Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

BIỂN và PHÁT TRIỂN KINH tế BIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.73 KB, 20 trang )

1
VNH3.TB5.411
BIỂN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM:
QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
PGS.TS. Vũ Văn Phái
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội
1. Giới thiệu
Hiện nay, Việt Nam có 28 đơn vị hành chính cấp tinh, thành phố trực thuộc Trung
ương có biển với tổng chiều dài đường bờ là 3.670 km [2]. Con số này khác nhiều với số
liệu được ghi trong các văn liệu của nước ta từ trước đến nay là 3.260 km. Còn theo CIA
World Factbook [9], đường bờ biển Việt Nam có chiều dài là 3.444 km (xếp thứ 32 trong số
156 quốc gia và vùng lãnh thổ có biển). Với các giá trị này, tỷ lệ chiều dài đường bờ biển so
với diện tích theo số liệu thứ nhất là 11,144m/km2, theo số liệu thứ 2 là 10,458m/km2, còn
số liệu thứ 3 là 9,90m/km2, nghĩa là trung bình khoảng 1km/100km2 Trong khi, giá trị này
trung bình cho tồn thế giới là 5,25m/km2, nghĩa là khoảng 0,5km/km2. Toàn bộ chiều dài
đường bờ này hầu như làm ranh giới phía tây của Biển Đơng. Theo Bách khoa tồn thư Địa
lý Xơ Viết [8], Biển Đơng có diện tích là 3.537.000 km2 (đứng thứ tư trong số 61 biển quan
trọng của thế giới - sau biển Philippine: 5.726.000km2, biển Ả Rập: 4.832.000km2 và biển Ơ
Khốt: 4.068.000 km2).
Về mặt tự nhiên, Biển Đơng hồn tồn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và
nằm trong 2 đới: đới gió mùa nhiệt đới có mùa đơng lạnh ở phía bắc và đới gió mùa cận
nhiệt đới nóng quanh năm ở phía nam. Quanh năm, nhiệt độ nước biển đều lớn hơn 25oC,
do đó khơng có băng. Các hệ thống sơng lớn đổ vào Biển Đơng đều tập trung ở phía tây.
Lớn nhất là hệ thống sông Mê Kông - Đồng Nai, tiếp đến là hệ thống sơng Hồng - Thái
Bình đều có vùng cửa sông ở Việt Nam và hệ thống sông Chao - Phraya ở Thái Lan. Địa
hình đáy Biển Đơng gồm có thềm lục địa được xác định trong khoảng độ sâu từ 200 - 500
mét và mở rộng ở phía bắc và phía nam; sườn và chân lục địa được xác định đến độ sâu
trung bình 2.000 - 2.500 mét trên đó có 2 quần đảo quan trọng là Hồng Sa và Trường Sa;
đáy biển thẳm khá bằng phẳng và có độ sâu trên 3.000 mét, độ sâu lớn nhất đạt tới trên
5.000 mét. Ngoài 2 quần đảo xa bờ nêu trên, biển Việt Nam cịn có tới khoảng 3.000 hịn
đảo gần bờ. Biển Đơng có nguồn tài ngun thiên nhiên vơ cùng phong phú và đa dạng.


Về mặt địa chính trị, Biển Đông thuộc quyền sở hữu của các quốc gia và vùng lãnh
thổ sau: Bru - Nây, Campuchia, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Philippine, Singapore, Thái
2
Lan, Trung Quốc và Việt Nam, trong đó Bru - Ney, Indonesia, Philippine, Singapore là các
quốc đảo. Do đó, Biển Đơng có vị trí rất quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và an
ninh đối với các nước này, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á. Các nước trong
khu vực Biển Đơng đang làm hết sức mình để gìn giữ và bảo vệ về mọi mặt đối với nó với
mục tiêu đạt được là hịa bình và phát triển. Ngồi ra, Biển Đơng là con đường giao thông
hàng hải quan trọng đi từ Đông Bắc Á sang Nam Á, Tây Á và các khu vực khác trên thế
giới thuộc Thái Bình dương, Ấn Độ dương vào Địa Trung hải để ra Đại Tây dương.


2. Các vùng biển - đảo của Việt Nam trên Biển Đông
Ngày 12/5/1977, sau khi thống nhất đất nước và mặc dù Công ước Quốc tế về Luật
Biển chưa được thỏa thuận, nhưng Chính phủ nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
đã ra tuyên bố về các vùng biển của Việt Nam trên Biển Đơng. Trong đó, các vùng biển của
Việt Nam được tuyên bố như sau:
1. Lãnh hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía
ngồi đường cơ sở nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của
các đảo ven bờ của Việt Nam. Vùng biển ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển là
nội thuỷ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và tồn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối
với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.
2. Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vùng
biển tiếp liền phía ngồi lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp với lãnh hải Việt
Nam thành một vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
của Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự kiểm sốt
cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, nhằm bảo vệ an ninh, bảo vệ các quyền lợi
về hải quan, thuế khố, đảm bảo sự tơn trọng các quy định về y tế, về di cư, nhập cư trên
lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.

3. Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp liền
lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có chủ quyền hồn tồn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các
tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất
dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt
về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm
mục đích kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam. Nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thẩm quyền bảo vệ
môi trường, chống ô nhiễm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
4. Thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài
lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngồi của rìa lục địa. Nếu nơi nào bờ ngồi của rìa lục địa
cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm
3
lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có chủ quyền hồn tồn về mặt thăm dị, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài
nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên
không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm lục địa Việt Nam.
Tiếp theo tun bố trên, ngày 12/11/1982, Chính phủ nước Cộng Hịa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam đã tuyên bố về đường cơ sở dung để tính chiều rộng lãnh hải, vùng tiếp
giáp lành hải, vùng đặc quyên kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Theo tuyên bố này
đường cơ sở của Việt Nam là đường cơ sở thẳng gồm có 11 điểm và 10 đoạn tính từ ranh


giới trên biển giữa 2 nước Việt Nam và Campuchia cho đến đảo Cồn Cỏ (bảng 1).
Bảng 1. Hệ thống đường cơ sở của Việt Nam dùng để xác định các vùng biển chủ quyền
Điểm
cơ sở
Tọa độ Độ dài các đoạn

(hải lý)
Khoảng cách đến
đường bờ biển
(hải lý)
Vĩ độ Kinh độ
A1
A2
A3
A4
A5
A6
A7
A8
A9
A10
A11
9o15’00’’ B
8o22’08’’ B
8o37’08’’ B
8o38’09’’ B
8o39’07’’ B
9o58’00’’ B
12o39’00’’ B
12o53’08’’ B
13o54’00’’ B
15o23’01’’ B
17o10’00’’ B
103o27’00’’ Đ
104o52’04’’ Đ
106o37’05’’ Đ

106o40’03’’ Đ
106o42’04’’ Đ
109o05’00’’ Đ
109o05’00’’ Đ
109o27’02’’ Đ
109o21’00’’ Đ


109o09’00’’ Đ
107o20’06’’ Đ
99,28
105,10
2,976
1,952
161,40
162,70
14,83
60,54
89,91
149,30
56
12
52
53
53
74
0,5
0,0
14
15

25
Để thể hiện rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền của mình trên các vùng biển đã được
tuyên bố, ngày 23/6/1994, tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa IX, Quốc hội nước Cộng Hịa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã tuyên bố Phê duyệt Công ước Quốc tế về Luật Biên năm
1982. Các vùng biển nêu trên còn được nhấn mạnh trong các điều 7, 8 và 9 của Luật Biên
giới quốc gia năm 2003.
Để phục vụ cho phát triển kinh tế biển và giữ vững an ninh chủ quyền trên các vùng
biển, đến nay nước ta đã ký một số thoả thuận trên biển với các nước láng giềng: Hiệp định
vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia (1982), Thoả thuận khai thác chung vùng chồng
lấn thềm lục địa Việt Nam - Malaysia (1992), Hiệp định về phân định ranh giới biển Việt
Nam - Thái Lan (1997), Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm
lục địa trong vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam - Trung Quốc (2004) và Hiệp định phân định thềm
lục địa Việt Nam - Indonesia (2003). Ngoài ra, ta cũng mở diễn đàn trao đổi về vấn đề chủ
4
quyền hai quần đảo với Philippin (1995), Trung Quốc (1995) và Malaysia, tham gia ký kết
các văn kiện mang tính chất khu vực về Biển Đơng, triển khai một số dự án hợp tác song
phương và đa phương với các nước liên quan, trong đó có sự án nghiên cứu khoa học biển
Việt Nam - Philippin (JOMSRE).
3. Các nguồn tài nguyên biển của Việt Nam


Theo các kết quả điều tra cho thấy, Biển Đông có nguồn tài nguyên thiên nhiên rất
phong phú và đa dạng bao gồm cả tài nguyên sinh vật và tài nguyên không sinh vật, tài
nguyên trong khối nước, trên đáy và trong lòng đất dưới đáy biển.
3.1. Tài nguyên sinh vật (Living Resources)
Theo các số liệu thống kê, hiện có tới 11.000 loài sinh vật thuỷ sinh và 1.300 loài
sinh vật trên đảo đã được biết đến trong các vùng biển - đảo Việt Nam, trong đó có khoảng
6.000 lồi động vật đáy và 2.000 lồi cá. Có 83 lồi sinh vật biển được ghi vào Sách Đỏ
Việt Nam (37 lồi cá, 6 lồi san hơ, 5 lồi da gai, 4 lồi tơm rồng, 1 lồi sam, 21 lồi ốc, 6
loài động vật hai mảnh vỏ và 3 loài mực). Biển Việt Nam có 110 lồi cá kinh tế (trích, thu,

ngừ, bạc má, hồng, v.v.) thuộc 39 họ, tổng trữ lượng cá biển khoảng 3 - 3, 5 triệu tấn và khả
năng khai thác cho phép là trên một triệu tấn mỗi năm. Trong số nguồn lợi về cá, thì cá nổi
đóng vai trị rất lớn. Những đánh giá gần đây cho thấy, trữ lượng cá nổi trung bình ở các
vùng biển Việt Nam vào khoảng 2.744.900 tấn và khả năng khai thác là 1.372.400 tấn.
Trong đó, vịnh Bắc Bộ: trữ lượng là 433.100 tấn và khả năng khai thác là 216.500 tấn ;
Trung Bộ: trữ lượng là 595.600 tấn và khả năng khai thác là 297.800 tấn ; Đông Nam Bộ:
trữ lượng là 770.800 tấn và khả năng khai thác là 385.400 tấn; Tây Nam Bộ: trữ lượng là
945.400 tấn và khả năng khai thác là 472.700 tấn. Trữ lượng cá nổi chiếm 54,37% tổng trữ
lượng cá. Tỷ lệ cá nổi trong tổng trữ lượng cá ở vùng biển Việt Nam: vùng biển vịnh Bắc bộ
(83,3%), Miền Trung (89,0%), Đơng Nam Bộ (42,9%), Tây Nam Bộ (62%), các gị nổi
(100,0%) và trung bình cho tồn vùng biển là 63,0% (bảng 2).
Bảng 2. Trữ lượng và khả năng khai thác cá ở biển Việt Nam
Trữ lượng Khả năng khai
thác
STT Vùng biển Loại cá
Tấn % Tấn %
Tỷ lệ
(%)
1 Vịnh Bắc Cá nổi 390.000 83,2 156.000 83,0
Bộ
(phía tây)
Cá đáy 48.409 16,8 31.364 17,0
16,9
2 Trung Bộ Cá nổi 500.000 89,0 200.000 89,0
Cá đáy 61.646 11,0 24.658 11,0
23,3
3 Đông Nam Cá nổi 524.000 42,9 209.600 42,9 44,1
Bộ Cá đáy 698.307 57,1 279.323 57,1
4 Tây Nam Cá nổi 316.000 62,0 126.000 62,0
Bộ Cá đáy 190.679 38,0 76.272 38,0

18,3
5


5 Gò Nổi Cá nổi 10.000 100,0 2.500 100 0,4
6 Tổng cộng Cá nổi 1.740.000 63,0 697.100 62,8 100,0
Ngoài ra, cịn có nguồn lợi động vật thân mềm (hơn 2.500 lồi) với trữ lượng đáng
kể, có giá trị kinh tế cao. Rong biển có hơn 600 lồi (sử dụng cho chế phẩm cơng nghiệp 24
lồi, dược liệu 18 lồi, thực phẩm 30 loài, thức ăn gia súc 10 loài và phân bón 8 lồi). Trong
vùng biển nước ta cịn có nhiều loại động vật quý như đồi mồi, rắn biển, chim biển và thú
biển. Vì nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, trong các vùng biển của nước ta còn có các hệ
sinh thái rừng ngập mặn. hệ sinh thái cỏ biển, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái đảo, hệ
sinh thái bờ đá, hệ sinh thái cồn cát, v.v. . Trong các hệ sinh thái này, tính đa dạng sinh học
rất cao. Tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ trong các vùng cửa sông, đầm phá và
vũng vịnh và vùng biển ven bờ rất lớn. Diện tích tiềm năng ni trồng thủy sản của nước ta
khoảng 2 triệu héc - ta (thực tế năm 2001 mới sử dụng 755.000 ha mặt nước), bao gồm 3
loại hình mặt nước đó là nước ngọt, nước lợ và vùng nước mặn ven bờ, có thể ni trồng
các loại đặc sản như tôm, cua, rong câu, nuôi cá lồng... Ni trồng sinh vật biển cũng đã
đóng góp một sản lượng lớn thuỷ sản cho thực phẩm, dược phẩm, vật liệu công nghiệp, mỹ
nghệ, v.v. phục vụ cho cuộc sống.
Theo Viện Nghiên cứu Hả__________i sản, tổng trữ lượng hải sản biển Việt Nam dao động
trong
khoảng 3,1 - 4,2 triệu tấn, với khả năng khai thác 1,4 - 1,6 triệu tấn; khoảng 0,058 triệu tấn
tôm biển và 0,123 triệu tấn mực.
Tiềm năng nguồn lợi hải sản của nước ta rất lớn nhưng khả năng khai thác còn hạn
chế: chỉ mới tập trung khai thác ở ven bờ gây nên sự mất cân đối làm cho nguồn hải sản ven
bờ nhanh chóng bị cạn kiệt. Để khai thác được nguồn lợi hải sản xa bờ có hiệu quả, từ năm
1997, Nhà nước ta đã có chủ trương và cung cấp vốn ưu đãi cho việc đóng tàu, mua sắm
trang bị đánh bắt xa bờ, đồng thời cũng ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi nhằm đẩy
mạnh chương trình khai thác hải sản ở các vùng biển xa bờ.

3.2. Tài nguyên không sinh vật (Non - Living Resources)
Nguồn tài nguyên không sinh vật của biển Việt Nam rât lớ bao gồm tài nguyên
khoáng sản, tài nguyên năng lượng và các loại tài nguyên vị thế khác.
- Tài nguyên khoáng sản. Nguồn tài ngun khống sản có cả trong khối nước, trên
đáy và trong lòng đát dưới đáy biển. Trong các vùng biển và thềm lục địa nước ta đã xác
định được nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể Cửu Long và Nam Cơn
Sơn được đánh giá là có triển vọng dầu khí và điều kiện khai thác thuận lợi nhất, với tổng
trữ lượng ước tính khoảng 10 tỉ tấn dầu quy đổi. Cùng với dầu - khí, trong các bể trầm tích ở
thềm lục địa nước ta cịn có trữ lượng than rất đáng kể (bảng 3).
Bảng 3. Trữ lượng tiềm năng dự báo than trên thềm lục địa Việt Nam [6]
Bể trầm tích Trữ lượng
Mét khối (x109 m3) Tấn (x109 tấn )
6
Bể Sông Hồng 543,2 977,8
Bể Cứu Long 81,5 146,7


Bể Nam Côn Sơn 1126 2027,8
Bể Malay - Thổ Chu 656,7 1182,1
Tổng 2407,4 4334,4
Các loại sa khoáng ven bờ như ilmenit với trữ lượng dự đoán khoảng 13 triệu tấn;
cát thủy tinh, trữ lượng ước tính hàng trăm tỷ tấn. Ngồi ra, cịn một khối lượng lớn vật liệu
xây dựng khổng lồ có thể được khai thác từ đáy biển (cát sạn sỏi cho xây dựng hoặc san lấp)
để thay thế cho nguồn này trên lục địa đang bị cạn kiệt dần. Ngồi ra cịn có cát thủy tinh ở
Vân Hải (Quảng Ninh), Ba Đồn (Quảng Bình), Cam Ranh (Khánh Hòa), v.v.. với trữ lượng
nhiều tỷ tấn. Trên sườn lục địa - chân lục địa và đáy biển sâu còn có tiểm năng các kết hạch
sắt - mangan, bùn đa kim rất đáng kể mà đến nay chưa thể xác định được trữ lượng. Một
loại khống sản khác rất có triển vọng trong trầm tích đáy biển Việt Nam được các nhà địa
chất mới phát hiện trong thời gian gần đây là khí cháy (Hydrat methan). Nguồn tài ngun
khống sản trong khối nước biển có trữ lượng lớn nhất là muối với trữ lượng rất lớn bởi vì

độ muối trung bình của nước biển là khoảng 32%o và đường bờ biển dài khoảng 3.500km.
Đây là loại khoáng sản dễ khai thác phục vụ cho công nghiệp và đời sống rất thiệt thực.
- Tài nguyên năng lượng. Thủy triều, sóng và gió là nguồn năng lượng tái tạo tiềm
năng trên các vùng biển - đảo Việt Nam. Theo Bùi Văn Đạo, tiềm năng điện gió ở Việt Nam
rất lớn. Riêng dải duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ có khả năng sản xuất tới
5x109Kw/giờ.năm.
3.3. Các nguồn tài nguyên đặc biệt (Remarkable Resources)
Khác với 2 loại tài nguyên trên có thể đánh giá được bằng trữ lượng, còn một số điều
kiện tự nhiên không thể đánh giá định lượng được, nhưng lại được con người sử dụng, thậm
chí từ rất lâu đời, trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của mình đều có thể xếp
vào loại tài ngun đặc biệt này. Đó chính là địa hình bờ và đảo cũng như khoảng không
mặt biển.
Không không gian mặt biển. Như đã nói, vùng biển - đảo nước ta hồn tồn nằm
trong vùng nhiệt đới và có diện tích rộng tới khoảng 3,5 triệu km2, quanh năm nước khơng
đóng băng. Đây chính là điều kiện để giao thơng - thương mại phát triển. Biển Việt Nam nói
riêng và Biển Đơng nói chung nằm ở vị trí có nhiều tuyến đường biển quan trọng của khu
vực cũng như của thế giới, giữ một vai trò rất lớn trong vận chuyển lưu thơng hàng hóa
thương mại phục vụ đắc lực cho xây dựng nền kinh tế của nước ta cũng như các nước quanh
bờ Biển Đông. Biển Việt Nam nối thông với nhiều hướng, từ các hải cảng ven biển của Việt
Nam thông qua eo biển Malakka để đi đến Ấn Độ Dương, Trung Đông, Châu Âu, Châu Phi;
qua eo biển Basi có thể đi vào Thái Bình Dương đến các cảng của Nhật Bản, Nga, Nam Mỹ
và Bắc Mỹ; qua các eo biển giữa Philippin, Indonesia, Singappor đến Australia và New
Zealand, v.v.. Đây là điều kiện rất thuận lợi để ngành giao thông vận tải biển nước ta phát
7
triển, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và
trên thế giới
Địa hình bờ và đảo. Địa hình mặt đất nói chung cũng như địa hình bờ biển và đảo
nói riêng là “sân khấu” để cho thế giới sinh vật, trong đó có con người “trình diễn” cuộc



sống. Địa hình bờ biển của nước ta rất đa dạng và độc đáo do được phát triển trên các loại
đất đá khác nhau trong điều kiện khí hậu có sự phân hóa rõ rệt theo chiều bắc - nam. Trên
bờ biển của nước ta lại có nhiều mũi đá nhơ ra sát biển tạo nên các “hồnh sơn thiên nhiên
tráng lệ”, như Đèo Ngang, đèo Hải Vân, Đèo Cả. Đó là địa hình karst phát triển trên đá vơi
ở vịnh Hạ Long và Bái Tử Long (vịnh Hạ Long đã 2 lần được UNESCO công nhận là di sản
thế giới và đang được đề nghị mở rộng khu di sản sang cả vịnh Bái Tử Long), ở Hòn Đỏ
(Ninh Thuận), địa hình “karst giả” phát triển trên cát đỏ ở khu vực Suối Tiên - Mũi Né
(Bình Thuận), “karst giả” phát triển trên đá granit ở khu vực mũi Kê Gà và một số nơi khác
của tỉnh khác ở Trung Bộ. Các vách đá hùng vĩ ở mũi Đá Vách, mũi Đại Lãnh, đèo Hải
Vân, “gành đá đĩa” phát triển trên đá bazan ở Phú Yên. Có nhiều bãi tắm đẹp với cát mịn và
sạch rải rác từ Trà Cổ (Móng Cái, Quảng Ninh) đến Bãi Nai (Hà Tiên, Kiên Giang) và nhiều
bãi tắm còn rất hoang sơ trên các đảo (Ngọc Vừng, Quan Lạn ở Quảng Ninh; Hòn La ở
Quảng Bình, Cơn Đảo, Phú Quốc, v.v.). Đường bờ biển của nước ta lại rất khúc khuỷu. lại
được các đảo che chắn (vịnh Hạ Long và Bái Tử Long), có nhiều vũng vịnh (Vũng Áng,
vịnh Đà Nẵng, An Hịa, Dung Quất, Quy Nhơn, Xuân Đài, Vũng Rô, Vân Phong, v.v.) và
nhiều cửa sông lớn đổ trực tiếp vào Biển Đơng [5].
Vùng biển nước ta có trên 4000 hịn đảo lớn nhỏ trong đó vùng biển đơng bắc có trên
3.000 đảo, bắc Trung Bộ trên 40 đảo, còn lại ở vùng biển Nam Trung Bộ, vùng biển Tây
Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Căn cứ vào vị trí địa lý so với bờ có thể chia
thành các đảo và quần đảo gần bờ (nằm trong phạm vi từ vùng tiếp giáp lãnh hải trở vào) và
các đảo và quần đảo xa bờ (nằm trong vùng đặc quyền kinh tế). Các đảo và quần đảo gần bờ
có ý nghĩa rất to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước và đảm
bảo an ninh trên biển và bờ biển nước ta (Chẳng hạn các đảo Cô Tô, Cái Bầu, Chàng Tây,
Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Phú Q, Cơn Đảo, Phú Quốc,
v.v.). Cịn các đảo và quần đảo xa bờ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo an ninh
quốc phòng và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia (các quần đảo Hồng Sa, Trường
Sa, Thổ Chu).
Các thành tạo địa hình bờ biển và đảo trên đây có ý nghĩa rất quan trọng trong phát
triển kinh tế biển. Đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho khai
thác - chế biến hải sản, giao thông vận tải đường biển, du lịch - thể thao - nghỉ dưỡng, v.v..

Ngoài ra, một số thành tạo địa hình có giá trị thẩm mỹ cịn được sử dụng trực tiếp cho khách
tham quan phong cảnh. Mặt khác, các thành tạo địa hình bờ biển và đảo cịn là kho lưu trữ
các loại tài nguyên khác của biển như thổ nhưỡng và sinh vật.
4. Phát triển kinh tế biển Việt Nam
8
Từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên được trình bày trên đây và tùy thuộc vào tầm
văn hóa chung của cộng đồng cũng như cách nhìn nhận về biển của từng thời đại, mà con
người Việt Nam đã từng biết khai thác và sử dụng nó phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của
mình từ thời cổ đại cho đến ngày nay.
4.1. Phát triển kinh tế biển và bảo vệ an ninh chủ quyền trong thời kỳ cổ đại và
phong kiến


Việt Nam là một quốc gia có biển. Phát triển kinh tế biển và bảo vệ an ninh chủ
quyền quốc gia trên biển là một mục tiêu đã được đặt ra ngay từ thời khai thiên lập địa, dù
rằng mỗi thời có cách nhìn khác nhau về biển, nhưng đều với một phương châm là: lấn biển
để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Có thể chia giai đoạn này thành 2 thời kỳ: thời kỳ chưa có
Nhà nước Phong kiến Độc lập tự chủ và thời kỳ Phong kiến độc lập tự chủ.
Thời kỳ chưa có Nhà nước Phong kiến độc lập tự chủ (đến năm 938)
Từ huyền thoại về Lạc Long Quân và Âu Cơ cho đến hình thuyền và cá được đưa lên
mặt Trống đồng Đông Sơn đã thể hiện phương châm đó khi chưa hình thành Nhà nước
Phong kiến Độc lập tự chủ của người Việt cổ đại (trước thế kỷ thứ X). Trong thời kỳ cổ đại
với hình thức săn bắt và hái lượm, người Việt cổ đã sử dụng một số loại tài nguyên biển
trong cuộc sống của mình mà dấu ấn cịn được ghi lại trong các di chỉ khảo cổ Cái Bèo - Hạ
Long (Quảng Ninh), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ An), Bàu Tró (Quảng Bình),
Bàu Dũ (Quảng Nam), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), v.v.[10]. Muộn hơn là một số hình thức sử
dụng biển trong cuộc sống như lợi dụng thủy triều để trồng lúa hay giao thông thương mại
với các nước trong khu vực và thế giới cho đến Ba Tư ở Địa Trung Hải thông qua một số
cảng như Vân Đồn (với việc tìm thấy tiền đồng cổ của Trung Quốc từ thời Đường đến Tống
[7]), Ốc Eo (từ đầu Công nguyên đến thế kỷ VIII). Việc sử dụng thủy triều để đánh quân

Nam Hán trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền vào năm 938 đã kết thúc một khoảng thời
gian dài trong lịch sử Việt Nam là đỉnh cao của việc sử dụng tài nguyên của biển của dân
tộc ta trong thời kỳ chưa có nhà nước phong kiến độc lập tự chủ.
Thời kỳ có Nhà nước Phong kiến Độc lập tự chủ (938 - 1945)
Trong thời kỳ kéo dài này, kinh tế biển của Việt Nam được phát triển chủ yếu vẫn là
khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có vừa phục vụ cho cuộc sống, vừa để cúng
tiến các bậc vua chúa, cống nạp và một phần cho thương mại và sử dụng các điều kiện tự
nhiên của biển trong công cuộc bảo vệ chủ quyền quốc gia. Về kinh tế - xã hội, bắt đầu từ
Triều Lý, phát triển kinh tế biển gắn với thương mại rất được chú ý với một thời hưng thịnh
của thương cảng Vân Đồn (Quảng Ninh). Tiếp theo, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hôi
và đảm bảo an ninh quốc gia đã được các Vua của Triều Trần rất quan tâm. Ngoài việc khai
thác các sản vật của biển phục vụ cho đời sống, Nhà Trần rất quan tâm đến nghề làm muối
và đã đặt ra danh hiệu quan trông coi nghề muối và phong thưởng đất làm muối. Chẳng hạn,
vợ của vua Trần Anh Tông đã được phong đất ở khu vực Diêm Điền (Thái Bình) và đã trở
thành Bà Chúa Muối. Cũng trong thời Lý - Trần, công cuộc khẩn hoang đất ven biển đã
được quan tâm. Để quản lý tốt hơn hải phận của mình, Nhà Trần đã chia miền ven biển Đại
9
Việt thành 2 khu vực là Hải Đông (từ Cửa Đáy đến Khâm - Liêm) và Hải Tây (chạy dọc
theo bờ biển Thanh - Nghệ - Tĩnh trở vào). Các sản vật khác được khai thác từ biển như
đánh bắt cá và làm nước mắm, khai thác tổ yến và một số lồi thân mềm có giá trị (ốc
hương, ốc xà cừ, ốc tai tượng, v.v.) được xem là một trong những lĩnh vực kinh tế biển có
truyền thống lâu đời nhất vẫn tiếp tục phát triển.
Bước sang kỷ Nhà Lê, Song song với việc khai thác các nguồn lợi biển phục vụ cho
cuộc sống, việc củng cố an ninh quốc gia đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều người.


Trong đó “Quốc Triều hình luật” được xem như là bộ “luật chống tham nhũng” đối với
những quan chức làm việc ở các cửa khẩu, đặc biệt ở xứ Hải Đông. Nhằm củng cố chủ
quyền trên biển cũng như trên đất liền của nước Đại Việt, Nho sinh Đỗ Bá đã soạn bộ sách
“Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” với 4 quyển vẽ hình thế núi sơng, đường bờ biển và

các đảo (trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) cho đến địa phận tỉnh Phú Yên
hiện nay (bắc Đèo Cả với núi Đá Bia). Tuy nhiên, thương mại cũng được chú ý thông qua
các vị trí quy định cho người nước ngồi được đến buôn bán, như Vân Đồn, Vạn Ninh, Cần
Hải, Hội Trào, Hội Thống, Thông lĩnh, Phú Lương, Tam Kỳ và Trúc Hịa.
Có thể nói thời các Chúa Nguyễn là giai đoạn có những nhận thức về biển một cách
rõ ràng hơn. Bắt đầu từ thời Chúa Tiên, giao thương với nước ngoài đã được chú ý ở xứ
Thuận Quảng, đặc biệt với Hà lan, Bồ Đào Nha và các nước khác ở Đông Nam Á với
thương cảng quan trọng thời bấy giờ ở Đàng Trong là Hội An. Đáng chú ý nhất là việc xây
dựng các đội thuyền vừa có ý nghĩa về phát triển kinh tế cũng như bảo vệ an ninh. Nhờ có
hệ thống thuyền tốt, nên đã tổ chức được các độ Hoàng Sa và Bắc Hải để khai thác nguồn
lợi thiên nhiên ở quần đảo Hoàng Sa. Vào thời vua Minh Mạng, một số đạo luật về phát
triển kinh tế - xã hội các vùng ven biển đã được ban hành. Trên cơ sở đó, vào đầu thế kỷ
XIX, Nguyễn Công Trứ - một nhà quy hoạch thủy lợi tài ba, đã tổ chức khai hoang lấn biển
lập nên các vùng đất mới như Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) và một số vùng
đất khác ở Nam Định.
4.2. Phát triển kinh tế biển ở Việt Nam từ 1945 đến nay và trong những năm tới
4.2.1. Phát triển kinh tế biển ở Việt Nam từ 1945 đến trước thời kỳ đổi mới.
Trong khoảng thời gian kéo dài gần 40 năm (trong đó giai đoạn 1945 - 1954 cả nước
thực hiện cuộc kháng chiến chống Pháp và giai đoạn 1954 - 1975 đất nước bị chia cắt thành
2 miền), kinh tế biển của Việt Nam đã có những tiến bộ nhất định, song vẫn trong tình trạng
lạc hậu trong nền kinh tế tự túc tự cấp với phương thức “săn bắn - hái lượm” bằng các dụng
cụ thô sơ và nhỏ bé chỉ thực hiện được ở gần bờ. Sau khi hịa bình lập lại, ở Miền Bắc, đảng
và Chính phủ đã quan tâm đến phát triển kinh tế biển, song tập trung chủ yếu cho nghề khai
thác thủy sản. Lúc này, ngoài việc thành lập các Viện Nghiên cứu biển và Viện nghiên cứu
Hải sản để điều tra nguồn lợi cá biển và các nghiên cứu cơ bản khác, các tập đoàn đánh cá
như Hạ Long, Việt - Đức, Việt - Trung và nhà máy cá hộp Hạ Long đã ra đời. Còn ở các vùng
nông thôn ven biển, các hộ ngư dân cá thế được tổ chức lại thành các hợp tác xã đánh cá. Tuy
nhiên, do trình độ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm trong quản lý kinh tế còn thấp, nên hiệu
10
quả phát kinh tế biển nói chung và nghề cá nói riêng cịn rất thấp. Trước tình hình như vậy,

vào giữa những năm 1980, Đảng và Chính phủ đã quyết định thay đổi cơ chế quản lý trong
mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có phát triển kinh tế biển – bước vào thời kỳ Đổi mới.
4.2.2. Phát triển kinh tế biển của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Bước vào thời kỳ Đổi mới, đường lối phát triển một nền kinh tế độc lập tự chủ, toàn
diện và vững mạnh, trong đó có kinh tế biển đã được xác định. Trong giai đoạn này, kinh tế
biển đã được xây dựng với đầy đủ các lĩnh vực, bao gồm: 1) nghề cá (đánh bắt, nuôi trồng


và chế biế__________n); 2) khai thác khoáng sản; 3) hàng hải (đóng tàu, chuyên chở, xây dựng
cảng);
4) du lịch và giải trí biển; 5) dịch vụ biển (sản xuất các thiệt bị, phương tiện làm việc trong
biển); 6) an ninh - quốc phịng (quản lý vùng biển). Trong đó, 4 lĩnh vực đầu sẽ được trình
bày dưới đây. Bởi vì 4 lĩnh vực này đã đóng góp tới 98% trong số các lĩnh vực kinh tế biển
nêu trên (khai thác dầu khí chiếm 64%; hải sản 14%; giao thơng vận tải 11% và du lịch biển
trên 9%. Chiến lược phát triển kinh tế biển từ nay đến 2020 của Việt Nam đã được xác định
rõ trong Nghị quyết 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa X về
“Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” với mục tiêu “kinh tế biến đóng góp 53 - 55%
GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện
một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển” (trg.5 [4]).
1) Nghề cá. Trong khoảng thời gian 20 năm qua, nghề cá của nước ta bao gồm cả
đánh bắt và ni trồng đều có xu hướng liên tục tăng cả đánh bắt và nuôi trồng. Theo số liệu
thống kê, đến năm 2007, cả nước đã có 21.130 tàu đánh bắt xa bờ (tăng 593 chiếc so với
năm 2005) với tổng công suất là 3.091,6x103CV (tăng 290,5x103 CV so với năm 2005). Do
đó, sản lượng khai thác liên tục tăng từ năm 1981 đến nay. Cụ thể năm 1981 sản lượng là
gần 420.000 tấn, năm 2007 là 1.422,3x103 tấn (tăng 54,8x103 tấn so với năm 2005 và
347,0x103 tấn so với năm 2000). Giá trị khai thác hải sản đã đạt dược khoảng trên 28 ngàn
tỷ đồng (tăng 5,5 ngàn tỷ so với năm 2005 và 13 ngàn tỷ so với năm 2001). Về nuôi trồng,
từ năm 1986 đến nay, diện tích và sản lượng ni trồng hải sản nược lợ, mặn liên tục tăng
lên. Các hình thức và chủng loại nuôi trồng cũng trở nên đa dạng hơn (nuôi tôm, cua, cá
trong đầm; trong lồng, bè - đối với một số cá đặc sản và tôm hùm; nuôi các lạo thân mềm

như ốc hương, vẹm xanh, tu hài, ngao, v.v.). Phương thức nuôi cũng càng ngày càng hiện
đại hơn: từ nuôi quảng canh sang thâm canh và ni cơng nghiệp. Do đó, các sản phẩm đạt
chất lượng cao hơn và được xuất khẩu rộng rãi hơn thông qua chế biến. Tuy nhiên, theo số
liệu thống kê giai đoạn 1981 - 2005, hiệu suất khai thác liên tục bị giảm: từ 0,92
tấn/CV.năm (1981) còn 0,34 tân/CV.năm (2005); năng suất lao động bình quân đầu người
cũng giảm mạnh từ 3,24 tấn/lao động.năm (1990) xuống còn 1,65 tấn/lao động.năm [1].
2) Khai thác khoáng sản biển. Ngành khai thác dầu thơ và khí thiên nhiên trên biển
ở nước ta cịn rất trẻ và có tấn dầu thơ đầu tiên vào năm 1986. Đến nay, đã 21 năm và đứng
hàng thứ 44 trong cộng đồng các quốc gia khai thác dầu mỏ trên thế giới và đứng thứ 4 ở
Đông Nam Á. Hiện nay chúng ta đang khai thác mỏ Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Ruby, Rạng
Đông, Sư Tử Đen..., đã phát hiện được trên 20 vị trí có tích tụ dầu khí. Tuy mới ra đời,
nhưng ngành dầu khí của ta đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, có tiềm
11
lực kỹ thuật, vật chất lớn và hiện đại nhất trong những ngành khai thác biển; đồng thời cũng
là một trong những ngành xuất khẩu và thu nhiều ngoại tệ nhất cho đất nước. Ngành công
nghiệp khai thác dầu khí phát triển kéo theo sự phát triển của một số ngành khác như cơng
nghiệp hố dầu, giao thông vận tải, thương mại trong nước và khu vực. Trong những năm
qua, giá trị kha thác dầu mỏ và khí thiên nhiên liên tục tăng. Năm 1996 là 15.002,7 tỷ đồng,


năm 2000 là 45.401,6 tỷ đồng, năm 2005 đạt 86.379,1 tỷ đồng và năm 2006 là 93.645,7 tỷ
đồng. Ngành công nghiệp dầu khí đã đóng góp một phần đáng kể cho sản phẩm xuất khẩu
và tăng GDP cho đất nước.
3) Giao thơng vận tải biển. Như đã trình bày ở phần trước, nước ta có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển giao thông vận tải biển. Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và
cảng sông với khoảng trên 90 cảng lớn nhỏ và được phân bố tương đối đều dọc theo bờ biển
từ bắc vào nam. Hệ thống cảng biển của nước ta được chia thành 6 nhóm: 1) nhóm cảng biển
phía bắc (cảng Hải Phịng, Cái Lân, Cửa Ơng, Hịn Gai, v.v.); 2) Nhóm cảng biển Bắc Trung
Bộ (các cảng quan trọng là Nghi Sơn, Vũng Áng); 3) Nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (từ
Quảng Bình đến Quảng Ngãi gồm các cảng chính Hịn La, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất);

4) nhóm cảng biển Nam Trung Bộ (từ Bình Định đến Bình Thuận có cảng Quy Nhơn, Nha
Trang, tương lai là Vân Phong); 5) Nhóm cảng vùng Đơng nam Bộ (cảng Sài Gịn, Vũng Tàu
- Thị Vải và cảng Cái mép đang xây dựng) và 6) nhóm cảng đồng bằng sơng Cửu Long. Cùng
với hệ thống cảng, kho bãi, biển Việt Nam thông với 2 đại dương lớn là Thái Bình dương và
Ấn Độ dương và đội tàu ngày càng vững mạnh, trong những năm vừa qua vận tải hàng hóa
bằng đường biển đã tăng lên đáng kể từ 7.306,9x103 tấn năm 1995 tăng lên 15.552,5x103 tấn
năm 2000 và 42.639,4x103 tấn năm 2006. Như vậy tổng lượng hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển trong 12 năm qua (1995 - 2006) đã tăng gần 6 lần.
4) Du lịch và giải trí biển. Du lịch và giải trí biển là một lĩnh vực hoạt động kinh tế
không mới ở nước ta. Tuy nhiên, trong khoảng 10 năm trở lại đây, đặc biệt từ năm 2000, du
lịch và nghỉ dưỡng cũng như giải trí biển đã được mở rộng đáng kể. Hiện nay, nước ta có
nhiều trung tâm du lịch biển quan trọng có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên tuyến du lịch
quốc tế Đông Nam Á, như: Vũng Tàu, Phan Thiết, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phịng,
Quảng Ninh... Một số loại hình du lịch biển mới cùng đã được dưa vào nước ta như lướt
ván, thuyền buồm, v.v. Song, tắm biển vẫn là hình thức phổ biến nhất, bởi vì dọc theo chiều
dài bờ biển nước ta ở đâu cũng có bãi cát từ bãi Trà Cổ (Móng Cái, Quảng Ninh) đến Bãi
Nai (Hà Tiên, Kiên Giang). Doanh thu từ du lịch và số lượt khách du lịch người nước ngồi
(du lịch nói chung) cũng tăng theo thời gian. Doanh thu từ du lịch nói chung trong giai đoạn
2000 - 2006 tăng lên gần 5 lần: năm 2000 là 3.458,5 tỷ đồng, năm 2006 là 16.732,0 tỷ đồng.
Cịn số lượt khách nước ngồi đã vượt con số 2 triệu kể từ năm 2005 (2005 là 2.038,5x103
lượt người, năm 2006 là 2.068,9x103 lượt người và năm 2006 là 2.605,7x103).
Các hoạt động kinh tế biển trên đây đã góp phần giải quyết được đáng kể về thu nhập
từ quy mô Nhà nước cho đến người lao động. Một số vấn đề xã hội cũng được giải quyết,
như: tăng việc làm giảm lao động thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo, đảm
bảo an ninh trật tự, chủ quyền quốc gia trên các vùng biển của Tổ quốc. Tuy nhiên, trong
12
quá trình này cũng bộc lộ một số vấn đề về môi trường bao gồm cả mơi trường tự nhiên và
mơi trường xã hội. Đó là việc sử dụng các nguồn tài nguyên biển chưa hợp lý (quy hoạch sử
dụng đất đai chưa phù hợp, khai thác nguồn lợi hải sản quá mức, v.v.) dẫn đến sự suy thối
mơi trường (ơ nhiễm và các tai biến thiên nhiên) tự nhiên của biển và vùng đất ven biển, đặc

biệt là đối với vùng duyên hải (đới bờ biển). Đó là sự xung đột giữa các lĩnh vực kinh tế


biển với nhau (nghề cá - phát triển công nghiệp - giao thông vận tải - du lịch) và ngay trong
một lĩnh vực (chẳng hạn giữa đánh bắt - nuôi trông - chế biến hải sản, giữa cảng và tàu, giữa
xây dựng hạ tầng cơ sở và cảnh quan trong du lịch biển, v.v.). Đây là những vấn đề quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế biển ở nước ta.
Như vậy, phát triển kinh tế biển ở Việt Nam chưa được coi là bền vững. Trong khi
đó, mục tiêu hiện nay của cộng đồng quốc tế nói chung và của từng quốc gia ven biển nói
riêng là phát triển bền vững như Chương trình Nghị sự 21, chương 17 của Liên Hợp quốc đã
đưa ra [11]. Để giải quyết vấn đề này, trước tiên cần phải đánh giá và dự báo những biến
động về các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - văn hóa - xã hội của toàn
bộ các vùng biển và thềm lục địa cũng như dải đất liền ven biển. Tiếp theo, từ những cơ sở
khoa học này tiến hành xây dựng quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững
chung cho cả nước. Trên cơ sở mục tiêu chiến lược chung của cả nước, các địa phương, các
ngành sẽ xây dựng quy hoạch hành động riêng cho địa phương mình, ngành mình.
5. Kết luận
Từ những điều trình bày trên đây, có thể rút ra mộ vài kết luận sau:
1. Việt Nam có đường bờ biển kéo dài trên 13o vĩ tuyến án ngữ gần như tồn bộ bờ
phía tây của Biển Đông. Các vùng biển của Việt Nam đã được Chính phủ tuyên bố bao gồm
vùng nội thủy (phía trong đường cơ sở), lãnh hải (rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng
tiếp giáp lãnh hải (rộng 24 hải lý tính từ đường cơ sở), vùng đặc quyền kinh tế (rộng 200 hải
lý tính từ đường cơ sở) và thềm lục địa (mở rộng đến bờ ngồi của rìa lục địa, nơi nào hẹp
hơn thì mở rộng đến 200 hải lý).
2. Các vùng biển của Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú cả trong
khối nước, trên đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển bao gồm tài nguyên sinh vật (động,
thực vật), tài ngun khống sản (dầu mỏ, khí thiên nhiên, than, các loại sa khoáng, vật liệu
xây dựng,...), tài nguyên năng lượng (thủy triều, sóng, gió, mặt trời, v.v.) và các tài ngun
đặc biệt khác (khơng gian mặt biển, địa hình bờ và đảo, các cảnh quan, v.v.).
3. Từ thời cổ đại đến nay, con người Việt Nam đã biết khai thác và sử dụng các

nguồn tài nguyên của biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội với trình độ từ thấp đến cao và
bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia. Hiện nay và trong những năm tới, phát triển kinh tế biển
- một trong những chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước, đã và sẽ được thực hiện một cách toàn diện hơn với đầy đủ các lĩnh vực như nghề
cá (đánh bắt, nuôi trồng và chế biến), giao thông - thương mại (hệ thống cảng biển, đội
tàu,….), khai thác khống sản, cơng nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác.
13
4. Để giảm bớt những xung đột giữa kinh tế - xã hội và môi trường, giữa việc sử
dụng tài nguyên và cạn kiệt nguồn tài nguyên, giữa các ngành, giữa các địa phương, v.v.
trước tiên cần phải đánh giá và dự báo những biến động về các điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên, kinh tế - văn hóa - xã hội của tồn bộ các vùng biển và thềm lục địa
cũng như dải đất liền ven biển. Tiếp theo, từ những cơ sở khoa học này tiến hành xây dựng
quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững chung cho cả nước. Trên cơ sở mục
tiêu chiến lược chung của cả nước, các địa phương, các ngành sẽ xây dựng quy hoạch hành


động riêng cho địa phương mình, ngành mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Huy Cường, Đoàn Văn Phụ, 2006.Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành
thủy sản Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia về Phát triển bền vững ngành thủy sản Việt
Nam: các vấn đề và cách tiếp cận. Đồ Sơn, Hải Phòng, trg. 32 - 39
2. Nguyễn Địch Dỹ (Chủ biên), Vũ Cao Minh, Trần Minh, Đinh Văn Thuận, Mai Thành
Tân, 1995. Các kiểu đường bờ biển Việt Nam. Hà Nội, (lưu trữ tại Viện Địa chất, Viện
KH&CN VN)
3. Phùng Ngọc Đĩnh, 1999. Tài nguyên Biển Đông Việt Nam. Nxb Giáo Dục, H, 64 trang.
4. Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X). Tạp chí Kinh tế và dự
báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số 406, 2/2007, HN, trg 1 và 5.
5. Vũ Văn Phái, 2007. Cơ sở địa lý tự nhiên biển và đại dương. Nxb ĐHQGHN, H, 240 trg.
6. Đồn Thiên Tích, 2001. Dầu khí Việt Nam. Nxb ĐHQG TPHCM, HCM, 232 trang.
7. Tatsuro Y., 2008. Vân Đồn - Một thương cảng ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo về “Thương

cảng Vân Đồn - Lịch sử, tiềm năng kinh tế và các mối giao lưu văn hóa”. Quảng Ninh, trg.
17 - 40
8. Bách khoa Toàn thư Địa lý. Nxb “Bách khoa Tồn thư Xơ Viết”, Mascơva, 1988, 432
trg. (tiếng Nga).
9. http.//en.wikipedia.org/wiki/list_of_country_by_length_of_coastline, 2005.
10. Viện Đông Nam Á, 1996. Biển với người Việt cổ. Nxb Văn hóa Thơng tin, H, 325 trg.
11. United Nations, 1992. Report of the United Nations conference on Environment and
Development (Rio de Janeiro, 3 - 14 June 1992), Chapter 17, 51 pp.

Bùn phun trào ở Ninh Thuận là tai biến địa
chất
Hơn 2 tháng nghiên cứu tình hình nứt đất, bùn phun trào tại
huyện Thuận Bắc, Ninh Thuận, các nhà khoa học kết luận
hiện tượng này là một dạng tai biến địa chất quy mô nhỏ,
liên quan đến hoạt động đứt gãy kiến tạo.
> Đất phun trào tại Ninh Thuận/ 'Đất phun trào ở Ninh
Thuận không liên quan tới động đất'
5 ổ bùn đột nhiên trào trên đất ruộng ở thôn Suối Đá, xã Lợi Hải, huyện Thuận Bắc (Ninh
Thuận) hồi tháng 3. Ngay sau đó, chính quyền địa phương cùng cơ quan chức năng vào cuộc tìm
hiểu ngun nhân. Khảo sát và phân tích mẫu bùn, đến nay Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Ninh
Thuận cùng nhóm nghiên cứu thực địa thuộc Liên đồn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước
miền Trung đã có kết luận về hiện tượng này.
Trao đổi với VnExpress.net, ông Phạm Châu Hồnh, Trưởng phịng quản lý cơng nghệ chun
ngành, Sở Khoa học Công nghệ Ninh Thuận khẳng định: hiện tượng nứt đất, xuất lộ bùn tại


Thuận Bắc chỉ là một dạng tai biến địa chất quy mô nhỏ, liên quan đến yếu tố nội sinh do hoạt
động của đứt gãy kiến tạo thuộc phần nông của vỏ trái đất; đồng thời có ảnh hưởng của yếu tố
ngoại sinh như hoạt động của nước mưa, nước dưới đất.
Cũng theo ơng Hồnh, trong 5 ổ bùn thì có 2 ổ mới đùn (vào tháng 2), 2 ổ xuất hiện trên 6 tháng

và 1 ổ đã khá lâu. Cả 5 ổ nằm trên diện tích khoảng 1.700 m2.

Hố bùn trào trên mảnh ruộng đã được cắm biển cảnh báo nguy hiểm. Ảnh:
Sơn Ninh
Khảo sát thực địa cho thấy bùn đùn trào tự nhiên theo các họng nứt đất tạo thành các ổ phân bố
theo hướng Đông Bắc - Tây Nam; đường kính mỗi ổ bùn từ 1,6 đến 3 m. Bùn nổi cao 0,4-0,8 m
so với mặt đất; độ sâu 5-6 m. Bùn có màu xám sáng, xanh nhạt, áp lực bùn phun khá mạnh nên
khi càng bới rộng bề mặt, bùn trào ra càng nhiều
Theo tính tốn của nhóm nghiên cứu, ước tính trữ lượng tài ngun bùn khoáng tại đây khoảng
30.409 tấn. Nếu xây dựng một trung tâm du lịch điều dưỡng có sử dụng dịch vụ tắm, ngâm bằng
nước khống - bùn khống với cơng suất khai thác khoảng 600 tấn một năm bùn tinh lọc, thì có
thể hoạt động ổn định trên 10 năm.
Tuy nhiên, việc xuất hiện các hố bùn sâu trên ruộng lúa trở thành cái bẫy rất nguy hiểm đối với
người và gia súc khi qua lại. Nhiều người dân địa phương phản ánh, trước đây có gia súc thả
chăn tại đây đã bị sụp chân xuống hố bùn chết mà khơng cứu được.
Dự báo của nhóm nghiên cứu thì hiện tượng bùn phun trào sẽ tiếp tục xảy ra theo quy luật tự
nhiên, trong phạm vi khu vực khảo sát, nhất là khi xảy ra mưa lớn. Địa điểm địa chấn bùn phun
chỉ cách nơi xây dựng Nhà máy hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 trong bán kính khoảng 30-40 km.

10 nền kinh tế lớn nhất thế giới


Tags: Trung Quốc, Nhật Bản, tốc độ tăng trưởng, tăng trưởng kinh tế, ngân hàng thế giới, nhất
thế giới, nền kinh tế, tổng giá trị, có giá trị, quy mơ, lớn nhất, nước đứng, xuất khẩu, so với, quốc
tế, tỷ
Ngân hàng thế giới (WB) đã công bố danh sách Top 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới dựa trên số
liệu về GDP năm 2004. 10 nước này có giá trị GDP chiếm khoảng 77% tổng giá trị GDP của
toàn thế giới.

Trong 10 nước, châu Mỹ đóng góp 2, châu Âu đóng góp 5, châu Á đóng góp 3.

Đứng đằng sau 10 nước này là các nước Hàn Quốc, Mexico, Hà Lan, Australia, Brazil, tức là có
15 nước có quy mô GDP trên 500 tỷ USD.
Năm 2004, GDP của VN đạt khoảng 54,5 tỷ USD, đứng thứ 55 trong tổng số 182 nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới, đứng thứ 18 trong tổng số 47 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á và đứng thứ
6 trong 11 nước trong khu vực Đơng Nam Á.
Mỹ là nước có GDP lớn nhất thế giới, cao gấp hơn 2 lần nước đứng thứ hai, chiếm khoảng
31,5% GDP của toàn thế giới. Tốc độ tăng GDP của Mỹ đã phục hồi, hiệu quả cao hơn tốc độ
tăng của Nhật Bản và EU, nên quy mô sẽ ngày một cách xa so với các nước đứng sau. Đáng lưu
ý, Mỹ là nước nhận đầu tư trực tiếp của nước ngoài lớn nhất thế giới, có trình độ khoa học - cơng
nghệ hiện đại bậc nhất, là nơi tập trung nhiều nhà khoa học của thế giới...
Nhật Bản có quy mơ GDP lớn thứ hai thế giới, cao gấp 1,7 lần nước đứng thứ ba. Nước Nhật
trong nhiều năm liền là một hiện tượng “kinh tế thần kỳ”, chỉ từ hơn 10 năm nay tốc độ tăng bị
suy giảm, có một số năm cịn mang dấu âm. Song từ một vài năm nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế
đã dần phục hồi, nên tiếp tục giữ vững chắc vị trí thứ hai thế giới.
Hơn nữa nước này có tổng dự trữ ngoại hối quốc tế tăng liên tục và có quy mơ lớn nhất thế giới:
năm 2000 đạt 356 tỷ USD, năm 2001 đạt 396,2 tỷ USD, năm 2002 đạt 462,4 tỷ USD, năm 2003
đạt 664,6 tỷ USD, năm 2004 đạt 835,2 tỷ USD, gấp nhiều lần các mức 86,9 tỷ USD của Mỹ,
97,2 tỷ USD của Đức, 77,4 tỷ USD của Pháp, 49,7 tỷ USD của Anh, 60,9 tỷ USD của Italy, 19,8
tỷ USD của Tây Ban Nha, 126,6 tỷ USD của Ấn Độ và cũng lớn hơn cả 618,6 tỷ USD của Trung
Quốc. Quy mô xuất khẩu lên đến 566 tỷ USD, chỉ sau Mỹ, Đức.
Đức là nước có quy mơ GDP lớn thứ ba thế giới, đứng cách khá xa so với nước đứng thứ tư. Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đức trong mấy năm nay có xu hướng giảm dần và gần tới
mức bằng 0 (năm 2000 còn đạt 2,86%, năm 2001 còn 0,57%, năm 2002 còn 0,18% và năm 2003
chỉ cịn 0%).
Tuy vậy, quy mơ xuất khẩu của Đức liên tục tăng lên: năm 2000 đạt 550 tỷ USD, năm 2001 đạt
571 tỷ USD, năm 2002 đạt 613 tỷ USD, năm 2003 đạt 751 tỷ USD, năm 2004 đạt 911 tỷ USD.
Đức cũng là nước có tỷ lệ xuất khẩu so với GDP đạt 33,6% cao hơn các nước đứng trên và nhiều
nước đứng dưới về GDP. Đức cũng là nước có tổng dự trữ ngoại hối quốc tế lớn chỉ đứng sau



Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore.
Anh là nước phát triển tư bản sớm nhất thế giới, có quy mơ GDP lớn thứ tư thế giới, hiện là
nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình qn 4 năm gần đây tăng 2,3%, cao hơn các chỉ số tương
ứng của Nhật Bản (2,27%), Đức (0,9%), Pháp (1,8%)...
Pháp là nước sớm phát triển tư bản chủ nghĩa, hiện có quy mơ GDP lớn thứ 5 thế giới, đứng
cách khá xa so với nước đứng thứ sáu. Pháp là nước có quy mơ xuất khẩu lớn thứ 5 thế giới (sau
Đức, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, cũng là nước có tổng dự trữ quốc tế thuộc loại cao của thế
giới.
Italia là nước có quy mơ GDP lớn thứ sáu thế giới, hiện có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với
5 nước đứng trên. Bình quân trong 4 năm qua đạt trên 4,2%. Nước này cũng có tổng dự trữ quốc
tế cao và kim ngạch xuất khẩu lớn.
Trung Quốc là nước giữ kỷ lục về tốc độ tăng trưởng khá cao, liên tục và trong thời gian dài (27
năm), nên vị trí đã tăng lên. Nếu năm 1985 mới đứng thứ 9, năm 1990 đứng thứ 12, năm 1995
đứng thứ 8 thì từ năm 2000 vươn lên đứng thứ 7. Tốc độ tăng của Trung Quốc trong nhiều năm
liên đạt mức cao nhất thế giới; lại có tổng dự trữ ngoại hối quốc tế lớn thứ hai thế giới; có quy
mơ xuất khẩu lớn thứ 3 thứ 4 thế giới.
Theo dự đoán của các chuyên gia với tốc độ tăng cao như hiện nay, thì đến nay 2005 sẽ vượt qua
Italia, đến năm 2010 vượt Anh, đến 2020 Trung Quốc sẽ vượt Nhật và đến năm 2040 sẽ vượt
Mỹ, trở thành nước có quy mơ GDP lớn nhất thế giới.
Đó là nói Trung Quốc theo nghĩa hẹp, thực chất là CHND Trung Hoa, nếu kể cả Hồng Công, Ma
Cao đã trở về với Trung Quốc thì GDP của Trung Quốc mới đã lên đến khoảng 1.820 tỷ USD,
vượt qua Italia, đuổi gần kịp với Pháp.
Theo TBKTVN

10 quốc gia sạch nhất thế giới
07:34 | 05/06/2011
Dựa trên chỉ số hoạt động hiệu quả mơi trường (EPI) - có mức thang từ 100 (bảo vệ môi trường tốt nhất) đến 0 (ít bảo vệ
mơi trường nhất) với 25 tiêu chí khác nhau như ngư trường, khí thải carbon, rừng, chất lượng nước, cây cối và động
vật… các nhà khoa học người Mỹ mới đây đã đưa ra danh sách 10 quốc gia được coi là sạch nhất thế giới trong năm 2010
vừa qua.

1. Iceland: Được đánh giá là một trong những nước đẹp nhất, đứng đầu danh sách các quốc gia xanh nhất thế giới; chỉ có 18%
các nguồn năng lượng của nước này là từ than đá, 82% còn lại là từ hydro và năng lượng địa nhiệt. Chỉ số EPI của nước này là:
93,5.
2. Thụy Sĩ: Với chỉ số EPI: 89,1, Thụy Sỹ đã được kiểm chứng là quốc gia thân thiện với hệ sinh thái và môi trường; có các chỉ
số về lâm nghiệp, nguồn nước, chỉ số đa dạng sinh học… gần như tuyệt đối.
3. Costa Rica: Một quốc gia thuộc khu vực các nước đang phát triển được xếp ở vị trí thứ 3 đủ thấy ưu thế tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên cực kỳ phong phú của Costa Rica này. Chỉ số EPI của nước này đạt: 86,4. Costa Rica đã đặt ra mục tiêu đến
năm 2021, sẽ sử dụng nhiều nguồn tài nguyên tái tạo, thân thiện với hệ sinh thái.
4. Thụy Điển: Từ những năm 1980, với mục tiêu làm giảm khí thải carbon, Thụy Điển đã tập trung vào việc sử dụng thủy điện,


điện hạt nhân và phong điện. Phương thức chính mà Thụy Điển dùng để làm “xanh và sạch” là sử dụng tất cả các cánh rừng của
mình, bên cạnh đó là việc cắt giảm số lượng nhiên liệu sử dụng trong vận tải. Chỉ số EPI của Thụy Điển là: 86,0.
5. Na Uy: Chỉ số EPI: 81,1 - Na Uy đã đặt ra kế hoạch trở thành một quốc gia xanh, thân thiện với môi trường; đến năm 2030,
nước này hy vọng sẽ là một quốc gia carbon trung tính.
6. Maurice: Là một hịn đảo nhỏ ở phía Đơng Madagascar trên Ấn Độ Dương, Maurice lại là quốc gia có chỉ số EPI cao nhất ở
châu Phi với mức điểm 80,6. Hiện tại, quốc gia này đang tập trung vào năng lượng gió và sử dụng các nhà máy mía đường để tạo
ra nhiên liệu...
7. Pháp: Trong 10 quốc gia đứng đầu, các tiêu chí về khơng khí, chất lượng nước cho tới quản lý ngư nghiệp của Pháp có điểm
số rất cao - EPI: 78,2. Một ưu điểm của quốc gia này trong thang điểm EPI chính là sự phát triển mạnh của các nhà máy điện hạt
nhân.
8. Áo: Với số điểm tuyệt đối trong tiêu chí bảo vệ các quần thể sinh vật, Áo đã có thể đứng ngang hàng với Pháp trong bảng xếp
hạng 10 quốc gia sạch nhất thế giới. Chỉ số EPI: 78,1.
9. Cuba: Mặc dù vẫn cịn nhiều băn khoăn cộng thêm tiêu chí về bình quân thu nhập chỉ đạt 65,7 điểm, nhưng Cuba vẫn đạt
được 78,1 trong thang điểm EPI. Cuba đang nỗ lực tái sử dụng đất nông nghiệp, giảm việc sử dụng thuốc trừ sâu độc hại và đặt
kế hoạch phát triển nguồn năng lượng thủy điện.
10. Colombia: Trong danh sách 10 nước sạch nhất thế giới thì Colombia là quốc gia nghèo nhất. Tuy nhiên, với ưu ái của điều
kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên nên nước này đạt được chỉ số EPI khá cao: 76,8.

Thổ Nhĩ Kỳ

Ngân sách quốc phòng hàng năm $30,936,000,000
Quân nhân thường trực 514,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 1,298,979
Máy bay chiến đấu 1,530
Tàu hải quân 180
Tổng giá trị $853,900,000,000
No 9. Nhật Bản
Ngân sách quốc phòng hàng năm $44,300,000,000
Quân nhân thường trực 378,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 1,212,321
Máy bay chiến đấu 2,700
Tàu hải quân 150
Tổng giá trị $4,272,000,000,000
No 8. Brazil
Ngân sách quốc phòng hàng năm $24,000,000,000


Quân nhân thường trực 287,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 3,275,154
Máy bay chiến đấu 1,650
Tàu hải quân 90
Tổng giá trị $1,849,000,000,000
No 7. Liên bang Đức
Ngân sách quốc phòng hàng năm $46,000,000,000
Quân nhân thường trực 250,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 863,773
Máy bay chiến đấu 1,100
Tàu hải quân 130
Tổng giá trị $2,807,000,000,000
No 5. Anh

Ngân sách quốc phòng hàng năm $53,000,000,000
Quân nhân thường trực 195,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 784,520
Máy bay chiến đấu 2,670
Tàu hải quân 140
Tổng giá trị $2,130,000,000,000
No 6. Pháp
Ngân sách quốc phòng hàng năm $62,000,000,000
Quân nhân thường trực 225,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 783,788
Máy bay chiến đấu 1,900
Tàu hải quân 135
Tổng giá trị $2,075,000,000,000
No 4. Ấn Độ
Ngân sách quốc phòng hàng năm $33,000,000,000
Quân nhân thường trực 1,325,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 22,229,373
Máy bay chiến đấu 1,250
Tàu hải quân 145
Tổng giá trị $2,966,000,000,000
No 3. Nga
Ngân sách quốc phòng hàng năm $43,000,000,000
Quân nhân thường trực 1,245,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 1,602,673


Máy bay chiến đấu 6,500
Tàu hải quân 525
Tổng giá trị $2,097,000,000,000
No 2. Trung Quốc

Ngân sách quốc phòng hàng năm $59,000,000,000
Quân nhân thường trực 2,255,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 20,470,412
Máy bay chiến đấu 2,400
Tàu hải quân 760
Tổng giá trị $7,099,000,000,000
No 1. Mỹ
Ngân sách quốc phòng hàng năm $515,000,000,000
Quân nhân thường trực 1,385,000
Dân số đến tuổi quân sự hàng năm 4,266,128
Máy bay chiến đấu 22,700
Tàu hải quân 1,600
Tổng giá trị $13,780,000,000,000

//sorry các bạn, mình dịch nhầm Tổng số tuổi quân nhân, đúng của nó là Dân số đến tuổi quân sự
hàng năm



×