Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.1 KB, 72 trang )

1

Học viện tài chính

1

Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu,
kết quả nêu trong khóa luận tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực
tế của đơn vị thực tập.

Tác giả khóa luận tốt nghiệp
(Ký và ghi rõ họ tên)

Vũ Thị Vân Anh

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


2

Học viện tài chính

2

Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………..……………66

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


3

3

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Dự phòng rủi ro
Giấy tờ có giá
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Trung ương
Thương mại cổ phần
Tổ chức kinh tế
Tổ chức tín dụng
Ủy ban nhân dân
Vốn chủ sở hữu
Xuất nhập khẩu

SV: Vũ Thị Vân Anh


Lớp: CQ49/15.04

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

DPRR
GTCG
NHNN
NHTM
NHTW
TMCP
TCKT
TCTD
UBND
VCSH
XNK


4


Học viện tài chính

4

Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1:
Bảng 2.2:
Bảng 2.3:
Bảng 2.4:
Bảng 2.5:
Bảng 2.6:
Bảng 2.7:
Bảng 2.8:
Bảng 2.9:

Kết quả hoạt động tín dụng giai đoạn 2012- 2014
Hoạt động dịch vụ ngân hàng bán lẻ
Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2012- 2014
Bảng phân tích quy mô vốn huy động giai đoạn 2012-2014
Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng
Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn huy động theo thời gian
Phân tích cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền
Hiệu suất sử dụng vốn của chi nhánh
Hiệu suất sử dụng vốn theo kì hạn của chi nhánh

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


Trang
31
34
35
36
38
39
41
44
45


5

Học viện tài chính

5

Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1:
Hình 2.2:
Hình 2.3:

Cơ cấu tổ chức Vietcombank - chi nhánh Hà Nội
Tình hình huy động vốn giai đoạn 2012 – 2014
Chi phí huy động vốn


SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04

Trang
28
29
42


6

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực. Hệ thống
ngân hàng vốn được đánh giá là là xương sống của nền kinh tế từ khi ra đời cho
tới nay đã dần khẳng định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế với chức
năng nhận tiền gửi để cho vay đối với nền kinh tế và vai trò trung gian tài chính
trong hoạt động của mình. Tuy nhiên với tình hình kinh tế đất nước hiện nay
cuộc cạnh tranh giữa các TCTD đã diễn ra với chiều hướng ngày càng gay gắt.
Cùng với quá trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam, sự
tham gia ngày càng sâu rộng của các TCTD nước ngoài vào thị trường Việt
Nam đã và đang tạo ra một cuộc canh tranh giữa các TCTD trong nước với
TCTD nước ngoài. Đứng trước tình hình đó đòi hỏi NHTM phải có những chính
sách cũng như chiến lược phù hợp để có thể tồn tại và phát triển. Mà một trong
những hoạt động chính và mang tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của

ngân hàng đó là hoạt động huy động vốn.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu quá trình huy động tiền vốn, tìm hiểu quá trình
kinh doanh để có những phương án huy động vốn linh hoạt, mang tính cạnh
tranh là hết sức cần thiết và cần phải được các ngân hàng quan tâm đúng mức.
Nhận thức được điều này, sau quá trình nghiên cứu thực tiễn tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam – chi nhánh Hà Nội, em đã chọn đề tài: “Giải
pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương
Việt Nam – chi nhánh Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Về kết cấu: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài được chia làm
3 chương:

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


7

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

Chương I: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của ngân hàng thương
mại.
Chương II: Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng TMCP Ngoại Thương
Việt Nam – chi nhánh Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – chi nhánh Hà Nội.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng nhưng do còn nhiều
hạn chế về trình độ hiểu biết, kinh nghiệm thực tế, hạn chế về thời gian nghiên

cứu nên trong quá trình thực hiện khóa luận này khó tránh khỏi những thiếu sót.
Em kính mong nhận được sự góp ý, bổ sung của thầy cô, ban lãnh đạo và các
anh chị tại Ngân hàng Vietcombank - chi nhánh Hà Nội để bài viết được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


8

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI

1.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường dù hoạt động trong lĩnh vực nào thì vốn cũng
là một yếu tố quan trọng mang tính quyết định. Hoạt động ngân hàng cũng vậy,
muốn hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả cao thì công tác huy động cần
phải được quan tâm đúng mức.
Vốn là chìa khóa, là điều kiện hàng đầu để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vốn trong nền kinh tế có thể ví như máu trong cơ thể, thiếu vốn
nền kinh tế sẽ chậm phát triển. Song vốn được tạo lập từ đâu, bằng cách nào phụ
thuộc rất lớn vào cơ chế, chính sách tạo vốn.
Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động

kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế – xã hội. Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì?
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập và
huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Thực chất, nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc
dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ
sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu
tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng để ngân
hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập.

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


9

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

Nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập và huy động được không những giúp cho
ngân hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan trọng
trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng
cũng như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung.
1.1.2 Kết cấu nguồn vốn của NHTM
Nguồn vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như:
vốn chủ sở hữu, vốn huy động và các loại vốn khác.
1.1.2.1 Vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu (VCSH) hay vốn tự có của ngân hàng là nguồn vốn riêng
của ngân hàng do chủ sở hữu đóng góp ban đầu và được bổ sung trong quá trình
kinh doanh. VCSH của NHTM chiếm một tỷ trọng nhỏ trong các khoản mục tạo
nên nguồn vốn nhưng nó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các ngân hàng.
Do tính chất thường xuyên ổn định nên ngân hàng có thể sử dụng nó vào
các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo tài sản cố định
phục vụ cho bản thân ngân hàng, có thể sử dụng cho vay, đặc biệt là đầu tư góp
vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ, VCSH được coi như là tài sản
đảm bảo gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán cho khách
hàng khi ngân hàng hoạt động thua lỗ.
Vốn tự có của ngân hàng bao gồm: vốn tự có cơ bản và vốn tự có bổ sung.
Vốn cơ bản: Nó phản ánh năng lực tài chính thực sự của ngân hàng, bao
gồm:
- Vốn điều lệ: là lượng vốn tối thiểu mà ngân hàng cần phải có để đáp ứng
điều kiện thành lập cũng như hoạt động kinh doanh. Tuỳ thuộc vào loại hình
ngân hàng mà vốn điều lệ được hình thành từ những nguồn gốc khác nhau. Đối
với ngân hàng quốc doanh thì nguồn vốn hình thành ban đầu là do ngân sách nhà

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


10

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

nước cấp, nếu là ngân hàng liên doanh thì là do các bên liên doanh đóng góp, nếu

là ngân hàng cổ phần thì các cổ đông góp vốn thông qua việc mua cổ phần hoặc
cổ phiếu của ngân hàng.
- Lợi nhuận giữ lại: Khi hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận thì ngân
hàng có thể chuyển một phần lợi nhuận thành nguồn vốn nhằm tái đầu tư. Lượng
vốn tích lũy tư thu nhập tùy theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời
gian tới cũng như cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Tỉ lệ giữ
lại này tuỳ thuộc vào sự cân nhắc quyết định của chủ ngân hàng và tuỳ thuộc vào
nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng trong các thời kì cụ thể.
- Các quỹ dự trữ: Để đảm bảo duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh
của mình, các NHTM trong quá trình hoạt động đã trích lập các quỹ: quỹ đầu tư
phát triển nghiệp vụ ngân hàng, quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường
số vốn tự có ban đầu. Việc trích lập và sử dụng các quỹ này của ngân hàng được
thực hiện theo quy định của pháp luật trong từng thời kì cụ thể.
Vốn bổ sung
- Phần chênh lệch do đánh giá lại tài sản, nguồn vay nợ có thể chuyển đổi
thành cổ phiếu thường: các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng mà có khả
năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu
của ngân hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu
tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
- Dự phòng rủi ro: DPRR tín dụng được các NHTM trích lập từ thu nhập
trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc gia) theo một tỷ lệ nhất định
nào đó. Khoản trích lập này là quan trọng và cần thiết cho hoạt động ngân hàng,
vì trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi những rủi ro bất khả kháng
có thể xảy ra, khi đó, ngân hàng có thể trích các quỹ để bù đắp.

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04



11

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

- Trái phiếu chuyển đổi và các công cụ nợ khác do TCTD phát hành đủ
điều kiện tính vào nguồn vốn bổ sung.
1.1.2.2 Vốn huy động
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân hàng. Nó là những
giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân
trong xã hội. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu với
nguồn vốn này và phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi chủ sở
hữu có nhu cầu rút vốn. Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi
hoạt động kinh doanh của NHTM.
Vốn huy động của NHTM bao gồm: huy động tiền gửi, huy động thông
qua phát hành GTCG và huy động dưới hình thức đi vay.
Huy động tiền gửi: Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại TCTD dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình
thức khác. Tiền gửi có thể được hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và phải
được hoàn trả cho người gửi tiền.
Để huy động vốn, các ngân hàng đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác
nhau cho khách hàng lựa chọn. Mỗi công cụ huy động tiền gửi mà các ngân hàng
đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu
cầu của khách hàng trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán. Căn cứ vào
nguồn hình thành, vốn tiền gửi của các NHTM bao gồm tiền gửi của tổ chức kinh
tế, tiền gửi của dân cư và tiền gửi khác.
Huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá: GTCG là một công cụ
vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vay vốn dưới hình thức giấy nhận nợ
hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong đó TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau

một thời gian nhất định.

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


12

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

Cùng với nguồn vốn huy động từ nhận tiền gửi, nguồn vốn huy động thông
qua việc phát hành GTCG cũng giữ một vị trí quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn
trong toàn bộ vốn kinh doanh của TCTD. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng lớn
đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của TCTD.
Vốn đi vay
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các NHTM có thể huy động
bằng cách vay các TCTD khác thông qua thị trường nội địa ngoại tệ liên ngân
hàng. Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến hành theo
nguyên tắc “đi vay – cho vay” và phải được thỏa thuận trên cơ sở hợp đồng tín
dụng, vốn đi vay phải đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố (tiền mặt tại chỗ và các
giấy tờ có giá). Các NHTM đi vay chấp hành đầy đủ các nguyên tắc dự trữ bắt
buộc và an toàn vốn, phải có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường
xuyên tại NHTW. Khi các NHTM vay mượn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc
khả năng thanh toán bị đe dọa, các NHTM thực hiện vay vốn tại NHTW để tạo
thêm nguồn vốn bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn của
NHTW là nguồn vốn cuối cùng đảm bảo khả năng thanh toán bình thường cho
các NHTM.

1.1.2.3 Vốn khác
Ngoài các hình thức huy động vốn trên, NHTM còn có thể tạo lập vốn cho
mình từ nhiều nguồn khác nhau:
- Vốn trong thanh toán: là nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập được trong quá
trình làm trung gian.
- Vốn tiếp nhận: là số vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ, của các tổ
chức tài chính tiền tệ, các tổ chức đoàn thể xã hội trong và ngoài nước tài trợ cho

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


13

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

các chương trình dự án về phát triển kinh tế, xã hội, cải tạo môi trường… và
được chuyển qua NHTM làm đại lí ủy thác thực hiện.
Các nguồn vốn khác này tuy không nhiều, thời gian sử dụng ngắn nhưng
điều đặc biệt là đối với nguồn vốn này, ngân hàng không những không phải tốn
kém chi phí sử dụng vốn mà đôi khi còn nhận được chi phí từ việc cung cấp dịch
vụ. Ngân hàng đồng thời có điều kiện mở rộng nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng
làm cho hoạt động ngân hàng đa dạng hơn.
1.1.3 Vai trò của vốn huy động đối với NHTM
NHTM là trung gian tài chính với chức năng cơ bản là đi vay để cho vay.
Dù dưới bất kỳ hình thức nào các NHTM luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt
được điều đó, công cụ cần thiết mà các ngân hàng phải có là vốn. Một ngân hàng

với nguồn vốn huy động dồi dào sẽ hoàn toàn tự quyết trong hoạt động kinh
doanh của mình, nắm bắt được các cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn huy động dồi
dào cũng giúp ngân hàng đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh nhằm phân tán
rủi ro và thu được lợi nhuận cao vì mục tiêu an toàn và hiệu quả. Vậy vốn là cơ
sở để ngân hàng tạo ra thế chủ động trong kinh doanh.
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh: Đối
với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hành
là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường đó là tiền tệ.
Chính vì thế có thể nói: Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của
ngân hàng. Do đó, ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng
vốn trong suốt quá trình hoạt động.

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


14

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác: Tuỳ theo quy mô
và cơ cấu nguồn vốn huy động được mà các ngân hàng sẽ quyết định quy mô và
cơ cấu đầu tư. Với nguồn vốn huy động lớn, ngân hàng có đủ khả năng mở rộng
phạm vi và khối lượng cho vay không chỉ giới hạn trên thị trường trong nước mà
còn cho vay vượt ra khỏi lãnh thổ một quốc gia (cho vay trên thị trường quốc tế).

Ngược lại, do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không có những
phản ứng nhanh nhạy trước sự biến động của lãi suất, ảnh hưởng đến khả năng
thu hút vốn đầu tư. Nói chung, một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào sẽ đáp ứng
được nhu cầu xin vay, dễ dàng mở rộng thị trường tín dụng, tăng khả năng thanh
toán và các dịch vụ khác của ngân hàng.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thị trường tài chính: Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và mở rộng
quy mô hoạt động đòi hỏi ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường. Uy tín đó
phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán khi khách hàng có
yêu cầu. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân
hàng càng lớn. Để đảm bảo được các điều kiện trên, ngân hàng phải có một
nguồn vốn thoả mãn đồng thời cả hai yêu cầu: chất lượng và khối lượng. Vì vậy,
để nguồn vốn huy động sử dụng có hiệu quả thì trong kinh doanh ngân hàng cần
phải mở rộng quy mô tín dụng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng.
Vốn quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng: Nguồn vốn
lớn là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng với các
thành phần kinh tế cả về quy mô, khối lượng, thời gian và thời hạn cho vay.
Đặc biệt ngày nay, sự xuất hiện hàng loạt các tổ chức tín dụng đã làm cho
tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng trở nên gay gắt. Với một nguồn vốn
dồi dào, ngân hàng sẽ chủ động đưa ra các mức lãi suất cho vay một cách

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


15

Học viện tài chính


Khóa luận tốt nghiệp

hợp lý nhằm thu hút được khách hàng. Với năng lực tài chính vững mạnh,
ngân hàng sẽ chủ động huy động vốn với lãi suất thấp nhất nhưng cho vay
với lãi suất cao nhất có thể nhằm tối đa hoá được lợi nhuận nhưng vẫn đảm
bảo thu hút được khách hàng về ngân hàng mình.
1.2 Các cách thức huy động vốn của NHTM
1.2.1 Huy động tiền gửi
Trong các hình thức huy động vốn của TCTD, đây là phương thức huy
động vốn cổ xưa nhất và cho đếm hiện nay nó vẫn là hình thức huy động vốn
quan trọng nhất về mặt kinh tế và chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy
động ở mỗi TCTD.
Căn cứ vào các loại hình tiền gửi này có thể tạm phân chia thành các hình
thức huy động vốn như sau:
1.2.1.1 Huy động tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi được khách hàng gửi vào các TCTD
để thực hiện các khoản chi trả, thanh toán hoặc vì mục đích đảm bảo an toàn cho
tài sản của họ. Tiền gửi không kì hạn là khoản tiền gửi đang chờ thanh toán hoặc
nhằm đáp ứng nhu cầu rút tiền tức thời của khách hàng, đây không phải là số tiền
mà khách hàng để dành nên khách hàng có thể rút hoặc sử dụng để thanh toán bất
kì lúc nào theo yêu cầu. Loại tiền gửi này thường cũng được chia thành 2 loại:
Tiền gửi thanh toán: Mục đích chính của khoản tiền gửi này là tạo ra
phương tiện thanh toán cho khách hàng. Vì tính không ổn định của nó nên tài
khoản này thường không được trả lãi hoặc được trả lãi nhưng với lãi suất rất thấp
và cũng chính vì tính không ổn định này mà để đảm bảo an toàn tín dụng các
ngân hàng phải có một tỉ lệ dự trữ khá cao để thực hiện thanh toán. Đối với

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04



16

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

khoản tiền gửi này, khách hàng được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả
như ủy nhiệm chi, séc và các lệnh khác,…
Tiền gửi không kì hạn thuần túy: là khoản tiền gửi nhàn rỗi mang tính
tạm thời. Mục đích chính của khoản tiền gửi này là khách hàng gửi tiền để đảm
bảo an toàn, thuận tiện cho tài sản của họ mà không nhằm mục đích thực hiện
các dịch vụ thanh toán của NHTM.
Điểm chung của cả 2 loại hình tiền gửi này là chúng đều có mức độ thay
đổi rất lớn và do đó cần có mức dự trữ cao. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn có chi
phí khá thấp, nếu các ngân hàng có một kế hoạch tài chính tốt cùng với những
hoạch toán hợp lí thì đây cũng là một trong những nguồn vốn khá lớn mang lại
lợi ích kinh tế cao đối với hoạt động của các NHTM. Các ngân hàng thường
không trả lãi cho các khoản tiền gửi này nhưng để thu hút nguồn vốn này các
ngân hàng thường cung cấp cho ngân hàng một số những dịch vụ miễn phí và
thậm chí có thể trả một khoản lãi nhỏ tuy nhiên đây không phải là một nguồn vốn
ổn định. Với tính chất như vậy, giải pháp chủ yếu tăng cường nguồn vốn này
không phải là yếu tố lãi suất mà là sự an toàn, thuận tiện của nguồn vốn gửi cũng
như chất lượng các dịch vụ ngân hàng.
1.2.1.2 Tiền gửi có kì hạn
Là loại huy động tiền gửi có sự thỏa thuận của khách hàng và ngân hàng
về thời hạn rút tiền (bản chất của nó là tiền tích lũy).
Mục đích của khách hàng đối với loại tiền gửi này là đầu tư kiếm lời. Về
nguyên tắc, người gửi tiền chỉ được rút tiền khi đến hạn thanh toán. Tuy nhiên,

trên thực tế để thu hút khách hàng gửi lọai tiền gửi này, các TCTD có thể cho
phép khách hàng được rút tiền trước hạn (nếu số tiền rút ra lớn thì phải thông báo
trước với TCTD một vài ngày) trong trường hợp này người gửi tiền được hưởng

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


17

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

mức lãi suất thấp, đôi lúc là lãi suất phạt. Tiền gửi có kì hạn là loại tiển gửi mang
tính ổn định, nên các TCTD thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy
động loại tiền gửi này. Phổ biến nhất vẫn là phương thức làm đa dạng hóa các
loại hình tiền gửi này, đặc biệt việc đưa ra nhiều kì hạn thanh toán để đáp ứng
nhu cầu khách hàng, đối với mỗi loại kì hạn áp dụng các mức lãi suất khác nhau,
thường thì kì hạn càng dài, lãi suất càng cao. Ngoài ra kèm theo các hợp đồng
này là các dịch vụ hậu mãi của các NHTM dành cho khách hàng… Một phương
thức hạn chế nhưng rất thịnh hành trong giai đoạn gần đây của thị trường tài
chính Việt Nam là cạnh tranh về lãi suất huy động vốn. Đây là phương thức dễ
dàng thu hút sự quan tâm của khách hàng nhất.
Đặc tính quan trọng nhất của khoản tiền gửi này là có tính an toàn cao,
tính ổn định khá cao do thời gian hoàn vốn đã được xác định trước, các ngân
hàng sẽ có cơ sở rất chắc chắn cho việc hoạch định chiến lược quản trị nguồn
vốn của mình. Chính vì vậy, các NHTM thường chủ động hơn khi sử dụng nguồn
vốn này, dự trữ thấp, nhiều lợi nhuận hơn… Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của nó

là chi phí cao do sự cạnh tranh lãi suất, lãi suất này cao hơn nhiều so với lãi suất
tiền gửi không kì hạn.
1.2.1.3 Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền
gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của
tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về
bảo hiểm tiền gửi.
Nhìn chung, tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi chỉ dành cho cá nhân chứ
không phải để thanh toán, nó được kí gửi vào TCTD nhằm mục đích cất giữ hộ

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


18

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

hoặc hưởng lãi theo định kì. Đây là loại hình kí thác rất đa dạng và phổ biến
trong nền kinh tế trên toàn thế giới.
Tiền gửi tiết kiệm được chia thành 2 loại tiền gửi tiết kiệm có kì hạn và
tiền gửi tiết kiện không kì hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền
có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kì ngày giờ làm việc
nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Phần lớn khách hàng gửi tiền tiết kiệm
không kỳ hạn là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai,
nhưng lại muốn hưởng một mức lãi suất trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi. Do

tính chất không ổn định của nó nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và
khó lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Vì vậy, ngân hàng thường trả
lãi suất thấp cho loại tiền gửi này.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền chỉ
có thể rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận
tiền gửi tiết kiệm.
Có thể nói, xét về giá trị, các khoản tiết kiệm thường nhỏ hơn so với các
loại tiền gửi khác nhưng số lượng khá nhiều, vì vậy, nếu xét về tổng thể, đây vẫn
là một nguồn vốn khá tiềm năng của các NHTM. Trên thực tiễn, các sản phẩm
tiền gửi tiết kiệm rất phong phú và đa dạng, đây là một phương cách thu hút
lượng khách hàng của các NHTM, đáp ứng nhu cầu đa dạng và biến đổi thường
xuyên của nhóm khách hàng đông đảo này. Mục tiêu quan trọng của họ khi lựa
chọn hình thức này là lợi tức có được theo định kỳ, do vậy, lãi suất đóng vai trò
quan trọng để thu hút được khách hàng. Nhìn chung, đặc trưng chính của nguồn
vốn này là có độ ổn định cao, tuy nhiên, mặt trái kèm theo của nó là chi phí huy
động vốn khá cao.

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


19

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

1.2.2 Phát hành giấy tờ có giá
Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay

đổi trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, NHTM có thể
phát hành GTCG với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vụ huy động
thông thường khác nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần thiết.
Nguồn vốn mà NHTM có được thông qua phát hành GTCG như: kì phiếu
ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…
Trái phiếu ngân hàng: Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc
và lãi) của ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích
của ngân hàng khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn.
Loại hình trái phiều thường có hai phương thức phát hành, hoặc là phát hành theo
mệnh giá (tức hình thức trả lãi sau) hoặc phát hành theo hình thức chiết khấu (tức
trả lãi trước). Nhìn chung, đối với các NHTM, đây là nguồn vốn có tính ổn định
cao nhất và đặc biệt với hình thức huy động này, ngân hàng luôn ở vị thế chủ
động khi huy động vốn: chủ động về thời gian, quy mô vốn, thời gian,… tuy
nhiên, điểm hạn chế của loại hình huy động này là chi phí huy động cao hơn các
loại hình khác, cụ thể đó là lãi suất huy động, đây cũng chính là điểm hấp dẫn
các nhà đầu tư lựa chọn loại chứng khoán này, ít rủi ro và cũng có một lợi nhuận
đáng kể.
Kỳ phiếu ngân hàng: Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm).
Nó được sử dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng. Nhu cầu
phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn có nguồn vốn đủ điều
kiện để tài trợ các dự án có quy mô, trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời cho đầu
tư phát triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của ngân hàng như: Đầu

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


20


Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

tư chứng khoán, kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy động khác
chưa đáp ứng được.
Chứng chỉ tiền gửi: Chứng chỉ tiền gửi là công cụ vay nợ do ngân hàng
phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường theo đó người sở hữu được hưởng
các khoản lãi suất và được hoàn trả khi đến hạn.
Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi rất đa dạng, có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng, hoặc có thể đến 5 năm, 7 năm... Lãi suất của chứng chỉ tiền gửi được ngân
hàng ấn định dựa trên lãi suất cạnh tranh của thị trường tiền tệ, tình trạng tài
chính của người phát hành và thời hạn của chứng chỉ. Sự khác biệt chủ yếu giữa
chứng chỉ tiền gửi và các khoản tiền gửi có kỳ hạn là chúng có thể chuyển
nhượng và mệnh giá được thống nhất theo một mức giá chuẩn.
1.1.3 Vốn đi vay
Nguồn vốn này thường chiếm tỉ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn của
NHTM nhưng nó đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự an toàn và hoạt
động bình thường của các ngân hàng. Tuy nhiên các ngân hàng nên chỉ xem nó là
cứu cánh mang tính tạm thời và tuyệt đối không lệ thuộc vào nó, chỉ nên sử dụng
để đáp ứng những mục tiêu thanh toán mang tính tức thời, tức ngân hàng không
có khả năng dự tính được khả năng phát sinh của nó. Vì thực tế, nguồn vốn này
thường có chi phí khá cao, mức lãi suất lại thường vô cùng nhạy cảm với diễn
biến của lãi suất thị trường.
- Vốn vay của các TCTD khác: Mỗi ngân hàng là một kênh lưu chuyển
vốn, các dòng vốn này thông nhau qua sự tương quan của nó với NHTW và thị
trường tài chính. Dù rất thận trọng trong việc cho vay, NHTM cũng khó tránh
khỏi có lúc thiếu khả năng chi trả hoặc quá kẹt tiền mặt. Lúc đó, các NHTM
thường cần có một nguồn vốn khá lớn và đặc biệt là tức thời, trong tình cảnh đó,


SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


21

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

vay của các TCTD khác là một trong những lựa chọn. Ngày nay, cùng với sự
phát triển của thị trường tài chính, các nghiệp vụ vay vốn giữa các TCTD ngày
càng đa dạng và phong phú hơn, các ngân hàng đang tận dụng tối đa những ích
lợi của thi trường tiền tệ để tìm kiếm nguồn vốn khả dụng.
- Vốn vay của NHNN: NHTW là nơi phát hành tiền, là nơi thực thi và điều
hành chính sách tín dụng quốc gia và là ngân hàng của các ngân hàng. Chính vì
vậy, khi các NHTM lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, NHTW trở thành
cứu cánh cuối cùng. Thông thường tất cả các NHTM và một số tổ chức tài chính
khác được hưởng quyền vay tiền tại NHTW trong những tình huống thiếu hụt dự
trữ hoặc quá kẹt vốn. NHNN thường cho các NHTM vay dưới các hình thức như:
chiết khấu, cầm cố GTCG, thấu chi và cho vay qua đêm.
1.3 Hiệu qủa huy động vốn
1.3.1 Quan điểm về hiệu quả huy động vốn
Trong môi trường kinh doanh ngày nay sự cạnh tranh diễn ra gay gắt thì
vốn là một yếu tố giúp các ngân hàng thắng thế trong cạnh tranh. Ngân hàng nào
trường vốn sẽ có khả năng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, có khả
năng mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng thêm thu nhập và củng cố vị thế trên
thị trường… Nhận thức được vai trò to lớn của vốn trong hoạt động kinh doanh,
các NHTM luôn tìm cách phát triển nguồn vốn của mình, tìm mọi biện pháp để

đẩy mạnh hiệu quả của công tác huy động vốn.
Từ khi các ngân hàng ra đời thì nghiệp vụ huy động vốn đã gắn liền với
các hoạt động của nó. Hiệu quả công tác huy động vốn được các ngân hàng quan
tâm không chỉ vì nó là một nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng mà còn là vì
nó là một trong những hoạt động chủ yếu mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân
hàng. Do đó trong mọi giai đoạn, nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn luôn
là vấn đề được các NHTM chú trọng.

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


22

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

Các NHTM hoạt động trên thị trường với tư cách là các trung gian tài
chính với chức năng chủ yếu là phân phối lại tiền tệ trong xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế không ngừng phát triển. Hoạt động huy động vốn chính là việc thu hút
các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để rồi sau đó ngân hàng phân phối đến nơi
thiếu vốn. Làm công tác huy động vốn cũng đồng nghĩa với ngân hàng làm tốt
nhiệm vụ quan trọng nhất của mình. Cho nên mọi NHTM đều ý thức được sự cần
thiết của việc đẩy mạnh hiệu quả huy động vốn.
Như vậy có thể kết luận: hiệu quả huy động vốn là việc thực hiện tốt công
tác huy động nhằm tạo cho ngân hàng một lượng vốn đầy đủ trong hoạt động sản
xuất kinh doanh với chi phí hợp lí.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn

Hiệu quả huy động vốn được đánh giá theo nhiều khía cạnh khác nhau tùy
thuộc vào mục đích nghiên cứu. Vì vậy các tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động
vốn cũng có nhiều loại khác nhau.
1.3.2.1 Sự đa dạng của các hình thức huy động vốn
Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút
nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng càng
nhiều. Vì vậy độ đa dạng của các hìng thức huy động vốn chính là chỉ tiêu để
đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn ở các NHTM.
Sự đa dạng của các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số
lượng các công cụ ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược
kinh doanh, mỗi ngân hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Thực tế, số
lượng các công cụ huy động càng nhiều thì ngân hàng càng có nhiều điều kiện
thu hút được vốn. Tuy nhiên, một ngân hàng sử dụng nhiều công cụ huy động
vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động vốn của ngân hàng

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


23

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi những công cụ đó thực
sự thích hợp với ngân hàng.
Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ, ngân hàng phải đa dạng về kỳ
hạn huy động, loại tiền sử dụng. Đó là khả năng huy động vốn với các kỳ hạn

khác nhau trong đó có cả nội tệ, ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng
sao cho người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý. Nếu những ngân
hàng có quan hệ quốc tế rộng thì nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ phải lớn,
hay nếu có chiến lược sử dụng vốn để cho vay dài hạn thì cần tăng cường huy
động vốn trung và dài hạn.
1.3.2.2 Quy mô của nguồn vốn
Công tác huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn huy động
được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân
hàng hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh. Khối
lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều kiện cho
ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và
có vai trò quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì
cái mà ngân hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì
có thể lúc này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho ngân hàng khi đưa ra
quyết định cho vay hay đầu tư nếu ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán
được xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào.
Tốc độ tăng
Số dư vốn huy động BQ kì này
trưởng nguồn vốn = (
- 1) x 100%
Số dư vồn huy động BQ kì trước
huy động (%)
NHTM kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế, do
vậy chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động là cơ sở đánh giá khả năng
SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04



24

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

thu hút nguồn vốn từ khách hàng để mở rộng hoạt động kinh doanh cũng như uy
tín của ngân hàng.
1.3.2.3 Chi phí huy động vốn
Lãi suất huy động: Lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu
của các chủ thể kinh tế. Người gửi muốn một lãi suất cao, người vay lại muốn lãi
suất thấp. Là trung gian đóng vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên, ngân hàng
phải tìm cách điều chỉnh mức lãi suất sao cho hợp lý nhất đối với các bên, trong
đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi ích của ngân hàng. Vì vậy trong huy động
vốn, mỗi ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm
được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử
dụng số vốn đó để cho vay với một mức lãi suất chấp nhận được trên thị trường.
Chi phí huy động được đánh giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất huy động bình
quân (tính bằng bình quân gia quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối
lượng từng nguồn), lãi suất huy động của từng nguồn. Mặt khác, cũng với một
mức chi phí trả lãi bình quân, sự đa dạng hoá trong lãi suất cho phù hợp với mỗi
hình thức huy động vốn là cần thiết. Nếu có chính sách lãi suất phù hợp, hiệu
quả, ngân hàng sẽ tối thiểu hoá được chi phí trong khi vẫn hoàn thành kế hoạch
về nguồn vốn.
Lãi suất huy động BQ

=

Tổng chi phí trả lãi


Tổng nguồn vốn huy động
Lãi suất huy động là cơ sở để xác định chi phí đối với khoản vốn huy động
từ người gửi tiền, là một trong những nhân tố chính để xác định lãi suất cho vay
đầu ra.
Chi phí khác: Bên cạnh chi phí chính là lãi suất, trong quá trình huy động
vốn còn có các chi phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động, chi phí

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


25

Học viện tài chính

Khóa luận tốt nghiệp

in ấn phát hành, chi phí cơ sở vật chất, chi phí giao dịch quảng cáo… Tuy chi phí
này chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần
giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng.
1.3.2.4 Sự cân đối của nguồn vốn huy động
Cơ cấu vốn của ngân hàng cần có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với ngân
hàng, do mỗi nguồn vốn có những điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai
thác và huy động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu
“đầu ra”: cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro
trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ thuộc không chỉ
vào một phần kế hoạch của ngân hàng mà còn chịu sự tác động của các nhân tố
bên ngoài đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.

1.3.2.5 Khả năng thực hiện kế hoạch huy động vốn
Việc phát triển qui mô và chất lượng nguồn vốn là một việc quan trọng mà
ngân hàng cần phải đặt ra một mục tiêu, kế hoạch thực hiện phù hợp với vị trí,
năng lực của mình. Trong từng thời kỳ, cần đưa ra các chỉ tiêu về hoạt động huy
động vốn để tạo động lực cho ngân hàng phát triển cũng như đảm bảo nguồn vốn
cho ngân hàng. Chỉ tiêu đánh giá công tác huy động vốn thực hiện được là:
Vốn huy động được theo thực tế
% hoàn thành
=
x 100%
kế hoạch
Vốn huy động theo kế hoạch
Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng có hoàn thành kế hoạch huy động vốn hay
chưa nếu tỷ lệ này lớn hơn hoặc bằng 100% chứng tỏ ngân hàng đã hoàn thành
kế hoach. Nếu tỷ lệ này dưới 100% chứng tỏ ngân hàng chưa hoàn thành kế
hoạch huy động vốn.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy đông vốn

SV: Vũ Thị Vân Anh

Lớp: CQ49/15.04


×