Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Hoàn thiện chính sách đối với lao động nữ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.79 KB, 107 trang )

MỤC LỤC
- Việc thực hiện đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ cũng rất hạn chế.
Kết quả điều tra 100 doanh nghiệp có sử dụng đông lao động nữ cho thấy
chỉ có 5% doanh nghiệp thực hiện đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ.
Kết quả phỏng vấn sâu 3 trong số 5 doanh nghiệp có đào tạo nghề dự
phòng này thì thấy thực chất đây là đào tạo lại vì ngay sau khi đào tạo lao
động nữ chuyển sang nghề mới ngay. Ví dụ ở loại hình HTX, lao động nữ
làm nghề may chuyển sang làm nghề thú nhồi bông, hay như ở xí nghiệp
dệt kim Đông xuân Hà nội đào tạo lao động nữ nghề dệt chuyển sang
may...Khi phỏng vấn người lao động nữ thì không có ai được đào tạo nghề
dự phòng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên ở một số nghề đặc biệt
người lao động đã tự bỏ thời gian và kinh phí của mình để học nghề dự
phòng (như nghề tiếp viên hàng không, diễn viên xiếc, Balê)....................45
2.2.2 Về chính sách tuyển dụng lao động................................................46
2.2.5. Về chính sách bảo hiểm xã hội.....................................................59
3.2.1.2. Giải pháp về tăng cường đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ....82


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AT-VSLĐ

An toàn – Vệ sinh lao động

BHXH

Bảo hiểm xã hội

Bộ LĐ, TB và XH

Bộ Lao động, Thương binh và xã hội


Bộ LLĐ

Bộ Luật lao động

CMKT

Chuyên môn kỹ thuật

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DN

Doanh nghiệp

DNNN

Doanh nghiệp Nhà nước

DNCVĐTNN

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

HTX

Hợp tác xã

ILO


Tổ chức Lao động quốc tế

LĐN

Lao động nữ

LLLĐ

Lực lượng lao động

TNBQ

Thu nhập bình quân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU
- Việc thực hiện đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ cũng rất hạn chế.
Kết quả điều tra 100 doanh nghiệp có sử dụng đông lao động nữ cho thấy
chỉ có 5% doanh nghiệp thực hiện đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ.
Kết quả phỏng vấn sâu 3 trong số 5 doanh nghiệp có đào tạo nghề dự
phòng này thì thấy thực chất đây là đào tạo lại vì ngay sau khi đào tạo lao
động nữ chuyển sang nghề mới ngay. Ví dụ ở loại hình HTX, lao động nữ
làm nghề may chuyển sang làm nghề thú nhồi bông, hay như ở xí nghiệp
dệt kim Đông xuân Hà nội đào tạo lao động nữ nghề dệt chuyển sang
may...Khi phỏng vấn người lao động nữ thì không có ai được đào tạo nghề
dự phòng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên ở một số nghề đặc biệt

người lao động đã tự bỏ thời gian và kinh phí của mình để học nghề dự
phòng (như nghề tiếp viên hàng không, diễn viên xiếc, Balê)....................45
2.2.2 Về chính sách tuyển dụng lao động................................................46
2.2.5. Về chính sách bảo hiểm xã hội.....................................................59
3.2.1.2. Giải pháp về tăng cường đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ....82


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Ngay từ khi mới dành được độc lập, Bác Hồ đã đã coi giải phóng phụ
nữ là giải phóng được một phần hai sức lao động trong toàn xã hội. Ngay
trong bản tuyên ngôn độc lập, Người đã đề cập đến quyền bình đẳng nam, nữ,
trong đó có quyền bình đẳng về lao động. Kể từ đó phụ nữ được tham gia lao
động vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay lực lượng lao
động nữ trong giới trí thức chiếm tới 48%, trong lao động công nghiệp chiếm
tới 53%, và trong lao động nông nghiệp là 60%. Lao động nữ giữ một vị trí
cao hơn cả nam giới trong rất nhiều ngành nghề. Ngày nay, trong công cuộc
đổi mới vai trò của phụ nữ càng được phát huy trong tất cả các lĩnh vực. Tuy
nhiên xuất phát từ đặc điểm lao động nữ là ngoài việc thực hiện những nghĩa
vụ lao động họ còn phải đảm nhận chức năng làm mẹ. Bởi thế họ có những
đặc điểm riêng về giới tính (sức khoẻ, tâm sinh lý) chỉ phù hợp trong những
điều kiện lao động nhất định. Do vậy, Nhà nước ta đã ban hành một số văn
bản, chính sách đối với lao động nữ nhằm bảo vệ quyền lợi và quyền bình
đẳng cho phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng.
Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tạo cơ hội cho phụ nữ
tham gia ngày càng nhiều vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong quá trình này, lực lượng lao động nữ không những lớn mạnh cả về số
lượng mà cả về chất lượng. Sự chú ý đối với họ ngày càng gia tăng từ các
quan điểm nghiên cứu chính sách, nghiên cứu về giới. Lực lượng lao động Nữ

đa số còn trẻ, có sức khỏe, chăm chỉ, cần cù, khéo léo… trong công việc cũng
như trong đời sống gia đình, đóng góp đáng kể vào tiến trình phát triển của
đất nước. Mặt khác, trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hiện nay, lao động Nữ


2
đang có nhiều điều kiện được học tập, tiếp xúc với công nghệ, kỹ thuật tiên
tiến, hiện đại, làm nâng cao năng suất lao động, giúp giải phóng bớt được sức
lao động cho phụ nữ. Nhờ đó, lao động nữ càng có điều kiện thuận lợi hơn để
chăm sóc bản thân và gia đình, góp phần vào sự bình ổn của xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với mặt trái của cơ chế thị trường đã
làm nảy sinh nhiều vấn đề tác động trực tiếp đến đời sống của phụ nữ nói
chung và nguồn lao động nữ nói riêng. Một bộ phận phụ nữ còn không được
học hành cơ bản, thiếu việc làm, thiếu kỹ năng chuyên môn, thiếu kinh nghiệm,
thiếu kiến thức khoa học để làm việc và sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Bên
cạnh đó là tình trạng gia tăng các tệ nạn xã hội như bạo hành phụ nữ, buôn bán
phụ nữ, mại dâm, nghiện hút,...và sự bất bình đẳng giữa nam, nữ trong một bộ
phận xã hội còn biểu hiện tương đối nặng nề. Từ đó gây ảnh hưởng đến hiệu
quả lao động của lao động nữ. Đồng thời các văn bản, chính sách đối với lao
động nữ trước đây đã bộc lộ những hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của
tình hình đất nước trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Các chính sách đó chủ yếu mới chỉ nhìn nhận từ góc độ bình đẳng giới, chưa
bao quát cả ở góc độ phát triển kinh tế - xã hội, và có những điểm không còn
phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Do vậy, Nhà nước cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và hoàn thiện
chính sách đối với lao động nữ nhằm đảm bảo quyền lợi và sự bình đẳng cho
lao động Nữ, khai thác và sử dụng nguồn lao động nữ có hiệu quả, góp phần
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: “ Hoàn thiện chính sách đối với lao

động nữ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” làm luận
văn thạc sỹ kinh tế, nhằm góp phần làm sáng rõ thêm cơ sở lý luận và thực
tiễn, đánh giá đúng những kết quả đạt được và hạn chế, yếu kém thông qua


3
việc thực hiện chính sách đối với lao động nữ để nghiên cứu. Đồng thời mạnh
dạn đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến các vấn đề
của phụ nữ Việt Nam nói chung và lực lượng lao động nữ nói riêng. Ngay
trong Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã đề cập đến bình đẳng giới, và nhiều
chỉ thị, nghị quyết của Đảng cũng đề cập đến việc bảo vệ quyền lợi của lao
động nữ. Có một số đề tài nghiên cứu về chính sách lao động nữ nhưng chưa
có đề tài nào nghiên cứu vấn đề “Hoàn thiện chính sách đối với nguồn lao
động nữ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là qua nghiên cứu lý luận và thực
tiễn, để đề xuất các giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện chích sách đối với lao
động Nữ trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Để thực hiện được mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn
thiện chính sách đối với lao động nữ trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
- Đánh giá đúng thực trạng chính sách của Nhà nước đối với lao động
nữ thông qua việc đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém,bất cập
trong quá trình thực hiện chính sách
- Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách
đối với lao động nữ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách của Đảng, Nhà

nước đối với lao động Nữ đã được triển khai từ trước tới nay và các đối tượng
tham gia lao động trong phạm vi điều chỉnh của Bộ Luật Lao động nước
CHXHCN Việt Nam.


4
- Nghiên cứu hệ thống chính sách đối với lao động nữ với tư cách là
một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống cơ chế chính sách của Đảng và
Nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các chính sách đối với lao động nữ
của Việt Nam. Phạm vi về mặt thời gian chủ yếu là từ giai đoạn sau đổi mới
kinh tế, đặc biệt là từ khi có Bộ Luật lao động năm 1995 đến nay, trong đó tập
trung đánh giá là từ năm 2000 đến nay. Phần kiến nghị, phương hướng giải
pháp cho đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩ Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, phương pháp
khảo sát, thống kê, so sánh.. để làm rõ nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài là: nghiên cứu và phân tích tài
liệu sẵn có liên quan đến đề tài, nghiên cứu thực tế, phỏng vấn, điều tra xã hội
học và phân tích thống kê. Kết hợp với phương pháp tiếp cận liên ngành đối với
nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới, lao động và việc làm ở nước ta hiện nay.
6, Dự kiến đóng góp mới của luận văn
- Góp phần khái quát hoá và làm rõ một số vấn đề cơ sở lý luận và thực
tiễn về lao động nữ và chính sách của Nhà nước đối với lao động nữ trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá được thực trạng chính sách của Nhà nước đối với
lao động nữ trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam và làm rõ những hạn chế, bất cập của các chính sách cũng như nguyên

nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp khắc phục được những hạn chế,
bất cập của cơ chế, chính sách đã ban hành và triển khai thực hiện, đồng thời


5
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách đối với lao động nữ trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Tên đề tài :
Hoàn thiện chính sách đối với lao động nữ trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương như sau :
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách đối với lao động
nữ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng về chính sách đối với lao động nữ trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chính
sách đối với lao động nữ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Việt Nam trong thời gian tới.


6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NỮ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM


1.1.1. Lực lượng lao động xã hội và lực lượng lao động nữ
1.1.1.1. Khái niệm lực lượng lao động xã hội
Từ năm 1996 đến nay, trong các cuộc điều tra Lao động Việc làm hàng
năm trên cả nước luôn sử dụng khái niệm về lực lượng lao động như sau:
Lực lượng lao động bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có
việc làm hoặc đang tìm kiếm việc làm. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao
động (còn gọi là dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động ) bao gồm
những người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc không có việc làm
(thất nghiệp) nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
Như vậy, có thể hiểu theo nghĩa hẹp (có giới hạn về độ tuổi lao động)
thì: lực lượng lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động, đang có việc làm và những người chưa có việc làm nhưng có
nhu cầu tìm kiếm việc làm. Ở Việt nam, độ tuổi lao động được qui định từ 15
tuổi đến hết 60 tuổi đối với nam và từ 15 tuổi đến hết 55 tuổi đối với nữ.
Hiểu theo nghĩa rộng, lực lượng lao động bao gồm những người có khả
năng lao động đang trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao
động, (tức là từ 15 tuổi trở lên theo qui định của Việt Nam) nhưng hiện đang
làm việc hoặc thất nghiệp nhưng có nhu cầu làm việc.
1.1.1.2. Khái niệm lực lượng lao động Nữ
Từ khái niệm lực lượng lao động ở trên có thể hiểu khái niệm lực lượng
lao động nữ như sau:


7
Lực lượng lao động nữ bao gồm những người phụ nữ từ đủ 15 tuổi trở
lên có khả năng lao động, đang có việc làm hoặc chưa có việc làm nhưng có
nhu cầu tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc.
Lực lượng lao động nữ trong độ tuổi lao động bao gồm những người
phụ nữ từ 15 tuổi đến 55 tuổi, có khả năng lao động, hiện đang có việc làm

hoặc chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm.
1.1.1.3. Đặc điểm của lao động Nữ
+ Trước tiên là đặc điểm thiên chức làm mẹ : Do chức năng tự nhiên
của giới tính, phụ nữ có thiên chức mang thai và sinh con, nuôi con bằng
dòng sữa của mình. Mỗi người phụ nữ nếu sinh hai con thì thường là phải mất
từ 5 đến 10 năm đề dành tâm trí và sức lực cho việc sinh nở và chăm sóc con
cái. Đây chính là trở ngại lớn nhất đối với lao động nữ khi tham gia thị trường
lao động so với lao động nam.
+ Thứ hai là đặc điểm sức khỏe sinh lý: Phụ nữ thường là thấp bé, nhẹ
cân, chân yếu tay mềm lại phải đảm nhận thiên chức làm mẹ nên không thích
hợp với công việc nặng nhọc, độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe người mẹ và
thai nhi như những công việc trên cao, công việc dưới nước hoặc tiếp xúc với
hóa chất độc hại... Bên cạnh đó, đặc tính của phụ nữ lại rất dịu dàng, khéo tay,
cần cù, chịu khó nên rất thích hợp các nghề thêu ren, giáo dục, dịch vụ, thủ
công truyền thống và chế biến nông sản, thực phẩm,...
+ Thứ ba là đặc điểm về xã hội: So với nam giới, điều kiện sinh hoạt
ăn, ở của lao động nữ thường phức tạp hơn. Lao động nữ thường có trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn thấp hơn lao động nam. Thêm vào đó là tính rụt
rè, tự ti, an phận và khó thích nghi được với những điều kiện làm việc nư
thường xuyên đi công tác xa nhà, làm việc ban đêm, nghề có tính chất nguy
hiểm,...là những trở ngại đối với lao động nữ.


8
1.1.2. Chính sách lao động Nữ và nội dung của chính sách lao động Nữ
1.1.2.1. Chính sách xã hội và chính sách lao động Nữ
* Quan niệm về chính sách xã hội
Chính sách là sự thể chế hóa, cụ thể hóa tư tưởng, quan điểm của chủ
thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất chế độ chính trị - xã hội, phản ánh lợi ích
và trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng xã hội, phản ánh lợi ích giữa con

người với con người, giữa con người với xã hội, hướng tới mục đích cao nhất
là phục vụ con người. Dưới giác độ quản lý nhà nước, chính sách là công cụ
quan trọng để giải quyết các vấn đề của đất nước, điều chỉnh các mối quan hệ
chính trị - xã hội trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước.
Như vậy có thể nói rằng: chính sách xã hội là tổng thể những biện pháp,
cách thức, phương thức của nhà nước tác động vào lĩnh vực xã hội. Nhằm
đưa các hoạt động xã hội phát triển theo những mục tiêu nhất định trong
những giai đoạn nhất định.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 đã nêu rõ « chính sách xã hội bao
trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo
dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp,... Coi nhẹ chính sách xã
hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ». Chính sách xã hội tác động và liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động
lớn của xã hội, đến những đối tượng khác nhau, và một trong số các đối tượng
được hưởng thụ chính sách xã hội chính là lực lượng lao động nữ nói riêng và
phụ nữ nói chung.
* Quan niệm về chính sách đối với lao động nữ
Phụ nữ chiếm một nửa của nhân loại, vì vậy ở mỗi quốc gia phụ nữ
luôn là đối tượng tác động, điều chỉnh của hệ thống chính sách. Chính sách
lao động nữ nằm trong hệ thống chính sách xã hội. Chính sách lao động nữ có
thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.


9
Lao động nữ trước hết là người lao động xã hội, vì vậy hệ thống chính
sách về lao động của Đảng và Nhà nước ta đều trực tiếp hoặc gián tiếp có tác
động đến lao động nữ. Có thể nói, chính sách đối với lao động nữ là hệ thống
các chủ trương, quan điểm đã được thể chế hóa dưới nhiều hình thức, nhằm
tạo điều kiện cho người phụ nữ phát huy năng lực của mình trên mọi lĩnh vực
chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội... và đảm bảo công bằng xã hội giữa phụ nữ

và nam giới.
Về mặt nhận thức, chính sách đối với lao động nữ được hiểu như một
bộ phận của chính sách xã hội nói chung là sự kết hợp và lựa chọn của các
nhà hoạch định chính sách trước các tương quan nhiều chiều giữa hiệu quả
kinh tế và công bằng xã hội, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài....Về
nguyên tắc, lao động nữ sẽ có những điều kiện vật chất, tinh thần, môi trường
khi kinh tế phát triển và chính sách xã hội chung được đảm bảo. Ngoài mục
đích là xây dựng và phát huy công bằng xã hội giữa hai giới thì chính sách đối
với lao động nữ còn nhằm khắc phục sự bất bình đẳng, thiếu công bằng và
phát triển mất cân đối giữa phụ nữ thuộc các nhóm xã hội, nghề nghiệp, dân
tộc và các vùng khác nhau.
Vậy, chính sách lao động Nữ là một bộ phận của chính sách xã hội,
được áp dụng đối với phụ nữ trong độ tuổi lao động nhằm phát huy vai trò
của lao động Nữ trong qua trình phát triển kinh tế xã hội.
Chính sách xã hội đối với lao động nữ chỉ có thể phát huy tác dụng khi
tính đến các chức năng riêng có của phụ nữ trong một thể hoàn chỉnh luôn
động và tạo điều kiện để người phụ nữ lựa chọn hoặc kết hợp theo cái mà họ
thấy có lợi nhất cho gia đình và bản thân.
1.1.2.2. Nội dung của chính sách đối với lao động Nữ
Phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng là nhóm người dễ bị thương
tổn theo các mức độ khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, họ thuộc một


10
trong những nhóm bất lợi và cần có sự hỗ trợ của Chính phủ, của xã hội và
của cộng đồng. Vì vậy, hệ thống luật pháp, chính sách việc làm cho lao động
nữ đã quy định một số biện pháp ưu tiên để bù đắp thiệt thòi của họ và giúp
cho lao động nữ khắc phục các rào cản về giới, khuyến khích lao động nữ vừa
hoàn thành tốt các công tác xã hội và vai trò làm mẹ, làm vợ trong gia đình.
Trong hơn 40 năm qua đã có khoảng 45 vạn văn bản của Nhà nước đề

cập đến các chính sách xã hội đối với lao động nữ. Sự đổi mới của đất nước
đã làm cho các chính sách nói chung và chính sách lao động nữ nói riêng
cũng dần được đổi mới, hoàn thiện để phù hợp với điều kiện mới, trong đó Bộ
Luật Lao động (1995) đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình
xây dựng chính sách về lao động nữ. Chương X của Bộ Luật Lao động gồm
10 điều qui định các quyền lợi cụ thể của lao động nữ có liên quan đến chức
năng, đặc điểm riêng của phụ nữ, ( từ Điều 109 đến Điều 118).
Nội dung của các văn bản chính sách và pháp luật này rất phong phú,
trong đó tập trung vào một số vấn đề chính của lĩnh vực lao động nữ bao gồm:

* Chính sách về lao động việc làm
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất
của mọi quốc mọi gia nhằm góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển
xã hội. Chính sách việc làm được thể chế hóa bằng hệ thống pháp luật các
quan điểm, chủ trương, phương hướng và các cách giải quyết việc làm cho
người lao động. Quan điểm của Nhà nước ta trong chính sách việc làm là cố
gắng tạo điều kiện để người lao động có được việc làm, khuyến khích mọi
người tự tạo việc làm, và tạo ra việc làm để thu hút hêm lao động xã hội. Có
việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, tạo điều kiện cho lao động nữ vươn lên
bình đẳng với nam giới trong gia đình và ngoài xã hội. Lao động nữ sẽ phát
huy vai trò của mình trong giáo dục và nuôi dạy con cái, hạn chế các tiêu cực
xã hội, góp phần bình ổn xã hội.


11
Hiến pháp Việt Nam trong tất cả các giai đoạn lịch sử đều ghi nhận
quyền bình đẳng của phụ nữ đối với nam giới, ‘Nhà nước có chính sách lao
động phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới có việc làm như
nhau thì tiền lương ngang nhau. Phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh
đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương...’. (Điều 109 - Luật LĐ)

Chính sách này còn quy định về chế độ làm việc của lao động nữ và
trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc nghiên cứu nghề mà
người lao động nữ không thể làm việc liên tục cho đến tuổi nghỉ hưu, lập kế
hoạch đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ. Ngoài ra, Nghị định này còn
có những quy định có tính chất khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều lao
động nữ sẽ được Nhà nước xét giảm thuế, ưu tiên hỗ trợ vay vốn để doanh
nghiệp chi cho việc cải thiện điều kiện làm việc cho lao động nữ. ( Điều 110 Luật LĐ)
Trong mỗi thời kỳ khác nhau, Chính phủ sẽ đề ra những chính sách
việc làm cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho phát triển sản xuất, cải thiện đời
sống, mở rộng hoặc thu hẹp việc làm của lĩnh vực, ngành này hay ngành
khác, tạo môi trường để người chủ sử dụng lao động và lao động nữ gặp nhau.

* Chính sách về tuyển dụng lao động
Trước đây, khi nền kinh tế đang trong thời kỳ bao cấp thì vấn đề việc
làm được sắp xếp theo sự phân công của Nhà nước phù hợp với trình độ
chuyên môn, học vấn của mỗi người, trong đó có cả lực lượng lao động nữ.
Tuy nhiên khi chuyển sang thời kỳ kinh kế thị trường và công nghiệp hóa thì
đã có những sự tác động lớn với vấn đề tuyển dụng lao động. Thị trường lao
động ở nước ta bắt đầu hình thành và phát triển, do quan hệ cung cầu, người
lao động bao giờ cũng yếu thế hơn so với người sử dụng lao động và phải
chấp nhận sự cạnh tranh trong thị trường lao động. Trong cuộc cạnh tranh gay
gắt này, lao động nữ thường rơi vào thế bất lợi hơn so với nam giới.


12
Đặc điểm riêng của lao động nữ là sinh con và thường phải chăm sóc
con cái, gia đình, đồng thời tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào ý thức
của người Á Đông, người sử dụng lao động cũng thường cho rằng sử dụng lao
động nữ sẽ vừa phải tốn thêm chi phí trợ cấp lúc thai sản, vừa thiếu nhân lực
lúc lao động nữ nghỉ chế độ thai sản nên dễ gây ảnh hưởng tới hiệu quả công

việc vì vậy, họ thường thích sử dụng lao động nam hơn. Chính vì vậy, trong
chính sách tuyển dụng, nhà nước yêu cầu người sự dụng lao động phải ưu tiên
sử dụng lao động nữ nếu người lao động nữ có đủ tiêu chuẩn tuyển chọn công
việc phù hợp với cả nam lẫn nữ. (Khoản 2, Điều 111- Luật LĐ )

* Chính sách về an toàn, vệ sinh lao động
Trong quá trình lao động sản xuất, luôn có rất nhiều nguy cơ tiềm ẩn
gây tai nạn lao động, hậu quả thường là để lại những di chứng hoặc thương tật
vĩnh viễn cho người lao động, cũng có thể là những bệnh nghề nghiệp gây ảnh
hưởng xấu tới sức khỏe về lâu dài người lao động, thậm chí là mất cả tính
mạng. Đối với lao động nữ thì hậu quả sẽ càng nặng nề hơn. Do vậy, vấn đề
an toàn và môi trường vệ sinh trong lao động phải luôn được các cơ quan
chức năng, chủ doanh nghiệp và cả người lao động quan tâm, thực hiện tốt
nhằm tránh tối đa các hậu quả xấu có thể xảy ra.
Ngoài những qui đinh về chế độ bảo hộ lao động nói chung thì chính
sách này qui định riêng những điều khoản về bảo vệ lao động nữ như không
phải làm trong các ngành, nghề độc hại, không phù hợp với đặc điểm lao
động nữ. Chính phủ cũng đã ban danh mục các nghề, công việc nặng nhọc
không được sử dụng lao động nữ. ( Điều 113- Luật LĐ)
Về môi trường, điều kiện sinh hoạt thì lao động nữ có những vấn đề
phức tạp hơn lao động nam do đặc điểm sinh lý, do vậy chính sách cũng
qui định thêm 1 số điều kiện tại nơi làm việc dành cho lao động nữ.
(Điều 116 - Luật LĐ)


13

* Chính sách về tiền lương, tiền công lao động
Tiền công là giá cả của sức lao động. Ở Việt Nam trước đây, do còn
ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến nên sức lao động của phụ nữ không được

đánh giá đúng mức, thường được đánh giá thấp và trả công cũng thấp hơn
nam giới. Trong khi thực tế là lao động nữ cũng có thể tạo ra một giá trị sức
lao động như nam giới
Chính sách về tiền lương, tiền công đối với lao động nữ của nước ta
hiện nay là sự thể hiện rõ về quan điểm bình đẳng giới. Luật pháp Việt Nam
qui định tiền lương của người lao động (không phân biệt nam nữ) do người sử
dụng lao động và ngươi lao động thỏa thuận trong hợp đồng lao động, tính
theo nằn suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Người sử dụng lao
động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về nâng bậc lương và trả
công lao động. ( Điều 111 - Luật LĐ)

* Chính sách về bảo hiểm xã hội
Chính sách này qui định riêng cho lao động nữ hiện hành, số lượng văn
bản không nhiều như chính sách về lao động, việc làm, song nó lại mang tính
xã hội rất cao. Điều này dựa trên tính đặc thù của lao động nữ là vừa thực
hiện thiên chức sinh đẻ, chăm sóc gia đình, vừa tham gia lao động tạo ra của
cải vật chất cho xã hội. Do vậy, trong chính sách về bảo hiểm xã hội thì nội
dung lớn nhất qui định riêng cho lao động nữ là chế độ thai sản.
Từ khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã tiến
hành cải cách bảo hiểm xã hội cho phù hợp, đối tượng bảo hiểm xã hội đã
được mở rộng ra cho các thành phần kinh tế. Như vậy, lao động nói chung và
lao động nữ nói riêng ở những nơi làm việc có quan hệ lao động (từ 10 lao
động trở lên ) đều được quyền thụ thưởng chính sách bảo hiểm xã hội. Trong


14
hệ thống bảo hiểm xã hội mới này, người lao động nữ được hoàn toàn bình
đẳng với nam giới về nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia bảo hiểm. Đặc biệt
trong chế độ nghỉ hưu, lao động nữ được nghỉ hưu trước nam giới 5 năm (nam
60, nữ 55) mà vẫn được hưởng các trợ cấp như nam giới. Người lao động nữ

được nghỉ trước và sau khi sinh con là từ 4 đến 6 tháng tùy theo điều kiện lao
động và tính chất công việc.( Điều 114). Ngoài chế độ bảo hiểm xã hội nói
trên Nhà nước còn có các chính sách quan tâm đến vấn đề sức khỏe và những
đặc điểm giới tính của lao động nữ. Trong pháp lệnh về nghĩa vụ lao động
công ích qui định miễn tham gia lao động đối với phụ nữ có thai, nuôi con
nhỏ dưới 36 tháng tuổi.

* Lĩnh vực lãnh đạo, quản lý
Việt Nam là nước có tiến bộ vượt bậc trong việc đưa ra chiến lược và
chính sách hướng vào phát triển con người, trong đó có vấn đề phát huy tối đa
tiềm năng của phụ nữ tham gia vào lãnh đạo, quản lý.
Vấn đề tăng cường năng lực cho cán bộ nữ cũng được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm rất sớm. Các văn bản này thể hiện rõ quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta là kiên quyết xóa bỏ những định kiến tư tưởng phong kiến,
trong đó có sự phân biệt coi thường phụ nữ, trọng nam khinh nữ và bất công
đối với lao động nữ, phải thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ nói chung và
lực lượng lao động nói riêng. Đây thực sự là sự chuyển biến lớn, thể hiện vai
trò quan trọng trong việc nâng cao địa vị của người phụ nữ trong xã hội.
Trong quá trình CNH, HĐH, đất nước, tiếp tục đổi mới công tác phụ nữ để
lao động nữ ngày càng tham gia nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày
càng nhiều hơn cho sự phát triển của gia đình, cộng đồng, đất nước và thực
hiện các công ước quốc tế về bình đẳng giới.


15
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
LAO ĐỘNG NỮ TRONG QUÁ TRÌNH CNH, HĐH Ở VIỆT NAM

1.2.1. CNH, HĐH và yêu cầu đặt ra đối với viêc hoàn thiện chính sách về
lao động Nữ ở Việt Nam

1.2.1.1. Quan niệm về Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), năm
1963 viết: Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình
này là một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động
viên để phát triển cơ cấu nền kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật
hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn
thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng
bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới
sự tiến bộ về kinh tế - xã hội.
Một định nghĩa khác ngắn gọn và cụ thể hơn là: công nghiệp hóa mô tả
quá trình chuyển tiếp của một nền kinh tế tập trung vào các hoạt động “sơ
cấp” như nông nghiệp sang các hoạt động “thứ cấp” chẳng hạn như công
nghiệp chế biến hay ngành dệt may. Các nước được coi là công nghiệp khi có
từ 25% GDP trở lên từ các ngành công nghiệp chế biến.
Mặc dù các quan niệm về công nghiệp hóa có khác nhau, song
những điểm cơ bản hợp thành nội dung của công nghiệp hóa có thể khái
quát như sau:
Thứ nhất, công nghiệp hóa là một sự biến đổi cơ cấu của kinh tế
(chuyển dịch cơ cấu kinh tế) từ kinh tế tiểu nông nghiệp và thủ công nghiệp
sang kiểu kinh tế công nghiệp.
Thứ hai, khác với kiểu kinh tế nông nghiệp và thủ công có năng suất
thấp, tăng trưởng chậm, kiểu kinh tế công nghiệp có đặc điểm là năng suất
cao, tăng trưởng nhanh dựa trên cơ sở áp dụng công nghệ mới hiện đại.


16
Thứ ba, công nghiệp hóa phải được đặt trong bối cảnh chung phát triển
kinh tế. Do đó, công nghiệp hóa là một giai đoạn phát triển mà các quốc gia
từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là nông nghiệp, muốn nhanh chóng vươn
lên trình độ phát triển cao đều nhất thiết phải trải qua.

Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, kinh
nghiệm trong quá trình CNH và thực tiễn CNH ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới. Quan điểm của Đảng CSVN về CNH, HĐH là:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra
năng suất lao động cao.
1.2.1.2. CNH, HĐH và yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện chính
sách về lao động Nữ trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam
* Chính sách đối với lao động nữ phải được thực hiện đồng bộ, nhất
quán và có tính hệ thống.
Chính sách đối với lao động nữ ở nước ta được Đảng, Nhà nước, Chính
phủ quan tâm và xây dựng từ khi thành lập nước đến nay, nhưng chủ yếu ở
dạng các văn bản dưới luật và một chương trong Bộ Luật Lao động ( 1995).
Các chính sách này chưa có tính hệ thống, chủ yếu dựa vào các đặc điểm của
phụ nữ và các vấn đề xã hội liên quan đến chăm sóc sức khoẻ phụ nữ và trẻ em.
Mặt khác, việc soạn thảo các văn bản pháp luật chủ yếu được thông qua
bộ máy của cơ quan hành pháp là Chính phủ. Chính phủ lại dựa vào các cơ
quan chức năng là các bộ, ngành. Trong đó, Bộ Tư pháp làm đầu mối, phối
hợp với các cơ quan hữu quan như Bộ LĐ, TB và XH, Hội Liên hiệp Phụ nữ,
Uỷ ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ.. để xây dựng đề án chính sách, pháp luật.


17
Nếu các ý kiến đề xuất không đồng nhất giữa các cơ quan chức năng này thì
quyền lợi của lao động nữ khó được đảm bảo trọn vẹn và đó cũng là nguyên
nhân làm hạn chế đến tính đồng bộ khi xây dựng văn bản pháp luật. Do vậy,
trong quá trình hoàn thiện chính sách đối với lao động nữ phải đáp ứng yêu

cầu về tính đồng bộ và tính hệ thống trong các văn bản pháp luật.
* Nâng cao trình độ nhận thức chung và hiểu biết về pháp luật của mọi
người, đặc biệt là của đội ngũ những người làm chính sách và lực lượng lao
động nữ.
Hiện nay, trình độ của đội ngũ xây dựng chính sách vừa thiếu vừa yếu,
hầu hết những người tham gia xây dựng luật không chuyên trách và không
được đào tạo bài bản. Hơn nữa, phần lớn họ là nam giới nên sự hiểu biết một
cách khoa học về đặc điểm tâm sinh lý củ alao động nữ và thực trạng chung
về lực lượng lao động nữ còn hạn chế. Bản thân nam giới vẫn còn những tư
tưởng cũ như trọng nam khinh nữ, cho rằng phụ nữ thì việc nhà là chính…
nên cũng ít nhiều ảnh hưởng đến việc hoàn thiện chính sách.
Bên cạnh đó, nhận thức của bản thân người lao động nữ cũng còn hạn
chế, họ chưa biết cách nói lên những bức xúc, khó khăn của mình về mọi mặt
trong cuộc sống và nhờ đến các cơ quan chức năng hỗ trợ, tư vấn nhằm đảem
bảo quyền lợi chính đáng cho mình.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, quá trình CNH, HĐH đất nước,
tư duy, nhận thức và trình độ dân trí nói chung cũng được nâng lên, tuy nhiên
bên cạnh những kiến thức mang tính xã hội chung, kiến thức về KHCN, kỹ
thuật hiện đại,… thì đòi hỏi mọi người cũng phải tăng cường nâng cao nhận
thức về giới, kiến thức về pháp luật, trong đó có pháp luật lao động để đảm
bảo cho việc góp ý vào dự thảo luật sửa đổi, bổ sung.
* Hệ thống chính sách đối với lao động nữ phải thích ứng với môi
trường lao động trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.


18
Trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá, việc hoàn thiện chính sách
đối với lao động nữ phải đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nhiều vấn đề liên quan đến lao động nữ được mở rộng hơn và chưa có chính
sách phù hợp, ví dụ như: vấn đề xuất khẩu lao động nữ, vấn đề lao động nữ ở

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,…các chính sách nhằm bảo vệ và
hỗ trợ cho lao động nữ khi xảy ra các sự việc có liên quan đến luật thương
mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế song phương và đa phương như: Luật
chống bán phá giá, vụ kiện về tranh chấp các hợp đồng kinh tế với các đối tác
nước ngoài… Do vậy, khi hoàn thiện luật phải tính đến các yếu tố này.
* Chính sách đối với lao động nữ phải đảm bảo các quyền lợi, nghĩa
vụ của lao động nữ.
Trong cơ chế thị trường và quá trình CNH, HĐH ở nước ta, mặc dù lao
động nữ có điều kiện tiếp xúc với các thiết bị tiện ích, máy móc hiện đại, làm
giảm bớt sức lao động chân tay cho người phụ nữ, lao động nữ có phần nhàn
hơn với công việc nội trợ, chăm sóc gia đình. Tuy nhiên thực tế thì gánh nặng
đối với lao động nữ cũng không hề giảm đi, thậm chí còn tăng lên, bởi vì bên
cạnh vai trò là người nội trợ trong gia đình, họ còn phải đảm nhận các công
việc tạo ra thu nhập với một tính chất khác hẳn giai đoạn trước. Họ không chỉ
làm việc cho bản thân, cho gia đình mà còn đảm nhận các công việc vì lợi ích
cộng đồng, quốc gia, thậm chí là có tính quốc tế. Do vậy, chính sách đối với
lao động nữ trong thời kỳ CNH, HĐH phải đảm bảo các quyền lợi cũng như
nghĩa vụ của lao động nữ.
Mặt khác, lao động nữ ở nước ta hiện nay, phần lớn vẫn ở mức trình độ
nhận thức thấp, nhiều lao động phổ thông ở khu vực nông thôn hoặc thành thị
nhỏ. Do đó, chính sách và văn bản pháp luật cần phải rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu
đối với mọi tầng lớp dân cư, đồng thời có cơ chế rõ ràng buộc những người
tham gia lao động phải chấp hành đúng pháp luật lao động.


19
1.2.2. Sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện chính sách đối với lao
động Nữ trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung và quá trình CNH,
HĐH nói riêng phải hoàn thiện chính sách đối với lao động Nữ. Đó là tất yếu

khách quan, bởi vì :
Thứ nhất, do vị trí, vai trò của lực lượng lao động Nữ Việt Nam trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội và quá trình CNH, HĐH đất nước.
Phụ nữ không chỉ là lực lượng tạo ra nền của sự ổn định xã hội mà
còn là yếu tố của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Phụ nữ Việt Nam chiếm
hơn 50% tổng dân số và lực lượng lao động xã hội, họ tham gia vào mọi
lĩnh vực kinh tế và có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước.
Trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam, vị trí và vai trò của nữ giới (hơn một nửa dân số Việt Nam) là
rất to lớn. Các anh hùng dân tộc là nữ như Hai Bà Trưng, Bà Triệu Thị Trinh
và nhiều tấm gương tiêu biểu khác qua các thời kỳ lịch sử cho thấy suy nghĩ
của người phụ nữ Việt Nam đã không chỉ dừng lại ở đấu tranh giành quyền
bình đẳng giới cho mình, mà khi đất nước lâm nguy thì quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, quyền tự do độc lập dân tộc đã được đặt lên hàng đầu. Lịch sử
dân tộc đã khắc sâu những chữ son về vai trò của người phụ nữ Việt Nam:
“Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” trong gần 30 năm đất nước tiến
hành cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của thế kỷ XX, “Năng động,
sáng tạo, trung hậu, đảm đang” trong hoà bình, xây dựng đất nước.
Trong thời kỳ chiến tranh, khi nam giới phải ra mặt trận, các công việc
ở hậu phương hầu hết là do lao động nữ đảm nhiệm, đặc biệt là trên mặt trận
sản xuất nông nghiệp. Lực lượng lao động nữ đã thực hiện xuất sắc vai trò


20
của hậu phương lớn và có những đóng góp quan trọng cho sự thành công của
cuộc kháng chiến.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh, lực lượng lao động
nữ cũng tham gia đóng góp vào các hoạt động chính trị, xã hội, kinh tế, đoàn
thể của đất nước. Trong tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh

tế quốc dân thì lao động nữ chiếm tỷ lệ là 51,3 %. Trong lĩnh vực phi kết cấu,
phụ nữ chiếm khoảng 70%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì lao động
nữ chiếm tỷ lệ cao ở các ngành như: giáo dục và đào tạo (66,6%) ; dịch vụ
( hoạt động làm thuê, công việc gia đình ) 63,9%, y tế và hoạt động cứu trợ xã
hội là 62% ; ngành tài chính tín dụng là 56,4%. Trong lao động nông và lâm
nghiệp, lao động nữ chiếm 52,8% ; trong các hoạt động khoa học, công nghệ,
lao động nữ chiếm 38,9% và trong lĩnh vực quản lý nhà nước, an ninh quốc
phòng là 33,3%. Việc tham gia tích cực vào các hoạt động này đã ngày càng
khẳng định vị trí, vai trò của lực lượng lao động nữ.
Bên cạnh đó, do yêu cầu của CNH, HĐH đòi hòi một bộ phận lao động
đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của một số ngành nghề như công nghiệp chế
biến, dịch vụ... thì yêu cầu này lại phù hợp với lực lượng lao động nữ.
Thứ hai, do đặc điểm riêng của lực lượng lao động Nữ Việt Nam.
Như phần trên đã trình bày về đặc điểm chung của lao động nữ với
những đặc tính cơ bản như: phải thực hiện thiên chức làm mẹ, chăm sóc gia
đình; chân yếu tay mềm, về tính cách thì rụt rè, tự ti nhưng lại khéo tay, tỉ
mẩn phù hợp với các công việc đòi hỏi sự khéo tay, cần mẫn... Song bên cạnh
đó nguồn lao động nữ Việt Nam còn có là những đặc điểm riêng như sau :
+ Việt Nam có một nguồn lao động nữ dồi dào và tăng nhanh
Việt Nam là một quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào, đứng vào vị trí
thứ 13 trên thế giới và thứ 2 trong khối ASEAN. Ở thập niên 90, nước ta có
trên 35 triệu lao động và đến đầu thế kỷ 21 là trên 40 triệu, trong đó lực lượng


21
lao động nữ cũng là một bộ phận quan trọng của lực lượng lao động xã hội,
thường chiếm gần 50% tổng lực lượng lao động xã hội. Mặt khác tốc độ tăng
dân số vẫn có chiều hướng tăng lên trong thời gian vừa qua và có thể vẫn tiếp
tục tăng trong thời gian đầu của thế kỷ 21.
Nguồn lao động dồi dào, trẻ và nhanh tăng là một lợi thế đối với sự

phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Nó đảm bảo một yếu tố cơ bản cho đầu
tư phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Lao động trẻ có sức bật nhanh,
thuận lợi cho sự phát triển chuyên môn, kỹ thuật và có sức khỏe dồi dào đáp
ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Tỷ lệ lao động nữ được đào tạo kỹ thuật, chuyên môn vẫn còn thấp,
phần lớn là lao động thủ công.
Mặc dù sự nghiệp giáo dục, đào tạo đã đạt được những thành tựu to
lớn, nhưng do nước ta trải qua 2 cuộc kháng chiến kéo dài, kinh tế chậm phát
triển, ngân sách đầu tư cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo còn hạn hẹp trong khi
dân số và nguồn nhân lực tăng nhanh nên một bộ phận lớn lao động không
qua đào tạo nghề nghiệp chuyên môn, phần đông là lao động thủ công lạc
hậu. Thêm vào đó là định kiến về giới, tư tưởng trọng nam khinh nữ khiến
cho nhiều lao động nữ chịu thiệt thòi, không được đào tạo chuyên môn. Do
vậy, trình độ của lao động nữ Việt Nam luôn thấp hơn so với nam giới và thấp
so với yêu cầu của CNH, HĐH .
+ Cơ cấu của nguồn lao động Việt Nam còn lạc hậu so với thế giới.
Cùng với sự nghiệp CNH, HĐH là đô thị hóa và hình thành các khu
công nghiệp tập trung, khu vực điều này sẽ kéo theo sự dịch chuyển lao động
từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp. Lao động nữ thường tập
trung ở một số ngành sản xuất như : Dệt may, da giầy, chế biến thủy sản...
Mặt khác, quá trình CNH, HĐH cũng làm thay đổi cơ cấu kinh tế, giảm tỷ
trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, có nghĩa là một bộ


22
phận lao động nông nghiệp sẽ chuyển sang lao động công nghiệp và dịch vụ
do nhu cầu của xã hội và cũng do khi đó, nông dân không còn đất để sản xuất.
Trong đó sẽ có một lực lượng lao động lao động nữ với nhiều yếu thế như
trình độ văn hóa và chuyên môn thấp, phải sống và làm việc xa gia đình,... sẽ
dẫn tới nhiều vấn đề xã hội phức tạp khác.

Thứ ba, do yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đối với lực lượng lao
động Nữ Việt Nam.
CNH và HĐH trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của nước ta đang đặt ra những yêu cầu cao và khắt khe hơn đối với
lao động nữ.
Khi áp dụng kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, quản lý và đời sống sẽ làm tăng năng suất lao động, giảm bớt
sức lao động cơ bắp của con người, đồng thời sẽ giảm bớt số lượng lao động.
Số lượng việc làm giảm đi nhưng chất lượng lao động lại đòi hỏi rất cao. Do
đó, để duy trì và phát triển được ở chỗ làm việc, lao động nữ phải có kiến
thức, kỹ năng và trình độ lành nghề thích ứng, sử dụng tốt các máy móc, thiết
bị, dây chuyền công nghệ hiện đại. Để đạt được điều đó, lao động nữ thường
xuyên phải học tập để nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức mới có hy vọng
có việc làm và thu nhập ổn định.
CNH và HĐH đòi hỏi lao động nữ phải có tính kỷ luật cao, tạo được
những thói quen, lối sống, lối suy nghĩ và làm việc với tác phong công nghiệp,
chẳng hạn đi làm đúng giờ, sử dụng có hiệu quả cao thời gian làm việc.
Bên cạnh đó, việc chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái trong điều kiện
kinh tế thị trường đang đặt ra cho lao động nữ những nhiệm vụ hết sức nặng
nề, những đòi hỏi rất cao và rất khắt khe. Vậy thì, để người phụ nữ có một
nghề nghiệp vững vàng, có việc làm, có thu nhập ổn định, đáp ứng đòi hỏi của
CNH, HĐH, trước tiên người phụ nữ phải có sức khoẻ, có trí tuệ, nghị lực,


×