Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

TRUYỆN KIỀU DƯỚI GÓC NHÌN “THI TRUNG HỮU HỌA” (sưu tầm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.2 KB, 53 trang )

TRUYỆN KIỀU DƯỚI GÓC NHÌN
“THI TRUNG HỮU HỌA”

I) Những vấn đề lý luận:
1) Thơ và hoạ:
Nếu người nhạc sĩ dùng những nốt nhạc để tạo nên những giai điệu êm ái ngọt
ngào hay hùng tráng làm cho người nghe say sưa thích thú thì người hoạ sĩ cũng có
những vật liệu để hình thành tác phẩm. Những nguyên liệu ấy Mendelowits gọi là yếu tố
tạo hình; Edmund Burk Felman gọi là yếu tố thị quan: ngữ pháp; Đăng Ngọc Trân gọi là
cấu trúc ngữ pháp. Theo ông Đặng Ngọc Trân thì “Dù là người tiền sử hay người hiện
đại, dù là hoạ sĩ cổ điển hay hoạ sĩ trừu tượng đều phải dùng tới các yếu tố: Đường nét,
hình dạng, giá trị, độ nhẵn và màu sắc để tạo nên một tác phẩm hội hoạ”
Hội hoạ có nhiều trường phái khác nhau- Hiện thực, ấn tượng, lập thể, siêu thực,
dã thú...
Khác với các nhạc sĩ, hoạ sĩ, các nhà văn nhà thơ lại dùng ngôn từ để tạo nên
những tác phẩm văn chương làm mê hoặc người đọc. Nói như M.Gorki “Yếu tố đầu tiên
của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và - cùng với các sự kiện, các hiện
tượng của cuộc sống – là chất liệu của văn học” [32,206]. Ngôn từ trong tác phẩm văn
chương phải là những ngôn từ đã được nâng lên đến trình độ nghệ thuật và phải đảm bảo
tính chính xác, tính hàm súc, tính biểu cảm, tính hình tượng.
2) Mối quan hệ giữa thơ và hoạ :
Cùng thuộc nhóm nghệ thuật đơn tính (Không kể hội họa ứng dụng, văn chương
ứng dụng) hoạ và thơ có mối quan hệ gần gũi. Trác Ngô Tử khi nhận xét mối quan hệ
giữa thơ và hoạ thì cho rằng “Hoạ đâu chỉ có vẽ hình, mà phải có cả hình lẫn thần; thơ
đâu phải ở bên ngoài hoạ, mà ở chỗ nêu được cái thần thái trong hoạ”. Còn nhà hoạ sĩ vĩ
đại Leonardo da Vinci thì cho rằng “Hoạ là thi ca bằng thị giác”.


Tác phẩm nghệ thuật tạo hình- một bức tranh, một pho tượng, một công trình kiến
trúc ...dù được thực hiện bằng tay song nó chủ yếu là sản phẩm thẩm mỹ của con mắt.
“Con mắt là kênh đối thoại giữa người xem và tác phẩm. Vì vậy thông tin thị giác, thông


tin thẩm mỹ thị giác, ngôn ngữ thị giác và cụ thể hơn là ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình xây
dựng trên cơ sở cơ cấu hoạt động và đặc trưng chức năng của con mắt”. Hội hoạ thuộc
loại hình “nghệ thuật không gian, nghệ thuật tĩnh ...có sở trường diễn đạt cái cụ thể – theo
nghĩa nhìn thấy trước mắt- và đứng yên. Khả năng này gíup con người tạo môi trường
không gian đẹp quanh mình, giúp cho sự lắng đọng cảm xúc”
Những sắc độ màu, sự chuyển động của nét và những biến thể của hình khối thể
hiện trong tác phẩm văn chương không có tính chất cụ thể như trong tác phẩm của loại
hình nghệ thuật tạo hình.
Nhưng không phải bất cứ tác phẩm văn chương nào cũng có chất hoạ. Mức độ ít
hay nhiều đậm hay nhạt còn tuỳ thuộc vào khả năng của người sáng tác, tuỳ thuộc vào
loại hình của từng tác phẩm văn chương.
II) Cơ cở chất hoạ trong tác phẩm Truyện Kiều:
1) Ngôn ngữ tiếng Việt:
“Trong tiếng Việt, có một loại đơn vị đặc biệt gọi là tiếng. Về ngữ âm, một tiếng là
một âm tiết. Hệ thống âm vị tiếng Việt rất phong phú và có tính chất cân đối, tạo ra tiềm
năng to lớn của ngữ âm tiếng Việt trong việc thể hiện các đơn vị có nghĩa. Nhiều từ
tượng hình tượng thanh có giá trị gợi tả đặc sắc”. Tận dụng đặc điểm này các nhà văn,
các nhà thơ đã tạo nên không ít bức họa trong văn thơ. Khuôn mặt Chí Phèo khi hắn uống
rượu say, khuôn mặt Lão Hạc khi bán con chó vàng... là những bức hoạ sinh động bằng
ngôn ngữ sống mãi với thời gian.
2) Tính tạo hình trong hình tượng văn học:
Tính tạo hình trong hình tượng văn học là một phẩm chất không thể thiếu được của
hình tượng, không có tạo hình thì hình tượng không có cơ sở để tồn tại. Tạo hình bao
gồm việc tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, những sự kiện và những mối
quan hệ giàu cảm xúc. Nhờ tạo hình mà hình tượng hiện lên một cách cụ thể qua chất
liệu. “Trong hội hoạ tạo hình biểu hiện trực tiếp qua đường nét, màu sắc, trong điêu khắc


tạo hình biểu hiện qua đường nét hình khối, trong văn học, tính tạo hình được xác lập
gián tiếp qua ngôn từ”.[13,30]. Ngôn từ có tính hình tượng là ngôn từ giàu hình ảnh có

màu sắc, âm thanh, nhạc điệu có khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ, tác động sâu xa vào trí
tưởng tượng và cảm nghĩ của người đọc. Như vậy tính hình tượng, một đặc điểm của
ngôn ngữ văn học có khả năng phản ảnh, thể hiện các yếu tố của ngôn ngữ hội họa. Vận
dụng tính chất này, các nhà văn, nhà thơ đã tạo ra không ít những chân dung về nhân vật,
những bức tranh phong cảnh lấp lánh những sắc màu, đa dạng về đường nét. Trong bài
thơ “Thuật hứng XXIV” của Nguyễn Trãi hai câu luận “Kho thu phong/ nguyệt đầy qua
nóc, Thuyền chở yên hà/ nặng vạy then.” là hai câu thơ đầy sắc màu hội họa. Bức tranh
có gam màu vàng, thực và ảo được kết hợp hài hòa ấn tượng. Gió vận động êm nhẹ, trăng
ngập tràn, không gian êm ả, yên bình. Trong một không gian mênh mông ngập tràn
sương khói, con thuyền thơ nhỏ bé- hình ảnh trung tâm của bức tranh không bị mất hút
trong những sắc màu hư ảo là nhờ cách trọng lượng hóa vật thể “Thuyền chở yên hà nặng
vạy then” của một nhà thi họa. Bức tranh được phác hoạ bằng những nét bút hào hoa mỹ
lệ tao nhã nên thơ đậm đà phong vị dân tộc. Có thể nói, đây là một cảnh tiên giữa đời
thường.
Nhờ tính tạo hình của văn học, những bức tranh thơ như trên sẽ rất dễ dàng biến
thành những họa tác.
II )Tính chất ”Thi trung hữu hoạ” trong tác phẩm Truyện Kiều:
Chất hoạ trong tác phẩm Truyện Kiều the hiện trên nhiều khía cạnh:
1) Chất hoạ trong những bức chân dung nhân vật:
Chịu ảnh hưởng của thi pháp trung đại khi miêu tả những nhân vật, Nguyễn Du
thường sử dụng bút pháp mang tính truyền thống sắp xếp nhân vật làm hai tuyến- nhân
vật chính diện và nhân vật phản diện. Đối với nhân vật chính diện, ông tả tỉ mỉ bằng
những nét bút trang trọng giàu tính ước lệ. Còn đối nhân vật phản diện ông thường đi
theo lối tả thực và phác hoạ, chấm phá bằng vài ba nét nhưng vẫn gây được ấn tượng
mạnh mẽ. Mặc dù đi theo khuynh hướng chính thống, bút pháp phác hoạ, ngôn ngữ ít
nhiều có tính chất ước lệ công thức nhưng ở một số phương diện Nguyễn Du đã có những
phá rào (khuynh hướng tâm lý hoá ngoại hình, thân phận hoá phẩm cách) tạo nên những
nhân vật sống động.



1-1) Nhân vật chính diện:
Đối với những nhân vật chính diện, Nguyễn Du thường vẽ bằng màu sắc hài hoà
tươi tắn, đường nét lúc thì mềm mại uyển chuyển lúc thì phóng bút nhiều chiều kích, nét
vẽ đậm và kỹ hơn so với nhân vật phản diện. Những hình ảnh ước lệ được dùng khi miêu
tả nhân vật là những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp sáng trong, rực rỡ, bền vững như
phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn, thuỷ...Đây là bút pháp cực tả, tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá
nhan sắc cốt cách nhân vật.
1-1-1) Chân dung Thuý Kiều:
- Phần mở đầu tác phẩm:
Trong chân dung nghệ thuật, vấn đề hàng đầu là đường nét, màu sắc đậm nhạt, lu
mờ. Nắm vững nguyên lý vẽ chân dung nghệ thuật khi hoạ tác nhân vật Thuý Kiều, nhân
vật trung tâm của tác phẩm, Nguyễn Du đã chọn những gam màu mát, màu trắng trong
của nước, màu xanh của núi và liễu, màu sắc đậm và tươi của hoa “thắm”; đường nét
mảnh mai uyển chuyển sống động “làn, nét ” và phẳng lặng của mặt nước hồ thu. Không
chỉ có những màu đơn, màu phối, Nguyễn Du còn dùng lối so sánh về cường độ màu
“thua thắm, kém xanh ” để làm rõ vẻ đẹp hoàn thiện toàn mỹ, làm hiện lên số phận của
một con người theo đúng triết lý ”Hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa truân”. Chỉ hai nét vẽ,
bức chân dung của một giai nhân tuyệt thế đã hiện hữu, đó chính là cái tài của thi hào:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Vẽ nhân vật Thuý Vân Nguyễn Du thiên về tổng thể còn khi phác hoạ nhân vật
Thuý Kiều Nguyễn Du thiên về điểm nhãn. Thi hào đi vào đôi mắt theo quan niệm mỹ
học phương Đông “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Chọn màu trắng để diễn tả độ trong
xuyên thấu vào tâm hồn, chọn nét xuân sơn để diễn tả sự gợi cảm của một con người
nặng về đời sống tâm hồn rất đa tình đa cảm, đây là một sự tinh tế. Vũ Hạnh có lý khi lý
giải vì sao thi hào Nguyễn Du không tả đôi mắt của Thuý Vân mà lại miêu tả kỹ đôi mắt
của Kiều“Thuý Vân có mắt điều ấy thật hiển nhiên (…) Nhưng đôi mắt nàng chỉ là đôi
mắt nằm trên khuôn mặt để làm đầy đủ lệ bộ của một khung diện mà thôi (…) Đôi mắt ấy
phóng ra tia nhìn là để rập theo ý tình kẻ khác, miễn ý tình ấy thuộc về lẽ phải hiển nhiên,



thuộc về trật tự đã được cuộc đời chấp nhận(…) Có lẽ, Vân đã nhường mắt cho Kiều. Vì
chỉ mỗi một mình Kiều ở trong tác phẩm có đôi mắt sáng, mắt đẹp lạ lùng. Cặp mắt ấy có
nhãn lực tuyệt vời, nhìn được chiều sâu thăm thẳm, tưởng chừng vạch được màu xuân
tươi tốt mà soi thấu vào tận đáy mồ hoang để cảm thấu nỗi niềm cô độc xót xa của kiếp
người. Cặp mắt ấy nhìn được liên hệ giữa người và ta, giữa cái đã qua và cái sẽ đến.”.
Không chỉ đẹp, đôi mắt của Kiều còn là đôi mắt của sự tinh thông:
Mắt xanh chẳng để ai vào, có không ?
hoặc :
Khen cho con mắt tinh đời
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Mắt trong - đôi mắt đẹp ánh lên sự thông minh, mắt xanh-đôi mắt của sự đồng tình
trân trọng, giờ lại là con mắt tinh đời- đôi mắt phán đoán nhận xét sắc sảo chính xác
nhanh chóng về con người. Có thể nói, đối với Thuý Kiều, vẻ đẹp của hình thức luôn
luôn tiềm ẩn vẻ đẹp của tâm hồn và vẻ đẹp của tâm hồn “đã phản chiếu trên những dung
nhan nàng những đường nét, những màu sắc tươi đẹp mà đằm thắm”
-Trước mặt mụ mối, Kiều không còn là Kiều của ngày nào. Nàng đã biến sắc, thi
hào chọn sắc vàng của hoa lá, một màu sắc buồn tiêu biểu cho mùa thu, những nét mờ,
nét phớt lì trong sự phản chiếu và nét mảnh khảnh mỏng manh. Sắc màu ấy, đường nét ấy
tượng trưng cho cái thần sắc bạc nhược, sự thỉu não. Cái thần của bức tranh là ở sự tương
quan giữa sắc buồn và nét mờ, là sự đối lập giữa cái hôm qua và cái hôm nay, tất cả nhằm
làm nổi rõ sự ủ dột tái tê của một con người cam chịu chai lỳ vì mang nỗi đau căm lặng
không thể vùng vẫy :
Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai
Bốn nét vẽ là bốn hình thái hỗ trợ cho nhau, thống nhất nhau trong việc diễn tả sự
chấn động tâm lý đã làm tàn phai nhan sắc. Trong bốn nét vẽ đó, hai nét vẽ ”Nét buồn
như cúc, điệu gầy như mai “ là hai nét vẽ thần tình nhất, thể hiện được thái độ căm lặng
đến tuyệt đối, căm lặng nhưng Kiều vẫn không giấu được nỗi đau đớn, xót xa tủi nhục.



Giờ đây, Kiều chỉ còn là cái bóng của chính mình! Khác với bức vẽ trên, khi thực hiện
bức vẽ này, Nguyễn Du không dùng những sắc màu đậm, đường nét sắc cạnh. Chính bút
pháp vẽ kiểu như vậy đã tạo được cái thần của câu thơ, vừa thể hiện được dáng hình, vừa
thể hiện được nỗi đau ẩn đằng sau bộ dạng bên ngoài.
Kiều tắm :
Có lẽ đây là bức hoạ khó vẽ nhất trong những bức tranh vẽ chân dung nhân vật. Bởi
lẽ, nếu không khéo sẽ rơi vào sự dễ dãi, đường đột, lộ liễu kém tế nhị, đi chệch với những
quan niệm đạo đức của xã hội đương thời, đồng thời hạ thấp giá trị của cô Kiều, một cô
gái vốn khuôn thước theo kiểu “Êm đềm trướng rủ màn che,”. Là một nhà nho chính
thống uyên thâm, Nguyễn Du rất từ tốn chậm rãi cẩn thận khi hoạ một thân thể khoả thân.
Trước hết, nhà thi hoạ tạo ra một bức phông màn rất gợi cảm đầy hương hoa” rủ bức
tường hồng tẩm hoa” trước khi vén bức màn bí mật. Nhà thi hoạ đã tạo được cảm giác
náo nức chờ đợi cho người đọc, người xem bằng cách cho cuộn film quay thật chậm và
rồi thật bất ngờ “Một toà thiên nhiên” đã hiện hữu. Nét vẽ ”Toà thiên nhiên” thể hiện
được sự kín đáo bí hiểm gợi trường liên tưởng sâu xa. Chỉ bằng hai câu thơ, với những
sắc màu tinh nguyên ”Trong ngọc trắng ngà”, một đường nét giàu tính tượng trưng,
Nguyễn Du đã tạo ra một bức hoạ về thân thể người phụ nữ nửa thực, nửa hư. Đúng là
tuyệt hoạ !
Buồng the phải buổi thong dong,
Thang lan, rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà ,
Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên!
Không riêng Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương không ít lần vẽ những bức tranh nửa kín
nửa hở về người phụ nữ. Trong bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày”, bà chúa thơ Nôm đã viết:
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm ,
Một mạch Đào nguyên suối chửa thông.


Bức vẽ thiên về chi tiết, nặng về vùng cấm kỵ. Đây không phải là bức tranh khoả

thân hoàn toàn. Bức tranh về nàng Kiều mới chính là :“Bức tranh khoả thân duy nhất
trong văn học Việt Nam (…) Giải nhất trao cho Nguyễn Du”
- Kiều bị đánh trong vụ kiện của Thúc Ông:
Vẽ chân dung Kiều bị đánh, Nguyễn Du dùng những sắc màu đậm điểm vào bức
tranh nền để gây ấn tượng. Ông không dùng những nét vẽ chuẩn mà dùng những nét vẽ
đệm thêm, nhoè ra, dùng nhiều đường gãy ”tiêu biểu cho sự đổ vỡ không an toàn nguy
hiểm”. Nhờ thế, nó đã diễn tả được những dấu vết của những trận đòn khủng khiếp nơi
phủ đường. Một loạt những hình ảnh vốn tiêu biểu cho cái đẹp đã bị tàn phai được nhà thi
hoạ dùng liên tiếp hỗ trợ cho nhau tạo được ấn tượng mạnh về sự đổi sắc, biến dạng. Bức
tranh trở thành lời kết tội đanh thép về những kẻ không biết trân trọng cái đẹp, sẵn sàng
vùi dập cái đẹp một cách tàn nhẫn:

Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quyện má, liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thuỷ, mai gầy vóc sương.
Thân phận con ong cái kiến chỉ có con đường duy nhất là cam chịu, cam chịu đến
mức tàn tạ cuối cùng.
-Kiều chết đuối được vớt lên từ sông Tiền Đường :
Khi hoạ thân chết trôi, Nguyễn Du đã lượt bỏ những chi tiết phụ không cần thiết,
chọn lọc những chi tiết đặc tả, xen vào đó lời bình luận trữ tình :
Trên mui lướt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước, chưa loà bóng gương.


Một đường nét “lướt mướt “cũng đủ vẽ bộ xiêm y ướt dầm rủ xuống thấm vào da
thịt gợi ra những nét hư thực của thân thể đang bất động, buông xuôi. Giữa lúc ranh giới
sống và chết thật mong manh ta mới càng thấy rõ giá trị của cái đẹp đích thực, vẻ đẹp
tinh nguyên sáng trong của một giai nhân tuyệt thế ngày nào vẫn còn in dấu. Sống cũng

đẹp và chết cũng đẹp. Không có tấm lòng trân trọng thương cảm, luôn luôn có ý thức tôn
vinh cái đẹp thì không thể có cái nhìn đầy nhân văn như thế! Theo Xuân Diệu đây là hai
câu thơ đầy dư ba “Thân Kiều nửa hư nửa thực, hồn Kiều nửa sống nửa chết, văn Nguyễn
Du tả đẹp lạ thường !”. Có thể xem bức vẽ trên là bức vẽ tĩnh và cái đẹp mang tính chất
tiềm ẩn.
- Kiều đối diện với Kim trọng trong phần đoàn viên:
Vẻ đẹp của Kiều chỉ được vẽ bằng một nét bút với một sắc màu. Không phải là sắc
trong của nước, sắc thắm của hoa, sắc xanh của núi, mà là sắc vàng của sen vào lúc cuối
hạ. “Sen vàng” là một điển tích nói về người phụ nữ đẹp. Trong tư duy người Việt “hoa
sen” vừa gợi lên được sự chịu đựng vừa khẳng định được giá trị cao khiết. Dù cuộc đời
trầm luân đã nhai nghiến vẻ đẹp bên ngoài nhưng vượt lên tất cả là tấm lòng kiên trinh
cao đẹp của nàng Kiều. Nàng như một đoá hoa sen “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn”:
Buồng trong, vội dạo sen vàng bước ra.
Miêu tả nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du thường đặt những hình ảnh trong sự đối
sánh. Nếu trước kia là hoa là liễu, là thu thuỷ, là mai cốt cách thì nay là cúc buồn, mai
gầy, đào hoan, liễu tan tác, gương lờ nước thuỷ. Những bức tranh trong sự đối sánh tạo
nên một sự tiếp nối về một nhân vật với nhiều cảnh đời .
1-1-2) Chân dung Thuý Vân:
Khác với nhân vật Thuý Kiều, nhân vật Thuý Vân là loại nhân vật đề thêm để tôn
thêm vẻ đẹp và gỡ rối cho Thuý Kiều. Vì thế, nhân vật này dù có nhắc đến nhiều lần
nhưng chỉ mang chất hoạ có một lần ở phần đầu tác phẩm. Nhưng để tạo ra vẻ đẹp theo
kiểu “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” không phải là chuyện dễ. Cũng với
những“Môtif” hình tượng quen thuộc, khuôn mẫu ”Hoa cười, ngọc thốt, khuôn trăng, nét
ngài...”, Nguyễn Du “còn đưa vào những từ ngữ nôm na nhưng nội hàm đa nghĩa, những


từ ngữ đầy đặn, nở nang không chỉ miêu tả khuôn mặt phương phi tròn trịa, nét ngài minh
bạch rõ ràng của Thuý Vân mà đây còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận” [10,23]. Bên
cạnh đó, Nguyễn Du còn vận dụng hai khía cạnh quan trọng “Nhất dáng nhì da” trong

những quan niệm quen thuộc của người phương Đông để tạo ra vẻ đẹp khác biệt :
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da,
Vẽ Thuý Vân Nguyễn Du đi theo trình tự từ tổng thể đến chi tiết, từ dáng người
đến khuôn mặt, nét ngài, nụ cười, tiếng nói, mái tóc, màu da. Nhờ sự hài hoà về sắc màu,
mềm mại về đường nét, vượt chuẩn về âm thanh, cân đối về hình khối, hoàn chỉnh cả
điểm lẫn diện mà bức chân dung Thuý Vân trở nên viên mãn, sống đông, phúc hậu, mệnh
phụ. Dù vậy, vẻ đẹp của Thuý Vân thiếu đi cái thần “đôi mắt”, nó thiên về vẻ đẹp khuôn
thước mẫu mực hơn là vẻ đẹp gợi cảm, sắc sảo và quyến rũ. Điều đó đã làm nên sự khác
biệt giữa hai chị em, hai số phận, hai tính cách: người thì hồng nhan bạc mệnh kẻ thì
hạnh phúc ấm êm.
1-1-3) Chân dung Kim Trọng :
Để tránh đi sự đơn điệu, Nguyễn Du phác hoạ nhân vật Kim Trọng được trong
khung cảnh buổi chiều thiên nhiên đầy diễm lệ, thanh tao. Khung cảnh thiên nhiên đã trở
thành cái phông màn tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, và ngược lại nhân vật làm cho bức
tranh thêm sống động có hồn. Cái tài của Nguyễn Du là tạo ra một bố cục có chính có
phụ: người -ngựa, thầy- tớ, con người-thiên nhiên, dưới một góc nhìn xa gần. Camera của
thi hào đặc biệt chú ý đến cử chỉ từ tốn chậm rãi của một văn nhân thực thụ” lỏng buông,
xuống ngựa, tới nơi, vào trong, ra ngoài”. Kỹ thuật pha màu của nhà thi hoạ đã đạt đến độ
điêu luyện cao tay khi tạo ra sắc màu độc đáo của chiếc áo. Màu của chiếc áo là sự hoà
trộn giữa sắc biếc của da trời và sắc xanh của cỏ. Màu sắc ấy có được còn là sự kết hợp
giữa tấm lòng trân trọng của Nguyễn Du và trái tim rung cảm của nàng Kiều. Đây là bức
tranh mang tính chất động, có gam màu mát trong đó màu xanh- xanh cỏ, xanh trời, xanh
áo, xanh cây là sắc màu chủ đạo. Bên cạnh đó đường nét thể hiện sự vận động cũng được


Nguyễn Du sử dụng thật tài tình. Những bước chân di chuyển nhẹ nhàng của chàng Kim
đã làm cho thiên nhiên thức dậy, bừng sáng, vận động khẽ khàng. Kim Trọng xuất hiện,

dung mạo của chàng, cử chỉ, phong độ của chàng làm “xinh đẹp của một vùng” (chữ
dùng của Xuân Diệu) .
Khi hoạ những bức tranh nhân vật, Nguyễn Du ít khi để cho nhân vật bị trống trải
đơn chiếc. Nhân vật này xuất hiện trong sự đối sóng với nhân vật khác-Thuý Vân -Thuý
Kiều, Thúy Kiều – Từ Hải, Kim Trọng –Thuý Kiều, Thuý Vân, Vương Quan. Bức tranh
sẽ trữ tình hơn khi có sự góp mặt của “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.”. Và Vương Quan
xuất hiện đã trở thành chiếc cầu nối tình cảm của đôi trai tài gái sắc. Tiếng sét ái tình đến
với họ thật tự nhiên, bất ngờ và thú vị. Thiên tài Nguyễn Du chẳng khác nào một “ông
tơ” dẫn dắt khéo léo cuộc gặp gỡ của hai tâm hồn đồng điệu:
Tuyết in sắc ngựa câu dòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao
Nhìn toàn cục của bức tranh từ sắc màu đến đường nét, từ cử chỉ đến hình ảnh, từ
thiên nhiên đến con người cái gì cũng nhẹ nhàng, hữu tình đáng yêu. Nói như Đặng
Thanh Lê”Bóng tối âm khí nặng nề khi gặp Đạm Tiên trong đoạn thơ trước đã biến đi
nhường chỗ cho ánh sáng của cuộc sống, của vẻ đẹp con người, của tình yêu đang hé
mở”.
Xây dựng bức chân dung về chàng Kim, Nguyễn Du đã có những phá cách đáng
kể. Ngoài những phương diện cần thiết khi nói đến nhân vật thư sinh phong kiến như con
tuấn mã, chú tiểu đồng, trang phục, gia thế, tài năng, học thức, Nguyễn Du còn xem trọng
sự hài hoà giữa con người với vũ trụ, giữa con người bên trong và cử chỉ biểu hiện ra bên
ngoài và nhất là những xao động của tâm hồn, những biểu hiện tình cảm kín đáo, những
cảm giác lúc tỉnh, lúc mê, sự bịn rịn lưỡng lự giữa ở và về- về thì tiếc ở thì cũng chẳng


xong. Có thể nói, ít ai tả được tác động dữ dội của tiếng sét ái tình ở những tâm hồn còn
trắng trong như tờ giấy đang bắt đầu bước vào ngưỡng cửa tình yêu đúng và hay như thi

hào :
Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn ghé theo.
Ngay cả cái cử chỉ “Khách đà lên ngựa người còn ghé theo” đầy quyến luyến, bịn
rịn, nuối tiếc nhưng họ đành bất lực trước sự vận hành của vũ trụ cũng đáng yêu làm sao!
Mở đầu một chuyện tình là khung cảnh thiên nhiên tươi sáng rộng mở và kết thúc
cuộc gặp gỡ là một bức tranh thiên nhiên nhỏ nhắn, xinh xắn đáng yêu :
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Thiên nhiên đượm tình càng tôn thêm vẻ đẹp tình cảm của chàng Kim cô Kiều.
Phải chăng tình cảm sáng trong của Kim-Kiều như dòng nước trong veo đang chảy dưới
cầu. Và tình cảm ấy gắn bó khăng khít khó thể tách rời như cầu gắn với nước, tơ liễu gắn
với bóng chiều. Nhưng dường như có một dự báo sự cách trở vì ‘’Nước đi đi mãi không
về cùng non’’. Có thể xem đây là một cuộc tạm chia tay cực đẹp để rồi sau đó Kiều-Kim
phải thao thức mộng tưởng. Hành trình của chuyện tình cùng với nỗi khổ của cô Kiều
cũng bắt đầu từ đây.
Khác với Nguyễn Du, khi tả Kim Trọng Thanh Tâm Tài Nhân lại đi sâu vào sự
chấn động của tâm hồn : ‘’Kim Trọng ngây ngất cả người, xiêu xiêu cả tinh thần, bụng
bảo dạ : thế này thì mình đến tương tư chết mất, rồi chàng lẩm nhẩm tự thề không lấy
được Kiều thì suốt đời không lấy ai nữa.


Vì có Vương quan đấy, không tiện nán ở lại lâu, Kim Trọng đành phải qua loa cáo
từ lui gót.
Vương viên ngoại cũng sai người đến đón hai nàng lên kiệu’’
- Cũng là bức vẽ về Kim Trọng nhưng đây lại là bức vẽ mang tính chất cách điệu:

Hiên sau treo sẵn cầm trăng
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Nét hoạ “Tay nâng ngang mày ” thể hiện thái độ trân trọng thán phục trước tài đàn,
một trong bốn tài năng – cầm kỳ thi hoạ đã trở thành nức tiếng của người con gái họ
Vương. Không chỉ là sự thán phục, bức vẽ còn muốn bổ sung thêm một thông tin cần
thiết về chàng Kim. Chàng văn nhân hào hoa phong nhã không chỉ là một con người chỉ
biết yêu cái đẹp của văn chương mà còn là một con người rất am hiểu và sành điệu nghệ
thuật âm nhạc. Người đọc sẽ chẳng ngạc nhiên khi Kim Trọng có rung cảm mạnh mẽ,
đưa ra những nhận định xác đáng khi nghe tiếng đàn của cô Kiều.
1-1-4) Chân dung Từ Hải:
Nếu Kim Trọng hiện ra trong sắc chiều êm ả thì Từ Hải được vẽ ra trong đêm thanh
tĩnh gió hây hây thổi, không khí huyền ảo tràn ngập ánh trăng. Bức chân dung đã có thêm
nét tối sáng, nét rõ mờ rất phù hợp với chất huyền thoại của nhân vật. Bút lực của
Nguyễn Du không dồn vào màu sắc mà dồn vào đường nét. Nét bút có đường nét to và
rất mạnh mẽ ”râu hùm, hàm én, mày ngài”, phóng bút nhiều chiều, chiều ngang –vai năm
tấc rộng, chiều dọc –thân mười thước cao; chiều cao-đội trời và chiều thấp - đạp đất. Thật
đúng khi cho rằng “tác giả muốn làm cho không gian chung quanh Từ Hải rộng thêm ra,
từ mặt người, từ bóng dáng, từ tài năng phát tia ra, nên đã đặt nhiều dấu huyền, bởi thanh
có dấu huyền không đứt gọn như thanh không dấu, mà nhoà rộng ra… ” [92, 267]. Cũng
là “ngài” nhưng đối với Thuý Kiều, Nguyễn Du vẽ “nét ngài” còn Từ Hải là ”mày ngài”,
một bên chỉ là đường nét, còn một bên lại là hình thể của sự vật ; một bên là sự mềm mại
còn một bên là sự mạnh mẽ kiên quyết. Điểm vào chân dung nhân vật là những phụ bút
như gươm đàn làm tăng thêm chất hào hùng, tài năng phi thường của Từ Hải. Ngoài
những hình ảnh tượng trưng ước lệ thường gặp trong những bức tranh miêu tả nhân vật
anh hùng ’’râu hùm, hàm én, mày ngài...’’, Nguyễn Du còn tạo ra một không gian đầy


chất huyền thoại, tiết điệu ngắt bất ngờ ‘’bỗng đâu’’để tạo ra nét riêng biệt của người anh
hùng -bất ngờ trong sự xuất hiện và cũng rất bất ngờ trong sự quyết định chọn người tình
lý tưởng. Một con người dám ‘’chọc trời khuấy nước’’ sẽ có một chuyện tình dị thường

hiếm có là lẽ đương nhiên, là sự lôgic của một tính cách.

Ngoài ra, khi hoạ chân dung nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du rất lưu ý đến cấu trúc
cân đối-cân đối về hình ảnh-râu, hàm, mày- vai, thân, cân đối về nhịp điệu- câu lục nhịp
thơ 2-2-2 câu bát lại nhịp thơ 4-4, và cân đối cả về mặt ngôn ngữ- những từ Hán Việt
‘’anh hào, côn quyền, lược thao‘’ tạo nên sự trang trọng và những từ thuần Nôm tạo nên
sự gần gũi, đời thường.
- Chân dung Từ Hải lúc ngồi ghế quan toà:
Vẻ đẹp kiêu hùng và tài năng tuyệt đỉnh của họ Từ càng được tô đậm hơn qua bức
tranh ngồi ghế quan toà:
Quân trung, gươm lớn, giáo dài,
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân.
Trướng hùm mở giữa trung quân ,
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi
Đây có thể xem là bức họa về cảnh đoàn quân chiến thắng trở về và đang chuẩn bị
xử án.Vì thế, Nguyễn Du dùng nhiều nét nhọn, nét thẳng đứng, nét ngang gợi lên cảnh
tượng giáo gươm tua tủa, đoàn quân nghiêm trang, hào khí ngất trời, uy thế dữ dội. Bức
tranh được thiết kế theo kiểu cái phụ làm rõ cái chính, cảnh tượng chung quanh làm rõ
nhân vật trung tâm -Từ Hải –Thuý Kiều. Từ một vị thế của kẻ tôi đòi trước kia, Kiều đã
hoá thân thành vị “phu nhân mệnh phụ”, kẻ xử án. Một sự hoá thân như có phép màu,
phép màu đó không do một lực lượng siêu nhiên nào mà do chính đấng anh hùng luôn
lấy công lý làm đầu, nghĩa tình làm trọng tạo dựng.


Mặc dù trong cuộc báo ân báo oán, Nguyễn Du vẽ nhân vật Từ Hải nhạt hơn nhân
vật Thuý Kiều nhưng không vì thế người anh hùng trở thành nhân vật thứ yếu trong bức
tranh xử án. Nguyễn Du rất tinh tế khi để cho Từ Hải tuyên bố“Mặc nàng xử quyết, báo
đền cho minh.”. Rõ ràng Từ Hải không phải là người chỉ biết đến cái chung mà rất trân

trọng việc riêng của Kiều. Vì chỉ có Kiều mới xử đúng người đúng tội. Có chăng cái uy
của Từ Hải đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra cái uy của chủ toạ phiên toà? Từ Hải
có thể xem là người thiết kế còn Kiều chính là người thi công.
-Chân dung Từ Hải chết đứng :
Kiêu hùng bao nhiêu Từ Hải lại chết một cách oan nghiệt bấy nhiêu. Bức hoạ về
hình tượng người anh hùng chết đứng lại mang chất hoạ khác. Đây là bức hoạ tĩnh giàu
chất điêu khắc có đường nét cứng. Thi hào như muốn tạc tượng một huyền thoại anh
hùng khao khát tự do trong cái xã hội mà cái đẹp và tài năng không có đất tồn tại :
Khí thiêng khi đã về thần,
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
Trơ như đá, vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời.
Từ Hải thua trong thế thắng, chết nhưng còn sống mãi với đời. Hình tượng chết
đứng đầy oan thiêng của Từ như một lời tố cáo đanh thép cái xã hội: Lẽ phải và chiến
thắng thuộc về kẻ có quyền và sự gian trá. Vài trăm năm sau chúng ta lại bắt gặp hình
tượng người anh hùng chết đứng trong thơ Lê Anh Xuân:
Anh ngả xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất,
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng.
Anh đang chết trong khi đang đứng bắn,
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vòng.
1-1-5) Chân dung người khách viễn phương:


Nhân vật người khách viễn phương không rõ tên tuổi quê quán, nghề nghiệp, xuất
hiện gián tiếp thoáng qua thông qua lời kể của Vương Quan nhưng vẫn gây ấn tượng.
Nhân vật này tạo thành bộ ba nhân vật nam chính diện-Từ Hải, Kim Trọng, người khách
viễn phương. Mỗi người mỗi tính cách. Từ Hải hào hùng dũng mãnh ngang tàng, rộng
lượng, Kim Trọng hào hoa phong nhã, thuỷ chung còn người khách viễn phương rất cao
thượng. Khi họa bức chân dung người khách viễn phương, Nguyễn Du không đi sâu vào
diện mạo mà chú trọng đến cử chỉ, hành động để làm tóat lên nét đẹp tâm hồn. Chỉ một

vài biểu hiện thể hiện sự khẩn trương chu đáo ”xa nghe, tìm đến”, “Sắm sanh nếp tử, xe
châu, thể hiện sự đau đớn xót xa ”khóc than“ và đặc biệt hành động vội vội vàng vàng
“vùi nông” khi chôn cất thi hài Đạm Tiên, nhân vật này đã để lại những dư vị ngọt ngào
trong lòng người đọc. Là một kẻ đến sau nhưng lại là người biết ra tay hành động, đó
chính là phẩm chất của một con người biết trân trọng cái đẹp, sự tài hoa. Người khách
viễn phương cảm kích và mến phục sứ giả Đạm Tiên cũng đúng thôi. Bởi lẽ, Đạm Tiên,
một nhân vật được không ít người ngưỡng vọng. Trong khi dẫn giải, Vương Quan đã hết
lời ngợi ca “Nổi danh tài sắc một thì,. Và hồn ma Đạm Tiên cũng được Nguyễn Du vẽ
bằng những nét vẽ rất thanh tao” Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.”. Ở nhân vật
người khách viễn phương có nét gần gũi với nhân vật Từ Hải. Cả hai đều xuất phát từ cái
tâm sáng, sẵn sàng dẹp bỏ những định kiến hẹp hòi để cảm thấu số phận bi kịch của
những người làm gái lầu xanh, làm nghề xướng ca vô loài.
1-2) Nhân vật phản diện:
Đối với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du không miêu tả tỉ mỉ trang trọng.
Chỉ cần vài ba nét phác hoạ ông để lại những ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Lộc đã nhận xét:
“Nguyễn Du cố gắng làm cho nó gần gũi với đời sống, với hiện thực(…) Đặc biệt bút
pháp của nhà thơ khi xây dựng nhân vật này thường nổi rõ tính chất hiện thực xã hội chủ
nghĩa” [49,400]. Dưới góc nhìn của hội hoạ, ta thấy những nhân vật lọai này thường được
Nguyễn Du dùng những sắc màu nhợt nhạt, đường nét mang tính chất chấm phá, khai
thác tính chất mất cân đối trái tự nhiên để làm rõ tính cách nhân vật.
1-2-1) Chân dung Tú Bà:
Nhân vật Tú Bà hiện ra chỉ bốn nét bút với một sắc màu hai đường nét :
Thoát trông nhờn nhợt, màu da,


Ăn gì cao lớn, đẫy đà làm sao?
Trước xe, lơi lả han chào
Hoặc :
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.
Không phải là đường nét mềm mại uyển chuyển, sắc trắng đẹp đẽ tinh nguyên như

Thuý Vân, Thuý Kiều mà đây là màu trắng hơi vàng, nhợt nhạt do ở nơi tăm tối, đường
nét chệch choạc mất tính cân đối, vượt khuôn khổ cho phép “to lớn đẩy đà”, trái ngược
với quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng, dáng ngồi rất chủ chứa “vắt nóc”, ngôn ngữ đưa
đẩy. Chỉ cần bốn nét vẽ, đặc biệt là nét vẽ ”nhờn nhợt”, vừa gợi lên được màu da tạo
được cảm giác ghê tởm, vừa thể hiện được quá khứ giang hồ, thi hào Nguyễn Du đã nói
đúng một trong những nét rất đặc trưng của những bà chủ chứa kiểu mẫu chính hiệu”đẫy
đà xác thịt”(chữ dùng của Hà Như Chi). Nhưng nếu bức hoạ này đựơc một hoạ sĩ tài ba
vẽ lại thì sao? Nguyễn Văn Hạnh đã kết luận:”Hoạ sĩ chỉ có thể vẽ một mụ Tú Bà cao lớn
to béo, màu da nhờn nhợt, với kích thước, sắc độ như mình muốn, nhưng chỉ được trên
từng bức tranh cụ thể một kích thước, sắc độ nhất định mà thôi. Và người xem chỉ tiếp
xúc một hình thể Tú Bà hoàn toàn xác định. Còn trong trí tưởng tượng của người đọc thì
hình tượng Tú Bà do Nguyễn Du tạo nên không hoàn toàn xác định. Và ở các người đọc
khác nhau, các lần đọc khác nhau, lại có những mụ Tú Bà kinh tởm khác nhau, những
mức độ nhờn nhợt cao lớn, đẩy đà khác nhau” [57,12]. Điều mà Nguyễn Văn Hạnh khẳng
định đó chính là sự đồng sáng tạo trong quá trình tiếp nhận văn học. Và điều này có lẽ
không chỉ đúng với nhân vật Tú Bà mà còn đúng với quá trình tiếp nhận những nhân vật
khác.
1-2-2) Chân dung Mã Giám Sinh:
Đây là một con buôn đội lốt nho sinh trường Quốc tử Giám. Bản chất lỗ mảng bịp
bợm lái buôn được Nguyễn Du phác hoạ bằng ba nét vẽ thần tình theo quan niệm “xem
mặt mà bắt hình dong” - mày râu tỉa tót cẩn thận, áo quần thẳng thớm và vị trí ngồi ở chỗ
cao để xem hàng cho rõ “ngồi tót”.


So với Sở Khanh, nhân vật Mã Giám Sinh đóng kịch tài hơn nhiều. Hắn đã dàn
dựng lễ vấn danh y như thật với những nghi lễ theo phong tục truyền thống “Sính nghi,
canh thiếp, nạp thái vu quy”. “Vải thưa không thể che mắt thánh”, dưới ngòi bút thần tình
của thi hào, hắn không thể giấu hết tất cả những kẽ hở vốn có của những kẻ gian xảo.
Nguyễn Du cho hắn hiện ra từ từ ”Ngồi tót, đắn đo, cân sắc, cân tài, ép, thử, cò kè, ngã
gía, định ngày” rồi điểm huyệt đúng ngay vào những chỗ hắn che đậy không kín kẽ- xa

hắn nói gần, mua người về lầu xanh hắn nói “mua ngọc đến Lam Kiều”, đứng tuổi nhưng
lại làm ra vẻ trai tơ bảnh chọe, cò kè mặc cả, ép, thử mà lại bảo đi kiếm vợ lẽ ? Bản chất
lái buôn càng thể hiện rõ hơn khi hắn phát ngôn. Lúc sự việc chưa ngã ngũ hắn phát ngôn
rất nhũn nhặn” Rằng:”mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho
tường?””, nhưng đến lúc nắm thế thượng phong hắn phát ngôn thật lạnh lùng” Tiền lưng
đã sẵn việc gì chẳng xong”. Và đây chính là lúc con buôn họ Mã đã lộ nguyên hình. Như
thế vẫn chưa đủ, Nguyễn Du còn phác hoạ thêm những bức phụ hoạ về một lũ nhỏ loi
choi lóc chóc. Thầy trò họ Mã, đúng là một đám người lăng xăng lít xít, lộn xộn, láo
nháo, vô học, thiếu văn hoá:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy, sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Nói chung, khi xây dựng nhân vật Mã Giám Sinh, bút lực của Nguyễn Du dồn vào
việc vạch trần mâu thuẫn giữa chức danh của tên họ Mã và bản chất lái buôn bịp bợm thị
của khinh người, sự trái khuấy giữa tuổi tác và dáng vẻ, giữa lời nói và việc làm. Cùng
với một số nhân vật phản diện khác, nhân vật Mã Giám Sinh đã góp phần tạo thành một
chuỗi nhân vật có tính cách tương cận: Tú Bà –chủ chứa, tàn bạo, Mã Giám Sinh - lão
luyện chuyên săn lùng nguồn hàng, Sở Khanh- tên ma cô điểu cáng chuyên dắt gái và bảo
kê. Chúng là những nhân vật tiêu biểu cho những ổ chứa và tất cả “đều bộc lộ mối quan
hệ mờ ám, mơ hồ bất minh ”(Chữ dùng của Đặng Thanh Lê)
1-2-3) Chân dung Sở Khanh:


Đây lại là một tên ma-cô sống bám lầu xanh, sống trên thân xác của người phụ nữ
như một loại chùm gửi. Bức hoạ về tên lưu manh này khác với bức hoạ về tên họ Mã.
Đối với Mã Giám Sinh “xem mặt” có thể “bắt hình dong” nhưng đối với họ Sở lại khác,
bởi lẽ những đường nét về dáng người phục trang của hắn khá thanh tao:
Một chàng vừa trạc thanh xuân

Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào !
Nhân vật Sở Khanh có dáng vẻ của ”một nhà nho nhưng ngay trong hình dáng đã
có cái gì tỏ ra rằng Sở Khanh không phải là một nhà nho chân chính”
Sở Khanh là một kiểu người “Vừa ăn cướp vừa la làng”, vừa táo tợn vừa tỏ vẻ nhẹ
nhàng khiếm nhã. Chẳng mất gì mà hắn vừa kiếm được chì vừa kiếm được chài. Khi
Kiều vạch rõ chân tướng cũng là lúc sự trơ trẻn của hắn được phơi bày ”Nhơ tuồng, nghỉ
mới kiếm đường tháo lui.”. Dưới ngòi bút Nguyễn Du, Sở Khanh đã trở thành“lưu danh
thiên cổ”(Chữ dùng của Hoài Thanh). Sự táo tợn của hắn còn hơn cả chàng Đông-juan
của văn học phương Tây.
Có một nét rất chung về hai bức hoạ Mã Giám Sinh và Sở Khanh. Vẽ hai nhân vật
này Nguyễn Du chỉ dùng đường nét chứ không dùng tới màu sắc. Màu sắc được gợi lên
qua trí tưởng tượng của từng người tiếp nhận.Và cả hai bức hoạ đều có hai nét vẽ xuất
thần :“rẽ dây cương” và “ngồi tót sỗ sàng”. Hai nét vẽ truyền thần cũng là hai tính cách
của hai nhân vật: lỗ mảng của Mã Giám Sinh và tráo trở của Sở Khanh.
1-2-4) Chân dung mẹ Hoạn Thư:
So với các nhân vật khác, nét vẽ về mẹ Hoạn Thư có thêm nét mới. Nhân vật Họan
Bà được bố trí như một tượng thần trong khung cảnh màn che trướng phủ đèn thắp sáng.
Khác với lối ngồi “Vắt nóc” của bà chủ chứa, mẹ Họan Thư có cung cách ngồi trực diện
rất bệ vệ. Trong bức tranh:
Ban ngày, sáp thắp hai bên
Giữa gường thất bảo, ngồi trên một bà.


Nguyễn Du đã thể hiện được cái tài phối cảnh, phối màu để làm rõ tính chất của
nhân vật, khung cảnh sống đế vương của những gia đình quyền lực trong xã hội ngày
xưa. Anh sáng của đèn “sáp thắp” hai bên gợi lên sự thâm nghiêm uy quyền và làm hiện
rõ sự giàu có “giường thất bảo”. Và kẻ có nhiều quyền lực đang thụ hưởng cuộc sống
vương giả ấy không ai khác là mẹ họan Thư . Bà chính là nhân vật kiểu mẫu cho những
quan bà trong cái xã hội “Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon”. Chúng vô ngôn nhưng độc

địa nham hiểm, sẵn sàng bày mưu chỉ kế đốt nhà, bắt người hành hạ cho thoả thích.
Ngoài tính chất hiện thực bức vẽ về nhân vật mẹ Hoạn Thư còn mang tính chất “trào
phúng”
1-2-5) Chân dung Hoạn Thư:
Đới với nhân vật Hoạn Thư, Nguyễn Du không hoạ tác một bức chân dung đầy đủ
và cụ thể về dáng vẻ bên ngoài như một số nhân vật khác. Điều này cũng hợp lý vì Hoạn
Thư là loại nhân vật mang tính chất duy lý, khôn ngoan sắc sảo. Tất cả mọi hành động lời
nói, kế sách đốt nhà bắt cóc, bịt miệng bọn tôi tớ đến việc chờ đợi thời cơ, cách thức hành
hạ Thuý Kiều, đưa Thúc Sinh vào tròng, biện minh trước chủ toạ phiên toà, Hoạn Thư
đều tính toán một cách chu đáo, kỹ càng và đạt hiệu quả.
Do chân dung Hoạn Thư không mang tính tập trung ở một một đoạn thơ cụ thể cho
nên người đọc muốn xem rõ chân dung nhân vật này phải tập hợp một số chi tiết qua một
chuỗi dài sự kiện”thơn thớt nói cười, cười nụ, nhón chân đứng nép, rẽ hoa bước vào, lại
thét lấy nàng, nổi giận đùng đùng”. Tất cả đã làm hiện lên một khuôn mặt trẻ tươi nhưng
không kém phần sắc sảo, bản lĩnh và sẵn sàng biến thái khi cần thiết dáng người thon thả,
cử chỉ từ tốn, trí tuệ khôn ngoan. Hoạn Thư có sự kết hợp khéo léo giữa con người tình
cảm (ghen tuông) và con người lý trí (kiềm chế tính ghen), giữa sự tuân phục và sự phản
ứng chế độ đa thê. Hoạn Thư chính là bản sao có sáng tạo của nhân vật bà Hoạn Quan.
Có chăng, Nguyễn Du muốn san bớt sự tàn bạo ở nhân vật Họan Thư sang Họan Bà?
1-2-6) Nhân vật Hồ Tôn Hiến:
Trong các nhân vật xuất hiện, đây là nhân vật có quyền uy cao nhất, nhân vật được
đặt trong thế đối đầu với Từ Hải. Đối với nhân vật này nét vẽ của Nguyễn Du có gì lạ?
Nghe càng đắm, ngắm càng say,


Lạ thay mặt sắt, cũng ngây vì tình.
So với những bức vẽ chân dung nhân vật có lẽ đây là một trong những bức vẽ thành
công và đặc sắc. Đường nét và sắc màu mang nội hàm ý nghĩa rất lớn. Nguyễn Du rất
tinh tế khi thực hiện những nét vẽ về sự thay đổi của từng ánh mắt, độ co giãn của từng
sắc mặt: nghe-đắm, ngắm-say-ngây để làm rõ bản chất háo sắc của một tên quan lắm

quyền. Là một kẻ ”kinh luân gồm tài” từng xông pha trận mạc vậy mà trước mặt Thúy
Kiều hắn đã bị mất phương hướng-tình cảm bị cuốn hút, lý trí hết hiệu lực và cuối cùng
đờ đẫn ngây dại. Nói như Hoài Thanh”Nguyễn Du đã giết Hồ Tôn Hiến bằng một chữ
“ngây” cũng như giết Sở Khanh bằng chữ “lẻn”. Trong bao nhiêu người mê Kiều,
Nguyễn Du đã dành riêng chữ “ngây” cho Hồ Tôn Hiến”.
Đặc biệt, trong bức chân dung về Hồ Tôn Hiến chúng ta còn tìm thấy những bức
tranh nhỏ đặt cạnh nhau, tiếp nối nhau và thậm chí trái ngược nhau” mặt sắt- ngây”. Cách
sắp xếp đó đã góp phần không nhỏ trong việc tô đậm tính cách nhân vật, tạo ra sự khác
biệt trong việc thực hiện các bức chân dung nhân vật.
Chọn vẽ Hồ Tôn Hiến vào thời điểm Từ Hải chết trận, Kiều phải dâng rượu hầu
đàn, Nguyễn Du như muốn khẳng định sự đối nghịch về đạo đức: đê hèn, xảo quyệt, vụ
lợi điểu cáng hòan tòan tương phản với cái đẹp của sự hy sinh, lòng trung thực, sự thuỷ
chung. Kiều khuyên Từ ra hàng là xuất phát từ cái đức. Hồ Tôn Hiến lật lộng đánh lén để
chiến thắng và bắt vợ của người chiến bại hầu rượu mua vui là phi đạo đức. Rõ ràng chất
người của Kiều càng cao thì chất người của Hồ Tôn Hiến càng không có.
Cũng là bức vẽ về nhân vật Hồ Tôn Hiến nhưng bức vẽ:
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung
thì “người ta thấy hoạ sĩ vẽ bức tranh này là một nhà hoạt hoạ trào phúng đến ghê
gớm! Tiện nghi, bát liễu, việc ngoài, đổng nhung, thanh la, não bạt đập gõ loèng xoèng,
nhưng mi là một tên gian dối"
Hình ảnh tên quan tổng đốc trọng thần gợi ta nhớ đến ông quan phủ xử kiện Thuý
Kiều:


Trông lên mặt sắt đen sì
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng lời:
Cũng là “mặt sắt” nhưng ông quan xử kiện không có sự biến thái nhanh chóng. Bổ
sung thêm định ngữ ”đen sì”, Nguyễn Du muốn nói đến một ông quan “chính trực và oai
nghiêm”. Nhưng ở ông có sự xen lẫn giữa cái nghiêm minh lạ đời – đánh người tàn nhẫn

và sự cảm thông trước hoàn cảnh, thán phục trước tài năng không được thi thố của Kiều.
Còn một tên quan nữa, đó là tên quan “cướp ngày”. Hắn chẳng cần tra khảo mà
chỉ:
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người!
“Thần công lý chỉ dịu cơn thịnh nộ khi nghe thấy có mùi tanh của hơi đồng “Có ba
trăm lạng việc này mới xong ”
1-2-7) Chân dung bọn sai nha:
Đây là bọn người tôi tớ tay sai, vũ khí ”pháp luật” của kẻ có quyền. Để cho chúng
xuất hiện, Nguyễn Du như muốn làm rõ thêm sức mạnh vạn năng của đồng tiền, bản chất
của xã hội “Có ba trăm lạng việc này mới xong” hay “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng
xong”. Đối với bọn sai nha, Nguyễn Du hoạ tác bằng những nét vẽ dị hợm nửa người nửa
ngựa, hành động theo bản năng- chửi, trói, vét với những đồ nghề chuyên gây án ”thước,
đao, già giang ”. Sự xuất hiện của bọn người “Đầu trâu mặt ngựa ”đã làm cho cái không
khí vốn yên bình đầm ấm ngăn nắp của gia đình Vương Viên Ngoại bỗng trở nên lộn xộn
nhốn nháo rối tung. Tương phản với sự bàng hoàng sửng sốt của cha con Vương Ông là
những tiếng la, tiếng chửi, tiếng đồ đạt bị lật tung và bị vét “ sạch sành sanh ”. Với ba âm
thanh ngày càng vang động dữ dội “xôn xao, ào ào, vang tiếng ”, ba hành động “ào ào
như sôi, buộc hai thân hình, vét cho đầy túi tham”, ba hình ảnh đặc tả ”Nách thước, tay
đao, đầu trâu mặt ngựa”, Nguyễn Du đã lột trần bản chất tàn bạo độc ác, tham lam, hung
hăng, dữ tợn của bọn người bất chấp công lý. Nói như Nguyễn Lộc “Công lý của bọn
chúng là công lý của bọn đầu trộm đuôi cướp"
1-3) Nhân vật trung tính:


Chân dung Thúc Sinh:
Xếp nhân vật Thúc sinh vào loại nào cho đúng? Có thể xem đây là một loại nhân
vật trung tính, một loại người đa tình nhưng bạc nhược, một nhân vật vừa có mặt tốt vừa
mặt chưa tốt. Chính cái mặt tốt và mặt chưa tốt của Thúc Sinh mà chất người ở nhân vật
này thể hiện đậm nhất. Là một người có vợ Thúc Sinh phải làm sao đây trước một Hoạn

Thư con nhà quyền thế? Có lẽ ta cũng không nên đòi hỏi gì hơn ở nhân vật này.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, tính cách của Thúc Sinh thể hiện ở nhiều tình huống:
Tiểu thư vội thét:”Con Hoa
Khuyên chàng chẳng cạn, thì ta có đòn!”
Sinh càng nát ruột, tan hồn
Chén mời, phải ngậm bồ hòn, ráo ngay!
Nhưng có lẽ chất họa thể hiện rõ nhất về nhân vật này là lúc Thuý Kiều có dịp báo
ân báo oán:
Cho gươm mời đến Thúc Lang
Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.
Với một sắc màu có pha tạp (xanh pha tím) thể hiện sự biến thái của sắc mặt và một
đường nét run rẩy (dẽ run –một loài chim có mỏ dài, cái đuôi luôn phe phẩy) thi hào đã
khắc hoạ một tính cách tiêu biểu cho một loại người trong xã hội– khoác lác nhưng nhu
hèn sợ vợ. Đây là một kiểu nhân vật không hoàn toàn trùng lặp trong tác phẩm. Trước
Thúc ông, Thúc Sinh xử sự “như một kẻ ăn vụng bị bắt quả tang”(Chữ dùng của Lê Đình
Kỵ), trước pháp đường Thúc Sinh khóc lóc tự oán trách mình, trước Thuý Kiều hắn cho
Hoạn Thư là người nham hiểm, trước Hoạn Thư hắn xem Thuý Kiều là người không
quen biết. Khi Thuý Kiều “đưa gươm mời đến Thúc Lang” hắn run lẩy bẩy” nhưng đến
khi Thuý Kiều trả ơn hắn “mừng sợ khôn cầm”. Nhân vật Thúc Sinh là sự tổng hợp giữa
ba dòng máu Thúc sinh –Sở Khanh –Kim Trọng. Lê Đình Kỵ nhận xét thật đúng:”Thúc
Sinh cũng có chút máu Kim Trọng trong người, nhưng sự việc xảy ra sẽ biến dần y thành
một tên Sở Khanh không hơn không kém.”


Nói chung, có bao nhiêu nhân vật là có bấy nhiêu bức vẽ. Nhiều khi chỉ một nhân
vật nhưng lại có nhiều bức vẽ khác nhau, bổ sung cho nhau nhằm hoàn thiện tính cách.
Vẽ chân dung nhân vật, đối với Nguyễn Du không chỉ thông qua sự quan sát, óc liên
tưởng mà còn vẽ bằng cả tâm hồn trái tim. Nhờ vậy, mỗi sắc màu, mỗi đường nét đều có
giá trị ngữ nghĩa sâu sắc. Và đằng sau những bức vẽ, ta như thấy thấp thoáng số phận và
cả một phần đời nhân vật được gởi gắm trong đó.

Đặc biệt, sự thần tình của Nguyễn Du là đã tạo ra những bức chân dung có sức
sống vĩnh viễn và trở thành những qui ước đánh giá của xã hội. Ông đã sáng tạo ra
“Những con người thực hơn những con người thực” [27,193]. Nhắc đến cái tên Sở Khanh
là ta nghĩ ngay đến một tên lưu manh lừa lọc. Nhắc đến cái tên Tú Bà là ta nghĩ ngay đến
một bà chủ chứa chuyên nghiệp. Nhắc đến cái tên Mã Giám Sinh là ta nghĩ ngay đến một
tên buôn người có cỡ. Và chỉ nghe đến cái tên Hoạn Thư là ta nghĩ ngay đến kiểu ghen
độc đáo có một không hai. Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh ....vốn là những danh từ
riêng giờ đây lại trở thành những danh từ chung chỉ những hạng người trong xã hội. Phải
là người có vốn sống phong phú, lượng ngôn từ đầy ắp, rất am hiểu nghệ thuật hội hoạ,
Nguyễn Du mới phác hoạ được những bức chân dung đa dạng và có sức sống như vậy .
2) Chất hoạ trong những bức tranh phong cảnh:
Trong văn chương từ cổ chí kim, những bức tranh phong cảnh dường như không
bao giờ vắng mặt nếu không muốn nói là tràn ngập. Xuất phát từ quan niệm, cách nhìn,
mỗi thời đại có phương thức thể hiện khác nhau. Nếu văn học thời hiện đại ít dùng tới
những hình ảnh ước lệ, đòi hỏi tính đột phá trong sáng tạo của người nghệ sĩ thì văn học
truyền thống lại hay dùng tới những công thức - hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng,
thường tả cảnh xen tình. Đối với Nguyễn Du, mặc dù chưa thoát khỏi đường ray của thời
đại nhưng ông cũng có những bức tranh phá khổ đi trước thời đại. Nhận xét về nghệ thuật
tả cảnh, tả tình trong thơ Nguyễn Du, nhà nho Đào Nguyên Phổ trong bài tựa bản Đoạn
Trường Tân Thanh năm 1902 có viết: ”Nói tình thì vẽ hình trạng hợp ly tân khổ mà tình
không rời cảnh; tả cảnh thì bầy hết thú vị tuyết nguyệt phong hoa mà cảnh tự vương tình
”, còn Lê Trí Viễn thì cho rằng :“Cảnh vật dường như một nhân vật luôn luôn có mặt,
một nhân vật im lặng nhưng hiểu thấu tâm trạng con người ".


Xuất phát từ góc độ chuyên môn, hoạ sĩ Nguyễn Tiến Chung đã cho rằng”Sự tương
quan giữa cảnh trong thơ ông có lúc hoà hợp, uyển chuyển, cũng có khi tương phản nhau,
nhưng cái nọ thường làm nổi bật cái kia, hình này nói hộ hình khác, tất cả nhằm nói lên
một tâm tình. Cách bài trí thiên nhiên trong thơ ông dường như lúc nào cũng có trọng
tâm, có bối cảnh chủ đạo. Hình tượng nào cần làm lộ rõ ông cho gần lại; hình tượng nào

thứ yếu thì đẩy lùi xa và cho mờ nhạt đi, nhưng mọi hình tượng đều ăn khớp với nhau."
Nghiên cứu những bức tranh tả cảnh trong Truyện Kiều, ta nhận thấy rằng: khi hoạ
những bức tranh phong cảnh, Nguyễn Du thường vẽ bằng những nét chấm phá ít đi sâu
vào chi tiết. Đặc biệt cảnh vật được miêu tả thường bị chi phối bởi quan niệm nghệ thuật,
cảm quan của con người và thông qua lăng kính nhân vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
2-1) Cảnh xuân, hạ, thu, đông:
Trong văn học từ xưa đến nay có không ít những bức tranh tuyệt tác về xuân, hạ,
thu, đông-”Xuân hiểu” Trần Nhân Tông, “Mùa xuân chín” Hàn Mặc Tử “Thu vịnh, Thu
điếu, Thu ẩm” Nguyễn Khuyến,”Đây mùa thu tới” Xuân Diệu, “Tiếng thu” Lưu Trọng
Lư, “Vịnh mùa Đông” Nguyễn Công Trứ, “Mùa hạ” Xuân Quỳnh…. nhưng chỉ có
Truyện Kiều bức tranh tứ bình mới được hoàn chỉnh và không kém phần độc đáo.Cũng
dựa vào qui luật vận hành của thiên nhiên vũ trụ - xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông
tàn nhưng Nguyễn Du còn sắp xếp những cảnh này sao cho phù hợp với những cuộc gặp
gỡ, chia tay, tính chất của từng mối tình. Tình yêu Kim- Kiều chớm nở vào mùa xuân;
cuộc chia tay Kiều- Thúc, cuộc bỏ trốn của Thuý Kiều với Sở Khanh rơi vào mùa thu...
-Mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa của lễ hội, nó là cái mốc quan trọng trong câu
chuyện tình trai tài gái sắc. Kim, Kiều gặp nhau, Kim Trọng trở lại vườn Thuý, hai bức
hoạ này có gì khác nhau trong những nét vẽ và sắc màu?
Trước hết là bức hoạ mùa xuân khi hai chị em Thuý Kiều du xuân. Đây là bức hoạ
với những gam màu mát, đường nét mềm mại, đúng theo qui ước của hội hoạ ”màu lạnh
-lam, xanh …thường tạo cảm giác mát mẻ…đường lượn êm dịu tạo cảm giác yên bình ”.
Cảnh có sắc xanh của cỏ non trải dài như mở ra một không gian vô tận, có sắc trắng của


bông hoa lê điểm xuyết, có sắc vàng dịu nhẹ của ánh nắng mặt trời vào độ tháng ba tiết
thanh minh, có đường nét nhẹ nhàng êm ái của chim én, có sự vận động khẩn trương của
thời gian, có không gian của chiều cao, chiều rộng và chiều ngang, có cái diện để rõ cái
điểm. Bức tranh rất phương Đông thật thông thoáng, cân đối, hài hòa tươi mát, sống động

như chính sự sống động của tâm hồn, của tuổi xuân hoà hợp với cảnh xuân về:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Khác với bức tranh xuân dân dã trong thơ Nguyễn Trãi “Độ đầu xuân thảo lục như
yên. Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên...”(Trại đầu xuân độ), rất nông thôn trong thơ
Nguyễn Bính ”Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh. Tôi đợi người yêu tới tự tình. Khỏi luỹ
tre làng tôi nhận thấy. Bắt đầu là cái thắt lưng xanh....”(Muà xuân xanh), rất sống động
trong thơ Hàn Mặc Tử ”Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời…”(Mùa xuân chín), bức tranh
xuân trong thơ Nguyễn Du đài các, quí phái hơn. Bởi lẽ ngoài sắc cỏ, bức tranh còn được
điểm xuyết bằng những nét vẽ về bông hoa trắng trên cành hoa lê. Hai mảng màu xanh
trắng tạo nên »sự tương phản thẩm mỹ rất táo bạo, màu trắng muốt của hoa lê nổi bật».
Không chỉ khác nhau về tính chất những bức vẽ còn khác nhau về đường nét. Nguyễn
Bính nặng về nét tĩnh; Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử nặng về nét động khẽ khàng êm ái hư
thực ; Nguyễn Trãi lại dùng nét động mạnh mẽ’’ thuỷ phách thiên’’. Ngay cả cái sắc màu
của cỏ cũng khác nhau: xanh nhạt chuyển sang đậm (thơ Nguyễn Trãi), xanh non mơn
mởn trải rộng (thơ Nguyễn Du), xanh tươi sống động (thơ Hàn Mặc Tử), xanh lá cây im
lìm (thơ Nguyễn Bính)

Cũng là cảnh xuân nhưng cảnh xuân khi Kim Trọng trở lại vườn Thuý được vẽ
bằng những nét vẽ chi tiết hơn. Đó là một cảnh xuân buồn, trống vắng, hoang tàn, tiêu
điều trong một không gian được thu nhỏ :
Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa


×