Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tổng quan đa dạng sinh học tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.93 KB, 22 trang )

Tổng Quan Đa Dạng Sinh Học tại Việt Nam
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa. Do vị trí địa lý, Việt Nam rất đa
dạng về địa hình, kiểu đất, cảnh quan, có đặc trưng khí hậu khác nhau giữa các
miền. Trải dài từ 8030 tới 230 vĩ độ Bắc, với sự khác biệt về khí hậu và địa hình
giữa các miền nên Việt Nam có sự đa dạng lớn về môi trường tự nhiên và sinh học.
Hệ sinh thái từ rừng mưa thường xanh cận nhiệt đới ở phía Bắc tới rừng khộp
nhiệt đới ở phía Nam, rừng ngập mặn và đất ngập nước ven biển đã tạo ra hệ động,
thực vật phong phú và có giá trị. Đặc điểm đó là cơ sở rất thuận lợi để giới sinh vật
phát triển đa dạng về thành phần loài, phong phú về số lượng. Lĩnh vực sinh học
hiện nay vẫn còn nhiều điều mới lạ và bí ẩn bởi những gì chúng ta biết mới chỉ là
một phần rất nhỏ của thiên nhiên rộng lớn này. Không chỉ các nhà sinh học trong
nước mà nhiều nhà sinh học nước ngoài đến Việt Nam để nghiên cứu về đa dạng
sinh học (ĐDSH) bởi sự bùng nổ của công nghệ sinh học, vấn đề kiểm soát các
thông tin di truyền và an toàn sinh học được đặt ra trên phạm vi quốc tế.
Theo công ước về đa dạng sinh học được đưa ra vào năm 1992 tại hội nghị
Liên Hiệp Quốc về môi trường và sự phát triển, đa dạng sinh học (ĐDSH) được
định nghĩa: "là toàn bộ sự phong phú của các cơ thể sống và các tổ hợp sinh thái
mà chúng là thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong giữa các loài vật và sự đa
dạng của các hệ sinh thái". Đa dạng sinh học là sự phong phú về nguồn gen, về
giống, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên. Trong hệ sinh thái, số lượng các


giống, các loài nhiều tức là phong phú về nguồn gen thì tính đa dạng sinh học cao
(theo luật Bảo vệ môi trường).

ĐDSH Việt Nam
Đa dạng nguồn gen
Đa dạng về loài
Đa dạng hệ sinh thái
ĐD loài trong HST trên cạn
Đa dạng loài đất ngập nước


Cây trồng
Vật nuôi
Đặc trưng ĐD loài
HST rừng
HST đất ngập nước
HST biển

Đa dạng sinh học có một vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên trái đất,
không có gì thay thế được nhưng trong thời kỳ phát triển hiện nay, khi xu hướng
toàn cấu hoá, công nghiệp hoá đang trên đà phát triển. Việt Nam cũng không nắm
ngoài xu thế đó, là một nước đang phát triển, từng bước chuyển mình sang nền
kinh tế công nghiệp lớn, kèm theo đó là đời sống dân cư ngày càng phát triển, đô
thị hoá cao... và điều này đe doạ đến mối trường Việt Nam nói chung và đa dạng
sinh học nói riêng. Nó làm cho nhiều loài đang bị suy giảm một cách nhanh chóng,
thậm chí có một số loài đang ở ngưỡng cửa của sự diệt vong mà nguyên nhân chủ
yếu là do môi trường sống bị phá huỷ, do săn bắt quá mức và do sự tấn công một


cách dữ dội của các loài nhập cư cũng như sự cạnh tranh của các kẻ thù khác. Các
chu trình hoá học và thuỷ văn tự nhiên đang bị phá vỡ do việc phá rừng và mỗi
năm có hàng tỷ tấn đất mặt đã bị bào mòn và cuốn trôi theo các dòng nước xuống
các ao hồ đại dương. Loài người đang sử dụng một trong những nguồn tài nguyên
thiên nhiên quý giá nhất mà không thể thay thế được trên thế giới, đó là sự đa dạng
sinh học - cơ sở của sự sống còn, sự thịnh vượng và sự phát triển bền vững của
chính họ. Tất cả tài sản quý giá đó rất cần thiết để đáp ứng các nhu cầu hàng ngày
của loài người hiện nay, trong tương lai, cũng như đã đáp ứng cho tổ tiên trước
kia. Thế nhưng loài người đã không biết giữ gìn nguồn tài nguyên quý giá đó mà
lại đang khi thác quá mức, tiêu hao và phá huỷ nó với danh nghĩa là để phát triển.
sự suy thoái đa dạng sinh học trên trái đất hàng ngày, hàng giờ âm thầm phá huỷ
khả năng phát triển của loài người. Việt nam cũng như nhiều nước khác trên thế

giới đang đứng trước những thử thách lớn về vấn đề suy giảm đa dạng sinh học.
Để có cái nhìn và cách hiểu chính xác, bằng phương pháp thu thập và kế
thừa tài liệu qua sách, mạng và internet... phân tích theo cấu trúc logic của các tài
liệu thu thập được, Nghĩ ngược lại những quan điểm thông thường. nhận dạng
những vướng mắc trong hoạt động thực tế. lắng nghe lời phàn nàn của những
người không am hiểu. những câu hỏi bất chợt xuất hiện không phụ thuộc lý do
nào... Từ đó rút ra những đánh giá về thực trạng cũng như sự hợp lý của đa dạng
sinh học, chúng ta cần đi sau nghiên cứu kỹ hơn về vấn đề này. Đây cũng chính là


lý do em la chn ti tỡm hiu l: "vn suy gim a dng sinh hc". Mc
ớch l nghiờn cu Giỏ tr a dng sinh hc Vit Nam, ỏnh giỏ thc trng v
tỡnh hỡnh nhm nõng cao nhn thc ca mi ngi v a dng sinh hc i vi
cuc sng ca h v tng quyn ch ng ca h trong vic qun lý, s dng v
bo v ngun ti nguyờn thiờn nhiờn m cuc sng ca h ph thuc vo ú.

1.1Khỏi Nim
a dng sinh hc l ton b s phong phỳ ca cỏc c th sng v cỏc t hp
sinh thỏi m chỳng l thnh viờn, bao gm s a dng bờn trong v gia cỏc loi,
v s a dng ca cỏc h sinh thỏi.
3 mức độ :

- a dạng di truyền
- a dạng về loài
- a dạng hệ sinh thái

a dạng di truyền
a dạng di truyền là sự đa dạng về gen trong mỗi quần thể và gi a các quần thể
với nhau.
a dạng di truyền đợc hiểu là tần số và sự đa dạng của các gen và bộ gen trong

mỗi quần thể và gia các quần thể với nhau, bao gồm cả nh ng biến dị trong cấu


trúc di truyền của các cá thể trong quần thể hoặc gi a các quần thể, nh ng biến dị
trong các loài hoặc gia các loài.
a dạng di truyền là đa dạng ở cấp độ phân tử và đa dạng trao đổi chất, đem lại
nhng khác nhau cốt lõi quyết định sự đa dạng của sự sống.
a dạng v loi
a dạng về loài là sự phong phú về số lợng các loài trong quần xã, là cơ sở để tạo
nên một lới thức n với nhiều mắt xích cho một hệ sinh thái ổn định và bền vng.
Khoa học về đa dạng về loài có liên quan chặt chẽ với khoa học về hệ thống học,
phân loại học và phát triển tiến hóa của sinh giới.
a dạng hệ sinh thái
a dạng hệ sinh thái là sự đa dạng về môi trờng sống của các sinh vật trong việc
thích nghi với điều kiện tự nhiên của chúng.
Bảo vệ đa dạng hệ sinh thái là bảo vệ môi trờng sống của các loài, có vai trò rất lớn
trong việc bảo vệ đa dạng sinh học.
1.2

Phõn loi

1.2.1 a dng ngun gen:
a dng v gien di truyn c th hin bi s a dng v gen trong mi loi.
Theo ỏnh giỏ ca Jucovski (1970), Vit Nam l 1 trong 12 trung tõm ngun
gc ging cõy trng ca th gii. Mc DSH ca h thc vt cõy trng Vit
Nam cao hn nhiu so vi d oỏn.


Nguồn gen giống cây trồng ở Việt Nam, hiện nay đang sử dụng trong sản
xuất nông nghiệp có 16 nhóm các loại cây trồng khác nhau như cây lượng thực

chính, cây lương thực bổ sung, cây ăn quả, cây rau, cây gia vị, cây làm nước uống,
cây lấy sợi, cây thức ăn gia súc, cây bóng mát, cây công nghiệp, cây lấy gỗ... với
tổng số trên 800 loài cây trồng với hàng nghìn giống khác nhau.

Bảng: Số lượng các loài cây trồng phổ biến ở Việt Nam
Số TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

Nhóm cây
Nhóm cây lương thực chính
Nhóm cây lương thực bổ sung
Nhóm cây ăn quả
Nhóm cây rau
Nhóm cây gia vị
Nhóm cây làm nước uống

Nhóm cây lấy sợi
Nhóm cây thức ăn gia súc
Nhóm cây lấy dầu béo
Nhóm cây lấy tinh dầu
Nhóm cây cải tạo đất
Nhóm cây dược liệu
Nhóm cây cây cảnh
Nhóm cây bóng mát
Nhóm cây cây công nghiệp
Nhóm cây lấy gỗ
Tổng

Số loài
41
95
105
55
46
14
16
14
45
20
28
181
62
7
24
49
802


Nguồn : Khoa học công nghệ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi
mới-Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005.

Có 3 nhóm cây trồng được sử dụng:


• Các giống cây trồng bản địa: Nhóm giống cây trồng này hiện nay đang chiếm vị trí
chủ đạo đối với nhiều loại cây trồng. Trong số nhóm giống cây trồng này có những
giống đã được nông dân sử dụng vì lưu truyền hàng nghìn năm nay.
• Các giống cây trồng mới: Là những giống cây có khả năng cho năng suất cao vì có
một số đặc tính tốt khác như: phẩm chất nông sản tốt, khả năng chống chịu sâu
bệnh cao... được các nhóm khoa học chọn lọc, lai tạo thành. Những năm gần đây
các giống cây trồng được các nhóm khoa học chọn lọc và lai tạo mới cũng như các
loại giống cây trồng được nhập nội, trước khi đưa ra sản xuất rộng răi, được hội
đồng khoa học Bộ NN & PTNT xem xét công nhận như lúa: 156 giống; ngô: 47
giống; đậu tương: 22 giống; cao su: 14 giống; cà phê: 14 giống...
• Các giống cây trồng được ở các tỉnh biên giới trao đổi với nhau qua biên giới hoặc
mua bán qua đường tiểu ngạch.
Hiện nay, Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn 12.300 giống của 115
loài cây trồng. Đây là tài sản quý của đất nước, phần lớn không còn trong sản xuất
và trong tự nhiên nữa. Một bộ phận quan trọng của số giống này là nguồn gen bản
địa với nhiều đặc tính quý hiếm duy nhất chỉ nước ta có.

Nguồn gen giống vật nuôi ở Việt Nam,
Bảng: Các giống vật nuôi chủ yếu
T.T

Giống



1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Giống
Lợn


Trâu
Cừu
Thỏ
Ngựa

Vịt
Ngan
Ngỗng

Tổng số
20
21
5

3
1
4
3
27
10
7
5

Giống nội
14
5
2
2
2
2
16
5
3
2

Giống nhập ngoại
6
16
3
1
1
2
1
11

5
4
3

Nguồn : Khoa học công nghệ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mớiBộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005.
Các loài cá nuôi có nguồn gốc từ nước ngoài được nhập và thuần dưỡng ở Việt
Nam khoảng 50 loài. Trong đó có 35 loài cá cảnh còn lại là các loài cá nuôi lấy
thịt.
1.2.2 Đa dạng về loài:
Đa dạng loài là số lượng và sự đa dạng của các loài được tìm thấy tại một khu vực
nhất định tại một vùng nào đó.

Số loài trên Trái Đất
Chưa được mô tả


Đã được mô tả

Tổng số ước tính = 10 triệu.
Chưa được mô tả = 8.3 triệu.
Đã được mô tả = 1.7 triệu
Trong những năm qua, cùng với những nổ lực về bảo tồn đa dạng sinh học,
công tác điều tra nghiên cứu về đa dạng sinh học cũng được nhiều cơ quan Việt
Nam cũng như các tổ chức quốc tế thực hiện. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung
vào thành phần loài động, thực vật, các hệ sinh thái đặc trưng. Các kết quả nghiên
cứu được tập hợp từ các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu cho thấy:
Bảng: Thành phần loài sinh vật đã biết được cho đến nay
TT
1
2


3
4

Nhóm sinh vật
Thực vật nổi
- Nước ngọt
- Biển
Rong, tảo
Nước ngọt
Biển
Cỏ biển
Thực vật ở cạn
Thực vật bậc thấp
Thực vật bậc cao
Động vật không xương

Số loài đã xác định được
1.939
1.402
537
697
Khoảng 20
682
15
13.766
2.393
11.373
8.203


sống ở nước
Nước ngọt

782


5
6
7
8
9
10
11

Biển
Động vật không xương

7.421
khoảng 1.000

sống ở đất
Côn Trùng

Nước ngọt
Biển
Bò sát
Rắn biển
Rùa biển
Lưỡng cư
Chim

Thú
Thú biển

7.750
2.738
700
2.038
296
50
4
162
840
310
16

Nguồn: Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật,2005

Theo các tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ ĐDSH
cao tręn thế giới với dự tính có thể có tới 20.000-30.000 loài thực vật. Việt Nam
được xếp thứ 16 về mức độ ĐDSH (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới).


Đa dạng loài trong hệ sinh thái trên cạn:
Khu hệ thực vật: Tổng kết các công bố về hệ thực vật Việt Nam, đă ghi nhận

có 15.986 loài thực vật ở Việt Nam. Trong đó, có 4.528 loài thực vật bậc thấp và
11.458 loài thực vật bậc cao. Trong số đó có 10 % số loài thực vật là đặc hữu.
Khu hệ động vật: cho đến nay đă thống kê được 307 loài giun tròn, 161 loài
giun sán ký sinh ở gia súc, 200 loài giun đất, 145 loài ve giáp, 113 loài bọ nhảy,



7.750 loài côn trùng, 260 loài bò sát, 120 loài ếch nhái, 840 loài chim, 310 loài và
phân loài thú.

Hình: Đa dạng sinh học
Trong hệ thống các khu bảo vệ vùng Đông Dương - Mã Lai của IUCN, Việt
Nam được xem là nơi giàu về thành phần loài và có mức độ đặc hữu cao so với
các nước trong vùng phụ Đông Dương. Động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc
hữu: hơn 100 loài và phân loài chim, 78 loài và phân loài thú đặc hữu. Riêng trong
số 25 loài thú linh trưởng đã được ghi nhận thẻ ở Việt Nam có tới 16 loài, trong đó
có 4 loài và phân loài đặc hữu của Việt Nam, 3 phân loài chỉ phân bố ở Việt Nam
và Lào, 2 phân loài chỉ có ở vùng rừng hai nước Việt Nam - Cămpuchia.


Đa dạng loài trong hệ sinh thái đất ngập nước nội địa


Các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam rất đa dạng về hệ thực vật cũng
như hệ động vật, bao gồm các nhóm vi tảo, rong, các loŕi cây cỏ ngập nước và bán
ngập nước, động vật không xương sống và cá.
- Vi tảo: đă xác định được có 1.438 loŕi tảo thuộc 259 chi và 9 ngành;
- Cho đến nay đă thống kê và xác định được 794 loŕi động vật không xương
sống. Trong đó, đáng lưu ý là trong thành phần loài giáp xác nhỏ, có 54 loài và 8
giống lần đầu tiên được mô tả ở Việt Nam. Riêng hai nhóm tôm, cua (giáp xác lớn)
có 59 loài thì có tới 7 giống và 33 loài (55,9% tổng số loài) lần đầu tiên được mô
tả. Trong tổng số 147 loài trai ốc, có 43 loài (29,2% tổng số loài), 3 giống lần đầu
tiên được mô tả, tất cả đều là những loài đặc hữu của Việt Nam hay vùng Đông
Dương. Điều đó cho thấy sự đa dạng và mức độ đặc hữu của khu hệ tôm, cua, trai,
ốc nước ngọt nội địa Việt Nam là rất lớn.
- Theo các dẫn liệu thống kê, thành phần loài cá các thủy vực nước ngọt nội địa

Việt Nam bao gồm trên 700 loài và phân loài, thuộc 228 giống, 57 họ và 18 bộ.
Riêng họ cá chép có 276 loài và phân loài thuộc 100 giống và 4 họ, 1 phân họ
được coi là đặc hữu ở Việt Nam. Phần lớn các loài đặc hữu đều có phân bố ở các
thủy vực sông, suối, vůng núi.


Đa dạng loài trong các hệ sinh thái biển và ven bờ:

Đặc tính của khu hệ sinh vật biển Việt Nam thể hiện rõ ở đặc tính nhiệt đới, đặc
tính hỗn hợp, đặc tính ít đặc hữu và đặc tính khác biệt bắc - nam. Trong vùng biển


nước ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ
sinh thái điển hình và thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có
hai vùng biển: Móng Cái - Đồ Sơn, Hải Vân - Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh
học cao hơn các vùng còn lại. Đặc biệt, tại vùng thềm lục địa có 9 vùng nước trồi
có năng suất sinh học rất cao, kèm theo là các bãi cá lớn. Tổng số loài sinh vật
biển đã biết ở Việt Nam có khoảng 11.000 loài, trong đó cá (khoảng 130 loài kinh
tế) có 2.458 loài; rong biển có 653 loài; động vật phù du có 657 loài; thực vật phù
du có 537 loài; thực vật ngập mặn có 94 loài; tôm biển có 225 loài...

Hình: Sinh vật biển


Các nghiên cứu về biến động nguồn lợi đă cho thấy danh sách khu hệ cá biển
của Việt Nam đến tháng 1/2005 là 2.458 loài, tăng 420 loài so với danh sách được
lập năm 1985 (có 2.038 loài) và đã phát hiện thêm 7 loài thú biển mới.
Một số loài sinh vật mới được phát hiện trong thời gian gần đây ở Việt
Nam:
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, từ các kết quả điều tra cơ bản các vůng lãnh

thổ khác nhau ở Việt Nam, một số loài mới được phát hiện và mô tả, trong đó
nhiều chi, loài mới cho khoa học. Một số các nhóm sinh vật trước đây chưa được
nghiên cứu, nay đã có những dẫn liệu bước đầu
1.2.3 Đa dạng hệ sinh thái:
Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về các kiểu hệ sinh thái khác nhau ở
cạn cũng như ở nước tại một vùng nào đó. Hệ sinh thái là hệ thống bao gồm sinh
vật và môi trường tác động lẫn nhau mà ở đó thực hiện vòng tuần hoàn vật chất,
năng lượng và trao đổi thông tin.
Nguồn tài nguyên đa dạng sinh học trong tự nhiên của Việt Nam hiện nay tập
trung ở 3 hệ sinh thái (HST) chính là: HST trên cạn (HST rừng), HST đất ngập
nước và HST biển.
Hệ sinh thái đất ngập nước:
Công ước Ramsar định nghĩa "Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than
bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời,


có nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể cả những vùng
nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều thấp".
Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hình và hệ sinh thái, thuộc
2 nhóm ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có tính
ĐDSH cao:


Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị như

cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn
và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác; xâm
chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác
động của sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật
hoang dã bản địa và di cư (chim, thú, lưỡng cư, bò sát).



Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á. U

Minh thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm
lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.


Đầm phá: thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha

trộn giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất phong
phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật
đầm phá thay đổi theo můa rõ rệt.


Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển

ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xã rạn san hô


rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cá rạn.
Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú biển
Dugon.


Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống các đảo

rất phong phú. Vůng nước ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh giá có mức
độ ĐDSH rất cao với các hệ sinh thái đặc thů như rạn san hô, cỏ biển...
Việt Nam có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng cửa sông đồng bằng sông

Hồng và ĐNN đồng bằng sông Cửu Long:


ĐNN ở vůng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762 ha. Đây

là nơi tập trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật, động vật vùng
rừng ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim nước.


ĐNN đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha.

Đây là bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông
Mê Công. Những khu rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng
có tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở đồng bằng sông Cửu
Long, đó lŕ hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở vùng ngập
nước nội địa và hệ sinh thái cửa sông.
Mỗi kiểu hệ sinh thái ĐNN đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của měnh. Tuy
nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng
vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên.


Hệ sinh thái đất ngập nước rất đa dạng, theo đánh giá của Viện Điều tra quy
hoạch rừng (1999) có 39 kiểu đất ngập nước, bao gồm:


Đất ngập nước tự nhiên 30 kiểu



Đất ngập nước ven biển 11 kiểu




Đất ngập nước nội địa 19 kiểu



Đất ngập nước nhân tạo 9 kiểu
Hệ sinh thái biển:
Việt Nam có vùng lãnh hải gắn với bờ biển rộng khoảng 226.000 km 2. Do

vậy hệ sinh thái biển cũng rất phong phú, có 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, có tính
đa dạng sinh học và năng suất sinh học cao.Trong vùng biển nước ta đã phát hiện
được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong các vùng đa dạng sinh học biển khác
nhau. Thành phần quần xã trong hệ sinh thái giàu, cấu trúc phức tạp, thành phần
loài phong phú. Đây là môi trường sản xuất thuận lợi và rộng lớn gắn chặt với đời
sống của hàng triệu cư dân sống ven biển của Việt Nam.
Hệ sinh thái rừng:
Các hệ sinh thái của rừng Việt Nam rất đa dạng, mỗi hệ sinh thái rừng thực chất
là một phức hệ rất phức tạp, được vận hành và chi phối bởi các quy luật nội vi và
ngoại vi. Một số hệ sinh thái điển hình: rừng trên núi đá vôi, rừng rụng lá và nửa
rụng lá, rừng thường xanh núi thấp, núi trung bình, núi cao v.v. có giá trị đa dạng


sinh học cao và có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học
của Việt Nam.
Diện tích rừng của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn biến động khác nhau.
Theo thống kê của tác giả Paul Maurand (1943), năm 1943 Việt Nam có diện tích
rừng là 14,3 triệu hecta, đạt tỷ lệ che phủ lãnh thổ là 43%. Từ năm 1943-1975,
diện tích rừng đã bị suy giảm còn 11,2 triệu hecta với tỷ lệ che phủ là 34% (Viện

Điều tra quy hoạch rừng, năm 1976).
Giai đoạn 1976 đến 1990 là thời kỳ tài nguyên rừng bị khai thác mạnh để
phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước sau chiến tranh. Diện tích rừng
trong giai đoạn này tiếp tục giảm xuống, diện tích rừng năm 1990 chỉ còn chưa
đầy 9,2 triệu hecta với tỷ lệ che phủ chỉ đạt 27,8%.
Giai đoạn 1990 đến nay Chính phủ đã có nhiều biện pháp về chính sách và
đầu tư nên diện tích rừng đã dần được phục hồi kể cả diện tích rừng tự nhiên và
rừng trồng. Năm 2005, diện tích rừng đã đạt trên 12,6 triệu hecta với độ che phủ
37%.
Bảng: Diễn biến diện tích và độ che phủ rừng qua các thời kỳ
Năm

Diện tích rừng (1000 ha)
Tổng cộng
Rừng tự
Rừng

Độ che phủ

Ha/Đầu người

(%)
1943
1976
1980

14.300,0
11.169,3
10.683,0


nhiên
14.300,0
11.169,7
10.180,0

trồng
0
92,6
422,3

43,2
33,7
32,1

0,57
0,31
0,19


1985
1990
1995
2000
2002
2003
2004
2005

9.891,9
9.175,6

9.302,2
10.915,6
11.784,6
12.095,0
12.306,9
12.616,7

9.308,3
8.430,7
8.252,5
9.444,2
9.865,0
10.005,0
10.088,3
10.283,2

583,6
744,9
1.049,7
1.491,4
1.919,6
2.090,0
2.218,6
2.333,5

30,0
27,8
28,2
33,2
35,8

36,1
36,7
37,0

0,14
0,12
0,12
0,14
0,14
0,14
0,15
0,15

Nguồn: Viện Điều tra Quy hoạch Rừng và Cục Kiểm lâm
Do nhiều nguyên nhân đã làm cho diện tích rừng tự nhiên bị giảm sút trong
thời gian qua đã kéo theo sự suy giảm về đa dạng sinh học đối với các hệ sinh
thái rừng nói chung.
Các hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, tuy nhiên các hệ
sinh thái này hiện nay cũng đang đối mặt với nhiều thách thức chủ yếu từ các hoạt
động kinh tế xã hội của con người và những biến động của sự thay đổi khí hậu của
trái đất. Diện tích rừng tự nhiên đang có chiều hướng suy giảm cả về số lượng và
chất lượng. Môi trường biển cũng đang bị tác động bới các hoạt động khai thác tài
nguyên như dầu khí, hải sản và cả ô nhiễm v.v.
1.3Đặc Trưng
1.3.1 Đặc trưng đa dạng nguồn gen:
• Các biểu hiện của kiểu gen ở Việt Nam rất phong phú. Riêng kiểu gen cây lúa
có đến hàng trăm kiểu hình khác nhau, thể hiện ở gần 400 giống lúa khác nhau.


• Các kiểu gen ở Việt Nam thường có nhiều biến dị, đột biến. Trong đó có những

biến dị xảy ra dưới tác động của các yếu tố tự nhięn (sấm, chớp, bức xạ..), có
những đột biến xảy ra do những tác nhân nhân tạo. Đây lŕ một trong những nguồn
tạo giống mới.
• ĐDSH gen ở Việt Nam chứa đựng khả năng chống chịu vŕ tính mềm dẻo sinh
thái cao của các kiểu gen.
1.3.2 Đặc trưng đa dạng loài ở Việt Nam:
• Số lượng các loài sinh vật nhiều, sinh khối lớn. Tính ra bình quân trên 1 km2
lãnh thổ Việt Nam có 4,5 loài thực vật, gần 7 loài động vật, với mật độ hŕng chục
nghìn cá thể. Đây là một trong những mật độ đậm đặc các loài sinh vật so với thế
giới.
• Cấu trúc loài rất đa dạng. Do đặc điểm địa hình, do phân hóa các kiểu khí hậu,
cấu trúc các quần thể trong nội bộ loài thường rất phức tạp. Có nhiều loài có hàng
chục dạng sống khác nhau.
• Khả năng thích nghi của loài cao. Thích nghi của các loài được thực hiện thông
qua các đặc điểm thích nghi của từng cá thể, thông qua chuyển đổi cấu trúc loŕi.
Loài sinh vật ở Việt Nam nói chung có đặc tính chống chịu cao đối với các thay
đổi của các yếu tố và điều kiện ngoại cảnh.
Về thực vật, trong giai đoạn 1993 – 2003, đã có 13 chi, 222 loài và 30 taxon
dưới loài đó được phát hiện và mô tả mới cho khoa học v.v.


1.3.3 Đặc trưng của đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam:
Tính phong phú và đa dạng của các kiểu hệ sinh thái: Với một diện tích không
rộng, nhưng trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau. Ở
từng vùng địa lý không lớn cũng tồn tại nhiều kiểu hệ sinh thái.
• Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái rất giàu. Cấu trúc quần xã trong
các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Điểm đặc trưng này làm
cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước khác
trên thế giới.
• Tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố sinh

học, giữa các nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể trong cùng
một loài sinh vật. Mạng lưới dinh dưỡng, các chuỗi dinh dưỡng với nhiều khâu nối
tiếp nhau làm tăng tính bền vững của các hệ sinh thái. Các mối quan hệ năng
lượng được thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất rất phong phú, nhiều
tầng, bậc thông qua các nhóm sinh vật: tự dưỡng (sinh vật sản xuất), dị dưỡng
(sinh vật tiêu thụ), hoại sinh (sinh vật phân hủy) trong các hệ sinh thái ở Việt Nam
là những chuỗi quan hệ mà ở nhiều nước khác trên thế giới không có được.
• Các hệ sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng tính mềm dẻo sinh thái cao, thể hiện ở
sức chịu tải cao; khả năng tự tái tạo lớn; khả năng trung hoà và hạn chế các tác
động có hại; khả năng tự khắc phục những tổn thương; khả năng tiếp nhận, chuyển
hóa, đồng hóa các tác động từ bęn ngoài.


• Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm. Tính
mềm dẻo sinh thái của các hệ sinh thái ở Việt Nam làm cho các hệ đó luôn ở trong
trạng thái hoạt động mạnh, vì vậy, thường rất nhạy cảm với các tác động từ bên
ngoài, kể cả các tác động của thiên nhiên, cũng như những tác động của con
người.



×