Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Huy động vốn trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.15 KB, 39 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nông nghiệp, nông thôn từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển của Việt Nam. Để đẩy nhanh sự phát triển trong nông nghiệp và kinh tế
nông thôn nói riêng Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tiến hành Công
nghiệp hoá nông nghiệp ,nông thôn. Đây là một bước đi dúng đắn nhằm phát
triển kinh tế nông nghiệp ,nông thôn thúc đẩy quá trình CNH HĐH đất nước.
Để có thể thành công trong quá trình này thì sự tích tụ và tập trung là yêu cầu
bắt buộc. Vốn được xem như yếu tố đầu vào quan trọng nhất quyết định đến
sự thành công của mọi quá trình phát triển kinh tế. Để đảm bảo đủ nguồn
vốn cho quá trình CNH nông nghiệp nông thôn ở nước ta trong giai đoan tới
đoì hỏi phải có một chính sách huy động vốn đúng đắn. Trước yêu cầu đó
nghiên cứu về vốn và chính sách huy động vốn là điều rất cần thiết. Trong
bài viết nhỏ này em chỉ xin đề cập một cách khái quát về vấn đề vốn cho
phát triển nông nghiệp, nông thôn, thực tai vấn đè vốn ,tín dụng và đầu tư ở
Việt Nam và từ đó đề ra các chính sách, giải phát nhằm huy động tối đa các
nguồn vốn cho quá trình CNH nông nghiệp ,nông thôn ở nước ta.
Vấn đề vốn nói riêng vốn cho nông nghiệp, nông thôn nói chung là một vấn
đề kinh tế rộng ,chính vì vậy mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng đề án này
chắc không thể đề cập được đầy đủ mọi khía cạnh của vấn đề . Em rất mong
được thầy giáo và các bạn đọc và cho em những ý kiến để em có thể hoàn
thiện hơn đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn Thầy Đào Hùng đã nhiệt
tình hướng dẫn, và những góp ý quý báu của thầy giúp em hoàn thành đề án
này.
Em xin chân thành cảm ơn!

1 1
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ VỐN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HOÁ NÔNG NGHIỆP,NÔNG THÔN.
I-Sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam.


1.1 - Vấn đề nông nghiệp , nông thôn Việt Nam.
Từ thủa xa xưa ông cha ta đã chọn nghề nông là nghề kiếm sống chính.Trải
qua 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước , ở mọi thời đại nông nghiệp
và nông thôn luôn là vấn đề trọng tâm của quá trình phát triển. Đất nước ta
được hình thành và phát triển dựa trên nền văn minh nông nghiệp. Nền văn
hoá truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc của nước ta gắn liền với nghề nông
và vùng nông thôn ,nơi mà phần lớn dân cư sinh sống.
Hiện nay ở nước ta 80% dân số sống ở nông thôn, hơn 70% lực lượng lao
động làm nông nghiệp. Vùng nông thôn bao gồm 8930 xã,thị trấn với
khoảng 70.000 thôn, ấp, buôn, bản . Trong đó miền núi trung du Bắc bộ có
2666 xã, Đồng bằng Sông Hồng có 1710 xã, khu IV cũ 1647 xã, Đông nam
bộ 447 xã và Đồng bằng sông cửu long 1151 xã. (1)
Là một nước nằm trong vùng địa lý đa dạng ,khí hậu nhiệt đới gió mùa đã
tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp phát triển. Tuy nhiên nước ta
cũng thường xuyên phải gánh chịu hậu quả của thiên tai như bão lụt ,hạn hán
...Theo thống kê trong hơn 20 năm qua, đã có tới 140 cơn bão và áp thấp
nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp tới nước ta, làm chết và mất tích 12.684
người .Giá trị tài sản thiệt hại ước tính khoảng 2,247 tỷ USD . Bình quân
trên 100 triệu USD một năm ,chủ yếu là thiệt hại trong nông nghiệp,nhà
cửa ,tàu thuyền của ngư dân. Hoạt động sản xuất nông nghiệp của nước ta
vẫn còn chịu ảnh hưởng khá nặng bởi tự nhiên . Do đó rủi ro trong nông
nghiệp là rất lớn. (2)
Một đặc điểm nữa của nền nông nghiệp và nông thôn ở nước ta là hoạt động
sản xuất rất manh mún, dựa vào kinh nghiệm là chính . Quan hệ kinh tế ở
nông thôn thường mang tính chất họ hàng ,quen biết . Tính bảo thủ, sợ rủi ro
của người dân nông thôn vẫn còn khá lớn dẫn đến sự chậm đổi mới trong tư
2 2
duy kinh tế, không dám mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất lớn. Những đặc
điểm này làm cho các mối quan hệ kinh tế ở nông thôn ở nước ta ,trong đó
có quan hệ tín dụng có những đặc điểm riêng mà chúng ta phải quan tâm.


* Những thành tựu và tồn tại
Trong những năm qua vượt lên bao khó khắn , nông nghiệp nước ta đã đạt
được bước tăng trưởng khá. Từ một nước thiếu đói thường xuyên vào đầu
thập niên 80, ngày nay nước ta đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo thừ
hai trên thế giới, giải quyết được vấn đề an ninh lương thực. Liên tục từ năm
1989 đến nay sản xuất nông nghiệp tăng trưởng khá cao , khoảng 4,3 % năm.
Tất cả các lĩnh vực sản xuất lương thực thực phẩm,chăn nuôi,đánh bắt và
nuôi trồng thuỷ hải sản,lâm nghiệp... đều đạt được bước tăng trưởng đáng kể.
Năm 2000 tổng giá trị nông ,lâm, thuỷ sản nước ta đạt 107.914 tỷ đồng
,chiếm 24,4 % GDP. Tốc độ tăng trưởng đạt 4,9 % so với năm 1999 (kế
hoạch 3,5-4 %). Sản lượng lương thực quy thóc đạt 35,7 triệu tấn. (3)
Sự phát triển của nông nghiệp đã tạo ra một khối lượng hàng hoá xuất khẩu
lớn thu về một lượng lớn ngoại tệ cho đất nước. Kim ngạch xuất khẩu hàng
nông ,lâm , hải sản của nước ta liên tục tăng từ gần 1 tỷ USD năm 1998 lên
3,2 tỷ USD năm 1999. Năm 2000 măc dù một số mặt hàng nông sản găp khó
khăn trong khâu tiêu thụ nhưng nhìn chung xuất khẩu nông sản của nước ta
vẫn tăng mạnh ,đặc biệt thuỷ sản đạt 1,1 tỷ USD ,đóng góp một phần quan
trọng vào thành tích 14 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu cả nước. Thị trường
được mở rộng, hàng nông sản nước ta đã dần tạo lập được uy tín trên thị
trường thế giới ,thâm nhập được vào cả những thị trường khó tính như EU,
Nhật Bản...
Những thành tựu trong nông nghiệp đã tạo điều kiện tăng thu nhập cho
người nông dân. Đời sống dân cư nông thôn dần khấm khá lên tạo điều kiện
cho công nghiệp ,dịch vụ nông thôn phát triển. Quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn diễn ra nhanh chóng theo hướng tiến bộ làm cho bộ mặt
nông thôn thay đổi đáng kể. Cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều vùng đã được
cải thiện. Sau 10 năm đã tăng thêm năng lực tưới 1,4 triệu ha .Tỷ lệ xã có
đường ô tô vào tận trung tâm tăng từ 86,5% năm 1994 lên 93% năm 1998,
điện sinh hoạt từ 60,4% lên 70% ,điện thoại từ 10% (năm 1992) lên 78,9%

3 3
,xã có chợ từ 55% lên 60%, trạm xá từ 92% lên 98%, nguồn nước sạch từ
63% lên 68%. (4)
Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực trong nông nghiệp ,nông thôn
trong những năm qua , nhưng có thể nhận thấy vẫn còn những khó khăn, tồn
tại cũng như những bất cập hạn chế sự phát triển của nông nghiệp , và kinh
tế nông thôn .
- Thứ nhất : Nền nông nghiệp nước ta còn khá lạc hậu, năng suất, chất lượng
thấp, sản xuất manh mún , áp dụng khoa học công nghệ hiện đại rất hạn chế.
Mặc dù năng suất lúa tăng 2% năm nhưng mới chỉ bằng 65% năng suất của
Trung quốc, thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Sự phân bố lao động ở nông
thôn chưa hợp lý, số lao động thì đông nhưng công việc lại ít ,đặc biệt là lúc
nông nhàn. Điều đó làm cho nhiều lao động nông thôn phải ra thành phố
kiếm việc ,gây ra một vấn đề xã hội lớn buộc các nhà hoạch định chính sách
phải quan tâm giải quyết.
- Thứ hai : Hệ thông cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tuy có được
cải thiện trong những năm vừa qua nhưng nhìn chung vẫn rất yếu kém. Hệ
thống thuỷ lợi mới chỉ đáp ứng được khoảng 80% diện tích canh tác. Có hơn
600 xã chưa có đường giao thông (chủ yếu là ở miền núi, vùng xâu,vùng
xa ). Hệ thống đường giao thông phần lớn đã cũ ,không được duy tu ,bảo
dưỡng thường xuyên .Hệ thống điện ,nước sạch chưa đến được nhiều xã. Hệ
thống dự báo và phòng chống thiên tai còn yếu. Môi trường sinh thái tiếp tục
xấu đi.
- Thứ ba : Nhiều nguồn tiềm năng to lớn trong nông nghiệp, nông thôn
chưa được khai thác có hiệu quả. Tiềm năng về đất đai, rừng biển nước ta rất
phong phú tuy nhiên trong những năm qua chúng ta chưa khai thá các nguồn
lực này một cách hiệu quả. Tiềm năng về vồn, tín dụng trong dân cư là rất
lớn tuy nhiên chưa có chính sách phù hợp để khai thác.
- Thứ tư : khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông
thôn , giưa người giàu và người nghèo ở nông thôn ngày càng gia tăng. Dù

đã đạt được những kết quả khả quan trong việc xoá đói ,giảm nghèo nhưng
tỷ lệ hộ nghèo hiện nay vẫn chiếm khoảng 11%, chủ yếu là ở nông thôn.
4 4
- Thứ năm : Thách thức lớn đối với nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn
nước ta trong thời gian tới là quá trình hội nhập nền kinh tế nước ta với nền
kinh tế khu vực và thế giới. Liệu hàng nông nghiệp Việt Nam có đảm bảo và
cải thiện được chỗ đứng trên thị trường thế giới không khi mà nông nghiệp
một số nước khác phát triển khá nhanh trong thời gian gần đây.
Bước sang thế kỷ 21 nông nghiệp, nông thôn nước ta đứng trước những triển
vọng to lớn để phát triển. Tuy nhiên chúng ta cũng đứng trước rất nhiều khó
khăn ,thách thức buộc chúng ta phải tìm ra giải pháp khắc phục.

1.2 - Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá.
Trên thế giới đã từng tồn tại những quan điểm khác nhau trong việc phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn . Mỗi một quốc gia ,tuỳ thuộc vào
đặc điểm , điều kiện của mình mà đề ra những chính sách phát triển kinh tế
nông nghiệp ,nông thôn phù hợp . Có thể thấy 3 xu hướng chủ đạo sau.
Xu hướng thứ nhất là ưu tiên phát triển công nghiệp ,dịch vụ trước sau đó
mới quay lại đầu tư vốn, công nghệ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và
phát triển kinh tế nông thôn. Xu hướng này xuất hiện trong thời kỳ công
nghiệp hoá ở các nước phương tây thế kỷ 19. Tuy nhiên quan điểm này đã bị
các nhà kinh tế trọng nông phê phán gay gắt. Nhật Bản, Hàn Quốc và các
nước công nghiệp phát triển đã đi theo xu hướng này trong quá trình phát
triển kinh tế.
Xu hướng thứ hai là coi trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn coi
đó là nền tảng cho phát triển kinh tế đất nước. Nông nghiệp phát triển sẽ tạo
điều kiện về vốn cho công nghiệp hoá. Xu hướng này được các nhà kinh tế
trọng nông ủng hộ và chúng ta có thể nhận thấy rõ xu hướng này trong chiến
lược phát triển kinh tế của một số nước , tiêu biểu là Đài Loan.
Xu hướng thứ ba cho rằng nên tồn tại song song cả hai lĩnh vực ,lĩnh vực

công nghiệp hiện đại ở thành thị và lĩnh vực nông nghiệp cổ truyền ở nông
thôn. Công nghiệp thành thị phát triển sẽ là cánh kéo giúp cho nông
nghiệp ,nông thôn phát triển theo. Nhiều nước như Brasil, Mexico,
Angeri...đã theo xu hướng này nhưng cuối cùng đã không đạt được kết quả
5 5
như dự kiến ban đầu ,gây ra sự mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế,
từ đó kéo theo những mâu thuẫn trong xã hội.
Đối với nước ta nông nghiệp, nông thôn có những đặc điểm riêng như đã
phân tích . Do đó cần có một chính sách phát triển sao cho phù hợp với
những đặc điểm và điều kiện riêng đó. Để khắc phục sự yếu kém của hệ
thống cơ sở hạ tầng, nâng cao năng suất,chất lượng, cũng như giải quyết
những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng khác thì việc tiến hành cnông nghiệp
nông nghiệp, nông thôn là một hướng đi hết sức đúng đắn. Quá trình cnông
nghiệp nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan
phù hợp với quy luật phát triển kinh tế cũng như điều kiện thực tế của nền
kinh tế nước ta hiện nay.
Thứ nhất: Quá trình cnông nghiệp sẽ tạo cho nông nghiệp ,nông thôn một
khả năng phát triển mới. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại cho nông
nghiệp, nông thôn . Tạo ra những tiền đề cho nông nghiệp,nông thôn phát
triển mạnh,và bền vững.
Thứ hai : Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại và hợp lý . Hướng nền
kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát
triển. Bên cạnh đó tạo điều kiện tăng thu nhập cho người dân, góp phần xoá
đói giảm nghèo, hướng tới làm giàu. Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông
thôn sẽ làm giảm bớt sự chênh lệch về mức sống của dân cư nông thôn và
thành thị.
Thứ ba : Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra công ăn việc làm
cho lực lượng lao động nông thôn. Giải quyêt được những vấn đề xã hội
phức tạp mà hầu hết các quốc gia phải đương đầu như hiện tượng di cư ra

thành thị, vấn đề thất nghiệp ở nông thôn...
Thứ tư : Quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra những
nguồn lực quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự thành
công của cnông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn sẽ là tiền đề quan trọng đảm
bảo cho quá trình cnông nghiệp, hiện đại hoá đất nước thành công.
Cuối cùng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta được xem
như là một sự phát triển bền vững. Nó tạo ra được sự cân đối cho nền kinh
tế. Thực tế kinh nghiệm các nước như Nhật Bản,Hàn Quốc, Brasil,
6 6
Mexico...cho thấy việc quá chú trọng phát triển công nghiệp của họ đã tạo ra
sự mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế, gây ra những mâu thuẫn xã
hội gay gắt.
1.3 - Thực trạng công nghiệp hoá nông nghiệp ,nông thôn ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Công nghiệp hoá nông nghiệp,nông thôn là một bộ phận hợp thành của quá
trình CNH, HĐH đất nước. Quan điểm về CNH nông nghiệp, nông thôn đã
được thể hiện trong đường lối chính sách đổi mới của Đảng . Hội nghị trung
ương lần thừ 5 BCH TW khoá VII xác định, có thể coi cnông nghiệp nông
nghiệp ,nông thôn là một quá trình kinh tế xã hội mà nội dung là sự chuyển
dịch cơ bản cơ cấu kinh tế nông thôn, trong đó công nghiệp và dịch vụ là
những ngành kinh tế ngày càng chiếm vai trò quan trọng, chiếm tỷ trọng
ngày càng lớn trong kinh tế nông thôn. Đại hội VIII một lần nữa khẳng định
quan điểm của Đảng về cnông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.Từ
quan điểm đó có thể thấy cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn ở nước ta có
những nội dung chủ yếu sau.
- CNH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận của quá trình CNH, HĐH đất
nước, trong đó CNH nông nghiệp ,nông thôn phải đi trước một bước. Phát
triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện ,ổn định và bền vững, đưa nông
nghiệp, nông thôn lên sản xuất hàng hoá lớn, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm
trọng tâm. Đảm bảo nông nghiệp, nông thôn đủ sức làm cơ sở cho sự ổn định

tình hình kinh tế xã hội, làm tiền đề vững chắc cho quá trình CNH, HĐH đất
nước.
- Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn .
Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn . Nội dung này bao gồm cả phát
triển hệ thống hạ tầng dịch vụ nông thôn như các dịch vụ tài chính, ngân
hàng...
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại ,trong đó
từng bước chuyển sản xuất nông nghiệp sang sản xuất theo hướng công
nghiệp mang định hướng thị trường hơn. Khai thác và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực của nền kinh tế quốc dân. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
góp phần xoá đói giảm nghèo, khắc phục tình trạng bất bình đẳng giữa nông
thôn và thành thị, đẩy mạnh quá trình đô thị hoá nông thôn, nâng cao trình
7 7
độ, mức sống văn hoá tinh thần của dân cư nông thôn,giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc .

Mặc dù nhà nước ta nhận thức được vấn đề cnông nghiệp, nông nghiệp, nông
thôn và tiến hành quá trình đó khá muộn nhưng trong vài năm ngần đây đã
có những chuyển biến tích cực. Chúng ta đã đạt được những kết quả khả
quan. Sản lượng nông nghiệp liên tục tăng .Kim ngạch xuất khẩu hàng nông
,lâm ,ngư nghiệp tăng mạnh. Tuy nhiên chúng ta chủ yếu xuất khẩu nguyên
liệu thô. Công nghệp chế biến chưa phát triển để đáp ứng được nhu cầu (hện
nay mới chỉ có khoảng 60% nông sản được chế biến) . Phát triển công
nghiệp chế biến nên là hướng ưu tiên trong những năm tới.
Nhà nước đã triển khai một số chương trình kinh tế xã hội và đã thu được
những kết quả đáng khích lệ. Chương trình xoá đói giảm nghèo góp phần
quan trọng giúp giảm tỷ lệ hộ đói nghèo từ 58% năm 1993 xuống 37% năm
1998, 17% năm 1999 và chỉ còn 11% năm 2000. Kết quả này có ý nghĩa to
lớn và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Bên cạnh đó chính phủ còn
triển khai một số chương trình khác như định canh định cư, chương trình 327

phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình lương thực, chương trình 1 triệu
tấn đường, chương trình nuôi trồng thuỷ sản và đánh cá xa bờ....
Tuy nhiên cũng còn nhiều hạn chế trong các chương trình đã tiến hành. Có
nhiều bằng chứng cho thấy hiệu quả của vốn trong các chương trình đã thực
hiện thấp. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản bị thất thoát nhiều. Chúng ta chưa
xây dựng được một chiến lược trung và dài hạn cho việc phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Điều này đã làm cho những chính sách của
chúng ta thiếu tính định hướng cũng như sự ổn định. Chính vì vậy xây dựng
một chính sách tổng thể phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải là ưu
tiên số một trong những năm tới. Chính phủ cần phải xác định được các
ngành nghề, lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư phát triển cũng như chính sách để
huy động mọi nguồn lực cho cnông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn.
II .Chính sách huy động vốn cho công nghiệp hoá nông nghiệp, nông
thôn.
2.1 . Vốn và vai trò của yếu tố vốn.
8 8
Để có thể tiến hành thành công CNH, HĐH đất nước thì quá trình tích tụ và
tập trung tư bản là hết sức cần thiết. Quá trình này là một tất yếu khách quan
mà tất cả các quốc gia đều phải tiến hành . Nói một cách khác đây là quá
trình tích tụ ,tập trung vốn tạo ra những nguồn lực cho phát triển kinh tế. Có
thể nói đây là bước đầu tiên không thể thiếu của mọi quá trình phát triển kinh
tế. Vốn là yếu tố đầu vào của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Vai trò của
vốn là rất quan trọng . Nó quyết định quy mô đầu vào và do đó tác động đến
sản lượng, việc làm và thu nhập ...Nếu không có vốn thì mọi quá trình sản
xuất, kinh doanh không thể diễn ra.
Theo một nghĩa rộng thì vốn không chỉ đơn thuần là tiền mặt mà nó bao hàm
tất cả các yếu tố vật chất và phi vật chất biểu hiện bằng tiền . Theo quan
niệm này thì vốn chính là các nguồn lực tài chính, đất đai ,rừng, biển...mà
chúng ta có thể khai thác và sử dụng. Khái niệm trên đã mở rộng quan niệm
lâu nay của người dân nước ta coi vốn chỉ là các khoản tiền, vàng, ngoại tệ

hiện hữu . Điều này cho thấy có rất nhiều con đường khác nhau để tiếp cận,
khai thác và sử dụng các nguồn vốn phục vụ cho quá trình CNH nông
nghiệp, nông thôn cũng như phát triển kinh tế đất nước.
Đối với quá trình cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay
vốn được xem như là một yêu cầu cấp thiết, là động lực thúc đẩy kinh tế phát
triển. Đảng và nhà nước ta nhận thức rõ vai trò cực kỳ quan trọng của yếu tố
vốn. Nghị quyết 5 của BCH TW Đảng khoá VII khẳng định “ Vấn đề vốn và
dịch vụ tài chính là một trong những động lực chủ yếu để phát triển nông
nghiệp và nông thôn trong giai đoạn mới ”.
Do những đặc điểm riêng của nông nghiệp và nông thôn nước ta nên yếu tố
vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta có những đặc
điểm riêng. Có thể thấy một số đặc điểm nổi bật sau.
- Vốn đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn gặp rủi ro rất lớn : Hoạt
động sản xuất nông nghiệp ở nước ta gặp rất nhiều rủi ro như thiên tai, dịch
bệnh, khả năng dự báo và phòng chống thiên tai lại thấp . Chính vì vậy việc
9 9
mất khả năng trả nợ của nông dân thường diễn ra , một phần cũng do những
rủi ro bất khả kháng. Đặc điểm này cho thấy vai trò quan trọng của chính
phủ trong việc hỗ trợ tín dụng để đảm bảo và khuyến khích mọi thành phần
kinh tế bỏ vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
- Chi phí cho việc quản lý vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn lớn:
Nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta chủ yếu quy mô nhỏ , sản
xuất manh mún ,địa bàn hoạt động rộng khắp trên cả nước. Điều đó làm cho
chi phí để huy động và quản lý nguồn vốn cho vay là rất lớn, do đó các
NHTM và các TCTD ngại không muốn đầu tư vào khu vực này, hạn chế khả
năng huy động vốn cho nông nghiệp, nông thôn.
- Chu kỳ vốn rất đa dạng và mang tính mùa vụ : Chúng ta biết rằng hoạt
động sản xuất nông nghiệp mang tính mùa vụ rất cao do đó vốn đầu tư vào
lĩnh vực này cũng phải theo chu kỳ của cây trồng vật nuôi. Chu kỳ sản xuất
của các loại cây trồng vật nuôi rất khác nhau, thêm vào đó sự đa dạng trong

sản xuất nông nghiệp làm cho chu kỳ vốn của nông nghiệp và kinh tế nông
thôn nước ta rất đa dạng . Chu kỳ vốn cũng phải linh hoạt thay đổi cho phù
hợp với đặc điểm của nền nông nghiệp nước ta. Trong giai đoạn hiện nay
nhu cầu vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp,nông thôn yêu cầu
nhiều vốn trung và dài hạn.
Các đường dẫn vốn cho nông nghiệp, nông thôn bao gồm:
- Ngân sách nhà nước nguồn vốn đầu tư quan trọng vào nông nghiệp,
nông thôn : Vốn ngân sách được sử dụng để xây dựng hệ thống cơ sở hạ
tầng thuỷ lợi, đường giao thông nông thôn... Vốn ngân sách cũng là nguồn
vốn chủ yếu để triển khai các chương trình kinh tế xã hội quan trọng như
chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, hay mới đây là chương trình 135 của
chính phủ trợ giúp các xã đặc biệt khó khăn...
- Các tổ chức tài chính trung gian : Các NHTM , Hệ thống quỹ tín dụng
nhân dân (QTDND) là các kênh dẫn vốn chính cho nông nghiệp, nông thôn.
10 10
Các trung gian tài chính có chức năng huy động những nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho vay ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Vấn đề đặt ra là Chính phủ cần phải có cơ chế phù hợp để khuyến khích các
trung gian tài chính tham gia tích cực hơn trong việc cung cấp vốn tín dụng
cho nông nghiệp, nông thôn.
- Tài chính trực tiếp : Đây là con đường đầu tư trực tiếp của các doanh
nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tuy hiện nay luồng vốn qua
con đường này không lớn nhưng nó cũng đóng góp một phần và làm đa dạng
các hình thức huy động vốn cho nông nghiệp, nông thôn. Với sự ra đời của
thị trường chứng khoán giờ đây người dân có thêm nhiều cơ hội để đầu tư .
Hơn nữa nông dân và khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn có nhiều khả
năng để tiếp cận với các luồng vốn và dịch vụ tài chính hơn.
- Vốn đầu tư nước ngoài : Các luồng vốn này được các nước sử dụng như
“cú hích “ để thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Vốn đầu tư nước
ngoài gồm hai bộ phận chính là ODA và FDI. ODA là viện trợ phát triển

chính thức của các nước và các tổ chức tài chình quốc tế cho các nước đang
phát triển vay không hoàn lại hoặc với lãi suất ưu đãi .Chính phủ các nước
thường sử dụng luồng vốn này cho xây dựng cơ bản và để thực hiện một số
chương trình kinh tế mang tính cộng đồng cao. FDI là vốn đầu tư trực tiếp
của nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp , nông thôn. Hiện luồng vốn FDI
đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn ở nước ta còn hạn chế, các nhà
đầu tư vẫn e ngại bỏ vốn đầu tư do sợ rủi ro và tình trạng đối sử không công
bằng của Chính phủ đối với các doanh nghiệp Nhà nước và các Ngân hàng
quốc doanh.

2.2 . Chính sách huy động vốn.
Dự thảo văn kiện Đại hội IX của Đảng về phương hướng phát triển nông
nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001-2010 và kế hoạch 5 năm 2001-2005 đã xác
định các mục tiêu chiến lược: Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng khoảng 4%
năm,trong 5 năm đầu và 4,5 % năm trong 10 năm; tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP giảm dần còn 20-21% năm2005 và 16-17% năm 2010... Theo
11 11
kinh nghiệm quốc tế để tăng sản lượng thu hoạch phải bỏ vốn đầu tư với hệ
số từ 3,3 đến 3,5 lần, trong nông nghiệp, nông thôn có thể còn phải lớn hơn
nữa ,tức là vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn phải tăng từ 15-20% năm
để ít nhất trong 5 năm tới phải tăng đầu tư tín dụng gấp đôi so với cuối thập
niên 90. Để có đủ vốn đầu tư cho cnông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn
trong giai đoạn tới đòi hỏi Chính phủ phải có một chính sách huy động vốn
toàn diện và hiệu quả cao.
Có hai loại chính sách huy động vốn được các nước trên thế giới sử dụng
trong quá trình phát triển kinh tế ,đó là huy động vốn hướng nội và huy động
vốn hướng ngoại .
- Chính sách huy động hướng nội: Nội dung chính của chính sách này là
tạo dựng vốn chủ yếu bằng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Để có thể tích luỹ
được vốn lớn các nước theo theo chính sách này thực hiện 3 hướng tạo vốn

cơ bản là :Phát triển thương mại, xây dựng các ngân hàng kinh doanh hiện
đại và xây dựng một cơ cấu nhà nước thực quyền để đảm bảo cho các chính
sách có thể được thực thi. Chính sách huy động vốn hướng nội giúp cho
Chính phủ có thể chủ động trong việc huy động vốn theo đúng các mục tiêu
và định hướng đã chọn, không chịu sức ép của nước ngoài. Tuy nhiên chính
sách này rất khó thực hiện được đối với các nước đang phát triển như Việt
Nam ,có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế rất nhỏ bé.
- Chính sách huy động vốn hướng ngoại: Các nước theo nhóm này
thông qua kêu gọi vốn đầu tư của tư bản nước ngoài và tích cực vay vốn
nước ngoài với mục đích cơ bản là để tạo ra “cú hích” từ bên ngoài để đẩy
nền kinh tế trong nước phát triển. Chính sách huy động vốn hướng ngoại phù
hợp với các nước phát triển kinh tế sau. Ngày nay cùng với quá trình toàn
cầu hoá nền kinh tế đã tạo ra những tiền đề và cơ hội mới cho các nước đi
sau có thể huy động được các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho phát triển
kinh tế nước mình. Tuy nhiên do những mục đích khác nhau mà các khoản
vay vốn nước ngoài thường kèm theo những điều kiện không có lợi cho các
nước đi vay. Bên cạnh đó các nguồn vốn nước ngoài thường không ổn định,
12 12
chúng chịu tác động của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị...Điều này đã làm
giảm tính chủ động của các Chính phủ trong việc thực thi các chính sách
kinh tế của mình và do đó hạn chế tính tích cực của chính sách huy động vốn
hướng ngoại.
- Hướng tiếp cận của Việt Nam: Kinh nghiệm lịch sử của các nước đi
trước cho chúng ta những gợi ý tham khảo về chiến lược tạo vốn ở Việt
Nam, trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại ,kết hợp
giữa chiến lược tạo dựng vốn hướng nội với chiến lược chiến lược tạo dựng
vốn hướng ngoại. Một chính sách huy động vốn như vậy giúp chúng ta có
thể huy động được những nguồn vốn lớn, rất phong phú. Đó là con đường
“rút ngắn” lịch sử phát triển kinh tế và phù hợp với thời đại mới. Thực hiện
chính sách này chúng ta cần phải phát triển thương mại, tạo dựng một môi

trường tài chính tín dụng thích hợp , cần có một chính sách khuyến khích
đầu tư nước ngoài hấp dẫn, chú trọng và nâng cao hiệu quả các nguồn vốn
vay nợ.
Hiện tại ở Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng về vốn chưa được khai thác và
sử dụng hiệu quả. Theo nhiều chuyên gia thì hiện tiềm năng về vốn tín dụng
trong dân cư là khá lớn, khoảng 7-10 tỷ USD. Tuy nhiên chúng thường được
tích tụ dưới dạng tiền ,vàng, ngoại tệ mà chưa được đưa vào lưu thông trong
nền kinh tế. Điều này gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách cần có chính
sách phù hợp để huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đưa chúng
vào hệ thống tài chính, tín dụng phục vụ cho phát triển kinh tế.
Phải khẳng định rằng huy động vốn cho cnông nghiệp nông nghiệp, nông
thôn là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược huy động vốn quốc
gia . CNH nông nghiệp, nông thôn cần nhiều vốn ,và vốn cho nông nghiệp,
nông thôn có những đặc trưng riêng nên việc huy động và đầu tư vốn vào
khu vực này cũng phải có những chính sách thích hợp.Trước mắt huy động
vốn thông qua thị trường tài chính, đặc biệt qua hệ thống ngân hàng và các tổ
chức tín dụng là một hướng đi chủ yếu. Cần chú trọng huy động vốn trung
13 13
và dài hạn , trong thời gian tới phấn đấu huy động được khoảng 40- 50%
tổng nguồn vốn huy động là vốn trung dài hạn.
Sử dụng linh hoạt các chính sách huy động như chính sách lãi suất, chính
sách ưu đãi tín dụng..., cũng như các công cụ của chính sách để thúc đẩy
nhanh quá trình huy động vốn. Hệ thồng các công cụ của chính sách huy
động vốn rất phong phú, đa dạng.
Hệ thống các công cụ của chính sách huy động vốn
+ Lãi suất: Lãi suất được xem như là yếu tố “cầu nối” giữa ngân hàng
với khách hàng . Là giá cả của vốn lãi suất có tác động rất lớn đến quy mô,
thời hạn của các nguồn vốn huy động. Lãi suất phải có khoảng cách phù hợp
giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay,tạo điều kiện để khách hàng chấp
nhận được. Cần phải xem lãi suất là giá cả duy nhất trên thị trường tài chính-

tiền tệ,bắt đầu từ lãi suất trên thị trường tiền tệ và phải mang tính định hướng
thị trường. Việc hoạch địng lãi suất phải tính toán đến các yếu tố lạm phát ,tỷ
giá để đảm bảo và khuyến khích khách hàng đến gửi tiền.
Việc điều hành lãi suất thuôc về Ngân hàng Nhà nước thông qua 4 loại : lãi
suất tái chiết khấu,lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường liên ngân hàng
và lãi suất tái cấp vốn. Lãi suất là yếu tố lúc cao,lúc hạ theo sự biến động của
cung và cầu về vốn trên thị trường. Do đó không thể có một chiến lược dài
hạn cho vấn đè này. Trái lại nó là vấn đề mang tính chiến thuật thúc đẩy quá
trình huy động vốn cho phù hợp với yêu cầu trong từng giai đoạn.
+ Các công cụ thị trường tài chính : Như các công cụ vay nợ ngắn
hạn ,trung hạn và dài hạn,các chứng chỉ tiền gửi và đặc biệt là các trái phiếu,
tín phiếu . Đây là những phương tiện huy động vốn chủ yếu trong nền kinh
tế. Ở Việt Nam, với đặc điểm tình hình chính trị ổn định cao thì huy động
vốn bằng con đường phát hành trái phiêú Chính phủ tỏ ra là ưu thế nhất. Bên
cạnh đó cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thông qua các kênh và
14 14
các hình thức huy động vốn khác nhau theo cơ chế thị trường như phát hành
các chứng chỉ tiền gửi có thể trao đổi được. Thiết kế các công cụ phải dựa
trên đặc điểm của khu vực huy động, của lĩnh vực và đối tượng huy động
cũng như cho vay.

+ Ưu đãi tín dụng : Được Chính phủ sử dụng như là các biện pháp
nhằm khuyến khích các nhà đầu tư, các NHTM và các tổ chức tín dụng khác
tham gia vào việc huy động và cung cấp tín dụng cho nông nghiệp, nông
thôn. Thông thường Chính phủ hay sử dụng lãi suất ưu đãi, các ưu tiên trong
các chương trình tín dụng chỉ định hay các biện pháp bảo hiểm hạn chế rủi ro
cho các nhà đầu tư.
2.3- Kinh nghiệm tạo dựng vốn các nước.
Nhìn vào lịch sử phát triển các nước trên thế giới, hầu như tất cả các nước
trước khi bước vào quá trình cnông nghiệp và phát triển kinh tế đều trải qua

một giai đoạn chuẩn bị các điều kiện cần thiết, trong đó trước hết là vốn cho
quá trình đó. Tuy nhiên, mỗi nước tuỳ vào lựa chọn lợi thế so sánh , chiến
lược phát triển kinh tế và thời đại để tìm ra con đường đi phù hợp. Như đã
trình bày ở trên thì có hai chiến lược chủ yếu được các nước sử dụng trong
qúa trình huy động vốn cho cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn nói riêng
và phát triển kinh tế nói chung. Đó là chiến lược huy động vốn hướng nội và
huy động vốn hướng ngoại.
Đài Loan là một quốc gia đã tiến hành CNH, HĐH và phát triển kinh tế bằng
con đường phát triển nông nghiệp. Việt Nam và Đài Loan có rất nhiều điểm
tương đồng về vị trí địa lý ,điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội. Đài Loan cũng
bắt đầu quá trình phát triển kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
như Việt Nam. Những kinh nghiệm tạo dựng vốn cho nông nghiệp, nông
thôn của Đài Loan sẽ rất có ý nghĩa đối với quá trình huy động vốn của nước
ta hiện nay.
15 15

×