cuối khoá
Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận.
Một bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được diễn

ra liên tục (nguyên, nhiên vật liệu), một bộ phận khác chính là những vật tư
đang trong quá trình chế biến (sản phẩm chế tạo, bán thành phẩm). Hai bộ phận
này biểu hiện dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động. Để phục vụ cho qua
trình sản xuất còn cần phải dự trữ một số công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế,
vật đóng gói cũng được coi là tài sản lưu động. Mặt khác quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp luôn gắn liền vói quá trình lưu thông. Trong quá trình
lưu thông còn phải tiến hành một số công việc như chọn lọc đóng gói, xuất giao
sản phẩm và thanh toán…Do đó hình thành một số khoản hàng hoá và tiền tệ,
vốn trong thanh toán….
Tài sản lưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm
trong quá trình lưu thông thay chỗ cho nhau vận động không ngừng nhằm đảm
bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.

Như vậy, doanh nghiệp nào cũng cần phải có một số vốn thích đáng để đầu
tư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản đó được gọi là vốn lưu
động của doanh nghiệp.
Vốn lưu động được chuyển hóa qua nhiều hình thái khác nhau, bắt đầu là
tiền tệ sang hình thái vật tư hàng hóa và cuối cùng trở về hình thái tiền tệ ban
đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục không ngừng, cho nên
vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng , hoàn thành một vòng tuần hòan sau
một chu kỳ sản xuất.
Tóm lại, vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu
động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành
thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong
một lần và được thu hồi toàn bộ, hoàn thành một vòng luân chuyển khi kết thúc

một chu kỳ kinh doanh
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái
sản xuất. Muốn cho qua trình tái sản xuất đượcdiễn ra liên tục, doanh nghiệp
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

9


Luận văn cuối khoá
phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau đó, khiến cho các
hình thái mức tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy sẽ khiến cho chuyển
hóa của vốn được thuận lợi. Nếu như doanh nghiệp nào đó không đủ vốn thì tổ

chức sử dụng vốn sẽ gặp khó khăn, và do đó quá trình sản xuất cũng gặp trở
ngại hoặc gián đoạn..
Việc tổ chức và quản lý vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh
là rất quan trọng. Người quản lý phải biết phân phối nguồn vốn lưu động trong
từng khâu dự trữ, sản xuất, lưu thông một cách hài hòa, không để vốn lưu động
ứ thừa quá nhiều ở bất kỳ khâu nào. Doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động càng
có hiệu quả thì càng sản xuất ra được nhiều sản phẩm, điều đó thể hiện tốt sự kết
hợp hài hòa quá trình mua sắm, sản xuất và tiêu thụ.
1.1.2.2. Căn cứ vào nguồn hình thành:
Nguồn vốn kinh doanh được chia thành các loại:
Nguồn vốn do chủ kinh doanh đầu tư ban đầu: Đây là nguồn hình thành
vốn ban đầu gọi là vốn điều lệ. Nguồn vốn này là cơ sở xác định quyền sở hữu

đối với doanh nghiệp. Ở doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn này do Nhà nước
đầu tư, đó là nguồn vốn được hình thành từ quỹ tích luỹ của ngân sách đã được
dùng vào mục đích phát triển kinh tế. Ở các doanh nghiệp cổ phần, nguồn vốn
này là do vốn góp cổ phần của các cổ đông.
Nguồn vốn tự bổ sung: Là vốn được hình thành từ lợi nhuận để lại từ
vốn vay sau khi đã trả hết nợ và lãi suất tiền vay, từ quỹ của doanh nghiệp được
bổ sung vào vốn.
Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Là vốn do các đơn vị khác tham gia liên
doanh liên kết với doanh nghiệp. Vốn này được đóng góp theo tỷ lệ của các chủ
đầu tư cùng kinh doanh và hưởng lợi nhuận .
Nguồn vốn tín dụng: Là các khoản vốn mà doanh nghiệp vay ngắn hạn,
dài hạn của ngân hàng, các khoản vay của đơn vị tổ nhức như: Công ty tài

chính , công ty bảo hiểm, ngân hàng thương mại, của các cá nhân trong và ngoài
nước, cũng có thể bằng hình thức doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy
động vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh...
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

10


Luận văn cuối khoá
1.1.2.3. Căn cứ vào mối quan hệ sở hữu về vốn:
Nguồn vốn kinh doanh được chia làm 2 loại: Nguồn vốn chủ sở hữu và nợ
phải trả.

Vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ sở hữu doanh
nghiệp bao gồm vốn đIều lệ do chủ sở hữu đầu tư, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận
và từ các quỹ của doanh nghiệp, vốn do nhà nước tài trợ (nếu có).
Nợ phải trả: Là số vốn doanh nghiệp được sử dụng tạm thời trong một
thời gian nhất định bao gồm những khoản vốn phát sinh một cách tự động và các
khoản nợ phát sinh trong qúa trình kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm
phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế như: Nợ tiền vay ngân hàng và các tổ
chức kinh tế khác, nợ phải trả cho người bán, phải trả công nhân viên, phải nộp
cho nhà nước...
Thông thường một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn: Vốn
chủ sở hữu và nợ phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Sự kết hợp chặt chẽ 2 nguồn này phụ thuộc vào đặc

điểm của doanh nghiệp đang hoạt động cũng như quyết định của người quản lý
doanh nghiệp trên cơ sở xem xét tình hình chung của nền kinh tế và trên tình
hình thực tế tại doanh nghiệp.
1.1.2.4. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn:
Có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành 2 loại: Nguồn vốn thường
xuyên và nguồn vốn tạm thời.
Nguồn vốn thường xuyên: Là nguồn vốn có tính chất ổn định và dài hạn
mà doanh nghiệp có thể sử dụng bao gồm bao gồm vốn riêng và các khoản vay
dài hạn (vốn chủ sở hữu và các tài khoản vay dài hạn). Nguồn vốn này được
dành cho việc đầu tư mua sắm TSCĐ mới và một phần TSCĐ thường xuyên tối
thiểu cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tạm thời:,là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà

doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất
thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

11


Luận văn cuối khoá
vốn này bao gồm: Các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các
khoản nợ ngắn hạn khác...
TS=TSLĐ+TSCĐ
NV=nợ ngắn hạn+nợ dài hạn+vốn chủ sở hữu

Vốn tạm thời=nợ ngắn han
Vốn thường xuyên=Nợ dài hạn+VCSH
Việc phân loại nguồn vốn theo cách này giúp cho người quản lý xem xét
huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng đầy
đủ kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
doanh nghiệp. Cách phân loại này còn giúp các nhà quản lý doanh nghiệp lập
các kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn
trong trong lai trên cơ sở xác định quy mô về số lượng vốn cần thiết, lựa chọn
nguồn vốn và quy mô thích hợp cho từng ngồn vốn đó.
1.1.2.5. Căn cứ vào phạm vi hoạt động:
Nguồn vốn của doanh nghiệp có thể chia làm 2 loại: Nguồn vốn bên trong
và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.

Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động được
từ kết quả hoạt động của doanh nghiệp của doanh nghiệp bao gồm: Tiền khấu
hao TSCĐ, lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng dự trữ, các khoản thu từ
nhượng bán, thanh lý TSCĐ.
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể
huy động được từ bên ngoài để đáp ứng được nhu cầu về tiền vốn cho SXKD của
mình. Nguồn vốn này bao gồm: Vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế tín dụng
khác, phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác...
Cách phân loại này chủ yếu giúp cho việc xem xét huy động nhiệm vụ của
doanh nghiệp đang hoạt động. Nguồn vốn bên trong có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Việc doanh nghiệp huy động và sử
dụng nguồn vốn bên trong có ưu điểm là: Doanh nghiệp sẽ tự chủ được số vồn

cần thiết, không phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn. Còn nếu nguồn vốn bên
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

12


Luận văn cuối khoá
trong đã sử dụng hết nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn sản xuất, khi ấy
doanh nghiệp cần tìm đến nguồn tài trợ từ bên ngoài. Như vậy sẽ tạo cho doanh
nghiệp một cơ cấu vốn linh hoạt, tuy nhiên với cách huy động nguồn vốn từ bên
ngoài, doanh nghiệp sẽ trả lợi tức tiền vay và phải hoàn trả tiền vay đúng thời
hạn. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn vay kém hiệu quả và bối cảnh của nền kinh

tế thay đổi bất lợi cho doanh nghiệp thì nợ vay phải trả thành một gánh nặng và
doanh nghiệp phải chịu rủi ro lớn.
Tóm lại: Qua việc nghiên cứu các phương pháp phân loại nguồn vốn kinh
doanh cho ta thấy: Các doanh nghiệp hiện nay phải tăng cường quản lý và sử
dụng có hiệu quả đồng vốn hiện có. Bên cạnh đó cần đa dạng hoá các nguồn vốn
đáp ứng cho nhu cầu SXKD của doanh nghiệp một cách tốt nhất, có lợi nhất, chi
phí bỏ ra thấp nhất và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.2. Hiệu quả sử dụng VKD
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Vốn là điều kiện cần cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi
doanh nghiệp,nhưng chưa đạt được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp bởi
lẽ trong nền kinh tế thị trường mục đích cao nhất của mọi doanh nghiệp sản xuất

kinh doanh là lợi nhuận.Đồng nghĩa vớí việc doanh nghiệp phải khai thác và sử
dụng triệt để nguồn lực sẵn có của mình,trong đó sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn là yêu cầu bắt buộc đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Để làm rõ khái niệm hiệu quả sử dụng vốn ta tìm hiểu các khái niêm liên
quan:hiệu quả và hiệu quả kinh tê
Thông thường hiệu quả là mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của một
quá trình kinh tế-kĩ thuật nhằm đạt được mục đích xác định
Hiệu quả kĩ thuật là mối tương quan giữa đầu vào của các yếu tố sản xuất
khan hiếm và sản phẩm(hàng hóa,dịch vụ)ở đầu ra.Mối tương quan này có thể
đo lường theo theo hiện vật
Hiệu quả kinh tế là mối tương quan giữa đầu vào và đầu ra của quá trình
kinh doanh(hàng hóa.dịch vụ).Mối tương quan này được đo bằng thước đo tiền tệ

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

13


Luận văn cuối khoá
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
yếu tố đầu vào(nguồn nhân lực,vật lực) của doanh nghiệp để đạt được kết quả
cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí tiêt kiệm nhất
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh,vốn được sử dụng nhằm thu được
lợi nhuận trong tương lại.Nói cách khác,mục đích sử dụng vốn là thu lợi
nhuận,cho nên hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh được đánh giá dựa trên so sánh

tương đối giữa lợi nhuận và vốn bỏ ra hay hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác sử
dụng vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục tiêu
sinh lợi tối đa với chi phí hợp lý
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là mục tiêu hàng đầu của doanh
nghiệp.Nó không những đảm bảo cho doanh nghiệp an toàn về mặt tài chính,hạn
chế rủi ro,tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên,mở rộng sản xuất kinh
doanh,tăng lợi nhuận mà giúp doanh nghiệp tăng uy tín nâng cao khả năng cạnh
tranh và vị trí của doanh nghiệp trên thương trường.Có thể nói,hiệu quả sử dụng
vốn thực chất là thước đo trình độ sử dụng nguồn nhân lực,tài chính doanh
nghiệp,đó là vấn đề cơ bản gắn với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
1.2.2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ
∗ Tốc độ luân chuyển vốn lưu động:
Việc sử dụng hợp lý vốn lưu động biểu hiện ở tăng tốc độ luân chuyển
vốn lưu động. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên hiệu
suất sử dụng vốn lưu động cao hay thấp.
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được biểu hiện ở hai chỉ tiêu: Số lần
luân chuyển và kì luân chuyển vốn lưu động.
+ Số lần luân chuyển vốn lưu động (hay số vòng quay của vốn lưu động)
L=

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp


14


Luận văn cuối khoá
Trong đó: L: Số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ

M: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong kỳ ( hiện nay được xác
định bằng doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp
trong kỳ).

: Số vốn lưu động bình quân sử dụng trong kì.
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển vốn lưu động hay số vòng quay

của vốn lưu động thực hiện được trong một thời kì nhất định thường là một năm).
Trong đó vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản ngắn hạn; vốn
lưu động bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân số học giữa
vốn cố lưu động đầu kỳ và cuối kỳ.
+ Kỳ luân chuyển vốn lưu động.
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực
hiện được một lần luân chuyển hay độ dài thời gian một vòng quay của vốn lưu
động ở trong kỳ.
Công thức:
K=

K=


hay

Trong đó: K: Kỳ luân chuyển vốn lưu động

N: Số ngày trong kỳ (tính chẵn một năm là 360 ngày, một quý
là 90 ngày, một tháng là 30 ngày).
M: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong kì( hiện nay
được xác định bằng doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ của
doanh nghiệp trong kỳ).

: Số vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ được xác

đinh tương tự như trên.
∗ Mức tiết kiệm vốn lưu động:

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

15


Luận văn cuối khoá
Chỉ tiêu này phản ánh số vốn lưu động có thể tiết kiệm được do tăng tốc
độ luân chuyển vốn lưu động ở kỳ so sánh so với kỳ gốc.


Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

16


Luận văn cuối khoá
Công thức:
(+; -) =

x(

hoặc


=

Trong đó:

: Số vốn lưu động có thể tiết kiệm (-) hay phải tăng thêm (+) do ảnh
hưởng của tốc độ luân chuyển vốn lưu động kỳ so sánh so với kỳ gốc.
Tổng mức luân chuyển vốn lưu động kỳ so sánh ( hiện nay được xác
định bằng doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp
trong kỳ).
: Kỳ luân chuyển vốn lưu động kỳ so sánh, kỳ gốc.
Số lần luân chuyển vốn lưu động kỳ so sánh, kỳ gốc.



Hàm lượng vốn lưu động:
Hàm lượng vốn lưu động (hay còn gọi là sức đảm nhiệm vốn lưu động) là

số vốn lưu động cần có để đạt một đồng doanh thu thuần về tiêu thụ sản phẩm.
Công thức:
Hàm lượng vốn lưu động =

: Số vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ được xác đinh

Trong đó:


tương tự như trên.

: Doanh thu thuần bán hàng trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng doanh thu thuần về bán hàng cần
bao nhiêu vốn lưu động.
∗ Tỷ suất sinh lời vốn lưu động:
Tỉ suất lợi nhuận vốn lưu động = lợi nhuận sau thuế

Vốn lưu động bình quân
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp


17


Luận văn cuối khoá
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bình quân tham gia vào
hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuân sau thuế cho
doanh nghiệp.chỉ tiêu này càng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và
ngược lại
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định


Hiệu suất sử dụng vốn cố định:

Doanh thu thuần trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tham gia tạo ra bao

Hiệu suất sử dụng vốn cố định

=

nhiêu đồng doanh thu thuần bán hàng trong kỳ.chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ
hiệu suất sử dụng vốn cố định ngày càng cao
Trong đó vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản dài hạn; vốn cố
định bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân số học giữa vốn

cố định đầu kỳ và cuối kỳ.
∗ Hàm lượng vốn cố định:
Hàm lượng vốn cố định

Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ

=

Chỉ tiêu này phản ánh số vốn cố định cần thiết để tạo ra một đồng doanh
thu thuần trong kỳ (hay nói cách khác: Để tạo ra một đồng doanh thu thuần
trong kỳ cần bao nhiêu vốn cố định). Hàm lượng vốn cố định càng thấp, hiệu

suất sử dụng vốn cố định càng cao.
∗ Hiệu suất sử dụng tài sản cố định:
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản cố định trong kỳ tham gia tạo ra
bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Thông qua chỉ tiêu này cũng cho phép đánh giá
trình độ sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

18



Luận văn cuối khoá
Trong đó Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ được tính theo phương
pháp bình quân số học giữa nguyên giá TSCĐ đầu kỳ và cuối kỳ.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

19


Luận văn cuối khoá



Hàm lượng tài sản cố định:

Hàm lượng tài sản cố định
=
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu trong kỳ được tạo ra bởi bao
nhiều đồng tài sản cố định. ). Hàm lượng tài sản cố định càng thấp, hiệu suất sử
dụng tài sản cố định càng cao.
∗ Tỉ suất lợi nhuận vốn cố định:
Lợi nhuận sau thuế
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bình quân tham gia vào


Tỉ suất lợi nhuận vốn cố định

=

hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước hoặc
sau thuế cho doanh nghiệp.chỉ tiêu này càng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
càng cao
1.2.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Hiệu quả sử dụng tổng vốn có ý nghĩa then chốt và quyết định đối với sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tổng vốn
phản ánh kết quả tổng hợp quá trình sử dụng toàn bộ vốn và tài sản.Các chỉ tiêu
phán ánh chất lượng và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

bao gồm:
∗ Vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh:

=
Trong đó:

Doanh thu thuần bán hàng đạt được trong kỳ.
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

20



Luận văn cuối khoá
Chỉ tiêu này phản ánh vốn kinh doanh trong kỳ chu chuyển được bao
nhiêu vòng hay mấy lần. Chỉ tiêu này đạt cao, hiệu suất sử dụng vốn kinh doan
càng cao.
Trong đó vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ được xác định bằng
phương pháp bình quân số học của tổng tài sản hay tổng nguồn vốn đầu kỳ và
cuối kỳ.
∗ Tỉ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên vốn kinh doanh (hay tỉ suất
sinh lời của tài sản).
=

Trong đó:

: Tỉ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên vốn kinh doanh

: Lợi nhuận trước lãi vay và thuế của doanh nghiệp.
: Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ được xác định
tương tự như trên.
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn kinh
doanh, không tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc
của vốn kinh doanh.
∗ Tỉ suất lợi nhuận trước thuế vốn kinh doanh: là quan hệ giữa lợi nhuận
trước thuế với vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kì.

Công thức:

=
Trong đó:

: Tỉ suất lợi nhuận trước thuế vốn kinh doanh.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

21


Luận văn cuối khoá

: Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp

: Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ được xác định
tương tự như trên.
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong
kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế.
∗ Tỉ suất lợi nhuận sau thuế vốn kinh doanh: là quan hệ tỉ lệ giữa lợi nhuận
sau thuế với vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ.
Công thức:

Trong đó:


ROA: Tỉ suất sinh lời tài chính (tỉ suất lợi nhuận sau thuế vốn kinh doanh)
NI: Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ được xác định tương
tự như trên.
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong
kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
∗ Tỉ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu: là quan hệ tỉ lệ giữa lợi nhuận sau thuế
với vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ.
Công thức:
ROE =
Trong đó:


ROE: Tỉ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
NI: Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
E: Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong
kì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho chủ sở hữu.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

22


Luận văn cuối khoá
Trong đó vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ được xác định bằng

phương pháp số học bình quân vốn chủ sở hữu đầu kỳ và cuối kì.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp
1.2.3.1. Những nhân tố khách quan
Môi trường kinh doanh:
Doanh nghiệp là một cơ thể sống, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ
qua lại với môi trường xung quanh.
- Môi trường tự nhiên:
Là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như khí hậu,
thói tiết, môi trường. Khoa học càng phát triển thì con người càng nhận thức
được rằng họ là một bộ phận không thể tách rời của tự nhiên. Các điều kiện làm
việc trong môi trường tự nhiên thích hợp sẽ tăng năng suất lao động và tăng hiệu

quả công việc. Tính thời vụ, thiên tai, lũ lụt… gây khó khăn rất lớn cho nhiều
doanh nghiệp.
- Môi trường kinh tế:
Là tác động của các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân,
lạm phát, thất nghiệp, lãi suất, tỷ giá hối đoái…. đến các hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Chẳng hạn do nền kinh tế có lạm phát, sức mua của đồng tiền
giảm sút dẫn tới sự tăng giá các loại vật tư hàng hóa…Vì vậy, nếu doanh nghiệp
không kịp thời điều chỉnh giá trị của các loại tài sản đó thì sẽ làm cho vốn của
doanh nghiệp bị mât dần theo tốc độ trượt giá của tiền tệ
- Môi trường pháp lý:
Là hệ thống các chủ trương, chính sách, hệ thống pháp luật tác động đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Trên cơ sở pháp luật kinh tế và các biện pháp kinh tế, nhà nước tạo môi
trường điều hành cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng
các hoạt động đó theo kế hoạch vĩ mô. Với bất kỳ sự thay đổi nào trong chế độ
chính sách hiện hành đều chi phối các mảng hoạt động của doanh nghiệp. Các
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

23


Luận văn cuối khoá
văn bản pháp luật về tài chính, về quy chế đầu tư như các quy định về trích khấu
hao, về tỷ lệ trích lập các quỹ, các văn bản về thuế … đều ảnh hưởng lớn tới

hoạt động của doanh nghiệp.
- Môi trường chính trị, văn hóa:
Tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng tới khách hàng. Do đó
các phong tục tập quán của khách hàng sẽ ảnh hưởng trưc tiếp tới hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong môi trường
văn hóa lành mạnh, chính trị ổn định thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được
nâng cao.
- Môi trường khoa học công nghệ: Là sự tác động của các yếu tố như trình
độ tiến bộ của KHKT, công nghệ.
Trong điều kiện hiện nay,chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước
rất lớn.Doanh nghiệp muốn kinh doanh có hiệu quả thì phải nắm bắt được công
nghệ hiện đại vì công nghệ hiện đại sẽ giúp doanh nghiệp tăng năng suất, giảm

chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh…
- Môi trường cạnh tranh:
Cơ chế thị trường là cơ chế có sự cạnh tranh gay gắt. Bất cứ doanh nghiệp
nào muốn tồn tại và phát triển cũng đều phải đứng vững trong cạnh tranh.
Doanh nghiệp phải sản xuất ra mặt hàng mặt hàng phải căn cứ vào nhu cầu hiện
tại và tương lai. Sản phẩm để cạnh tranh phải có chất lượng cao, giá thành hạ,
mà điều này chỉ có ở những doanh nghiệp nâng cao hàm lượng công nghệ, kỹ
thuật của TSCĐ. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có kế hoạch đầu tư, cải
tạo, đầu tư mới tài sản cố định trước mắt cũng như lâu dài.
Nhân tố giá cả:
Đây là nhân tố do doanh nghiệp quyết định nhưng lại phụ thuộc vào mức
chung của thị trường. Khi giá cả tăng, các kết quả kinh doanh tăng dẫn đến hiệu

quả sử dụng vốn tăng, đồng thời sự biến động về giá cả sẽ làm cho hoạt động
của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
1.2.3.2 Những nhân tố chủ quan
Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

24


Luận văn cuối khoá
Ngoài các nhân tố khách quan trên, còn rất nhiều nhân tố chủ quan do
chính bản thân doanh nghiệp tạo nên làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn.

Nhân tố này gồm nhiều yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả cuối cùng của hoạt
động kinh doanh cả về trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vậy, việc xem xét, đánh
giá và ra quyết định đối với các yếu tố này cực kỳ quan trọng. Thông thường,
trên góc độ tổng quát, người ta xem xét những yếu tố sau:
Nhân tố con người:
Đây là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn,con người
được đề cập ở đây là toàn bộ lực lượng lao động trong doanh nghiệp bao gồm cả
những nhà quản lý và những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh.Nhà quản lý đóng vai trò đầu tiên với hiệu quả sử dụng vốn.Trong
quá trình sản xuất kinh doanh,nếu nhà quản lý không có phương án sản xuất
kinh doanh hữu hiệu,không bố trí hợp lý các khâu,các giai đoạn sản xuất sẽ gây
lãng phí về nhân lực,vốn,nguyên vật lieu..Điều này ảnh hưởng tới hiệu quả sản

xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng.Trong quá trình
quản lý tài chính,nhà quản lý phải xác định đúng nhu cầu vốn kinh doanh,phải
bố trí cơ cấu hợp lý,không để ứ đọng vốn,dư thừa,phải huy động đủ vốn cho sản
xuất.Nếu vốn không đủ cho nhu cầu sản xuất thì quá trình sản xuất kinh doanh
bị ảnh hương.Nếu cơ cấu vốn không hợp lý,vốn đầu tư lớn vào tài sản không sử
dụng hoặc ít sử dụng,vốn trong quá trình thanh toán bị chiếm dụng tăng chi phí
sản xuất,giảm lợi nhuận,giảm hiệu quả sử dụng vốn
Cơ cấu vốn:
Cơ cấu vốn thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa các yếu tố cấu thành vốn trong
tổng vốn sử dụng.Cơ cấu vốn được xem xét theo nguồn vốn và các tiêu chí khác
Do chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau nên cơ cấu vốn trong
doanh nghiệp khác nhau.Các nhân tố chính ảnh hưởng đến cơ cấu vốn bao gồm

các nhân tố sau:
- Sự ổn định của doanh thu và lợi nhuận:Ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô
vốn huy động.Khi doanh thu ổn định sẽ có nguồn để lập quỹ trả nợ khi đến

Sinh viên: Nguyễn Thị Thu Diệp

25


×