Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Câu hỏi ôn thi cao học lý luận y sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.27 KB, 23 trang )

I.SINH LÝ HỆ MÁU
1. Khái niệm, thành phần,
chức năng của máu
Khái niệm: Máu là một thể
lỏng được lưu thông trong mạch kín.
Thành phần: Máu gồm 2 thành
phần là:
- Huyết tương (55 - 60% thành phần
máu): Là thành phần lỏng, chiếm
91% là nước và 9% là các chất khác
bao gồm đường, đam, mỡ, VTM ,
muối khoáng, các chất chuyển hóa
trung gian.
- Các tế bào máu(40 - 45% thành
phần máu): Là thành phần hữu hình
bao gồm hồng cầu, bạch cầu, tiểu
cầu.
* Trong yên tĩnh thành phần của máu
nói chung là ổn định. Các chỉ số chỉ
thay đổi khi cơ thể vận động. Sự thay
đổi này thể hiện ở sự thay đổi tỷ lệ
phần trăm giữa thành phần hữu hình
của máu trên khối lượng máu chung
gọi là hệ số hêmatocrít.
Theo Kox, khi vận động hệ số
hêmatocrít ở nam tăng từ 47% lên
50,7%.
ở nữ tăng từ 42% lên 47%.
Theo Kox một người châu Âu có 5,5
lít máu lưu thông gồm :
+ 2,6 lít tế bào hữu hình của máu


+ 2,9 lít huyết tương
Chỉ số hêmatocrít của người đó là
(2,6 x100) /5,5 = 47%
VD :VĐV chạy 800m mất 0.5 lít nước trong huyết tương ,như vậy lượng
máu lưu thông chỉ còn 5 lít, 2.9 lít
huyết tương 2,6 lít tế bào hữu hình
của máu
và như thế chỉ số Hematocrit bằng
(2,6 x100) /5 = 52%.
Theo Kox điều này được giải thích
rằng khi vận động, cơ thể mất nước
qua con đường mồ hôi. Do lượng
nước trong huyết tương đi ra khỏi
thành mạch, nhanh chóng vận chuyển
vào khoảng gian bào của các tế bào
cơ đang hoạt động. Kết quả là khối
lượng máu tuần hoàn chung giảm đi
nhưng các tế bào máu trong một đơn
vị thể tích tăng lên, máu bị cô đặc lại.
Chức năng của máu.
- Chức năng hô hấp: Máu thực hiện
chức năng hô hấp nhờ huyết cầu tố
Hêmôglôbin.
Hêmôglôbin
vận
chuyển ôxy từ phổi vào tế vào và CO2
từ tế bào ra bằng sự kết hợp hoá học:
Hb + O2
HbO2
Hb + CO2

HbCO2
Cơ chế vận chuyển này chủ yếu do hệ
tim mạch (hệ tuần hoàn) quyết định.
- Chức năng dinh dưỡng: Các chất
dinh dưỡng như axít, amin, glucose,
axít béo và vitamin được hấp thụ từ
ống tiêu hoá vào máu và được vận
chuyển đến các mô để đảm bảo hoạt
động sống của tế bào.
- Chức năng đào thải : Máu đưa các
chất cuối cùng của quá trình trao đổi
chất đến các cơ quan bài tiết : thận,
da, ruột, phổi để bài tiết ra ngoài.
- Chức năng bảo vệ : Máu thực hiện
chức năng bảo vệ bằng hai cách:
+ Máu tạo ra các kháng thể có tác
dụng chống lại vi trùng xâm nhập.
Thành phần chất tạo kháng thể là
dạng đạm đặc biệt có trong huyết
tương
+ Các tế bào bạch cầu ở trong máu có
khả năng tiêu diệt vi trùng.
- Chức năng điều hoà thân nhiệt:
Máu theo mạch máu thực hiện chức

năng dẫn nhiệt từ trung tâm ra
ngoại biên. Nhờ máu mà nhiệt độ
cơ thể chỉ đạo động trong phạm
vi hẹp.
- Chức năng điều hoà: Các

hormone của hệ thống nội tiết ra
đều được đổ trực tiếp vào máu.
Do vậy máu đi đến các cơ quan
đem theo hormone điều khiển sự
hoạt động của các cơ quan đó.
Ngoài các chức năng trên, máu
còn có một số chức năng khác
như chức năng ổn định nội môi.
Động lực huyết dịch trong
vòng tuần hoàn
Khái niệm: Là động
lực gây nên sự chuyển động của
máu trong vòng tuần hoàn
Động lực huyết dịch
trong vòng tuần hoàn của người
tập luyện TDTT khác với người
bình thường
Động lực huyết dịch
gồm 2 nhóm:
Nhóm 1: Động lực tim mạch: là
động lực tạo ra bởi tim và mạch
máu, có 2 động lực:
+ Sự chênh lệch về
áp suất giữa đầu và cuối vòng
tuần hoàn, yếu tố quyết định độ
lớn của lượng máu được tống
vaò động mạch được xác định
qua thể tích tâm thu và bị chi
phối bởi buồng tim và độ dày
thành tim, độ dày càng lớn thì

lực bóp càng lớn.Thể tích buồng
tim lớn, áp lực tạo ra khi tim co
càng mạnh, được đo bằng áp suất
phun,bằng kết quả siêu âm tim
+ Nhu động thành
mạch: Là hoạt động cơ phối hợp
đồng thời 3 lớp cơ:
Lớp ngoài
chạy dọc
Lớp giữa
chạy vòng
Lớp trong
chạy chéo
Sự chuyển
động đó thúc đẩy
lượng máu trong
mạch.
Nhu động thành mạch
phụ thuộc vào trương lực của
thành mạch và sự phát triển của
các cơ ở thành mạch:Trương lực
giảm, lớp cơ phát triển tạo tính
đàn hồi cao thì nhu động thành
mạch tốt và vận chuyển máu tốt.
Tính đàn hồi thành
mạch có ý nghĩa quan trọng giảm
lực cản ( R) của thành mạch. Khi
đường kính của thành mạch nhỏ
thì lực cản lớn và ngược lại. Tính
đàn hồi thành mạch còn có ý

nghĩa tạo dòng máu liên tục và
đều đặn ở ngoại vi vì thời kỳ tâm
thu của tâm thất là thời kỳ tống
máu ra động mạch chủ, tâm
trương là thời kỳ nạp máu về tim
sẽ tạo ra sự ngắt quãng theo mỗi
thời kỳ của chu chuyển tim,
nhưng thành động mạch đàn hồi
co và giãn liên tục kế tiếp nhau
đẩy máu ra ngoại vi.
Nhóm 2:
Động lực ngoài tim:
những yếu tố tác động
không phải do thành
mạch mà chỉ xuất
hiện khi có hoạt động
vận động bao gồm 4
động lực:
+ Sự co và
duỗi của cơ khi vận

động ép lên tĩnh mạch
dồn máu chuyển
động, đặc biệt tĩnh
mạch nửa dưới của cơ
thể, khi cơ co và duỗi
gây chèn ép lên tĩnh
mạch và tác dụng đẩy
máu hồi tim
+ Lực hút

do áp suất âm trong
lồng ngực tạo nên áp
lực hạ thấp. Khi áp
lực âm hạ thấp thành
động lực hút máu hồi
tim tạo nên mức
chênh lệch huyết áp.
+
Hiện
tượng tăng áp lực
khoang bụng trong
vận động dẫn đến sự
chèn ép tĩnh mạch
cửa gan đẩy máu hồi
tim.
+ Do hoạt
động gấp duỗi của
khớp gây chèn ép tĩnh
mạch để thúc đẩy
máu hồi tim.
Kết luận:
Từ các động lực cho
thấy hoạt độngTDTT
sẽ góp phần làm tăng
lưu thông máu.
2. Hồng cầu
Hồng cầu là tế
bào không nhân, hình đĩa, lõm 2
mặt, có đường kính từ 7-7,5µ,
hồng cầu có thể thay đổi hình

dạng khi đi qua thành mạch.
Số lượng hồng cầu ở nam là 4,2
triệu/1 mm3 máu, ở nữ là 3,8
triệu/1 mm3 máu.
Theo Kox năm 1982,
người Châu âu, ở nam là 5,1
triệu/1 mm3 máu, nữ là 4,6
triệu/1 mm3 máu.
*Quá trình tạo hồng
cầu
Hồng cầu được tạo ra từ tuỷ đỏ
của xương, các tế bào này có khả
năng sinh sản suốt cuộc đời .mỗi
giây có chừng 10 triệu hồng cầu
được tạo ra . Trong quá trình tạo
máu luôn luôn giữ mối cân bằng
giữa lượng hồng cầu bị phá huỷ
và lượng hồng cầu mới sinh ra.

Quá trình tạo hồng
cầu và phát triển hồng
cầu trải qua các giai
đoạn sau :
Tiền nguyên hồng cầu

Nguyên hồng cầu ưa kiềm

Nguyên hồng cầu đa sắc

Nguyên hồng cầu ưa a xít


Hồng cầu lưới

Hồng cầu trưởng thành
Hồng cầu lưới từ tủy
xương vào máu sau 1 - 2
ngày thì trở thành hồng cầu
*Đời sống và phân
huỷ hồng cầu: Đời sống của
hồng cầu kéo dài từ 100 - 120
ngày, có một số men tham gia
quá trình chuyển hoá glucose để
tạo ra một lượng nhỏ ATP của
hồng cầu nhằm duy trì tính mền
dẻo của tế bào. Sự vận chuyển
Ion qua màng giữ cho sắt (hem)

luôn luôn có hoá trị 2 để vận chuyển
ô xy.
Hệ thống men trong hồng
cầu cạn dần, màng hồng cầu trở lên
dễ vỡ rồi vỡ ra đi theo mao mạch nhỏ
ở lá lách. Hemoglobin được giải
phóng khỏi gan, lá lách tổ chức lưới.
Sắt của Hemoglobin đưa vào máu
được vận chuyển đến tuỷ xương dưới
dạng Transferin để tạo hồng cầu mới
hoặc nằm ở gan dưới dạng feritin dự
trữ. Phần xác của hồng cầu được
chuyển hoá qua nhiều công đoạn, tạo

thành sắc tố bilirubin ( sắc tố mật),
chất này vào máu đến gan được bài
tiết vào mật, làm cho mật có màu
xanh.
Chức năng của hồng cầu.
- Hồng cầu có cấu tạo đặc biệt bởi
vậy nó có thể tăng diện tích tiếp xúc,
tăng tốc độ khuyếh tán khí nhờ
Hêmôglôbin.
- Chức năng của hồng cầu là vận
chuyển ô xy dưới dạng kết hợp hoá
học HbO2 đến các mô.
- Hồng cầu chứa một lượng men
anhydraza cac bon nic. Men này có
tác dụng xúc tác cho phản ứng CO2
và H2O làm tăng tốc độ phản ứng
chuyển CO2 từ mô qua máu đến phổi
để đào thải CO2 .
- Hêmôglôbin là một chất đệm điều
hoà toan kiềm .

Nồng độ Hêmôglôbin trong
máu
Theo Serba ở nam là 32.9g
% , nữ là 30.4 g%.
Nồng độ Hb có thể tính bằng g/
100ml máu. Ở người Việt nam , trung
bình là 15 g/100 ml máu ( Nam
khoảng 16g/ 100ml máu, Nữ khoảng
14g/ 100ml máu)

1g Hêmôglôbin có khả
năng kết hợp với 1,39ml ôxy.
Vậy 15 g Hêmôglôbin kết
hợp được với 20,85 ml ôxy gọi là
dung tích ôxy của máu.
Như vậy nồng độ
Hêmôglôbin trong máu được xác
định bằng khả năng kết hợp tối đa
ôxy với Hêmôglôbin đó là dung tích
ôxy của máu.
Dung tích ôxy của
máu phụ thuộc vào nồng độ Hb và
phân áp ô xy.
- Hàm lượng Hêmôglôbin trong máu
càng cao thì dung tích ôxy càng lớn.
- Nồng độ a xit lactic tăng thì khả
năng phân ly HbO2 tăng ( Hiệu ứng
Bor ).
* Sự biến đổi hồng cầu trong hoạt
động TDTT.
Egorốp nghiên cứu
sự biến đổi số lượng hồng cầu.
*Cơ sở nghiên cứu:
Egorốp dựa vào cách phân vùng I của
Farơfen. Trong các môn thể thao có
tính chất chu kỳ Ông Farơfen chia 4
vùng cường độ.
Egorốp gọi
Fa 1 ứng với vùng
cường độ I. Fa 2 ứng với vùng II ,

Fa 3 ứng với vùng III, Fa 4 ứng với
vùng IV. Ông quan sát thấy hồng cầu
tăng ở Fa 1, Fa2, đến giữa pha 3 giảm
ở cuối Fa 3, Fa 4.


* Giải thích nguyên
nhân tăng hồng cầu trong vận động
: Trong quá trình vận động, để đáp
ứng với nhu cầu vận động, số lượng
hồng cầu tăng lên làm nhiệm vụ vận
chuyển ôxy cho tổ chức và tế bào
hoạt động. Hồng cầu tăng trong vận
động có thể do :
- Tăng hồng cầu
thật: Tăng từ nơi sản xuất (cơ quan
tạo máu) là tuỷ xương.Ví dụ VĐV
tập luyện trên núi cao hoặc người dân
sống trên vùng núi cao, đây là cơ chế
thích ứng với sự hoạt động trong điều
kiện thiếu ô xy tương đối.
- Tăng hồng cầu giả
: Do mất nước làm tăng tỷ lệ % giữa
tế bào hữu hình của máu với huyết
tương dẫn đến số lượng hồng cầu
trong một đơn vị thể tích máu tăng
lên.
Điều này được giải thích rằng, khi
vận độnghuyết tương trong máu đã
nhanh chóng vận chuyển vào khoảng

gian bào của các tế bào cơ đang hoạt
động. Kết quả là khối lượng máu tuần
hoàn giảm nhưng các tế bào máu
trong một đơn vị thể tích máu thì tăng
lên do mất nước, máu bị cô đặc cũng
dẫn đến sự tăng hồng cầu.
*Giải thích nguyên nhân làm giảm
hồng cầu trong vận động.
- Chủ yếu hồng cầu bị phá huỷ do
chấn thương cơ học vì khi hoạt động,
tốc độ dòng máu tuần hoàn tăng.
- Các tế bào hồng cầu già rất nhạy
bén với sự thay đổi thành phần máu
và dễ bị phá vỡ do va chạm dẫn đến
sự thiếu máu giảm quá trình vận
chuyển ôxy cho tổ chức.
3 . Nhóm máu
Năm 1900 Lansteiner
nhận thấy sự ngưng kết hồng cầu xảy
ra khi trộn máu của 2 cá thể cùng
loài.Từ đó ông đã tìm ra kháng
nguyên và kháng thể đặc hiệu của
hồng cầu. Dựa trên cơ sở đó ông đã
phân chia ra 4 nhóm máu .
1.Kháng nguyên A và B
của hồng cầu
Trên bề mạt của hồng cầu
có kháng nguyên A và B. Có thể
trong hồng cầu của người có một
trong 2 loại(A, B hoặc AB) và có thể

không có loại nào (0). Dựa trên cơ sở
kháng nguyên của hồng cầu , người
ta phân thành 4 nhóm:
- Nhóm máu O
( không có kháng nguyên A và B )
Nhóm
máu
A( không có kháng nguyên B)
- Nhóm máu B ( không
có kháng nguyên A )

- Nhóm máu AB
( có cả 2 loại kháng nguyên A và
B)
2. Kháng thể α và
õ của huyết tương
Khi người không có
kháng nguyên A của hồng cầu thì
trong huyết tương sẽ có kháng
thể anti A( α)
Khi người không có
kháng nguyên B của hồng cầu thì
trong huyết tương sẽ có kháng
thể anti B(õ).Người ta phân ra
các nhóm máu như sau :
Nhóm máu O không
có 2 loại kháng nguyên A và B
của hồng cầu . Bởi vậy trong
huyết tương có anti A( α) và anti
B (õ)

Nhóm máu A có
kháng nguyên A và kháng thể
(õ)
Nhóm máu B có
kháng nguyên B và kháng thể ( (
α)
Nhóm máu AB có
kháng nguyên A và B , không có
kháng thể ( α) và(õ)
3.Cơ chế truyền máu
ở người có 4 nhóm
máu : I (O); II ( A) ; III ( B ) ;
IV (AB )

Sự phân nhóm máu
rất quan trọng trong việc truyền
máu, nhất là trong chiến tranh.
Muốn truyền máu phải tránh sự
ngưng kết những hồng cầu
truyền vào bởi huyết thanh của
người nhận máu .
4. Tai biến do truyền
nhầm nhóm máu
Sự truyền nhầm nhóm
máu thường là sự ngưng kết
hồng cầu của người cho, ít khi
ngưng kết hồng cầu của người
nhận.
Giải thích : Huyết
tương của máu người cho ngay

lập tức được pha loãng bởi toàn
bộ huyết tương của máu ngườì
nhận, do nồng độ kháng thể
truyền vào thấp không thể gây
ngưng kết hồng cầu người nhận.
Mặt khác, máu người cho không
đủ để pha loãng kháng thể trong
huyết tương người nhận. bởi vậy
các kháng thể sẽ làm ngưng kết
trong hồng cầu người cho.
Tất cả phản ứng
truyền máu thường làm vỡ hồng
cầu, Hb được giải phóng chuyển
thành bilirubin về gan rồi bài tiết
theo một nồng độ bilirubin cao
gây vàng da.
5.Yếu tố Rh
Ngoài nhóm máu ra,
khi truyền máu phải lưu ý đến
một hệ thống có vai trò cực kỳ
quan trọng là hệ Rh. Có sự khác
nhau giữa kháng thể tự nhiên
OAB và yếu tố Rh. OAB là
kháng thể tự nhiên, còn kháng
thể của yếu tố Rh là kháng thể
miễn dịch.
Có 6 kháng nguyên
Rh, mỗi loại kháng nguyên Rh
được gọi là một yếu tố Rh có ký
hiệu C,D,E,c,d,e(C - c, D - d, E e). Khi người có kháng nguyên C

sẽ không có c, D không có d, E
không có e. Vì mỗi người chỉ có
một kháng nguyên trong mỗi cặp
C-d-E, CDE …Kháng nguyên D
là phổ biến nhất và cũng có tính
kháng nguyên mạnh nhất. Người
có kháng nguyên D là người có
Rh+, Người không có kháng
nguyên D là người có Rh-, Ở
Việt Nam có 99,92 % người có
Rh+, Người Mỹ có 95 % người
có Rh+, Châu Phi có 100 %
người có Rh+.
Nếu người có Rh - ,
chưa hề tiếp xúc với máu Rh+,
bao giờ thì việc truyền máu
Rh+cho họ không có phản ứng
ngưng kết nào xảy ra. Tuy nhiên
ở một số người Rh- nhận máu
của người Rh+, sẽ có sự tạo
thành kháng thể anti Rh, lượng
kháng thể này đủ gây ngưng kết
hồng cầu Rh+ của người cho vẫn
còn tồn tại trong máu người nhận
ở thể nhẹ, Nếu lần sau lại tiếp tục
truyền máu Rh+ sẽ xảy ra các tai
biến truyên máu ở thể nặng.
4. Độ pH của máu .
Cơ chế điều hòa độ pH của
máu(Cân bằng toan kiềm của

máu)
- Độ pH của máu

II
A
I

O
AB
IV
B III
Nhóm máu I có thể
truyền cho các nhóm máu II, III,
IV. Nhóm này được gọi là nhóm
cho phổ thông vì nhóm máu này
không có các kháng nguyên A và
B nên không gây phản ứng với
kháng thể an ti A và B.
Nhóm máu II A
Có thể truyền cho nhóm máu AB
và cho chính nó , không thể
truyền cho nhóm I và III vì có
kháng thể gây ngưng kết hồng
cầu.
Nhóm máu III B Có
thể truyền cho nhóm máu AB và
cho chính nó , không thể truyền
cho nhóm I và II vì có kháng thể
gây ngưng kết hồng cầu.
Nhóm máu IV (AB)

có 2 loại kháng nguyên A và B
chỉ truyền cho chính nhóm đó và
nó có thể nhận máu của nhóm I,
II, III và được gọi là nhóm nhận
phổ thông.

2

Máu có độ pH =7.35 -7.45
tức là có tính kiềm yếu. Giới hạn độ
pH của máu mà cơ thể chịu đựng
được là từ 6.8 đến 8.0.
Nếu dung dịch trung tính pH = 7.1;
Kiềm pH > 7.1; A xit pH < 7.1
Độ pH của máu luôn được
ổn định nhờ hệ thống đệm của máu,
nhờ vào hô hấp, trao đổi chất ở thận.
Các sản phẩm của quá
trình trao đổi chất có ảnh hưởng đến
độ pH của máu
Khi hoạt động cơ
trong điều kiện yếm khí, quá trình
trao đổi đường sẽ gây sự tích tụ a
xitlactic trong cơ hoặc trong máu:
C 6H12O6 + 2 ADP + 2 H 3PO4 
2 C3H6O3 + 2 ATP + 2 H2O
(C 6H10O5)n+ 3 ADP +3 H3PO4 
2 C3H6O3+3 ATP+2H2O+(C6H10O5)n1.
Trong điều kiện yên tĩnh
axitlactic trong máu vào khoảng 10

mg %, trong vận động tăng lên 120 200mg%. Độ pH của máu thay đổi
phụ thuộc vào lượng axitlactic sản
sinh ra trong vận động. Độ pH giảm,
cơ thể bị nhiễm a xit gây rối loạn
nhiều chức năng cơ thể, Ví dụ giảm
quá trình tổng hợp ATP, Đặc biệt khi
axitlactic sản sinh ra ở trong cơ của
các VĐV chưa kịp vào máu sẽ làm
tăng sự kết hợp bền vững Actomiozin
gây ra hiện tượng co cứng cơ, một
trong những nguyên nhân “ Chuột rút
“ trong hoạt động TDTT, Ví dụ: ở bài
tập công suất tối đa trong thời gian
ngắn. Điều này được giải thích rằng
hoạt động có công suất tối đa trong
thời gian ngắn thì tuần hoàn và hấp
chưa phát huy được công suất tối đa,
ôxy vào cơ thể ít do đó không thoả
mãn được yêu cầu vận động, kết quả
là axitlactic tích tụ trong cơ. Các hoạt
động với công suất cao trong thời
gian kéo dài khi đó tuần hoàn và hô
hấp đã phát huy kịp công suất hoạt
động, Axitlactic khi đó được chuyển
vào máu làm cho độ pH của máu
giảm. Nồng độ Axitlactic càng cao
thì độ pH của máu càng giảm.
- Nồng độ Axitlactic phụ
thuộc vào công suất hoạt động, thời
gian hoạt động và số lượng sợi cơ

tham gia vào hoạt động.
Bài tập công suất cao thời
gian ngắn thì Axitlactic nhiều và tích
tụ trong cơ.
Bài tập 400, 800, 1500m
thì Axitlactic chuyển vào trong máu
làm cho độ pH giảm.
Bài tập Maraton có ôxy
đầy đủ thì không có Axitlactic, độ pH
không thay đổi.
Ở bài tập cử tạ, đòi hỏi
huy động nhiều sợi cơ tham gia sức
mạnh tối đa nên Axitlactic sản sinh
nhiều và tích tụ trong cơ vì thời gian
cử tạ ngắn
Cơ chế điều hòa độ pH của máu.
Để duy trì và ổn định độ pH của máu
phải nhờ hệ thống đêm.
Hệ thống đệm của máu gồm axit yếu
và muối của nó với một kiềm mạnh.
Hệ
thống
đệm
bicacbonat NaHCO3 ,
H2CO3 , HCO3 – CO2
Độ pK =6.1 chiếm 53 %


Khi cho một a xít mạnh tác dụng với
NaHCO3 kết quả của phản ứng sẽ

cho ta một a xít yếu
HCL+ NaHCO3 = H2CO3
+ NaCL
Khi cho một kiềm mạnh tác dụng với
H2CO3 kết quả của phản ứng sẽ là
một kiềm yếu
NaOH + H2CO3
=
NaHCO3 + H2O
*Đặc điểm : Khả năng
đệm tối đa khi nồng độ của HCO 3CO2 hoà tan(pH= pK)
Khi tất cả khí CO2 chuyển
thành HCO3- hoặc ngược lại thì hệ
thống này không còn khả năng đệm.
Khả năng đệm tỷ lệ thuận
với nồng độ của các chất đệm .
Hệ thống đệm bicacbonat
không phải là hệ đệm tối ưu nhưng
nó đóng vai trò quan trọng vì nồng độ
CO2 hoà tan trong máu có thể thay
đổi làm tăng hoặc giảm thông khí
phổi, có tác dụng điều hoà pH. Bởi
vây, tốc độ điều chỉnh pH của hệ này
chỉ trong vài phần của giây mà ở các
hệ khác không có được.
- Hệ thống đệm phosphat
HPO4/ H2PO4 có độ
pH=6.8 chiếm 5%
Khi cho một a xít mạnh
tác dụng với đệm phosphat kết quả

của phản ứng sẽ cho ta một a xít yếu
HCL + Na2 HPO4 =
NaH2PO4 + NaCL
Khi cho một kiềm mạnh
tác dụng với đệm phosphat kết quả
của phản ứng sẽ là một kiềm yếu
NaOH + NaH2PO4 = Na2
HPO4 + H2O
*Đặc điểm
-Nồng độ của hệ phosphat
= 1/6 của hệ bicacbonat
Hệ
thống
đệm
phosphat rất quan
trọng trong ống thận
- Hệ thông đệm Protein
Hệ
thống
đệm
Protein được tạo ra từ Protein của
huyết tương, chiếm 79 % các Protein.
Đó là các gốc của a xit a min tự do COOH có khả năng phân ly thành
COO- và H+. .Đồng thời chúng có gốc
kiềm NH3 OH, do đó Protein có thể
hoạt động như một hệ thống đệm có
đồng thời cả kiềm và toan.
- . Hệ thống đệm Hemoglobin
Đây là một loại đệm
Protein thực hiện bởi Hemoglobin

gồm ô xy hemoglobin và muối ka li.
* Khi thực hiện
công suất vận cơ ở mức nhẹ và trung
bình , nhu cầu ô xy chiếm khoảng 50
% VO2 max thì a xit lactic trong máu
khoảng 0.4 - 0.5g/ lit.
Khi vận động với
công suất lớn hơn, nhu cầu ô xy vào
khoảng 50 - 85 % VO2 max thì a xit
lac tic tăng nhanh trong máu. ở các
bài tập sức bền ưa khí tối đa, khi nhu
cầu ô xy lớn hơn 85 % VO 2 max thì
nồng độ a xit lac tic tối đa trong máu
là do sản phẩm trung gian của quá
trình trao đổi chất để sử dụng năng
lượng từ hệ glucophân tạo axitlactic.
Axitlactic là một a xit mạnh, khi phân
ly chúng tạo thành một số lượng lớn
H+, một phần liên kết với hệ thống
đệm trong máu (Hệ thống đệm
bicacbonat)

Ví dụ : CH3 - CHOH - COOH +
NaHCO3  CH3- CHOH COONa + H2CO3.
(Axitlactic)

đi lặp lại đều đặn gọi là chu
chuyển tim.
Mỗi
chu

chuyển tim gồm có một tâm thu
và một tâm trương của nhĩ và
thất
Yếu tố ảnh hưởng đến chu
chuyển tim.
Chu chuyển tim phụ thuộc vào
tần số nhịp tim, áp suất trong
buồng tim và tiếng tim.
+Tần số nhịp tim tăng
thì chu chuyển tim giảm.
+Tần số nhịp tim
giảm thì chu chuyển tim tăng
(Kox).
Các thời kỳ của chu chuyển tim
-Thời kỳ tâm thu bao gồm tâm
nhĩ thu và tâm thất thu
-Thời kỳ tâm trương bao gồm
tâm nhĩ trương và tâm thất
trương
- Thời kỳ tâm trương toàn bộ ,
cả nhĩ và thất đều trong trạng
thái trương.
* Tâm nhĩ thu
Tâm nhĩ thu 0.1giâylà
khởi đầu của sóng P. áp suất
trongbuồng nhĩ hơi tăng (5-6
mmHg) và bắt đầu cao hơn áp
suất trong buồng thất đang giãn .
Máu từ tâm nhĩ chảy xuống tâm
thất qua van nhĩ thất, Khi áp suất

trong buồng tăng, máu trong
buồng nhĩ không đi ngược trở lại
tĩnh mạch vì lỗ tĩnh mạch co lại
do sự co cơ của 2 thành tâm nhĩ.
* Tâm nhĩ trương
Ngay sau khi tâm nhĩ
thu, tâm nhĩ bắt đầu trương –
thời gian khoảng 0.7 giây. Nó sẽ
chiếm toàn bộ thời kỳ tâm thất
thu và phần lớn tâm thất trương.
Thời kỳ tâm nhĩ trương là thời kỳ
nạp máu về tim, tâm nhĩ phải nạp
máu từ tĩnh mạch chủ trên , dưới.
Tâm nhĩ trái nạp máu từ 4 tĩnh
mạch phổi.
* Tâm thất thu
Tâm nhĩ bắt đầu
trương thì tâm thất thu, thời kỳ
tâm thất thu khoảng 0.3 giây.
Tâm thu của tâm thất được chia
ra 2 thời kỳ:
a.Thời kỳ căng tâm
thất chia làm 2 pha:
-Pha co không đồng
bộ : Hưng phấn trong cơ tim lan
toả dần theo các lớp cơ, vì vậy
không thể làm toàn bộ các sợi cơ
tâm thất đều co. ở pha này các
sợi cơ tâm thất co không đồng bộ
gây biến dạng tâm thất , nhưng

áp suất trong buồng tâm thất
không tăng .
- Pha co đẳng
trường :Khi tất cả các sợi cơ
trong thành tâm thất đều co, áp
suất trong buồng thất tăng lên,
các van nhĩ thất nhanh chóng bị
đóng lại vì áp suất trong buồng
thất cao hơn buồng nhĩ.
Các van bán ngyệt
ngăn cách giữa buồng thất trái
với động mạch chủ, buồng thất
phải với động mạch phổi vẫn
đóng, như vậy buồng thất được
đóng kín cả 2 phía . Khi các sợi
cơ tâm thất tiếp tục co đồng bộ
không làm thay đổi thể tích của

(Bicacbonat Na)
(Muối
LactatNa)
Tuỳ theo điều kiện H2CO3 phân
ly dưới 2 dạng:
H 2CO3  H++ HCO3trong điều kiện thiếu O2.
H2CO3  H2O + CO2
trong điều kiện đủ O2.
Khi sử dụng hết
dung lượng của hệ thống H 2CO3
= H2O + CO2, Khí CO2 được tạo
thành bị đào thải qua phổi thì

môi trường chuyển về phía a xit,
độ pH trong máu giảm xuống 0.2
so với yên tĩnh thì hoạt tính của
men giảm. Độ pH giảm sẽ gây
rối loạn chức năng của toàn bộ
cơ thể như giảm hoạt tính men
ATP - aza, giảm tốc độ dẫn
truyền xung động thần kinh, tăng
áp suất thẩm thấu gây phồng tế
bào chèn ép lên các nhánh tận
cùng thần kinh làm đau cơ do
tăng sự kết hợp bền vững giữa 2
sợi ac tin và miozin.
Khi độ pH tăng máu
sẽ nhiễm kiềm, quá trình thải
CO2 bị ngừng trệ, CO2 chuyển
thành bicacbonat, ion HCO3. –
Trạng thái cơ thể chứa axit hoặc
kiềm khi độ pH của máu vẫn còn
ổn định gọi là trạng thái nhiễm
kiềm hoặc nhiễm toan có bù, còn
khi độ pH trong máu biến đổi thì
trạng thái đó gọi là nhiễm a xit
không bù.
Trong yên tĩnh, độ pH
của máu động mạch 7,4; máu
tĩnh mạch 7,35
Khi hoạt động độ pH
của máu giảm xuống 7,0 ; cá biệt
ở VĐV có trình độ tập luyện tốt

pH = 6,8. Khi độ pH của máu
giảm sẽ có cảm giác khó chịu,
nôn ọe, chóng mặt, đau cơ, phá
hủy quá trình trao đổi chất, bởi
vậy phải huy động hệ thống đệm
bicacbonat trong máu hoặc hệ
thống đệm Protein trong tế bào
để trung hòa a xit và ổn định độ
pH của máu.
Ngoài hệ thống đệm,
máu còn có một số muối kiềm để
trung hoà a xit. Những muối này
gọi là dự trữ kiềm của máu. Khi
vận động, công suất vận động
càng cao thì khả năng dự trữ
kiềm càng giảm .
Tóm lại : Hệ thống
đệm có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ cho máu và các tế
bào mô. Khi có các phản ứng
tích cực xảy ra, ngoài hệ thống
đệm và dự trữ kiềm của máu thì
phổi, thận, gan, ống tiêu hoá
cũng tham gia vào sự điều hoà
kiềm toan của máu .
SINH LÝ HỆ TUẦN HOÀN
1. Chu chuyển tim, Ảnh hưởng
của TDTT đến chu chuyển
tim.
Khái niệm : Hoạt động nhịp

nhàng liên tục của tim được chia
ra thành từng thời kỳ, có sự lặp

3

buồng thất, pha này kéo dài cho tới
khi nào áp suất trong buồng thất cao
hơn áp suất trong động mạch chủ và
động mạch phổi thì van bán nguyệt
được mở rabắt đầu giai đoạn tống
máu từ tâm thất vào động mạch.
b, Thời kỳ tống máu chia
2 pha:
-Pha tống máu nhanh : ở
pha này, các sợi cơ trong thành tâm
thất co tối đa, máu được tống nhanh
từ tâm thất vào động mạch. áp suất
trong buồng thất đạt tối đa sau khi
tâm thất bắt đầu thu khoảng 0.18
giây. Tốc độ dòng máu trong động
mạch chủ cao nhất sau khi tâm thất
thu khoảng 0.1 giây.
-Pha tống máu chậm :
Máu từ tâm thất vẫn tiếp tục tống vào
động mạch với tốc độ giảm dần và
ngừng hẳn. Khi ngừng tống máu tâm
thất là bắt đầu thời kỳ tâm trương của
tâm thất.Trên điện tâm đồ ghi được
sóng T báo hiệu sự tái cực của tâm
thất.

*) Tâm thất trương
Khi tâm thất bắt đầu
trương thì sự tống máu từ tâm thất
phải và trái ngừng hẳn. Vì áp suất
trong buồng thất thấp hơn trong động
mạch chủ và động mạch phổi, các
van bán nguyệt phải đóng lại để máu
không đi ngược lại tâm thất. Thời kỳ
này là thời kỳ tiền tâm thất trương
của tâm thất .
Tâm thất trương được chia
ra 2 thời kỳ :
- Thời kỳ thả lỏng của tâm
thất :
Các buồng thất vẫn còn
đóng ở 2 phía vì van bán nguyệt đã
đóng ở sau thời kỳ tiền tâm trương,
Van nhĩ thất vẫn tiếp tục đóng do áp
suất trong buồng thất vẫn cao hơn
trong buồng tâm nhĩ. Lượng máu còn
lại trong buồng tâm thất sau khi kết
thúc thời kỳ tâm thu được gọi là thể
tích cuối tâm thu, nó không thay đổi
trong suốt thơì kỳ tâm trương . Vì
vậy thơì kỳ tâm thất trươngcòn gọi là
thời kỳ đẳng thể tích hay đẳng
trường. Khi áp suất trong buồng thất
thấp hơn buồng nhĩ thì thời kỳ thả
lỏng kết thúc , van nhĩ thất mở ra –
thời kỳ nạp máu từ buồng nhĩ xuống

buồng thất.
-Thời kỳ nạp máu của tâm
thất :Được chia thành 2 pha :
+Pha nạp máu nhanh
: Máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất qua
van nhĩ thấtnhiều nhất ở pha nạp máu
nhanh .
+ Pha nạp máu chậm
tương ứng với sóng P trên điện tâm
đồ , pha này xảy ra trước và trùng
vào thời gian tâm nhĩ thu . Thể tích
máu chứa trong tâm thất ở cuối thời
kỳ tâm trương được gọi là thể tích
cuối tâm trương . Trong một nhịp tim
thể tích đó được quyết định bởi áp
suất nạp máu . áp suất này phụ thuộc
vào lượng máu từ các tĩnh mạch về
tâm nhĩ. Lượng máu từ các tĩnh mạch
về tim càng lớn thì thể tích tâm thu
càng cao.
Thời gian của từng thời kỳ chu
chuyển tim.
Một chu chuyển tim phụ thuộc vào
tần số tim. Với tần số tim là khoảng
70-80 lần/ phút sẽ có chu chuyển tim


là 0,8 giây và được phân ra các thời
kỳ như sau :
- Thời kỳ tâm thu gồm :

+ Tâm nhĩ thu:
0,1s.
+ Tâm thất thu:
0,3s.
- Thời kỳ tâm trương gồm:
+ Tâm nhĩ trương:
0,7s.
+ Tâm thất trường:
0,5s.
- Thời kỳ tâm trương toàn bộ: là cả
tâm nhĩ và tâm thất đều trương 0,4s.

Ảnh hưởng của TDTT đến chu
chuyển tim.
Một chu chuyển tim phụ thuộc vào
tần số tim. Trong hoạt động TDTT,
tần số tim có sự thay đổi thì thời gian
một chu chuyển tim cũng thay đổi
theo. Trong hoạt động cơ bắp, thời kỳ
tâm thu và thời kỳ tâm trương đều
giảm.
Khi Tần số tim tăng,
sự rút ngắn pha co đẳng trường của
tâm thất tỷ lệ thuận với mức tăng Tần
số tim kèm theo tăng tính co bóp của
cơ tim, tăng công suất hoạt động của
tim .
Khi vận động cơ bắp
căng thẳng, Tần số tim tăng tối đa,
pha co đẳng trường có thể bị mất

hẳn , cơ tim co hoàn toàn theo chế độ
đẳng trương , máu được tống ra khỏi
tâm thất trong suốt thời kỳ tâm thu.
Thời gian của thời kỳ tống máu khi
vận động cơ nhẹ nhàng hầu như
không thay đổi công suất. Vận động
cơ tăng dần, Tần số tim tăng thì thời
kỳ tống máu giảm.
Khi Tần số tim tăng thì
thời gian tâm trương ngắn lại . Tần số
tim trong vận động tối đa là 200
lần/phút thì chu chuyển tim là 0,3s.
Và thời gian tâm thu/thời gian tâm
trương là 0,12 s/0,18" = 1/1,5.Thời
kỳ tâm trương của tâm thất từ 0.5
giây trong yên tĩnh rút xuống còn
0.18 giây. Thời kỳ tâm trương là 0.18
giây- pha nạp máu nhanh chỉ còn
0.05-0.1 giây, pha nạp máu chậm mất
đi hoàn toàn . Thời gian của thời kỳ
tâm trương rút ngắn, song lỗ tĩnh
mạch và áp suất tăng cao khi Tần số
tim rất nhanh nên sự nạp máu vào tim
hầu như không bị ảnh hưởng .
Khi Tần số tim tăng quá
cao trong vận động, cơ tim phải đảm
bảo tống được một lượng máu lớn từ
tim vào lòng mạch với hoạt động kéo
dài, cơ tim mệt mỏi, khả năng co bóp
của tim giảm, kết quả là thể tích tâm

thu giảm .

Trong yên tĩnh, tần số
Tần số tim là 70 - 80 lần/1 phút
thì chu chuyển tim là 0,8s. Tỷ lệ
giữa thời gian tâm thu/thời gian
tâm trương là 0,4 s/0,4 s = 1/1.
Tần số Tần số tim của
các VĐV có sự thay đổi trong
yên tĩnh, khoảng 60 lần/ 1 phút
thì chu chuyển tim là 1s và thời
gian tâm thu/ thời gian tâm
trương là 0,4s/ 0,6s = 1/1,5.
Trong hoạt động TDTT, với sự
thay đổi thời gian của chu
chuyển tim thì cả hai đều được
rút ngắn nhưng thời kỳ tâm thu
rút ngắn nhiều hơn thời kỳ tâm
trương bởi vậy lượng máu được
nạp vào tim nhiều hơn.
Trong yên tĩnh
của vận động viên, do sự phì đại
cơ tim nên lưu lượng tâm thu
tăng tần số Tần số tim giảm
nhưng thời kỳ tâm trương keó
dài nên lưu lượng phút vẫn
không giảm. Sự hoạt động của
tim như vậy là biểu hiện tim vận
động viên thích nghi với hoạt
động thể lực.

2. Các chỉ số sinh lý của tim.
Để đánh giá chức
năng của tim trên quan điểm sinh
lý- chỉ số quan trọng nhất của
tim là thể tích phút . Chỉ số này
phụ thuộc vào 2 đại lượng là thể
tích tâm thu và tần số tim.
(1) Tần số tim
a. Khái niệm tần số

VĐV:Trong yên tĩnh, Tần số tim
của VĐV giảm hơn người bình
thường, khoảng 60 lần / phút,
thấp nhất là VĐV sức bền, tiếp
đến là sức nhanh, sức mạnh, hoạt
động tĩnh lực, còn trong hoạt
động tới mức tối đa thì tần số
tim của VĐV lại cao hơn người
bình thường, đó là biểu hiện tính
tiết kiệm của tim VĐV và khả
năng thích ứng với luyện tập .
- Tần số tim là chỉ số
đánh giá cường độ thích nghi
lượng vận động:
Cách 1:Đánh giá bằng
tần số tim tối đa: Tần số tim tối
đa có thể tính bằng công thức:
Tần số tim tối đa: HR max =
220 – tuổi. Như vậy tuổi càng
cao thì tần số tim tối đa càng

giảm.
Cách 2 Đánh giá bằng
tần số tim tối ưu: Là tần số tim ở
đó hiệu suất tuần hoàn đạt công
suất tối đa (Tần số tim khoảng
170 -180 lần/ phút)
- Tần số tim là chỉ số
đánh giá cường độ
bài tập: Trong thể
thao, công suất của
bài tập được xác định
bằng mét/giây, số
lần…hoặc chuyển hóa
năng lượng được xác
định bởi 3 vùng bài
tập:
+ Bài tập ưa khí:
HR < 140lần/phút
+ Bài tập hỗn
hợp: HR
khoảng 140 165lần/phút
+ Bài tập yếm
khí: HR > 165lần/phút
Tần số tim là
chỉ số phản ánh
quãng nghỉ:
+ Quãng nghỉ
ngắn: Tần số
tim sau vận
động chưa trở

về mức ban đầu
+ Quãng nghỉ
đủ: : Tần số tim
sau vận động
bằng tần số tim
trước vận động
hoặc cộng 10%
tần số tim trước
vận động
+ Quãng nghỉ
dài: Tần số tim
sau hồi phục
nhỏ hơn hoặc
bằng tần số tim
tĩnh trước vận
động.
Tần số tim là chỉ số
đánh giá hồi phục
(2)Thể tích tâm thu
a. Khái niệm :Thể
tích tâm thu là lượng máu tống
vào động mạch một lần tim đập (
một lần co bóp ), người thường
60-70ml/1 lần tâm thu. VĐV đạt
giá trị tối đa 160-200ml/1 lần
tâm thu.
b.Yếu tố ảnh hưởng
và đặc điểm biến đổi
Lượng máu tĩnh mạch
trở về tim


(HR

tim
) là số lần tim đập
trong 1 phút hoặc là tần số chu
chuyển tim trong 1 phút. Tần số
tim phản ánh hoạt động của tim.
Tần số tim trong yên
tĩnh ở người bình thường khoảng
70 - 80lần/phút, Tần số tim ở
người bình thường dưới 60
lần/phút là tần số tim chậm, trên
90lần/phút là tần số tim nhanh.
b.Yếu tố ảnh hưởng và đặc
điểm biến đổi
Tần số tim phụ thuộc
vào tình trạng sức khoẻ, yếu tố
tâm lý, tư thế của cơ thể,
Ngoài ra tần số tim
tăng cùng với thể tích tâm thu.
Khi tần số tim tăng lên 3 lần so
với yên tĩnh thì thể tích tâm thu
cũng tăng lên tương ứng, thể tích
phút sẽ tăng lên gấp 6 -7 lần so
với yên tĩnh ở hoạt động sức bền
ưa khí tối đa.
Tần số tim còn phụ
thuộc theo lứa tuổi lứa tuổi giới
tính,. Tuổi nhỏ tần số tần số tim

cao, Tần số tim từ 130 lần/ phút
sau sinh giảm dần xuống 75 ở
lứa tuổi trưởng thành và tăng lên
nhẹ ở tuổi già. Ở nữ tần số tim
cao hơn so với nam.
Trong hoạt động, tần
số tim phụ thuộc vào công suất
vận động,HR tăng tỷ lệ thuận,
tần số tim cao nhất ở bài tập
công suất tối đa, tần số tim tăng
tối ưu ở bài tập công suất dưới
tối đa.
Tần số tim phụ thuộc
vào trình độ tập luyện của VĐV.
c. Ý nghĩa :
- Tần số tim là chỉ số
đánh giá trình độ tập luyện của

4

Tốc độ dòng máu tĩnh
mạch trở về tim trong một đơn vị thời
gian. Thời gian dòng máu tĩnh mạch
trở về tim càng nhỏ thì tần số tần số
tim càng cao.
Tần số tim có ảnh hưởng
đến thể tích tâm thu: Giữa kích thước
buồng tâm thất và thể tích tâm thu có
mối tương quan tỷ lệ thuận, kích thước buồng tim càng lớn thì thể tích
tâm thu càng cao.

Ngoài ra thể tích tâm thu
còn phụ thuộc vào lực bóp của cơ
tim, thể tích máu đọng trong tim, vào
tư thế của cơ thể. ở người bình thường, thể tích tâm thu khoảng 6070ml. ở tư thế nằm ngang, các điều
kiện cơ học đảm bảo cho máu về tim
dễ dàng, thể tích tâm thu của người
không tập luyện là 100ml. Hoạt động
cơ bắp vẫn trong tư thế nằm, thể tích
tâm thu khoảng 100 -120ml.
Thể tích tâm thu tối đa
phụ thuộc vào giới tính: ở phụ nữ trẻ,
trong tư thế nằm tĩnh là 70ml, hoạt
động cơ bắp là 100ml. Do kích thước
buồng tim của nữ nhỏ hơn, thể tích
tâm thu của nữ nhỏ hơn của nam giới
25%. Phụ thuộc vào tư thế, máu tĩnh
mạch trở về tim ở tư thế đứng ít hơn
tư thế nằm. Bởi vậy thể tích tâm thu
của người khi ở tư thế nằm cao hơn tư thế đứng 30 - 40 %
Thể tích tâm thu phụ
thuộc vào lượng máu tuần hoàn
chung, giữa hai đại lượng này có mối
tương quan dương tính rất cao.
Những người có lượng máu tuần
hoàn chung cao thì thể tích tâm thu
cao.
Thể tích tâm thu phụ
thuộc vào lứa tuổi: ở người già thấp
hơn người trưởng thành khoảng 20%,
giảm thể tích tâm thu ở người cao

tuổi có thể do khả năng co bóp cơ tim
giảm
Ở mức độ nhất định, thể
tích tâm thu tăng cùng với công suất
vận động. ở nhiều người, thể tích tâm
thu đạt tới mức tối đa khi vận động
với lượng vận động chỉ đòi hỏi gần
40% mức hấp thụ O2 tối đa của người
đó. Khi công suất vận động tiếp tục
tăng thì tần số tim cũng tăng, thời
gian nạp máu vào tâm thu bị rút ngắn
sẽ gây cản trở sự tăng thể tích tâm
thu.
Trong yên tĩnh:Thể tích tâm thu
sẽ hơi giảm ở các VĐV khi
trình độ tập luyện tăng lên do
công suất co bóp của tim giảm .
Điều đó chứng tỏ tim hoạt động
kinh tế hơn trong nghỉ ngơi.
Khi hoạt động TDTT
+Thể tích tâm thu
hầu như không thay đổi so với
người bình thường khi cơ thể
VĐV hoạt động ở bài tập công
suất tối đa.
+Thể tích tâm thu tăng
lên trong các bài tập công suất
lớn và trung bình, đạt cao nhất
từ 180 – 200 ml ở bài tập công
suất dưới tối đa

c.Ý nghĩa
Là chỉ số để đánh giá trình
độ tập luyện của VĐV
(3). Thể tích phút của
tim:
a. khái niệm : Thể tích


phút của tim Là khối lượng máu tim
tống ra động mạch trong một phút.
Trung bình khối lượng
máu tống vào động mạch của tâm
thất vào khoảng 4-5l/phút. Lượng
máu từ tâm thất trái bơm vào vòng
tuần hoàn lớn, tâm thất phải đẩy vào
vòng tuần hoàn nhỏ cân bằng nhau.
b.Yếu tố ảnh hưởngvà đặc
điểm biến đổi
- Kích thước cơ thể: ở đàn
ông, giao động từ 4 - 6 l/phút, phụ nữ
3-5l/phút. Để có thể so sánh thể tích ở
những người có kích thước cơ thể
khác nhau, người ta sử dụng chỉ số
tim. Đó là tỷ lệ thể tích phút với diện
tích bề mặt của cơ thể. Chỉ số tim
trong yên tĩnh 3-3.5l/ph/m2. Hoạt
động cơ bắp có liên quan đến hoạt
động tuần hoàn cần phải vận chuyển
đến các cơ đang vận động một lượng
máu chứa nhiều ôxy. Bởi vậy, hoạt

động của tuần hoàn có liên quan trực
tiếp đến trao đổi chất của cơ thể được
đo bằng khả năng hấp thụ O2.
- Thể tích phút là chỉ số
chung tổng hợp cho sự hoạt động của
tim. Chỉ số này phụ thuộc vào thể
tích tâm thu và tần số tim. Công thức
tính thể tích phút theo quy ước quốc
tế như sau : CO = SV x HR hoặc Q
= Qs x fc
Q - CO : thể tích phút; Qs - SV : thể
tích tâm thu ; fc - HR là tần số tim:
Từ công thức trên,
thể tích phút có thể thay đổi khi thay
đổi một trong hai đại lượng.Ví dụ,
trong điều kiện yên tĩnh, tần số tim
bình thường của người trưởng thành
là 70l/phút, thể tích tâm thu 70ml, thể
tích phút sẽ là :
Q = Qs x fc = 70ml x 70l/phút
= 4.9 lít/phút
Khi vận động ưa khí tối
đa, tần số tim đạt 200lần/phút, thể
tích tâm thu tăng lên 180 - 200ml, thể
tích phút ( 180 -200ml x 200lần/phút
= 36 - 40l/phút ) lên gấp 6 -7 lần so
với yên tĩnh. ở phụ nữ, thể tích tâm
thu trong hoạt động ưa khí tối đa nhỏ
hơn và thể tích phút cũng nhỏ hơn
nam. ( 120 -160ml x 200lần/phút =

24 - 32l/phút )
*Đo thể tích phút
bằng 2 phương pháp :
-Phương pháp trực
tiếp của Fick:
VO2 = CO x hiệu số
O2 động tĩnh mạch
VO2 : hấp thụ O2
( lít/phút ) ; CO: thể tích phút
( lít/phút);
Hiệu số O2 động
mạch tĩnh ( 19% - 13% = 6%).
Các đại lượng này được xác định gồm:
Sự hấp thụ O2 của
cơ thể
Hàm lượng oxy
trong máu động mạch , lấy máu ở
động mạch cánh tay của vòng tuần
hoàn lớn.
Hàm lượng oxy
trong máu tĩnh mạch, lấy máu ở tĩnh
mạch chủ buồng tim phải.
Ví dụ: hấp thụ oxy
trong yên tĩnh 250 - 300ml O2/phút.
O2 trong máu động
mạch 19% thể tích.
O2 trong máu tĩnh

mạch 13% thể tích.
Từ đó ta suy ra

để vận chuyển được 250 - 300ml
O2/ phút tim cần phải bơm 250300 x 100/6 = 4.0 - 5.0 lít/phút
- Phương pháp
pha chất chỉ định đã biết trước
(1) Người ta tiêm chất đó vào
tĩnh mạch nơi gần tim nhất . Chất
chỉ định chảy qua tim, phổi rồi
vào máu động mạch. Nếu đo liên
tục nồng độ chất chỉ định (C)
trong máu lấy ra từ máu động
mạch của vòng tuần hoàn lớn
trong một thời gian nhất định (t)
thì thể tích phút được tính theo
công thức : Co = I/C x t.

Đặc điểm biến đổi
- Trong yên tĩnh: Thể tích phút
củaVĐV giảm hơi thấp so với
người thường do nhu cầu về máu
của tổ chức thấp hơn vì họ có
khả năng sử dụng oxy từ máu tốt
hơn .
- Trong hoạt động TDTT
Thể

tích

làm cho động mạch hẹp, giảm
lượng máu đi qua. Tính chất này
có tác dụng điều hoà máu đến

các cơ quan. Các động mạch nhỏ
có tính co thắt cao, vì thành động
mạch có nhiều cơ trơn.
b.Áp suất động
mạch trong chu
kỳ tim
Áp suất động mạch trong chu kỳ
tim được ghi lại ở các phần của
động mạch bằng phương pháp
nghe, bằng phương pháp giao
động, huyết áp kế tự động điện
tử. áp suất của máu động mạch
được tính bằng milimet thuỷ
ngân (mmHg), đôi khi dùng cm
H2O.
Áp suất trong tuần hoàn động
mạch được gọi là huyết áp động
mạch
Khái niệm huyết áp
động mạch: Là áp lực của dòng
máu tác động lên thành động
mạch.Huyết áp của người thường
có trị giá là 120/ 80 mmHg
Phân loại huyết áp
động mạch có 4 thông số:
- Huyết áp tối đa : ( Ps) Là trị số
huyết áp động mạch lúc cao nhất
trong chu kỳ tim ứng với thời kỳ
tâm thu. Thông số này phản ánh
lực co của tâm thất.

Huyết áp tối đa ở
người bình thường là 110 - 130
mmHg. Giới han min : 90
mmHg, Max là 140 mmHg. Nếu
huyết áp tối đa dưới 90mmHg là
huyết áp thấp, huyết áp tối đa
trên 140mmHg là huyết áp cao.
Nếu Ps lớn hơn hoặc bằng 160
mmHg là bệnh tăng huyết áp.
- Huyết áp tối thiểu: Là trị số
huyết áp thấp nhất trong chu kỳ
tim, ứng với thời kỳ tâm trương.
Thông số này phản ánh trương
lực của thành mạch.
Huyết áp tối thiểu ở
người bình thường khoảng 70 90mmHg, Giới hạn min là 50
mmHg, Max là 90 mmHg.
Trong một số trường
hợp tăng huyết áp , nếu huyết áp
tối đa tăng cao chưa gây trở ngại
nhiều cho tim nhưng nếu cả hai
thông số huyết áp đều tăng cao,
ví dụ huyết áp tối đa tăng trên
160 mmHg, Huyết áp tối thiểu
trên 95 mmHg thì gánh nặng đối
với tim rất lớn, trong điều kiện
như vậy, tâm thất sẽ phì đại ở
những người bệnh lý do phải
thắng áp lực cao ở hệ động mạch,
cuối cùng là dẫn đến suy tim.


phút

củaVĐV hầu như không thay đổi
so với

bình thường khi hoạt

động ở bài tập công suất tối đa.
Thể tích phút tăng lên
trong các bài tập công suất
lớn và công suất trung
bình, đạt cao nhất có thể
đạt 35 – 40 lít/ phút ở bài
tập công suất dưới tối đa.
c.Ý nghĩa
Là chỉ số để đánh giá
trình độ tập luyện của VĐV
4. Sinh lý tuần hoàn động
mạch
a..Tính chất chung của
tuần hoàn động mạch
Máu từ tim đẩy
ra động mạch, các phần của động
mạch giãn ra tạo ra áp suất. Sự
chênh lệch áp suất đó ở tim và
các phần động – tĩnh mạch là yếu
tố thúc đẩy máu di chuyển trong
mạch máu .
Sinh lý tuần

hoàn động mạch
Động mạch là những
mạch máu vận chuyển máu từ
tim đến tổ chức tế bào. Từ động
mạch chủ chia ra nhiều động
mạch nhỏ, càng xa tim thiết diện
của động mạch càng nhỏ, bởi vậy
máu chảy trong động mạch càng
xa tim vận tốc của nó càng giảm.
Tính chất sinh lý của
động mạch
- Tính đàn hồi của
thành mạch: Động mạch có khả
năng giãn và co. Khi máu vào
động mạch, ngay lập tức mạch
máu giãn to và khi máu ra khỏi
phần động mạch đó thì mạch
máu thu nhỏ lại trở về vị trí ban
đầu. Nhờ tính đàn hồi của thành
mạch mà dòng máu chảy liên
tục, tăng thể tích máu mỗi lần
tâm thu.
Tính co thắt: Đó là
khả năng của động mạch co lại

- Huyết áp hiệu số là
sự chênh lệch giữa huyết áp tối
đa và huyết áp tối thiểu.Bình
thường hiệu số huyết áp là
120mmHg

40mmHg.

5

-

80mmHg

=

Thông số này phản
ánh hiệu lực của một lần tống máu
của tim. Hoạt động cơ cần có khối
lượng máu đến với cơ nhiều hơn, khi
đó hiệu số huyết áp tăng cao, có thể
tới 70 - 80 mmHg.
Hiệu số huyết áp
tăng có quan hệ với hệ số cung cấp
máu cho cơ hoạt động và tần số nhịp
tim, trong điều kiện yên tĩnh cũng
như trong điều kiện vận động, hiệu số
huyết áp của các VĐV đều tăng cao
hơn mức bình thường, điều này
chứng tỏ hệ số cung cấp máu của
VĐV cao hơn bình thường. Ngược
lại, nếu hiệu số huyết áp giảm có
nghĩa là huyết áp tâm thu gần với
huyết áp tâm trương - được gọi là kẹt
huyết áp. Hiện tượng kẹt huyết áp là
khả năng bơm máu của tim giảm.

Huyết áp trung bình: Là trị số huyết
áp biến động trong chu kỳ tim.
Huyết áp trung bình không nằm ở trị
số huyết áp tâm thu và huyết áp tâm
trương mà gần với huyết áp tâm
trương hơn
Người bình thường,
huyết áp trung bình
90-100 mmHg .
Công thức tính :
huyết áp tối thiểu +
1/3 huyết áp hiệu số.
80 + 40/3 = 93 mmHg
Các yếu tố ảnh hưởng
Huyết áp phụ thuộc vào 3
yếu tố chính là : Lưu lượng tim, tính
chất máu và mạch máu.
- Lưu lượng tim : phụ thuộc vào thể
tích tâm thu và tần số nhịp tim. Nếu
các chỉ số trên tăng thì huyết áp tăng.
Thể tích tâm thu lại phụ thuộc vào
lực bóp cơ tim và nhịp tim
+ Lực bóp của tim: Khi
tim co bóp mạnh lượng máu tống vào
động mạch nhiều dẫn đến thể tích
tâm thu tăng và lưu lượng tim tăng
làm cho huyết áp tăng.
+ Khi tim đập chậm thì
huyết áp giảm,khi tim đập nhanh thì
huyết áp tăng.

- Máu :
+ Độ nhớt của máu tăng
thì huyết áp tăng, và
ngược lại.
+ Thể tích máu tăng làm
huyết áp tăng và ngược lại
mất máu làm thể tích máu
giảm thì huyết áp giảm.
-Mạch máu :
+Lực cản của dòng
máu (R) là sự chống lại (cản trở)dòng
máu chảy trong mạch máu. Lực cản
R = 8 Ln /π. r4 . Lực cản của mạch
máu tỷ lệ thuận với chiều dài của
mạch máu ( L) và độ nhớt (n) của
máu, tỷ lệ nghịch với luỹ thừa bậc
bốn của bán kính r.
+ Đường kính mạch máu
có ảnh hưởng đến huyết áp . Khi
mạch máu co gây tăng huyết áp,
mạch máu giãn làm huyết áp giảm.
+ Tính đàn hồi thành
mạch kém gây tăng huyết áp. ở người
già và đặc biệt ở những ngừơi sơ vữa
động mạch do mạch kém đàn hồi nên
huyết áp tăng
*Đặc điểm biến đổi
-Trong yên tĩnh: Khi
VĐV có trình độ tập luyện tăng lên,



huyết áp có xu hướng tăng, song vẫn
nằm trong giới hạn bình thường theo
lứa tuổi và giới tính.
- Khi vận động tối đa: Ở
VĐV, huyết áp tối đa tăng nhanh và
giữ mức 180 -200 mmHg, huyết áp
tối thiểu nói chung biến đổi ít trong
hoạt động căng thẳng còn trong hoạt
động kéo dài nó có thể giảm xuống.

6


SINH LÝ HỆ HÔ HẤP
1.Các khái niệm về hô
hấp và hiện tượng cơ học của quá
trình hô hấp
a.Các khái niệm về hô
hấp
Hô hấp là quá trình
trao đổi ôxy và CO2
giữa cơ thể với môi
trường bên ngoài.Hô
hấp được chia làm 2
loại
Sơ đồ hô hấp ngoài, hô hấp trong
Hệ hô
hâp Máu
Tim mạch

O2+ Hb

HbO2
O2

O2
CO2

Không khí

CO2
CO2 + Hb

HbCO2

- Hô hấp ngoài: Là quá trình vận
chuyển ôxy từ ngoài vào máu thông
qua hệ hô hấp và đào thải CO 2 từ máu
ra ngoài.
Đảm nhiệm chức năng hô hấp ngoài
là vòng tuần hoàn nhỏ: Trao đổi khí ở
phổi.
- Hô hấp trong :Hay còn gọi là hô
hấp tế bào là quá trình trao đổi ôxy
và CO2 giữa máu và tế bào
Đảm nhiệm chức năng hô hấp trong
là vòng tuần hoàn lớn : Trao đổi khi
xảy ra tại tế bào.
b. Hiện tượng cơ học của
quá trình hô hấp

Hô hấp được thực hiện
nhờ vào sự cử động của lồng ngực, sự
chênh lệch áp suất trong khoang
ngực, trong phế nang và co giãn của
các cơ hô hấp tạo dòng không khí từ
ngoài vào phổi và từ phổi đi ra ngoài.

Áp suất âm trong khoang
màng phổi.
Áp suất âm trong khoang màng phổi
được tạo thành giữa 2 lá thành và lá
tạng.
Lá thành : Bọc mặt trong của thành
lồng ngực .
Lá tạng : Bọc lên bề mặt ngoài của
phổi, có áp suất 753 mmHg thấp hơn
áp suất của khí quyển (760mmHg) là
7 mmHg, áp suất này gọi là áp suất
âm, áp suất này có sự thay đổi khi
thực hiện động tác hít vào. Bình
thừơng (– 7 )mmHg, Hít vào sâu
xuống (- 30) mmHg, Khi thở ra (-4)
mmHg, Thở ra gắng sức áp suất âm
xấp xỉ bằng không( bằng hoặc hơi
tăng hơn áp suất khí quyển( +1) đến
(+2) mmHg.
*Vai trò của áp suất âm:
+ Giúp cho máu từ tĩnh mạch về tim
được dễ dàng.
+ Giúp cho máu từ tim phải lên phổi.

+ Giúp cho sự trao đổi khí đạt mức
tối đa.
+ Giúp cho phổi di động theo hướng
thay đổi của lồng ngực.

Cơ chế hít vào :

Để thực hiện động tác hít vào
thể tích lồng ngực tăng theo 3
chiều:
Phải
trái,Trước
sau,Trên dưới.
+ Khi cơ hoành co,
vòm cơ hoành hạ xuống, ép các
cơ quan nội tạng trong khoang
bụng dưới làm cho thể tích lồngg
ngực tăng theo chiều trên dưới.
+ Khi cơ liên sườn
ngoài co nâng các xương sườn
lên làm cho thể tích lồng ngực
tăng theo chiều phaỉ trái và trước
sau.
+ Ngoài ra có một số
cơ phụ tham gia như cơ thang, cơ
ức đòn chũm, cơ răng to.
* Khi hít vào, lượng
không khí vào phổi nhiều hay ít
tuỳ thuộc vào lực co của cơ hô
hấp. Ví dụ cơ hoành hạ 1 cm, thì

làm cho thể tích lồng ngực tăng
250 cm3. Khi hít vào bình
thường, cơ hoành hạ xuống 4 cm.
Hít vào gắng sức cơ hoành hạ
xuống 7- 8cm. Động tác hít vào
là động tác tích cực được thực
hiện do năng lượng của cơ hoành
và cơ liên sườn ngoài.

Cơ chế thở ra .
Thở ra là cơ chế thụ
động, Khi thở ra, các cơ hô hấp
giãn ra, lồng ngực xẹp xuống,
đẩy không khí ra ngoài. cử động
của lồng ngực khi thở ra ngược
chiều với động tác hít vào. Khi
thở ra là hoạt động theo ý muốn
có thêm vai trò của cơ liên sườn
trong tham gia
Các cơ liên sườn
trong co có tác dụng hạ thấp các
xương sườn hạ xuống xích lại
gần nhau, ép lồng ngực xẹp
xuống cũng làm cho thể tích lồng
ngực giảm.
Cơ thẳng bụng co
đẩy các bộ phận nội tạng bụng ở
dưới ép sát lên vòm cơ hoành về
phía lồng ngực. Ngực thu nhỏ,
phế nang thu nhỏ , áp suất phế

nang tăng đẩy thêm một lượng
không khí ra khỏi phổi được gọi
là thể tích khí dự trữ thở ra.
2. Các thông số chức năng
hô hấp
(1) Tần số hô hấp.
a- Khái niệm: Tần số hô hấp là số
lần thở trong khoảng thời gian 1
phút.
- Tần số hô hấp ở người bình
thường 16 -20 lần/1 phút.
ở vận động viên giảm xuống còn
9-10 lần/1 phút khi vận động tần
số hô hấp tăng lên đạt giá trị tối
đa để phù hợp với nhu cầu ôxy
mà cơ thể đòi hỏi.
b. Tần số hô hấp phụ thuộc vào:
+ Lứa tuổi, giới tính.
+ Trình độ tập luyện.
+ Trạng thái sức khoẻ.
+ Yếu tố tâm lý...
(2). Dung tích phổi toàn phần
a- Khái niệm: Dung tích phổi
toàn phần là tổng lượng khí tối
đa có được trong phổi .ở người
bình thường từ 4 - 6 lít. Thành
phần của dung tích phổi gồm:
+ Thể tích thở bình thường(VT):
Là thể tích không khí thực hiện
trao đổi do hít vào và thở ra bình


thường trong một nhịp thở khoảng 500ml.
+ Thể tích khí hít vàodự trữ
(IRV): Là thể tích không khí do
hít vào hết sức sau khi hít vào
bình thường, khoảng 1500ml.
+ Thể tích khí dự trữ thở ra
(ERV): Là thể tích không khí do
thở ra hết sức sau khi thở ra bình
thường khoảng 1500ml. Ba loại
khí trên tạo thành dung tích sống.
+Thể tích cặn( RV):Là thể tích
không khí chứa ở trong phổi sau
khi thở ra tối đa nhưng không thể
đưa lượng khí đó ra được, còn
gọi là không khí cặn chức năng
Khoảng 1200 - 1500m.( Vẽ hình
các thể tích khí hô hấp ).
Khái niệm dung tích sống
Tếb.( VC
bào
): Dung tích sống là lượng
khí thở ra tối đa sau 1 lần hít vào
hết sức. ở người bình thường
dung tích sống khoảng 3500ml.
Dung tích sống phụ thuộc vào:
+ Lực cơ hô hấp.
+ Số lượng phế nang tham gia.
+ Lứa tuổi, giới tính.
+ Trình độ tập luyện.

+ Đặc thù môn thể thao.
c. Sự biến đổi dung tích sống do
ảnh hưởng của tập luyện TDTT
Dung tích sống của
người bình thường khoảng 3,5
lít, của các VĐV có thể đạt tới 5
-7 lít .Dung tích sống phụ thuộc
đặc thù môn thể thao trong vận
động dung tích sống tăng lên.
Dung tích sống tăng cao ở các
vận động viên bơi lội, bóng
nước, bơi nghệ thuật, chạy sức
bền ưa khí 6-7 lít.Dung tích sống
thay đổi chủ yếu là không khí lưu thông ,chỉ số không khí lưu
thông tăng lên tiến đến giới hạn
của dung tích sống(từ 500-20002500ml).
Người ta dùng chỉ số
dung tích sống để đánh giá trình
độ tập luyện của VĐVở các môn
thể thao mang tính chu kỳ và các
môn thể thao không hạn chế thở.
Chỉ số Lorenls = dung
tích sống( ml) /chiều cao (cm)
(3).Thông khí phổi.
a. Khái niệm thông khí phổi: Là
lượng khí ra vào phổi trong
khoảng thời gian 1 phút.
ở người bình thường thông khí
phổi khoảng 8 - 9 lít/1 phút.
- Thông khí phổi được tính bằng

tích của tần số hô hấp (f) và thể
tích khí lưu thông (VT)
V =(VT)x f = 18 lần/1
phút x 500 ml = 9000ml = 9 lít.
b- Khái niệm thông khí phổi tối
đa: (MVV hoặc (MBC))
Là lượng khí hít vào và thở ra
tối đa trong khoảng thời gian 1
phút.
Người
bình
thường thông khí phổi tối đa đạt
100 lít/1 phút.
Vận động viên khi f
= 60 -70 lần/ phút thì MVV =
140 - 160 lít/phút.
c- Các yếu tố ảnh hưởng đến
thông khí phổi tối đa.
+ Lực cơ hô hấp.
+ Kích thước của
lồng ngực.

7

+ Lực cản của đường dẫn
khí.
+ Sự đàn tính của phế
nang.
+ Số lượng phế nang tham
gia vào quá trình hô hấp.

+ Thông khí phổi tối đa
tăng dần theo lứa tuổi đến 20-25 tuổi
đạt cao nhất và sau đó giảm dần
(Astrand - 1960).
+ Trình độ tập luyện
+ Đặc thù môn thể thao:
Bơi lội, điền kinh (hoạt động ưa khí
tối đa) có thông khí phổi tối đa. Các
môn khác như các môn bóng, võ vật,
thể dục chỉ đạt % của thông khí phổi
tối đa
* Trong hoạt động TDTT,
thông khí phổi tăng phụ thuộc vào
công suất vận động. Công suất vận cơ
tăng thì thông khí phổi tăng và có thể
đạt tối đa 140 -160 lít/phút ở bài tập
công suất dưới tối đa.
(4). Hấp thụ ôxy của cơ thể.
a. Khái niệm hấp thụ ôxy: Là khả
năng tiếp nhận lượng ôxy từ bên
ngoài đưa vào tế bào nhằm mục đích
thực hiện chức năng trao đổi chất.
Hấp thụ ôxy của cơ thể người bình
thường khoảng 250-300 ml/phút.
b. Khái niệm hấp thụ ôxy tối đa
(VO2max):
Là khả năng hấp thụ ôxy lớn nhất của
cơ thể trong thời gian 1 phút với công
suất của tuần hoàn và hô hấp đạt tới
giá trị tối đa.

Người
bình
thường
VO2max khoảng 2-3 lít/phút.
ở vận động viên 4-5 lít/1
phút.
c- Phân loại VO2max: Có 2 loại.
- VO2max tuyệt đối được tính bằng
lít/phút.
- VO2max tương đối được tính bằng
ml/kg/phút.
d- Những điều kiện đạt tới khả năng
hấp thụ ôxy tối đa.
- Phải bão hoà ôxy.
- Tần số nhịp tim đạt 180 lần/phút.
- Nồng độ Axitlactic trong máu
không thấp hơn 80-100 mg%.
e- Cácyếu tố ảnh hưởng đến hấp thụ
ôxy tối đa Có 2 yếu tố chính là :
- Hệ vận chuyển ô xy : Bao gồm hệ
máu,hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ
thống này quyết định khả năng đưa ô
xy từ ngoài qua phổi vào máu đến tế
bào, mô.
- Hệ sử dụng ô xy : Hệ cơ hoạt động
sẽ quyết định khả năng sử dụng ô xy
của các cơ tham gia vào vận động. Số
lượng cơ tham gia càng nhiều thì khả
năng sử dụng ô xy càng lớn.
Ô xy từ môi trường bên

ngoài được đưa vào máu là cần thiết
để nồng độ ô xy trong máu động
mạch đạt giá trị tối đa .Quá trình này
được quyết định bởỉ thông khí phổi
và khả năng thẩm thấu, khuyếch tán
của màng phổi.
Quá trình vận chuyển ô xy
từ phổi đến tổ chức phụ thuộc vào
máu và hệ tim mạch, Nồng độ ô xy
trong máu động mạch có ý nghĩa rất
lớn trong việc hấp thụ ô xy tối đa của
tế bào, mô và khả năng kết hợp giữa
ô xy và hemoglobin trong máu. Khả
năng hấp thụ ô xy tối đa còn phụ
thuộc vào lưu lượng và độ nhớt của
máu, lưu lượng phút là yếu tố chính


quyết định khả năng hấp thụ ô xy tối
đa của cơ thể Lưu lượng phút càng
lớn thì khả năng vận chuyển ô xy
càng cao và do đó hấp thụ ô xy tối đa
dễ đạt được.
Quá trình hoạt động cơ cũng
ảnh hưởng đến khả năng hấp
thụ ô xy tối đa .Sự phân phối
máu cho các cơ hoạt động càng
cao thì khả năng hấp thụ ô xy
càng lớn. Ngoài ra ,hệ thống
mao mạch ngoại biên vận

chuyển máu nhiều cũng ảnh
hưởng đến khả năng hấp thụ ô
xy tối đa. Khả năng hấp thụ ô
xy tối đa chỉ thể hiện rõ khi vận
động có sự tham gia của 50%
trọng lượng cơ tích cực trở lên,
lúc đó chúng ta mới xác định
được khả năng hấp thụ ô xy tối
đa
e. Các yếu tố hạn chế khả năng
hấp thụ ô xy tối đa
- Lượng thông khí phổi chưa
đạt tới mức tối đa trong vận
động
- Trong thời gian vận động rất
nặng, khi khả năng hấp thụ ô xy
đã đạt mức tối đa mà lượng
thông khí phổi vẫn tiếp tục tăng
thì khả năng hấp thụ ô xy dừng
lại ở mức tối đa hoặc hơi giảm
- Lực cản cơ học
- Khả năng hấp thụ ô xy tối đa
còn hạn chế bởi hệ vận chuyển
ô xy và hệ sử dụng, tiêu thụ ô
xy.
Tốc độ hấp thụ ô xy
trong hoạt động cơ tăng dần đến
khi nào cơ thể xuất hiện trạng
thái ổn định thật. Ở một thời
điểm nhất định, khả năng hấp

thụ ô xy tương ứng với nhu cầu
ô xy trạng thái đó gọi là trạng
thái ổn định thật. Khi công suất
vận động tăng dần với tần số
mạch khoảng 170 -180 lần/
phút, trạng thái ổn định không
được hình thành, mà hấp thụ ô
xy có thể tăng dần đạt VO 2 max.
Mức độ hấp thụ ô xy tối đa
không thể duy trì được lâu, bởi
vậy khi hoạt động thời gian dài,
khả năng hấp thụ ô xy sẽ giảm
vì mỏi mệt xuất hiện trong hệ
vận chuyển ô xy
Tốc độ vận chuyển ô
xy là một trong những yếu tố
quan trọng quyết định khả năng
hấp thụ ô xy. ô xy đưa vào máu
một phần nhỏ hòa tan trong
huyết tương, còn phần lớn ô xy
kết hợp với Hb. Khi ở nhiệt độ
O0c và áp suất 760 mmHg, cứ
100g Hb có thể kết hợp được
với 135ml ô xy, ở máu người có
thân nhiệt khoảng 36, 20c - 370c
thì khả năng kết hợp thấp
hơn.Trong yên tĩnh, tim đẩy đi
được 4 -5 lít máu/ phút thì sẽ có
250 - 300 ml ô xy được hấp thụ.
Hoạt động với công suất cao, ở

BT công suất dưới tối đa, thể
tích phút của tim tăng lên 30 34 lít máu/ phút, với lượng máu
này chuyển tải ô xy đến tế bào
mô có 5 - 6 lít ô xy / phút được
hấp thụ. Công suất hoạt động
tăng, lượng khí CO2 và các sản
phẩm của quá trình trao đổi chất

tăng tạo điều kiện cho sự
phân ly Hb O2 và giải
phóng ô xy.

8


3. Hô hấp trong vận động
Hô hấp trong vận động được
đánh giá bằng 2 chỉ số : Nhu cầu ôxy
và khả năng hấp thụ ô xy . mối quan
hệ giữa chúng là đại lượng cơ bản để
xác định trạng thái ổn định .
Khi khả năng hấp thụ ô xy không
thoả mãn được nhu cầu, khả năng hấp
thụ ô xy trong thực tế thấp hơn so
với nhu cầu là trạng thái ổn định giả.
* Đặc điểm của trạng thái ổn định
giả.
-Nợ ô xy tăng dần đạt tới giới hạn, nợ
ô xy 18 - 20 lít/ phút ở bài tập công
suất dưới tối đa và bài tập công suất

lớn.
- Năng lượng cung cấp cho hoạt động
cơ theo con đường yếm khí.
- Các chỉ số sinh lý khác duy trì ở
mức độ cao và đạt tới tối đa hoặc gần
tối đa.
- Hoạt động cơ trong trạng thái ổn
định giả không thể kéo dài
* Đặc điểm của trạng thái ổn định
thật .
- Khả năng hấp thụ ô xy trong thực tế
luôn thoả mãn với nhu cầu ô xy trong
vận động là trạng thái ổn định thật
xuất hiện ở bài thật công suất trung
bình.
- Không gây nợ ô xy
- Năng lượng cung cấp cho hoạt động
cơ theo con đường ưa khí
- Các chỉ số sinh lý khác duy trì ở
mức độ thấp
- Hoạt động cơ trong trạng thái ổn
định thật duy trì trong thời gian dài
trên 2 giờ
1. Nhu cầu ôxy
- Khái niệm: Nhu cầu ôxy là lượng
ôxy cần thiết cho quá trình ôxy hoá
các hợp chất hữu cơ giải phóng năng
lượng cho cơ thể hoạt động.
Trong hoạt động nhu cầu ôxy tỷ lệ
thuận với công suất hoạt động và tỷ

lệ nghịch với thời gian vận động .
Vídụ : Nhu cầu ôxy ở bài tập công
suất tối đa là 40- 50lít /phút.
Nhu cầu ôxy ở bài
tập công suất dưới tối đa là 20-24
lít/phút.
Nhu cầu ôxy ở bài
tập công suất lớn là 4 - 5 lít/phút.
Nhu cầu ôxy ở bài
tập công suất trung bình là 3-4
lít/phút.
- Cách tính nhu cầu ôxy.
+ Nhu cầu ôxy tính theo phút: Lượng
ôxy cần thiết cho cơ thể hoạt động
trong thời gian 1 phút.
VD: Nhu cầu ôxy ở bài tập 100m là
7-8 lít/10", tính ra phút là 42 - 48
lít/phút.
+ Nhu cầu ôxy tính theo tổng nhu cầu
ôxy cần thiết trong và sau vận động.
VD: Nhu cầu ô xy ở bài tập 800m là
20lít /1p .Vậy trong thời gian chạy
800m mất 2 phút thì nhu cầu ô xy là
40lít
- Giải quyết nhu cầu ôxy trong vận
động.
+ Tăng công suất tuần hoàn đạt giá trị
tối đa về thể tích phút, thể tích tâm
thu của tim
Tăng công suất hô hấp, thông khí

phổi đạt giá trị tối đa
+ Tăng tốc độ phân ly HbO2, cung cấp
ôxy cho tổ chức cơ hoạt động.
2 . Nợ ôxy trong vận động.

Hiệu số giữa nhu cầu
ôxy trong vận động và ôxy hấp
thụ được trong thực tế được gọi
là nợ ôxy. Sự tạo thành các chất
trong quá trình chuyển hoá yếm
khí. Để đào thải các chất đó, có
thể thực hiện được bằng con
đường ôxy hoá chúng đến sản
phẩm cuối cùng là H2O và CO2
hoặc tái tổng hợp thành chất ban
đầu. Quá trình này cần có lượng
ôxy bổ sung. Vì vậy trong hoạt
động với thời gian ngắn, sau khi
ngừng vận động, lượng ô xy vẫn
tiếp tục hấp thụ ở mức độ cao để
trang trải thiếu hụt ôxy trong vận
động .
- Khái niệm nợ ôxy: Là lượng
ôxy cần thiết để đốt cháy hoàn
toàn lượng Axitlactic sản sinh ra
trong vận động.
- Giới hạn nợ ôxy ở người bình
thường là 10 lít/ ôxy/1 phút, vận
động viên 18 - 20 lít ôxy/1 phút.
- Nợ ôxy trong vận động phụ

thuộc vào:
Công suất hoạt động, Thời gian
duy trì. Công suất hoạt động
khác nhau thì nợ ôxy khác nhau
Ví dụ : Bài tập công suất tối đa
nợ ô xy chiếm 90-95%
Bài tập công suất dưới
tối đa nợ ô xy chiếm 80-85 %
Bài tập công suất lớn nợ
ô xy chiếm khoảng 15 %
Bài tập công suất trung
bình nợ ô xy chiếm khoảng 5 %.
Lượng axitlactic càng được hình
thành nhiều trong vận động thì
nợ ô xy càng tăng, đạt tới giới
hạn nợ ô xy ở bài tập công suất
dưới tối đa (bài tập sức bền tốc
độ )
- Nợ ôxy trong vận động phân
làm 2 loại:
+ Nợ ôxy không có
axitlactic: Xuất hiện ở giai đoạn
đầu của quá trình vận động Đó là
lượng ôxy cần thiết phải trang
trải để tái tổng hợp ATP-CP và
bổ sung nguồn ôxy dự trữ của tổ
chức dưới dạng Myôglôbin.Giai
đoạn này vai trò của ATP,CP sẽ
thực hiện việc đảm bảo năng
lượng của hoạt động cơ.

Ví dụ: ở bài tập công suất tối đa,
thời gian ngắn.
+
Nợ
ôxy

axitlactic: Là giai đoạn tiếp theo,
Là lượng ôxy cần thiết để loại trừ
Axítlắctic ứ đọng trong máu ở
vào thời điểm vận động.Giai
đoạn này ,hệ glucophân có vai
trò đảm bảo sự sự cung cấp năng
lượng cho hoạt động cơ
Ví dụ : ở bài tập công suất dưới
tối đa như chạy 400m.800m
- Cơ chế loại bỏ axitlactic
+ Để axitlactictham
gia vào quá trình ôxy hoá tạo sản
phẩm cuối cùng là H2O và CO2.
+ Sử dụng axitlactic
để tái tổng hợp Glycozen.
+ Loại bỏ axitlactic
bằng hệ thống đệm.
SINH LÝ HỆ TIÊU
HÓA
1.Tiêu hóa thức ăn ở các phần
của hệ tiêu hóa

Tiêu hóa thức
ăn xảy ra ở một cơ quan đặc biệt

gọi là cơ quan tiêu hóa, chúng
tạo thành hệ tiêu hóa của cơ thể .
Hệ tiêu hóa gồm
ống tiêu hóa và tuyến tiêu hóa,
ống tiêu hóa bắt đầu từ miệng
đến thực quản, dạ dày, ruột non,
ruột già, hậu môn. Các tuyến tiêu
hóa gồm tuyến nước bọt, tuyến
tụy ngoại tiết bài tiết dịch tụy,
gan bài tiết mật.
a.Tiêu hóa ở miệng và thực
quản
*Tiêu hóa cơ học
Thức ăn vào miêng
được tiêu hóa bằng cách nhai nhỏ
nhờ cơ nhai, má răng, khi thức
ăn dược nghiền nhỏ, nhuyễn,
thức ăn được nhào trộn với nước
bọt rồi được đẩy xuống thực
quản (khoảng 1 - 2 giây)
*Tiêu hóa hóa học: Sự tiết
nước bọt ở miệng
Miệng có các tuyến
nước bọt chính là tuyến mang
tai, tuyến dưới lưỡi, tuyến dưới
hàm.Ngoài ra còn rất nhiều tuyến
nhỏ khác nằm dưới niêm mạc
khoang miệng. Các tuyến này tiết
ra nước bọt, là dịch tiêu hóa của
khoang miệng.

Lượng nước bọt được tiết ra
hằng ngày khoảng 800 -1500ml.
Thành phần của nước bọt gồm 2
men tiêu hóa chính:
Amylaza chuyển hóa tinh bột
thành đường đôi
Mantaza chuyển hóa đường đôi
thành đường đơn
Ngoài men nước bọt
còn chứa chất đạm ,các a xit a
min ,muối khoáng .chất đạm mu
xin của nước bọt làm cho thức ăn
nhuyễn, trơn ,dễ di chuyển và dễ
nuốt .
Nước bọt được tiết ra theo cơ chế
phản xạ không điều kiện và phản
xạ có điều kiện, khi thức ăn kích
thích vào các cảm thụ quan ở
khoang miệng và cả dưới tác
động của mùi thức ăn ,âm thanh
vv...Trung tâm điều tiết nước bọt
nằm ở hành não.Vị chua làm tiết
nước bọt nhiều gấp 8 - 20 lần
mức độ bình thường ..
Thành phần và
lượng nước bọt được tiết ra phụ
thuộc vào tính chất của thức ăn,
Thức ăn khô và cứng làm nước
bọt tiết ra nhiều hơn thức ăn
lỏng.

Khi đã bước đầu
được tiêu hóa ở khoang miệng,
thức ăn được nuốt xuống tiếp
thực quản để vào dạ dày. Động
tác nuốt được thực hiện theo
phản xạ khi thức ăn kích thích
các thụ quan của niêm mạc ở
màn hầu và lưỡi gà.
b.Tiêu hóa ở dạ dày
*Tiêu hóa cơ
học
Các sóng nhu động của thực
quản chuyển thức ăn xuống dạ
dày.Dạ dày là đoạn phình to nhất
của ông tiêu hóa .Dạ dày nối với

9

thực quản qua tâm vị, nối với ruột
non qua môn vị.
Dạ dày co bóp gồm hai loại :
Co bóp trương lực tác dụng khuấy và
nhào trộn thức ăn với dịch vị
Co bóp nhu động những sóng nhu
động lớn bắt đầu từ đáy dạ dàycó tác
dụng thúc đẩy thức ăn về phía tá
tràng .
*Tiêu hóa hóa học:
Dịch dạ dày hay còn gọi là dịch vị, là
dịch tiêu hóa do các tuyến dạ dàytiết

ra
ở Niêm mạc dạ dày có rất nhiều
tuyến :
+Các tuyến vùng tâm vị và môn vị
bài tiết chất nhầy .
+Các tuyến vùng thân và đáy của dạ
dày gồm 3 loại tế bào:
Tế bào chính bài tiết men tiêu
hóa.
Tế bào viền bài tiết HCL.
Tế bào niêm mạc hay tế bào
nhầy bài tiết chất nhầy,Na HCO3 và
các muối khoáng.
Ngoài ra ,những tế bào biểu mô biến
đổi của niêm mạc vùng hang bài tiết
hormone GASTRIN có tác dụng điều
hoà bài tiết dịch vị .
 Nhóm các men
tiêu hóa
Pep sin: Được tế bào chính tiết ra
dưới dạng chưa hoạt hóa là pep
sinogen,tham gia vào quá trình tiêu
hóa đạm , nó xúc tác quá trình phân
giải đạm đến polypeptit.
Men sữa( Lab- fermemt, Renin): Xúc
tiến quá trình tiêu hóa ban đầu các
chất đạm của sữa.
Lipaza dịch vị men phân giải mỡ đã
được nhũ tương hóa của thức ăn
(sưã ,trứng ).

 .Nhóm các chất
vô cơ:Dịch vị
chứa nhiều chất
vô cơ :HCl,
,
Na+K+
Mg+,
H+,ClHPO4--,
SO4- - , Nhưng
quan trọng nhất
là HCl .
*Tác dụng của HCl:
- Tạo pH cần thiết dể hoạt hóa men
pepsinogen.
- Tạo pH tối thuận cho pep sin hoạt
động .
- Sát khuẩn :Tiêu diệt các vi khuẩn
có trong thức ăn.
- Làm tan can xi trong xương làm cho
thức ăn mền đi.
HCl tác
động lên các
hormone(Chuyển Gastrin sang trạng
thái hoạt đông, Tạo men Secretin ở tá
tràng.
- Đóng mở môn vị .
-Tăng cường hoạt động co bóp để di
chuyển thức ăn của dạ dày.
 Các chất nhầy
trong dạ dày:

Được tiết ra trong
dạ dày gồm nhiều
phân
tử
Glyprotein

mucopolysacarit.
Các chất nhầy tạo
thành một màng
dai, kiềm bao
phủ toàn bộ niêm
mạc dạ dày để
bảo vệ niêm mạc


dạ dày khỏi tác
dụng ăn mòn của
HCl và pepsin .
Khi bài tiết, chất nhầy
giảm sút niêm mạc dạ dày dễ bị ăn
mòn, gây hội chứng viêm loét dạ dày
.Chất nhầy còn có tác dụng bôi trơn
làm cho thức ăn được vận chuyển dễ
dàng.
Hoạt động tiết dịch
của dạ dày dược điều khiển bằng các
xung động thần kinh đi đến dạ dày
theo dây thần kinh số 10 (là thần kinh
phó giao cảm ).Kích thích thần kinh
phó giao cảm làm dịch vị tiết ra

nhiều, ngược lại kích thích thần kinh
giao cảm làm ức chế quá trình tiết
dịch vị .
Thức ăn di chuyển từ dạ
dày xuống ruột từng đợt do các cơ
của dạ dày và cơ thắt - mở môn vị co
bóp nhịp nhàng theo chu kỳ, sự co
bóp của dạ dày và nhất là môn vị
chịu tác động của hàm lượng HCl,
các yếu tố thần kinh và thể dịch
Thức ăn lưu trú trong dạ dày trung
bình từ 4 - 8 giờ phụ thuộc vào lứa
tuổi, giới tinh, trạng thái tâm lý, hoạt
đông thể lực vv nhưng trước hết phụ
thuộc vào tính chất lý hóa của thức
ăn. Thức ăn mỡ lưu trú trong dạ dày
lâu nhất,thức ăn lỏng chuyển xuống
ruột ngay sau khi vào dạ dày .
c.Tiêu hóa ở ruột non :
*Tiêu hóa cơ học
Ruột non là đoạn tiếp nối sát ngay dạ
dày ,nó là đoạn dài nhất của ống tiêu
hóa(300-600 cm ).ở đây có cơ chế
chuyển động con lắc:
Vận đông lắc lư : Sự vận động của
các cơ dọc, sự co cuả các cơ đi theo
dạng sóng. cử động này có tác dụng
khuấy thức ăn chứ không đẩy thức ăn
về phía trước.
Co bóp phân đoạn : Sự co của các cơ

vòng ( Co ở vòng trên, giãn ở vòng
dưới ), có tác dụng nhào trộn thức ăn
với các dịch ở ruột non.Chiều dài của
mỗi đoạn co bóp khoảng 1cm. Như
thế mỗi co bóp gây ra một sự phân
đoạn của ruột non và chia ruột non
thành những đoạn.
Cử động nhu động : Sự phối hợp
của hai cơ chế trên và có sự chỉ đạo
của thần kinh và hormone chuyển
thức ăn từ trên xuống dưới
*Tiêu hóa hóa học: Sự bài tiết dịch
ở ruột non
Ở ruột non là đoạn có nhiều dịch tiêu
hóa nhất,ở đây thức ăn chịu tác động
của 3 yếu tố là dịch ruột ,dich tụy
,dịch mật ,chúng được tiết tục tiêu
hóa để hoàn tất quá trình tiêu hóa
vàđược hấp thụ vào máu và bạch
huyết .
Dịch ruột : Được các tuyến dịch nằm
ngay trong niêm mạc ruột tiết Dịch
ruột chứa nhiều chất nhầy và men
tiêu hóa :
Peptidaza có tác dụng tiêu hóa đạm.
Lipaza có tác dụng tiêu hóa mỡ.
Amylaza và Mantaza tiêu hóa
đường .
Enterokinaza có tác dụng hoạt hóa
Tripsinogen

của dịch tụy thành
Tripsin hoạt động .
Dịch tụy : Dịch tuy chảy vào ruột
qua các ống nối tuyến tụy với ruột
Dịch tụy là một chất lỏng không
màu ,có phản ứng kiềm do chứa một

lượng lớn bicacbonat .Nó có tác
dụng trung hòa a xit của dịch vị ,
làm cho độ PH của tá tràng là 6,0
-7,0.
Dịch tụy chứa nhiều men:
Amylaza ,mantaza :có tác dụng
phân giải đường .
Lactaza:phân giải đường sữa .

Tuy nhiên trong thời gian hoạt
động cơ bắp cũng như trong giai
đoạn hồi phục, sự tiết dịch của
các tuyến dịch tiêu hóa cũng như
nhu động của ruột và dạ dày đều
giảm tức là hoạt động tiêu hóa
giảm. Nguyên nhân do :
+Trong hoạt đông thể
lực , các trung tâm thần kinh vận
động , tuần hoàn , hô hấp ... hưng
phấn mạnh gây ức chế các trung
tâm khác không có quan hệ trực
tiếp đến hoạt động co cơ trong đó
có trung tâm tiêu hóa .

+Trong khi hoạt động
cơ tương quan giữa hệgiao cảm
và phó giao cảm thay đổi
nghiêng về phía hệ giao cảm
điều đó làm giảm quá trình tiêu
hóa
+Adrenalin sinh
ra nhiều trong lớp tủy thượng
thận trong hoạt động cơ bắp căng
thẳng cũng ức chế tiêu hóa.
+Do sự phân phối lại
máu trong vận động. Trong yên
tĩnh dòng máu đến các cơ quan
tiêu hóa chiếm 25-30% lượng
máu tuần hoàn . Trong vận động
dòng máu đến với cơ quan tiêu
hóa giảm còn 3,5%, điều đó làm
việc tiết dịch và háp thụ các chất
dinh dưỡng ở các cơ quan tiêu
hóa đều giảm đi .
*Yêu cầu :
+Không
nên
tiến hành tập luyện sớm hơn 1,5
– 2 giờ sau khi ăn
+ Không nên tập
khi đang đói vì lúc đó dự trữ
đường của cơ thể giảm ảnh
hưởng đến khả năng hoạt động
thể lực của cơ thể

+ Sau khi ăn no
cũng không nên tập vì dạ dày
đầy cản trở chuyển động của cơ
hoành làm ảnh hưởng xấu đến
hoạt động của tim và phổi
*Nguy hại
+ Ăn no tập sẽ
gây hiện tượng sa dạ dày
+ Bị đau sóc
+ Tăng thể trọng
chung , rối loạn tình hình động
tác
+ Tăng nguy cơ
xảy ra chấn thương
II. SINH LÝ HỆ BÀI TIẾT
1.
Chức năng bài tiết của
thận: Thận là cơ quan bài
tiết chủ yếu của cơ thể,
không có thận động vật
không thể tồn tại được.Vai
trò chính của thận là tạo
nước tiểu, Quá trình tạo
nước tiểu ngoài chức năng
bài tiết các sản phẩm của
quá trình trao đổi chất, còn
có một số tác dụng sinh lý
quan trọng là:
- Duy trì nồng độ các
chất hữu cơ, muối khoáng và

H2O ở mức bình thường
- Điều hòa áp suất
thẩm thấu , cân bằng độ kiềm
toan
- Đào thải các chất
độc hại, các chất lạ bao gồm cả
thuốc ra ngoài cơ thể. Ngoài ra
trong thận còn có các tế bào nội

Lipaza :phân giải li pid thành
glyxeerin và axit béo
Dịch mật : Do các tế bào gan tiết
ra và cũng chảy vào ruột qua các
ống mật
Thành phần của mật gồm :
- Muối mật
:Chiếm 50 % các chất hòa tan
của mật .
- Sắc tố mật :là
sản phẩm được chế biến từ huyết
cầu tố bị phá hủy trong gan.
- Các chất điện
giải :Na+, K+ ,Cl-, HCO3Cholesterol
:Là tiền chất của muối mật do
thức ăn cung cấp hoặc được tổng
hợp trong các tế bào gan trong
quá trình chuyển hóa mỡ.
Tác dụng của dịch mật : Hoạt
hóa các men của dịch ruột và
dịch tuỵ, đặc biệt là men Lipaza

chuyển hóa mỡ. Mật có tác dụng
biến li pit thành nhũ tương, ngoài
ra còn tăng cường nhu động ruột.
Dịch ruột, dịch
tụy, dịch mật đều được bài tiết
dưới tác động cơ học và hóa học
của thức ăn theo cơ chế phản xạ
có điều kiện và phản xạ không
điều kiện khi thức ăn vào đến
ruột và cả các kích thích phản xạ
có điều kiện .
Một số hormone
đường tiêu hóa Secretin,
Enterogastrin, Serotonin làm
tăng bài tiết dịch ruột, dịch tụy,
dịch mật.
Tất cả các đoạn
trên của ống tiêu hóa đều có khả
năng hấp thụ các chất, Tuy nhiên
sự hấp thụ các chất dinh dưỡng
xảy ra chủ yếu ở ruột non.
d.Quá trình tiêu hóa ở ruột
già : Khi thức ăn vào đến ruột
già, thức ăn chỉ còn một ít
chất dinh dưỡng, ở ruột già có
nhều vi khuẩn làm lên men
đường và thối rữa đạm, Nhờ
sự lên men này mà thức ăn
được phân giải và hấp thụ
hoàn toàn.Trong ruột già thức

ăn sẽ bị đặc lại do hút nước
và trở thành phân. Phân được
cấu tạo từ các chất cặn bã của
thức ăn không được tiêu hóa
như sắc tố mật, vi khuẩn và
các chất nhầy.
2. Đặc điểm tiêu hóa trong hoạt
động thể lực
Hoạt động thể lực có
ảnh hưởng khác nhau đối với quá
trình tiêu hóa. Có hai mặt :
Một mặt hoạt động
thể lực làm tăng cường quá trình
trao đổi năng lượng , nâng cao
nhu cầu của cơ thể về các chất
dinh dưỡng vì vậy làm tăng
cường hoạt động của hệ tiêu hóa.

10

tiết chuyên bài tiết một chất có hoạt
tính sinh học cao đó là Remin có tác
dụng điều hòa huyết áp và quá trình
tiết hormone Andosteron của tuyến
thượng thận
Để thực hiện những chức năng như
trên, thận có một cấu tạo đặc biệt:.
Mỗi thận được cấu
tạo từ trên 1 triệu đơn vị thận hay hay
còn gọi là nephron (nephơron)

- Đơn vị thận được
cấu tạo bởi tiểu cầu thận (thể
Malpighi) và các ống dẫn nước tiểu .
Tiểu cầu thận là các
mạch máu nhỏ nằm song song với
nhau và tạo thành khối cầu . Nó được
bao bọc bởi 2 lớp tế bào biểu mô đặc
biệt gọi là BoWman. Lớp trong của
bao Bowman tiếp xúc với các mao
mạch của tiểu cầu thận hình thành
màng lọc .
Lớp ngoài của bowman thắt lại và
tiếp tục kéo dài tạo thành các ống
thận , ống nối thông với bowman
nằm ở vùng vỏ thận được gọi là ống
lượn lượn gần, tiếp sau ống lượn gần
là quai henle và cuôi cùng là ống
lượn xa , ống này đổ vào ống góp .
ống góp không thuộc
đơn vị thận mà chỉ nhận nước tiểu từ
một số đơn vị thận nhất định để đưa
đến bể thận .
* Mao mạch thận
Các mạch máu nhỏ
của tiểu cầu thận được phân ra từ
động mạch thận. Các mạch máu nhỏ
mang máu đến có đường kính lớn
hơn các động mạch mang máu đi điều
này có một ý nghĩa rất quan trọng vì
nó tạo nên một huyết áp tương đối

cao ở lướ mao mạch nằm giữa hai
động mạch đến và đi đó. Các động
mạch dẫn máu đi khỏi tiểu cầu thận
một quãng ngắn lại tiếp tục phân
nhánh và tạo thành một lưới mao
mạch dày đặc bao quanh các ống
lượn và quai henle. Cấu tạo bao gồm
các mạch máu và ống lượn đan xen,
bao bọc lẫn nhau nhiều lần như vậy
của đơn vị thận làm cho quá trình lọc
và tái lọc để tạo nước tiểu xảy ra
thuận lợi và phù hợp với các quá
trình sinh lý của cơ thể. Quá trình
hình thành nước tiểu xảy ra như sau:
Do sự chênh lệch về
áp suất trong bowman và tiểu cầu
thận
áp suất của tiểu cầu
thận 75mm Hg
áp suất trong huyết
tương 30mm Hg
áp suất bowman
6mmHg
Người ta tính được
áp suất lọc qua tiểu cầu thận là 39
mmHg
Do tác dụng của
Remin điều hòa huyết áp và quá trình
tiết hocmon Andosteron của tuyến
thượng thận

Áp suất cao của bó
mạch trong tiểu cầu thận ( 65 -75
mmHg ) có tác dụng đẩy nước vào
các chất hòa tan từ lòng mạch qua
màng lọc vào khoang của bao
bowman.Chất lọc này được gọi là
nước tiểu đầu ( có thành phần gần
giống huyết tương, chỉ khác là ở nồng
độ Prôtêin thấp và nồng độ các Ion
clo, HCO3 cao hơn . Cứ 10 lít máu đi


qua tiểu cầu thận thì có 1 lít nước tiểu
đầu .
1 ngày thận lọc được
khoảng 180 lít nước tiểu đầu
Nước tiểu đầu đi qua
hệ thống ống lượn gần , ống lượn xa ,
quai Henle , xảy ra quá trình tái hấp
thu các chất vô cơ và hữu cơ cần thiết
cho cơ thể từ nước tiểu đầu vào máu .
1 lượng rất nhỏ ( 1-1,5 lít ) là nước
tiểu mỗi ngày.
Sự hấp thu lại các
chất nước tiểu đầu phụ thuộc vào
nồng độ của chúng trong máu. Nếu
nồng độ một chất nào đó ở trong máu
( VD Glucose cao hơn mức bình
thường 150-180 mg % ) thì nó sẽ
không được tái hấp thu và bị đào thải

theo nước tiểu .
Cơ chế tái hấp thu các chất qua
thận
- Chủ yếu hấp thụ ở ống lượn gần
80% , 20% ở ống lượn xa và quai
Henle
- 2 cơ chế hấp thụ : Cơ chế tích cực :
các chất như Glucose, axitamin,
Prtêin ...

chế
thụ
động :H2O, muối khoáng và các chất
điện giải
Hệ bài tiết điều hòa độ kiềm toan
Trong huyết tương
có lon H+ được bài xuất ra từ phản
ứng :
CO2 + H2O
H+ +HCO3
Na+ ở ống thận được
hấp thu lại huyết tương và kết hợp
với HCO3 tạo thành NaHCO3
Độ pH của nước tiểu
từ 5,6 - 6,6
Trong quá trình đào
thải nước tiểu độ pH giảm, nó sẽ huy
động hệ NaHCO3 trung hòa
Điều hòa thận bằng yếu tố thần
kinh và thể dịch

a, Cơ chế thần kinh :
Thần kinh giao cảm
gây hiện tượng co mạch và làm giảm
bài tiết nước tiểu
Thần kinh phó giao
cảm tăng bài tiết hormone chống lợi
tiểu
b, Cơ chế thể dịch
Hormone
Vazprexin ( tuyến yên ) hormone
chống lợi tiểu để tăng quá trình tái
hấp thu nước thì lượng nước tiểu
giảm đi
- Hormone Thyzoxin
( tuyến giáp ) có tác dụng tăng bài tiết
nước tiểu
Ngoài
ra
các
hocmon khác gây co mạch và giãn
mạch cũng ảnh hưởng đến sự bài tiết
nước tiểu
2. Ảnh hưởng của hoạt động thể
lực đối với chức năng bài tiết
- Lượng máu đi đến thận giảm , bình
thường 1lít /1phút . Trong vận động
giảm còn 0,25 lít /1phút .
- Độ axit của nước tiểu tăng do nồng
độ axitlactic và axit phôtpho ric
- Lượng nước tiểu trong vận động

giảm, các môn hoạt động kéo dài có
thể bị ngừng trệ ( vô niệu )
- Nước tiểu giảm trong hoạt động do
sự bài tiết mồ hôi làm tăng bài tiết
Vazoprexin dẫn đến tăng tái hấp thu

Do thiếu ôxy , tính thấm của tiểu
cầu thận thay đổi có một số chất
trong nước tiểu như :Anbumin ,
glucose , protêin , thậm chí có cả
hồng cầu

+Tổng hợp theo thời
gian : nếukích thích yếu tác động
lên cơ quan cảm thụ liên tục
,tuần tự chúng cũng có thể gây
lên phản xạ
Hiện tượng tổng hợp
hưng phấn ở trung tâm thần kinh
chính là hiện tượng tổng hợp ở xi
náp, tức là tổng hợp hưng phấn
để tạo điện thế động ở màng sau
xi náp .
Biến đổi nhịp hưng
phấn: Tần số xung động do trung
tâm thần kinh phát ra cho các cơ
quan hiệu ứng có thể khác với
tần số mà các cơ quan cảm thụ
truyền đến trung tâm thần kinh.
tức là ở trung tâm thần kinh hưng

phấn có thể bị biến đổi nhịp .Vì
vậy tần số xung động thần kinh
từ trung tâm thần kinh đi đén các
cơ quan hiệu ứng phụ thuộc rất ít
vào tần số kích thích ban đầu,
trung tâm thần kinh có xu huớng
trả lời những kích thích hướng
tâm khác nhau bằng một nhip
hưng phấn tương đối ổn định
riêng của mình .
c.. Đặc điểm phối
hợp hoạt động của các trung
tâm thần kinh:
Khi luồng xung động
được truyền đến trung tâm thần
kinh, nó không chỉ chịu những
biến đổi tuân theo đặc điểm dẫn
truyền hưng phấn qua các trung
tâm thần kinh quyết định và gây
biến đổi đối với trung tâm thần
kinh tiếp nhận kích thích, mà còn
tác động đến các trung tâm thần
kinh khác nữa. Sự tác động đó
tuân theo những đặc điểm nhất
định.
* Hiện tượng cảm
ứng: Khi một trung tâm thần
kinh nhận được kích thích từ cơ
quan cảm thụ, tức là khi hưng
phấn, nó sẽ gây ra những biến

đổi nhất định ở các trung tâm
thần kinh khác. Hiện tượng đó
gọi là hiện tượng cảm ứng .Người ta phân biệt hai loại cảm ứng :
+ Hiện tượng cảm
ứng đồng thời Khi một trung tâm
thần kinh hưng phấn thì những
trung tâm thần kinh ở xung
quanh và những trung tâm có
liên hệ chức năng với nó sẽ bị
hạn chế .Nếu quá trình ức chế
xảy ra ở một trung tâm thần kinh
thì những trung tâm thần kinh ở
xung quanh lại hưng phấn.
+ Hiên tượng cảm
ứng kế tiếp:Khi một trung tâm
thần kinh hưng phấn thì nó sẽ bị
ức chế một thời gian. Nếu trạng
thái ức chế của một trung tâm
thần kinh kết thúc thì khả năng
hưng phấn của nó lại tăng lên.
* Hiện tượng lan tỏa
và tập trung hưng phấn : Các
xung động hướng tâm không chỉ
gây hưng phấn ở trung tâm thần
kinh của một cung phản xạ mà
còn có thể truyền tới các trung
tâm phản xạ khác .Hiện tượng
này gọi là sự lan tỏa của hưng
phấn.
Trong điều kiện tự

nhiên, hưng phấn có thể tỏa rộng

SINH LÝ HỆ THẦN
KINH
1. Đặc điểm hoạt động của
trung tâm thần kinh
a.Khái niệm về trung
tâm thần kinh:
Trung tâm thần kinh
là một tập hợp các nơ ron cùng
tham gia vào việc điều khiển một
chức năng hoặc thực hiện một
phản xạ nào đó của cơ thể . khái
niệm trung tâm thần kinh không
phải là khái niệm cấu tạo ,mà là
một khái niệm chức năng .Điều
đó có nghĩa là các nơ ron của
một trung tâm không nhất
thiếtphải nằm ở cùng một địa
điểm ở não.Ví dụ: Trung tâm hô
hấp ở hành não không có giới
hạn rõ rệt .
Trung tâm thần kinh
là một bộ phận của cung phản xạ,
làm nhiệm vụ phân tích, tổng
hợp và xử lý các luồng xung
động đi đến từ cơ quan cảm thụ
để tạo ra các luồng xung động ly
tâm đi tới các cơ quan hiệu ứng .
b. Dẫn truyền hưng

phấn qua các trung tâm thần
kinh:
- Hưng phấn được
dẫn truyền theo một chiều : Do
trung tâm thần kinh là nơi tiếp
xúc của các tế bào thần kinh, nên
ở đây có các xi náp thần kinh, tại
xi náp có các hóa chất trung gian
gây hiện tượng khử cực, xung
động chỉ có thể truyền theo một
chiều từ mặt trước đến mặt sau xi
náp.Vì vậy trong các trung tâm
thần kinh ,hưng phấn chỉ đi từ nơ
ron cảm giác, qua các nơ ron
trung gian đến nơ ron ly tâm theo
một chiều .
- Dẫn truyền hưng
phấn bị chậm lại ở trung tâm
thần kinh. Khi đi qua các trung
tâm thần kinh tốc độ dẫn truyền
hung phấn bị chậm lại .Dẫn
truyền hưng phấn bị chậm lại là
do trong các trung tâm tâm thần
kinh có các xi náp ,thời gian
chậm này chính là thời gian
chậm ở xi náp.
- Tổng hợp hưng
phấn ở trung tâm thần kinh : ở
các trung tâm thần kinh hưng
phấn được tổng hợp lại, tức là

làm cho phản xạ có thể xuất hiện
hoặc tăng lên khi kích thích lặp
lại nhiều lần, có hai loại tổng hợp
:Tổng hợp theo không gian và
tổng hợp theo thời gian.
+Tổng
hợp
theo
không gian :khi có một kích
thích yếu tác động lên cơ quan
cảm thụ thì phản xạ sẽ không xảy
ra .nhng nếu cùng một lúc ,ta tác
động lên nhiều cơ quan cảm thụ
thì phản xạ xẽ xuất hiện do các
kích thích yếu đó đã được tổng
hơp ở trung tâm thần kinh .

11

trong hệ thần kinh trung ương ,song
trên thực tế hưng phấn chỉ truyền
theo một hướng nhất định và gây ra
những phản xạ theo một trình tự nhất
định ,vì trong hệ thần kinh trung uơng có những đường liên hệ ngang
và dọc nhất định .Khi lan tỏa, hưng
phấn sẽ yếu dần đi và mất hẳn phụ
thuộc vào cường độ hưng phấn và
trạng thái của các trung tâm thần kinh
.
Khi kích thích lặp lại

nhiều lần, do sự phát triển của các ức
chế phân biệt, sự lan tỏa hưng phấn bị
hạn chế dần và chỉ xảy ra ở một vài
trung tâm nhất định .Hiện tượng đó
gọi là sự tập trungcủa hưng phấn.
Hiện tượng lan tỏa và tập
trung hưng phấn trong trung tâm thần
kinh có ý nghĩa quan trọng trong việc
xây dựng các phản xạ có điều kiện .

Hiện tượng lưu dấu vết : Sau
khi hưng phấn , sự thay đổi
những đặc tính cơ năng của
trung tâm thần kinh còn có
thể được bảo tồn một thời
gian nhất định .hiện tuợng
đó được gọi là hiện tượng lưu dấu vết .Dấu vêt có thể
được duy trì từ vài giây đến
nhiều năm .Hiện tượng lưu
dấu vết có vai trò quan trọng
trong hoạt động của tất cả
các phần của hệ thần kinh trung ương ,nhất là vỏ não
.hiện tượng lưu dấu vết làm
cho hoạt tính chức năng của
trung tâm thần kinh được
nâng cao. Những biến đổi
dấu vết ở vỏ não là cơ sở của
trí nhớ.
2.Phản xạ có điều kiện.
a. Khái niệm:

Phản xạ có điều kiện là
phản xạ được hình thành trong cuộc
sống cá thể do lao động, học tập,
luyện tập được tạo thành .
Ví dụ phản xạ tiết nước bọt bằng ánh
sáng
b.Tính chất
- Không có tính ổn định
cao nếu không thường xuyên liên tục
củng cố thì nó sẽ mất đi.Ví dụ : kĩ
thuật nhảy xa - động tác này được
hình thành trên cơ sở của động tác cũ
vì vậy phải luyện tập thường xuyên
để hình thành định hình động lực
- Phản xạ có điều
kiện là phản xạ mang tính vạn
năng .Ví dụ : trời lạnh thì mặc ấm ,
trời nóng thì mặc mát .
Các phản xạ nhằm
mục đích phù hợp với môi trường và
nâng cao khả năng thích nghi
- Phản xạ có điều
kiện có sự tham gia của vỏ bán cầu
đại não
c . Phân loại phản xạ có điều kiện
* Dựa theo kích thích của
phản xạ có điều kiện phân ra : phản
xạ có điều kiện tự nhiên, phản xạ có
điều kiện nhân tạo, phản xạ có điều
kiện lưu dấu vết .

- Phản xạ có điều kiện tự
nhiên : Tính chất của phản xạ là hình
thành có điều kiện tự nhiên, dựa theo
kích thích của phản xạ không điều
kiện.Ví dụ phản xạ tiết nước bọt khi
có tiếng chuông .


- Phản xạ có điều kiện
nhân tạo : Là phản xạ được hình
thành dựa trên kích thích của phản xạ
có điều kiện .
- Phản xạ có điêù kiện lưu
dấu vết Cũng là phản xạ nhân tạo nhung tác dụng của phản xạ trước lưu
lại cho phản xạ sau .Ví dụ : đứng - đi
- chạy .
* Dựa vào các cơ quan
cảm thụ có phản xạ có điều kiện thị
giác ,thính giác .
* Dựa theo các cơ quan
cảm giác : các phản xạ có điều kiện
được hình thành từ cơ quan cảm giác
bên ngoài thì có phản xạ có điều kiện
ngoại cảm thụ. Còn từ các cơ quan
cảm thụ của cơ - cảm thụ bản thể và
các cơ quan nội tạng thì gọi là phản
xạ có điều kiện nội cảm thụ
* Dựa theo hệ thống phản ứng cơ
thể thì có rất nhiều phản xạ khác
nhau : phản xạ hô hấp ,tuần hoàn ,vận

động, phản xạ dinh dưỡng, phản xạ
bảo vệ.
* Dựa vào sự kiến lập của phản xạ
có phản xạ có điều kiện cấp 1,cấp
2…cấp 6
d. Cơ sở hình thành một
phản xạ có điều kiện
Phản xạ không điều kiện hoặc là có
điều kiện đã được xây dựng từ trước.
Về bản chất, đó là sự liên kết hai hay
một số loại hoạt động của cơ thể
thành một hệ chức năng thống nhất.
e- Điều kiện để hình
thành một phản xạ có điều kiện
Điều kiện 1: chọn kích
thích, phải có sự phối hợp giữa kích
thích trung tính và kích thích không
điều kiện
Thức ăn tác động
lên khoang miệng là một kích thích
không điều kiện.Nếu việc cho ăn
được phối hợp với một tín hiệu trước
đây không có quan hệ gì với thức ăn,
như ánh sáng , thì ánh sáng là kích
thích trung tính. Sử dụng hai loại kích
thích này lặp đi lặp lại làm cho hai
trung tâm thần kinh hưng phấn ,ánh
sáng sẽ trở thành kích thích có điều
kiện của phản xạ tiết nước bọt. Khi
có ánh sáng, ở động vật thí nghiệm,

nước bọt sẽ tiết ra mà không cần có
thức ăn.
Điều kiện 2 :Tác động của
kích thích có điều kiện phải xảy ra trước kích thích không điều kiện, trong
ví dụ trên ,ánh sáng phải xảy ra trước
sau đó mới cho vật thí nghiệm
ăn.Thời gian giữa 2 kích thích phải
hợp lý.
Điều kiện 3 là cơ thể phải
ở trong tình trạng tỉnh táo, các trung
tâm tương ứng của phản xạ phải có
tính hưng phấn cao.
Điều kiện 4 là tránh kích
thích không cần thiết để có thể gây
những phản xạ không đuợc dự định,
các kích thich gây nhiễu như nói
chuyện,tiếng ồn, nóng, lạnh vv... ảnh
hưởng xấu tới việc hình thành phản
xạ có điều kiện . ví dụ : đang gõ nhịp
thì có tiếng động mạnh .
g. Cơ chế hình thành
phản xạ có điều kiện
Là sự hình thành đường
liên hệ tạm thời giữa các trung tâm
của kích thích không điều kiện và có
điều kiện trên vỏ não .

ví dụ : Trong phản xạ
tiết nước bọt bằng ánh sáng, đó
là đường liên hệ tạm thời giữa

trung tâm thị giác (thuỳ chẩm )
và thức ăn (hành não) Đường đây
liên hệ này được hình thành như
sau: Khi có kích thích trung tính
(ánh sáng ) tác động vào cơ
quan cảm thụ( Võng mạc mắt ),
ở vùng cảm giác tương ứng trên
vỏ não(thuỳ chẩm ) xuất hiện hưng phấn, sau đó kích thích không
điều kiện (Thức ăn) sẽ gây một
vùng hưng phấn trên vỏ não
(hành não ).Theo nguyên tắc ưu
thế vùng hưng phấn mạnh sẽ lôi
cuốn các trung tâm hưng phấn
yếu hơn về phía mình và như
vậy giữa 2 trung tâm hình thành
đường liên hệ tạm thời, chưa có
từ trước, đường liên hệ này được
lặp đi lặp lại nhiều lần hình thành
định hình động lực và khi bỏ
thức ăn chỉ sử dụng ánh sáng thì
chó vẫn tiết nước bọt
h. Ức chế của phản
xạ có điều kiện
* Ức chế ngoài là ức
chế do kích thích từ bên ngoài ở
vào thời điểm hình thành phản xạ
có điều kiện nếu có 1 tác động
mạnh thì phản xạ có điều kiện
đang hình thành bị ức chế .
VD:phản xạ tiết nước bọt đang

được hình thành do gõ nhẹ thì có
tiếng động mạnh
* Ức chế bảo vệ: do
tác động của kích thích mạnh
nhanh hoặc kéo dài quá mức sẽ
xuất hiện ức chế bảo vệ tránh cho
cơ thể không bị tổn thơng về thể
xác và tâm hồn.
VD: trong thể thao
tập luyện để tuần hoàn mạch tối ưu là 180lần/ phút, có thể 200220 lần / phút nhưng nếu vợt quá
220lần /1' thì cơ thể phải ngừng
tập để không xảy ra tập luyện
quá sức
* Ức chế dập tắt
Kich thích của phản xạ này được
hình thành, nếu chúng ta không
củng cố thì phản xạ này sẽ bị mất
dần .
VD: cho chó ăn có
đèn phải được củng cố thường
xuyên thì khi không có ăn chỉ có
đèn con Chó vẫn tiết nước bọt.
Nếu không củng cố thường
xuyên thì phản xạ này sẽ bị mất
dần , kkhi có đèn , chó không tiết
nớc bọt
*Ức chế trì hoãn ức
chế này phát triển khi kích thích
của phản xạ có điều kiện không
có củng cố =kích thích phản xạ

không điều kiện trong cùng một
thời điểm mà nó xảy ra chậm
hơn -->và nhờ vào ức chế này cơ
thể phân tích được tác động của
các kích thích theo thời gian và
chỉ phản ứng với các kích thích
cần thiết. Trong thể thao dự lệnh
của khẩu lệnh là ức chế gây trì
hoãn
VD: trong thời điểm
nay, ngồi học,phản xạ ngự trị là
phản xạ viết , nghe hiểu, còn
phản xạ đói là phản xạ trì hoãn.

*Ức chế phân biệt là
khả năng chỉ phản ứng với kích
thích có điều kiện đựơc củng cố
bằng kích thích không có điều
kiện , ví dụ ánh sáng chẳng hạn
+ Khi sử dụng máy
gỗ nhịp 80 lần /1' rồi cho ăn thì
con vật tiết dịch vị hoặc tiết nước
bọt
* Ức chế có điều kiện
là một dạng của ức chế phân
biệt , ức chế có điều kiện xảy ra
khi thêm vào một kích thích có
điều kiện và kích thích đó đợc
gọi là kích thích có điều kiện mới
,kích thích này sẽ cản trở và ức

chế sự hình thành phản xạ có
điều kiện mới .
.
SINH LÝ HỆ NỘI
TIẾT
1.Khái niêm nội tiết, hormone.
Nội tiết là những cơ
quan tiết dịch, tiết ra những chất
chất có hoạt tính sinh học cao có
khả năng gây ra các biến đổi
đáng kể trạng thái chức năng của
cơ thể.
Ví dụ : Tuyến giáp thì
tiết ra hormone thyroxin, có vai
trò quan trọng đối với sự phát
triển và trưởng thành của cơ thể,
ở tuổi thiếu niên nếu thiếu
thyroxin cơ thể sẽ kém phát triển
và phát triển không cân đối cả về
trí tuệ lẫn thể lực .
Còn tuyến tuỵ thì tiết ra insulin,
có tác dung điều hoà quá trình
hấp thụ và sử dụng glucose, nếu
thiếu insulin thì nồng độ đường
trong máu sẽ tăng lên rất mạnh
và dẫn đến bệnh đái tháo đường.
Các chất do tuyến
nội tiêt tiết ra được gọi là
hormone.
Khái niệm hormone là những

chất đặc biệt do tuyến nội tiết tiết
ra đổ vào máu với một liều lượng
rất nhỏ cũng gây ra sự biến đổi
cơ thể .
Ví dụ : Hormone Adrenalin do
tuyến thượng thận tiết ra có tác
dụng điều khiển hoạt động của
tim.
2. Tuyến yên.
Vị trí, cấu tạo :Tuyến yên nằm ở
đáy của não thất 3, ở phía cuống
phễu của vùng dưới đối thị, gồm
3 thuỳ : trước, giữa, sau.
a.Thuỳ trước tuyến
yên : có vai trò điều khiển hoạt
động của các tuyến nội tiết khác
do nó tiết ra các hormone kích
thích là :
Corticotropin(ACTH) kích thích
tuyến thượng thận: ACTH có tác
dụng làm tăng cường hoạt động
của vỏ thượng thận
- Thyrotropin(TTH)
kích thích tuyến giáp: Có tác
dụng tăng cường sự tiết thyoxin
của tuyến giáp . Khi cơ thể bị
lạnh thì hormone hướng giáp tiết
ra nhiều hơn nên thyoxin cũng
được tiết ra nhiều làm quá trình
sinh nhiệt của cơ thể tăng lên. Do

đó hormone này có ảnh hưởng
trên sự rèn luyện của cơ thể đối
với nhiệt độ lạnh.

12

Gonadotropin(GTH)
kích thích tuyến sinh dục:
Hormone tuyến sinh dục
gồm có :
- Prolactin kích thích
tuyến vú tiết sữa. Prolactin chỉ tác
dụng sau khi tuyến vú đã chịu ảnh
hưởng của Oxtrogen và Progexteron.
- Hormone kích nang
trứng hay Prolan A (Dạng
đào thải qua nước tiểu) có
tác dụng kích thích sự
phát triển của nang trứng
ở giống cái và kích thích
sự sinh sản tinh trùng ở
giống đực .
Lutêin hay Prolan B
( Dạng đào thải qua nước tiểu) có tác
dụng tăng cường sự hình thành những
sinh dục như androgen và Oxtrogen,
đồng thời có tác dụng đối với hiện
tượng rụng trứng và hình thành thể
vàng là nơi tiết ra Progexteron.
Ngoài ra tuyến yên còn

tiết ra hormone tăng trưởng
somatropin(STH), có tác dụng :
+Tăng tổng hợp protit
+Giải phóng axit béo từ tổ
chức mỡ
+Phát triển cơ thể cân đối
và nhanh chóng
Hormone này được tiết ra nhiều
nhất khi cơ thể bước vào tuổi dậy
thì.
Hormone này ảnh hưởng
đến quá trình chuyển hoá của cơ thể,
kích thích sự phát triển chiều cao của
cơ thể trẻ. Khi tuyến yên không đủ
hormone phát triển thì sẽ gây bệnh
lùn ở trẻ em, nhưng cơ thể cân đối và
trí tuệ phát triển tương đối bình
thường, khác với người đần độn do
tuyến giáp hoạt động yếu.
Nếu hormone phát triển
được tiết ra quá nhiều ở thuỳ trước
tuyến yên thì sẽ gây ra bệnh khổng lồ
ở trẻ em và bệnh đại cực ở người lớn.
b..Thuỳ giữa tuyến yên :
Bài tiết hormone Melanotropin
Tác dụng : Kich thich sản xuất sắc tố
màu đen, làm cho da sẫm màu. Nếu
hormone này tăng thì da sẽ đen.
c. Thuỳ sau tuyến yên là
các tế bào thần kinh tiết dịch, thuỳ

sau bài tiết 2 hormone :
- Vazoprexin: Hormone
chống lợi niệu hay-Vazoprexin( co
mạch tố) làm giảm sự bài tiết của
thận và tăng cường sự hấp thụ lại
nước ở quai henlê và ống lượn xa làm
giảm lượng nước tiểu đồng thời còn
làm co mạch và tăng huyết áp . Khi
hoạt động thể lực, mồ hôi ra nhiều
cũng gây tăng bài tiết Vazoprexin.
Oxytoxin : Có tác dụng
+ Tăng sự co bóp của tử cung
+ Tăng bài tiết sữa trong thời gian nuôi
con .
Khi chức năng của thuỳ
sau tuyến yên bị rối loạn sẽ gây ra
bệnh đái tháo nhạt ( một ngày đái tới
10 -15 lít nước tiểu ).
Đặc điểm biến đổi : Hoạt
động cơ bắp làm tăng tiết hormone
kích thich tuyến thượng thận,
Hormone tăng trưởng, hormone kích
thích tuyến giáp và làm giảm tiết
hormone sinh dục.
Hormone
somatotropin
của tuyến yên cũng tăng lên trong


vận động, điều đó làm cho quá trình

trao đổi chất và phát triển phì đại
trong cơ thể xảy ra thuận lợi hơn.
Hormone
Vazoprexin
cũng tăng lên trong vận động Khi
hoạt động thể lực, mồ hôi ra nhiều
cũng gây tăng bài tiết Vazoprexin để
tăng cường sự hấp thụ lại nước.
3. Hormone tuyến thượng thận.
Vị trí, cấu tạo : Nằm ở 2 cực của 2
quả thận , có trọng lượng từ 5
đên15g. có cấu trúc được chia thành
2 lớp : vỏ thượng thận và tuỷ thượng
thận.
1).Vỏ thượng thận Bao bọc bên
ngoài tuỷ thượng thận ,gồm 3 lớp hay
3 vùng:
a.Vùng ngoài :(vùng cầu )
tiềt ra mineralocorticoit
Tác dụng : Điều hoà chuyển hóa
muối khoáng, nhóm đặc trưng quan
trọng nhất là aldosteron có tác dụng
duy trì hàm lượng Natri cần thiết
trong máu, dịch gian bào và bạch
huyết . Khi thiếu hormone này cơ thể
sẽ bị mất nat ri do sự đào thải nat ri ở
thận tăng lên, làm rối loạn nội môi và
có thể sẫn đến tử vong. Khi
aldosteron vừa đủ trong cơ thể , Nó
có khả năng tích luỹ natri và như

vậy , duy trì huyết áp ở mức cần thiết.
Mineralocorticoit còn tham gia vào
việc trao đổi Ka li, Can xi và ma giê .
b.Vùng giữa (vùng bó) tiết
ra hormone glucocorticoit, quan trọng
nhất là cortisol và corticostecoit có
tác dụng :
- Điều hoà đa dạng ở phạm vi rộng.
+ Điều hoà trao đổi
đường, hạn chế việc sử dụng đường
glucose ở tổ chức và tăng cường tích
luỹ glycogen trong cơ và gan .
+ Điều hoà trao đổi prôtit,
tăng quá trình dị hoá ở tổ chức bạch
huyết giải phóng axit amin tự do. Vì
vậy glucocorticoit làm tăng chuyển
hoá a min của các axit amin để sử
dụng chúng vào mục đích khác nhau,
như tổng hợp men.
- Có vai trò quan trọng trong sự thích
nghi của cơ thể, đặc biệt là thích nghi
với hoạt động cơ bắp .
+ Khi hoạt động cơ bắp
căng thẳng thì vỏ thượng thận sẽ tiết
ra cortisol và corticosteron nhiều hơn
do đó protit dự trữ trong cơ thể sẽ
được huy động nhiều hơn, lượng
glycogen được tạo ra ở gan tăng lên,
quá trình trao đổi ion và nước qua
màng tế bào được tăng cường .

+ Nếu vận động căng
thẳng kéo dài thì sau giai đoạn tăng
tiết
hormone,
hàm
lượng
glucocorticoit sẽ giảm xuống. Đó là
phản ứng bảo vệ của vỏ thượng thận
nhằm ngăn ngừa việc sử dụng quá
mức các nguồn dự trữ của cơ thể.
c.Vùng trong :(vùng lưới)
tiết ra các Steroit tương tự như
Steroit do tuyến sinh dục tiết ra là
hormone sinh duc nữ otrogen và
hormone sinh dục nam là Androgen.
2).Tuỷ thượng thận Là lõi của tuyến
thượng thận, nằm ở phía trong của
tuyến .
Hormone chủ yếu của tuỷ thượng
thận là Adrênalin và chất có cùng
cấu tạo song thiếu 1 nhóm metyl là
Nor - adrênalin. 2 chất này có tên
chung là Catecholamin.

*Tác dụng : Hai chất này có tác
dụng sinh lý gần giống nhau
(chúng chỉ khác nhau về ngưỡng
tác động lên các cơ quan)
Adrênalin có tác động mạnh hơn
Nor - adrênalin khoảng 4 đến 8

lần,Tuy nhiên đối với mạch máu
thì tác động cuả Nor - adrênalin
lại mạnh hơn .
Adrênalin

tác dụng :
-Tăng tần số tim
-Tăng lực bóp cơ tim
-Co mạch máu ở ngoại biên làm
tăng huyết áp
-Hoạt động của hệ thần kinh
trung ương tăng
-Hấp thụ oxy ở tổ chức tăng
-Tăng phân giải mỡ, tăng phân
giải Glycogen ở gan để tạo
Glucose cho hoạt động cơ bắp
Như vậy là adrênalin
có tác dụng huy động nguồn dư
trữ của cơ thể để thích nghi với
vận động và các tác động mạnh
của môi trường sống .
Hệ thần kinh trung
ương chỉ huy sự bài tiết hormone
tuỷ thượng thận qua thần kinh
giao cảm. Đối với các cơ quan,
tác động của adrênalin và hệ
giao cảm nói chung gần giống
nhau .Vì vậy thần kinh giao cảm
và tuỷ thượng thận hình thành 1
hệ điều khiển thống nhất gọi là

hệ Adrênalin - giao cảm, đảm
nhiệm việc đảm bảo năng lượng
cho tất cả quá trình thích nghi để
đâu tranh sinh tồn .
Đặc điểm biến đổi
- Các hormone của
vỏ thượng thận có vai quan
trọng trong sự thích nghi với
hoạt động thể lực, khi chức năng
của vỏ thượng thận giảm sút sẽ
làm cơ chóng mệt mỏi và yếu đi
rõ rệt.
Trong các hoạt động
nặng, nhưng thời gian ngắn, việc
sản xuất hormone vỏ thượng
thận được tăng lên, còn trong các
hoạt động rât dài, khi xuất hiện
mệt
mỏi,
hàm
lượng
glucocorticoit trong máu có thể
giảm đi. ý nghĩa của các
hormone vỏ thượng thận trong
vận động là :
- Làm tăng công
suất co bóp của tim
- Làm tăng thể
tích phút
- Làm giảm

nồng độ a xitlactic trong máu,
giảm nợ dưỡng, tăng cường hấp
thụ ô xy trong vận động.
Hormone
aldosteron có tác dụng hạn chế
đào thải natri qua nước tiểu để
duy trì khả năng làm việc của cơ
thể.
- Sau vận động,
chúng còn tham gia vào quá trình
bình thường hoá hoạt động của
hệ tim mạch, thúc đẩy sự hồi
phục.
Việc sản xuất
hormone vỏ thượng thận chịu sự
điều khiển của hormone ACTH
của thuỳ trước tuyến yên. Ở
VĐV được huấn luyện tốt việc

sản xuất hormone ACTH được
tăng lên trong các hoạt động thể
lực nặng.
Khi hoạt động
cơ bắp, việc bài
tiết
hormone
tuỷ thượng thận
là adrênalin tăng
lên. hoạt động
càng nặng thì

ađrênalin được
sản xuất càng
nhiều. ở những
VĐV trình độ
cao, hàm lượng
adrênalin trong
máu khi thực
hiện lượng vận
động lớn hơn
người
thường
rất nhiều, vì vậy
mà hoạt động
của
hệ
tim
mạch, hô hấp và
sự hưng phấn
thần kinh của
VĐV có thể
tăng lên rất
nhanh và cao.
SINH LÝ THẦN
KINH – CƠ
1 Cơ chế co cơ.(Cấu tạo của cơ
vân. Giải thích cơ chế co cơ của
E Huxley ứng dụng trong ô cơ) .
a.Cấu tạo của
cơ vân
Cơ vân được

tạo nên bởi các tế bào cơ - sợi cơ.
Sợi cơ là 1 tế bào mảnh và
dài( Có sợi dài tới 10-12 cm), có
nhiều nhân. Cấu tạo sợi cơ gồm:
+ Màng cơ bao bọc sợi cơ, có
cấu tạo chủ yếu là protit và lipit,
có chức năng trao đổi chất giữa
tế bào cơ với môi trường bên
trong cơ thể, Màng cơ có tính
đàn hồi và có khả năng dẫn
truyền xung động thần kinh.
+ Cơ tương: Là một chất dịch có
chất đam, các i on và các chất
hoà tan, ngâm trong cơ tương có
lưới cơ tương là một hệ thống
các ống ngang dọc cùng các bể
chứa, Lưới cơ tương cũng có
màng như sợi cơ.Hệ thống ống
của lưới cơ tương nối bề mặt của
màng sợi cơ với các bộ phận sâu
trong cơ tương và có vai trò quan
trọng trong quá trình dẫn truyền
hưng phấn từ bề mặt sợi cơ vào
sâu trong cơ và bài tiết các sản
phẩm trao đổi chất ra ngoài
khoảng gian bào.
+ Tơ cơ: Được xen lẫn vào lưới
cơ tương, là các sợi nhỏ hơn nằm
xếp dọc theo sợi cơ, Tơ cơ là các
bó sợi rất nhỏ nằm song song

với nhau theo một trật tự nhất
định, tơ cơ có đường kính
khoảng 1 - 3 micron. Có 2 loại tơ
cơ, là các sợi dày và mỏng.
Tơ cơ là sợi gồm các
ô nối tiếp nhau, giới hạn bởi các
đường z, là cấu trúc lặp đi lặp lại
cơ bản của cơ. Các sợi cơ cơ dày
(miozin) tạo thành một đĩa tối
sẫm gọi là đĩa A, xen kẽ giữa đĩa
I sáng hơn.Đĩa I sáng, bị các

13

đường z chia làm 2, các sợi ac tin
mỏng bám vào đường z từ 2 phía.
Các sợi tơ cơ dày được
cấu tạo chủ yếu bằng phân tử
(miozin). ở 2 đầu của nó, các đầu của
các phân tử miozin quay về phía sợi
ac tin mỏng và được gọi là cầu nối
ngang. Các cầu nối ngang ở 2 đầu
quay về 2 phía ngược chiều nhau và
gắn với thân của nó với một góc
nhọn, ở giữa các sợi miozin dày
không có các cầu nối ngang
Các sợi cơ cơ dày do 2 sợi ac tin xoắn
vào nhau tạo nên.ở các điểm uốn của
vòng xoắn có các chất đặc biệt để
ngăn cản sự kết hợp cầu nối ngang

của sợi miozin,
sợi Actin đi từ 2 đầu bản Z không
nối lại được với nhau gọi là khoảng
H.

b. Qúa trình co cơ theo hai hình
thức :
1 là Dạng co cơ rút ngắn chiều dài ô
cơ ( co cơ đẳng trương): Là dạng co
cơ không thay đổi về trương lực mà
chỉ thay đổi về chiều dài sợi cơ.
ứng dụng trong ô cơ, nó biểu thị sự
rút ngắn chiều dài của ô cơ: Hai sợi
Actin kéo về trung tâm ô cơ và trượt
trên sợi Myozin, 2 sợi Actin lồng
toàn bộ trên sợi Miozin nhưng cả hai
sợi đều không co ngắn lại, làm cho
đĩa I mất đi và 2 đầu bản Z tiến đến
giới hạn đĩa tối A, bản Z rút ngắn về
phía trung tâm của ô cơ.
2 là Dạng co cơ tăng trương lực của
cơ (co cơ đẳng trường): Là dạng co
cơ không thay đổi về chiều dài mà
chỉ thay đổi về trương lực cơ.
ứng dụng trong ô cơ: 2 sợi Actin kéo
căng về phía trương tâm ô cơ: đĩa I,
đĩa A và 2 đầu bản Z giữ nguyên vị
trí, chỉ khác là khi 2 đầu bản Z kéo
căng về trung tâm ô cơ làm cho
khoảng H dày lên.

c..Giải thích cơ chế co cơ theo học
thuyết trượt của Huxley
Khi cơ co và thả lỏng là
xảy ra hiện tượng lặp đi lặp lại
sự hình thành và phá vỡ cầu nối
ngang giữa sợi Actin và miozin.
Cơ co được là do có sự cung
cấp năng lượng, năng lượng
trực tiếp cho cơ co là ATP.
+ Khi không có xung động thần kinh(
cơ thả lỏng) Các cầu nối ngang của
sợi miozin không gắn được vào sợi ac
tin mỏng vì trên sợi ac tin có các
phân tử Tropomiozin và tropozin.


Các phân tử này sẽ ngăn cản phản
ứng gắn các cầu nối ngang và ức chế
men miozin - ATP - aza là men phân
giải ATP để cung cấp năng lượng vì
vậy không có năng lượng để gắn các
cầu nối ngang. Lúc này ngạch miozin
vuông góc với sợi miozin.
+ Khi có một luồng
xung động thần kinh đi đến từ nơron
vận động. Sau khi qua xináp thần
kinh - cơ, luồng xung động ấy sẽ gây
nên điện thế động lan toả theo bề mặt
và vào bên trong sợi cơ gây ra những
biến đổi hoá học phát động quá trình

co cơ như sau:
Sự lan toả điện thể
động vào trong sợi cơ làm thay đổi
tính thấm của màng các bể chứa ở
lưới cơ tương làm cho Ion Ca ++ nằm
trong bể chứa nhanh chóng đi ra
ngoài vào giữa các tơ cơ.
Các Ion Ca++ tự do được
giải phóng sẽ kết hợp với
tropomiozin ở sợi actin mỏng, giải
phóng vị trí để các cầu nối ngang của
sợi miozin có thể gắn vào sợi actin,
trung tâm Actin được giải phóng kéo
ngạch miozin về phía trung tâm để
tạo cầu nối phản ứng diễn ra :
M - ATP + A tạo cầu nối M - ATP - A
Khi gắn được vào sợi
Actin, các cầu nối ngang nằm ở vị trí
chéo có thể thực hiện một lực kéo
dọc làm cho các sợi actin mỏng trượt
dọc theo sợi miozin dầy, các sợi actin
mỏng lúc này sẽ chui vào khoảng
giữa các sợi miozin dầy, di chuyển về
phía tâm của ô cơ, ngạch miozin
được co lại gọi là co cầu nối.
Cùng lúc đó Ion Ca++
tự do cũng kết hợp với phân tử
Tropozin và giải phóng họat tính của
men miozin - ATP - aza, nó sẽ phân
huỷ ATP ở đầu miozin để cung cấp

năng lượng cho các cầu nối ngang
kéo sợi Actin, phản ứng diễn ra.
M - ATP - A + H20
co cầu nối
M - ADP - A + AMP + Q
Sau khi kéo, cầu nối
ngang ở điểm tiếp xúc với sợi Actin
sẽ lại đứt ra. Phân tử ATP mới sẽ
được tái tổng hợp ở cầu nối ngang
của miozin.
M - ADP - A + ATP
M - ATP + A + ADP
Khi nào trong tơ cơ
còn có ion canxi thì chu kỳ trên còn
tiếp tục lặp lại, cầu nối ngang sẽ lại
gắn vào một điểm mới trên sợi
actin,phân tử ATP mới lại phân hủy
để cung cấp năng lượng cho các cầu
nối ngang kéo các sợi actin.
Hàm lượng ion canxi
cao trong tơ cơ chỉ kéo dài vài
miligiây, sau đó chúng bị đẩy ngược
về phía bể chứa của lưới cơ tương
nhờ một cơ chế bơm tích cực gọi là “
Bơm canxi “và cần phải tiêu hao một
năng lượng nhất định.
Khi ion canxi mất đi,
tropozin ở sợi Actin lại tiếp tục giải
phóng, và tiếp tục ức chế men miozin
- ATP - aza làm cho ATP không bị

phân huỷ và không cung cấp được
năng lượng. Sự kết hợp giữa cầu nối
ngang của sợi actin bị ngăn cản, cơ
duỗi ra trở về trạng thái yên tĩnh.
II. Năng lượng của sự co cơ.(ATP)

a.Khái niệm ATP : ATP là 1 hợp
chất có chứa photpho giàu năng
lượng,( adenozin triphotphat)
được ty lạp thể tạo thành do quá
trình photphorin hóa ADP và sự
ô xy hóa hàng loạt chất chuyển
hóa.
b.Vai trò của ATP trong quá
trình co cơ.
- Nguồn cung cấp năng lượng
trực tiếp cho cơ co là
ATP(adenozin Triphotphat)
Thực hiện chức năng co và
thả lỏng cơ :
Khi thủy phân ATP tạo ra
ADP
(
adenozin
diphotphat) và một nhóm
phốt phát. Quá trình này
xảy ra với sự tham gia của
men miozin – ATP – za và
tỏa ra 10 kcal năng lượng
tự do , cung cấp cho các

cầu nối ngang kéo sợi
Actin trượt dọc theo sợi
miozin.
ATP + H2O
ADP +
H3PO4 + Q (10 kcal).
- Nhưng dự trữ ATP trong một
bó cơ không nhiều, để co cơ lâu
dài, ATP phải luôn được phục
hồi đầy đủ từ nhiều nguồn :
+ ATP dự trữ trong
cơ.
+ Phân giải các chất
dinh dưỡng như đường, đạm,
mỡ. Năng lượng tự do này sẽ kết
hợp một nhóm phốt phát vào
ADP để tạo ATP.
c.Cơ chế tái tổng hợp ATP theo
2 con đường.
+
Yếm
khí,
Anaerobia.
+ Ưa khí Aerobia

- Cơ chất: CP (Crenatin phot
phat) chứa trong cơ : CP+ADP
CPK
ATP+Cr
Quá trình phân giải

CP để cung cấp năng lượng xảy
ra rất nhanh, không phụ thuộc
vào việc cung cấp ôxy cho cơ thể
nên nó được sử dụng trong giai
đoạn đầu của tất cả hoạt động cơ
bắp.
- Công suất: Hệ photphagen có
công suất lớn nhất trong các hệ
năng lượng: Số ATP được tái
tổng hợp trong một đơn vị thời
gian (phút) là khoảng 36 kcal/1
phút gấp 3 lần so với hệ
Glucophân và gấp 4 -10 lần hệ
ôxy hoá.
- Dung lượng năng lượng của hệ
photphagen không lớn vì dự trữ
ATP và CP trong cơ thể rất ít (5
kcal).
- Cung cấp năng lượng: Do đặc
điểm về công suất và dung lượng
như vậy nên hệ photphagen có
vai trò chủ yếu trong việc cung
cấp năng lượng cho các hoạt
động công suất tối đa, có sự co
cơ tối đa về lực và tốc độ. Ví dụ:
Chạy ngắn, ném đẩy, nhảy.v.v...
2).Hệ năng lượng lactic (hệ
glucophân).
- Cơ chất: Phân giải hoá học yếm
khí Glucose và Glycogen. Quá

trình cung cấp năng lượng
Glucophân yếm khí xảy ra ở cơ
tương - nơi có đủ các men xúc
tác cho phản ứng này:
C6H12O6 + 2 ADP + 2 H3PO4  2
C3H6O3 + 2 ATP + 2 H2O
(C6H10O5)n+3 ADP+3 H3PO42
C3H6O3+3
ATP+2H2O+
(C6H10O5)n-1.
- Công suất năng lượng tương
đối lớn, khoảng 12 kcal/1 phút.
- Dung lượng năng lượng:
Không lớn lắm do nồng độ
Axítlactic gây ức chế các men
phân giải glucose và glycogen.
Toàn bộ năng lượng chỉ cung cấp
khoảng 12 kcal vì hàm lượng
glycogen trong cơ trung bình
15g/1 kg.
Trong hoạt động với mức tối đa,
sự phân giải yếm khí cũng chỉ
xảy ra với không quá 25% lượng
glycogen dự trữ.
- Cung cấp năng lượng cho các
hoạt động.
Hệ lactic trong
thực tế xảy ra từ khi bắt đầu hoạt
động cơ và đạt công suất lớn
nhất sau 30 - 40 giây. Vì vậy

quyết định trong việc cung cấp
năng lượng cho các hoạt động
kéo dài từ 20 giây đến vài 3 phút
có sự co cơ mạnh và tốc độ cao
như chạy 200m đến 800m, bơi
50 - 200m.
3.Hệ năng lượng ôxy
- Cơ chất: Ôxy hoá các chất dinh
dưỡng như đường, đạm, mỡ để
cung cấp năng lượng cho cơ thể
song vai trò của Protid trong quá
trình ôxy hoá để cung cấp năng
lượng là rất nhỏ vì vậy thực tế
Protid không được tính đến khi
xem xét cơ chất của hệ ôxy.
Hai chất chính cung cấp năng
lượng cho quá trình co cơ là

Trong cơ thế có 3 hệ
thống tái tạo ATP còn gọi là hệ
năng lượng bao gồm:
+ Hệ photphagen( Hệ ATP CP ).
+ Hệ Glucophân (hệ lactíc).
+ Hệ ưa khí (hệ ôxy hoá).
Ba hệ này khác nhau
về cơ chất, tức là chất dùng để
sản sinh năng lượng.
Khác nhau về dung
lượng năng lượng, nghĩa là số
năng lượng tối đa có thể cung

cấp.
Khác nhau về công
suất nghĩa là năng lượng lớn nhất
có thể cung cấp trong một
khoảng thời gian nhất định.
Mức độ tham gia của 3 hệ năng
lượng vào việc cung cấp năng
lượng để tái tạo ATP phụ thuộc
vào:
+ Công suất và thời
gian co cơ.
+ Điều kiện hoạt động
của cơ.
+ Mức độ cung cấp
ôxy cho hoạt động cơ thể.
1). Hệ photphagen (ATP - CP).

14

Gluxid và Lipid 2 chất này khác nhau
về cơ chất và dung lượng.
* ô xy hóa đường
- Cơ chất: Ô xy hóa glucose và
glycogen
C6H12O6 + O2 +  38 ATP + 6H2O +
6CO2
(C6H10O5)n+
O2

+39ATP+6H2O+6CO2 + (C6H10O5)n-1.

- Công suất: Ôxy hoá đường thấp hơn
so với hệ lactic, khoảng 8 kcal/1 phút
vì:
+ Để phân giải glucose, glycogen
bằng con đường ưa khí, cơ thể cần
phải hấp thụ một lượng ôxy nhất
định.
+ Quá trình ôxy hoá đường đòi hỏi
phải có một khoảng thời gian nhất
định.
- Dung lượng của hệ ôxy hoá phụ
thuộc vào dự trữ glycogen ở cơ gan
và vào khả năng tạo glucose từ chất
khác (Axitlactic, Axit pyriuvic...) của
gan, dự trữ đường đó rất lớn so với
yêu cầu hoạt động của cơ thể và
khoảng 800 kcal. Số năng lượng này
đủ để một người bình thường chạy
20km bằng cách ôxy hoá đường
- Hiệu quả về năng lượng:
Ôxy hoá hoàn toàn một phân tử
glucose sẽ cung cấp được một năng
lượng hay nói cách khác tái tạo được
một lượng ATP nhiều gấp 19 lần so
với phân giải đường yếm khí, vì vậy
hệ ôxy là hệ có hiệu quả năng lượng
lớn hơn nhiều so với hệ lactic yếm
khí.
* Ôxy hoá mỡ.
Năng lượng sẽ tạo ra khi ôxy hoá các

phân tử Axít béo của Tryglyxerit là
thành phần cấu tạo của mỡ. Quá trình
này xảy ra ở ty lạp thể.
- Dung lượng năng lượng của mỡ lớn
nhất trong số các nguồn năng lượng
của cơ.
Dự trữ mỡ trong cơ thể người từ 10 30% trọng lượng cơ thể, khoảng 5%
nằm trong cơ còn lại chủ yếu nằm
trong các kho dự trữ, khi cần thiết mỡ
sẽ đi vào máu sau đó đến cơ. Toàn bộ
năng lượng dự trữ lên đến 60.000
kcal .
Hệ năng lượng ôxy
hoá có thể đảm bảo năng lượng cho
cơ thể hoạt động với thời gian dài từ
nhiều giờ đến hàng chục ngày.Tỷ lệ
giữa đường và mỡ bị ôxy hoá phụ
thuộc vào công suất của hoạt động ưa
khí:
+ Công suất càng
lớn thì tỷ lệ ôxy hoá đường vào việc
cung cấp năng lượng càng lớn và
phần đóng góp của mỡ càng nhỏ.
SINH LÝ HOẠT ĐÔNG
TDTT
1.Khái niệm, quan điểm
và cơ sở sinh lý phân loại bài tập
thể thao.
Khái niệm bài tập thể
thao:Là một tổ hợp các động tác có

liên quan chặt chẽ với nhau nhằm đạt
được thành tích thể thao cao nhất .
Ví dụ: Bài tập nhảy xa là
tổ hợp của các động tác gồm: Chạy
đà, giậm nhảy, bay trên không và rơi
xuống đất, nhằm đạt được mục đích
để bay được xa nhất .


Phân loại bài tập thể
thao.
- Quan điểm để phân loại.
Farơfen là người nghiên
cứu sinh lý học TDTT, ông đề xuất
việc phân loại các bài tập thể thao
theo 2 quan điểm:
Quan điểm 1: Các bài tập
thể thao được phân thành một nhóm
nếu có thể dùng các phương pháp,
phương tiện, chế độ giáo dục thể chất
tương đối giống nhau để thực hiện
chúng.
Ví dụ : Các BT chạy 100,
200, 300m... có thể xếp vào một
nhóm gọi là BT công suất tối đa vì
chúng có thể sử dụng cùng phương
pháp, phương tiện và giáo dục tố chất
thể lực tương đối giống nhau.
Quan điểm 2 : Các bài tập
thể thao được phân thành một nhóm

nếu chúng được sử dụng như nhau
trong hệ thống giáo dục thể chất
nhằm tăng cường trạng thái chức
năng của một cơ quan, hệ cơ quan
hoặc một cơ cơ chế, tức là phát triển
cùng một tố chất thể lực.
Ví dụ: Bài tập chạy
3000m, 5000m là bài tập công suất
lớn có thể sử dụng cho các môn thể
thao để phát triển sức bền.
- Cơ sở để phân loại bài
tập thể thao.
- Dựa vào những biến đổi
xảy ra trong cơ thể do hoạt động cơ
bắp gây nên (các chỉ số sinh lý, sinh
hoá).
- Dựa vào công suất và
thời gian hoạt động
- Dựa vào tính chất gắng
sức, đặc điểm co cơ, đặc điểm điều
khiển và các yếu tố khác nữa.
c- Phân loại bài tập thể thao.

- Bài tập tĩnh: Không có
sự di chuyển cơ thể trong không gian.
Ví dụ: Động tác trồng
chuối, hãm ngang trong thể dục dụng
cụ.
- Bài tập động: Cơ sự di
chuyển hay một bộ phận cơ thể trong

không gian, tức là tạo ra một công cơ
học .Ví dụ: Chạy, bơi, các môn
bóng...
- Bài tập chuẩn: là bài tập
có hình thức và trình tự động tác đã
được biết từ trước. Ví dụ: Bài tập
chạy, bơi.
- Bài tập không chuẩn:
Hình thức và trình tự động tác luôn
thay đổi phụ thuộc vào tình huống. Ví
dụ: Thi đấu Võ, vật, các môn bóng.
- Bài tập định lượng: Bao
gồm các bài tập mà thành tích có thể
đo đếm được bằng mét, giây, kg. Ví

dụ: Chạy tính bằng giây. Nhảy
tính bằng m. Cử tạ tính bằng kg.
- Bài tập định tính:
Bao gồm các bài tập không đo
lường kết quả được mà phải đánh
giá bằng cách cho điểm. Ví dụ:
Nhảy cầu, thể dục dụng cụ.
- Bài tập có chu kỳ :
Các bài tập động tác được lặp đi
lặp lại nhiều lần theo một cơ cấu
cố định, mặc dù các động tác có
thể thay đổi biên độ, tần số.Ví
dụ: Chạy, đi bộ, bơi...
- Bài tập không có
chu kỳ: có các động tác tuần tự

khác nhau, mặc dù từng động tác
riêng lẻ đã được định hình và xác
định từ trước.Ví dụ: Bài tập nhảy
3 bước, ném biên, đá phạt trong
các môn bóng.
2. Đặc tính sinh lý của bài tập
động có chu kỳ:
1).Đặc điểm sinh lý
của cơ thể khi thực hiện bài tập
công suất tối đa
* Đặc điểm chung:
Là bài tập có tần số động tác tối
đa trong thời gian ngắn.
Thời gian duy trì:
Từ 10 giây đến
không quá 20- 30 giây.
Tốc độ: 9 - 10 m/s.
Cự ly: Chạy 100m,
200m. Bơi 25m, 50m.
Đua xe đạp: 200 500m.
* Đặc điểm sinh lý.
- Hệ cơ: Bài tập công
suất tối đa sự co cơ cần phải tạo
ra một lực tối đa kết hợp với tần
số động tác tối đa đòi hỏi cơ bắp
phải có sức mạnh và độ linh
hoạt cao.
- Hệ máu.
Số
lượng

Hêmôglôbin và hồng cầu trong
máu hơi tăng.
Glucose trong máu
cũng tăng lên.
Hàm lượng Axítlactic
trong máu không cao và tiếp tục
tăng lên sau khi ngừng vận động
đến mức tối đa là 5-8 mMol/lít.
- Hệ tim mạch.
Tần số tim đạt giá trị
tối đa:180 - 200 lần/1 phút và có
thể đạt 220 lần/1 phút ở cuối cự
ly.
Huyết áp tối đa: 180 200 mmHg.
Huyết áp tối thiểu:
Không thay đổi hoặc tăng từ 5
-15 mmHg.
Thể tích tâm thu và
thể tích phút hầu như không đổi
(tăng lên ít nhiều).
* Thể tích tâm thu và
thể tích phút hầu như không thay
đổi vì bài tập này thời gian hoạt
động quá ngắn, chưa khắc phục
được tính ỳ của hệ tuần hoàn,
phải sau 1-3 phút vận động thì
công suất tuần hoàn mới đạt giá
trị tối đa.
- Hệ hô hấp.
Tần số hô hấp và độ

sâu hô hấp hầu như không tăng
do thời gian hoạt động quá ngắn.

Các chỉ số hô hấp
bao gồm cả hấp thụ ôxy sẽ tăng
sau khi ngừng hoạt động.
Nhu cầu ôxy không
lớn: 7- 8 lít/10 giây. Song nhu
cầu trong một thời gian lại rất
lớn.
Khả năng hấp thụ
ôxy: Không đạt giá trị cao chỉ
khoảng 0,5 lít/10 giây. Vì vậy nợ
dưỡng từ 6,5 - 7,5 lít/10 giây tức
là 39 - 45 lít/1 phút chiếm 90
-95%.
Trình độ thể thao càng cao, khả
năng nợ dưỡng càng cao.
- Năng lượng tiêu
hao.
Cung cấp cho hoạt
động này được sử dụng hoàn
toàn bằng con đường yếm khí, hệ
tim mạch và hệ hô hấp thực tế
không đóng vai trò quan trọng
mà năng lượng được cung cấp
nhờ hệ photphát (ATP - CP). Hệ
ATP - CP: 90%. Hệ Glucophân:
10%. Công suất tối đa của các
vận động viên xuất sắc có thể đạt

120 kcal/ phút tiêu hao năng
lượng .
- Hệ nội tiết.
Tuyến thượng thận
tăng bài tiết Ađrênalin và norAđrênalin Tần số tim. Tăng bài
tiết Glucocorticoit tăng để tăng
công suất co bóp của tim, tăng
chuyển hoá đường và kích thích
quá trình tạo hồng cầu làm cho
cơ thể thích nghi với hoạt động
thể lực.
- Nguyên nhân mệt
mỏi
- Bài tập công suất tối
đa có tần số động tác tối đa vì
vậy không thể duy trì tần số cao
trong thời gian dài, thần kinh
trung ương chóng mệt mỏi vì
phải hưng phấn với tần số xung
động cao và dự trữ năng lượng
trong cơ (ATP, CP) bị phân huỷ
mạnh , dự trữ ATP-CP chỉ đủ để
hoạt động khoảng 8-10 giây.
- Nợ ôxy, Axitlactic
tích tụ trong cơ.
- Dạng bài tập: Do
năng lượng được cung cấp chủ
yếu bằng con đường yếm khí nên
các bài tập loại công suất tối đa
còn được gọi là hoạt động yếm

khi tối đa.
2). Bài tập công suất dưới tối
đa.
* Đặc điểm chung.
Trong các bài tập công suất dưới
tối đa, tần số động tác thấp hơn
so với bài tập công suất tối đa,
mặc dù vẫn còn rất cao.
Thời gian: Từ 40
giây đến không quá 4- 5 phút.
Tốc độ: 7 - 8 m/s.
Cự ly: Chạy 400, 800,
1500m.
Bơi 100,
200m.
Đua xe tốc độ
1km
* Đặc điểm sinh lý:
Hoạt động của toàn
cơ thể thay đổi mạnh lúc bắt đầu
vận động và tiếp tục tăng nhanh
phụ thuộc vào cự ly, chúng có

15

thể đạt tối đa ở thời gian cuối của
hoạt động .
1. Hệ cơ: Yêu cầu về lực
và tốc độ co cơ không đạt mức cao
nhất .

2. Hệ máu:
Số lượng máu tham gia
tuần hoàn tăng lên do được huy động
ra từ các kho dự trữ.
Hồng cầu, bạch cầu,
Hêmôglôbin /1 đơn vị thể tích máu
tăng.
Thành phần của huyết
tương cũng thay đổi.
Hàm lượng glucose huyết
tăng lên do quá trình phân giải
glucogen ở trong gan được tăng
cường
Axitlactic tăng do quá
trình phân giải yếm khí glucose, làm
cho phản ứng máu trử thành a xit ; độ
pH giảm làm cho trạng thái nội môi
của cơ thể mất cân bằng.
- Hệ tim mạch.
Tần số nhịp tim tăng ngay
từ khi bắt đầu vận động và đạt mức
tối ưu (160 - 180 lần/1 phút).
Lưu lượng tâm thu tăng
rất mạnh so với lúc yên tĩnh, có thể
đạt 180 - 200ml/1 LTT .
Lưu lượng phút: 32 - 34
lít/1'(tối đa). Sau 4 - 5 phút hoạt động
lưu lượng phút có thể đạt tới 35 - 40
lít/ phút
Huyết áp tối đa: 180 - 200

mmHg.
Huyết áp tối thiểu: Hơi
tăng hoặc không thay đổi.
- Hệ hô hấp.
Tần số hô hấp và thể tích
hô hấp tăng nhanh và sau 3 - 4 phút
hoạt động với công suất dưới tối đa
sẽ đạt mức tối đa của mỗi người.
Nhu cầu ôxy: do thời gian
dài hơn bài tập công suất tối đa nên
cao hơn so với bài tập công suất tối
đa.
VD: Bài tập chạy 400m
thành tích 50".
Nhu cầu ôxy là 20 lít/1'.
Khả năng hấp thụ
ôxy là 3 lít/1'.
Như vậy nợ 17 lít/1',
chiếm 85% nhu cầu, bài tập công suất
dưới tối đa xuất hiện trạng thái ổn
định giả. Cự ly càng ngắn tỷ lệ nợ
ôxy càng cao. Song nếu tính bằng
đơn vị tuyệt đối (lít) thì cự ly càng
dài số lượng nợ ô xy càng cao, ở vận
động viên ưu tú cỡ quốc tế , nợ ô xy
có thể lên tới 20 lít.
- Năng lượng tiêu hao :
Phụ thuộc vào thời gian hoạt động.
Nếu hoạt động 40"-50":
ATP – CP : 80%; Glucôphân 15% ;

ưa khí 5%.
Nếu hoạt động 3'-4': ATP
- CP: 20%; Glucôphân 55%; ưa khí
25%.
Nguồn cung cấp glucoza
chủ yếu là glycogen của cơ,việc sử
dụng glucoza máu ở đây rất hạn chế .
Tiêu hao năng lượng trong các bài tập
dưới tối đa phụ thuộc vào thời gian
và tính chất hoạt động , nó dao động
khoảng 25 - 40 kcal/ phút
- . Hệ bài tiết : Hoạt động
của các cơ quan bài tiết thay đổi
không đáng kể, mồ hôi tiết ít.


-. Thân nhiệt : Thân nhiệt
tăng đã rõ rệt do quá trình điều nhiệt
bằng bay hơi chưa kịp xảy ra.
- Nguyên nhân mệt mỏi
Do các sản phẩm trao đổi
chất tích luỹ nhiều trong cơ thể làm
giảm độ pH của máu và gây rối loạn
nội môi.
Hệ tuần hoàn và hệ hô
hấp phát huy công suất cao trong
một thời gian.
- Dạng bài tập: bài tập
công suất dưới tối đa có yêu cầu
tương đối cao vưới khả năng yếm khí

cũng như ưa khí của vận động viên ,
vì vậy các bài tập loại này được gọi là
các bài tập hỗn hợp ( Bài tập yếm
khi - ưa khí).

16


3).Đặc điểm sinh lý của cơ thể khi
thực hiện bài tập công suất trung
bình
* Đặc điểm chung : Hoạt
động công suất trung bình ở đây cần
hiểu một cách tương đốí,bởi vì thực
tế, mặc dù cường độ hoạt đông không
cao, nhưng do thời gian kéo dài nên
nó vẫn có tác động mạnh tới cơ thể
và có khả năng gây kiệt sức và mệt
mỏi sâu. Hoạt động công suất trung
bình đặc trưng cho những môn thể
thao như :Chạy việt dã, Đi bộ, bơi
vượt sông, Đua xe đạp đường
trường.Thời gian : 40 phút đến nhiều
giờ. Tốc độ 3 - 4 m/s..
* Đặc điểm sinh lý: Hoạt động của hệ
dinh dưỡng tăng lên khi mới vận
động và đạt mức ổn định thấp hơn
khả năng tối đa của cơ thể .
- Hệ cơ: Lực và tốc độ co cơ không
cao.

- Hệ máu: Khối lượng máu tuần hoàn
tăng do được huy động ra từ kho dự
trữ.
Hồng cầu, bạch cầu,
Hêmôglôbin tăng
Do mất nước nên số lượng hồng cầu,
Hêmôglôbin/1 đơn vị thể tích máu
tăng hơn, số lượng bạch cầu có thể
lên đến 40 - 50 nghìn/1 mm3 ở người
không được luyện tập .
Sản phẩm trao đổi chất
trong huyết tương biến đổi ít hơn so
với hoạt động công suất lớn,
Axitlactic tích luỹ ít , pH hầu như
không thay đổi.
Glucose huyết giảm do sử
dụng nhiều đường để tái tổng hợp
ATP-CP.
- Hệ tuần hoàn.
Tần số tim khoảng 165 –
180 lần/phút.
Thể tích tâm thu 100 - 120
ml / 1 lần tâm thu và thể tích phút
khoảng 20 - 24 lít / phút, vào cuối cự
ly giảm, nhất là những VĐV trình độ
thấp.
Huyết áp tối đa : 160 180 mmHg, Huyết áp tối thiểu 60 -70
mmHg. Vào cuối cự ly , khi mỏi mệt
nặng, huyết áp có thể hơi giảm
xuống.

- Hệ hô hấp.
- Tần số hô hấp và độ sâu hô hấp tăng
ở mức dưới tối đa, phụ thuộc vào đặc
điểm vận động viên.
Hấp thụ ôxy đạt 60- 80%
VO2max.
Tổng nhu cầu ôxy rất cao
(400 - 500 lít) nhưng nhu cầu ô xy
trong một phút thường không quá 34 lít/1phút. Khả năng cung cấp : 4
lít/1'.
Như vậy nhu cầu ôxy được thoả mãn
đầy đủ tức là xuất hiện hiện tượng ổn
định thật. Nợ dưỡng có thể xuất hiện
vào lúc đầu vận động khi các cơ quan
dinh dưỡng chua kịp phát huy hết
công suất và khi nước rút về đích.
Năng lượng tiêu hao :
Hầu như toàn bộ năng
lượng (hơn 90%) trong hoạt động
công suất trung bình được cung cấp
bằng các quá trình ưa khí nguồn năng
lượng chủ yếu là glucose do máu
cung cấp trong trường hợp này
Glycogen lại phân huỷ mạnh ngoài ra

mỡ cũng được huy động để tạo
năng lượng .
- Bài tiết: Vận động
viên có thể bài tiết 2 - 4 lít mồ
hôi và sụt 3- 4 kg trọng lượng

cùng với mồ hôi cơ thể mất đi
một lượng muối khoáng lớn.
Lượng nước tiểu giảm, trong
nước tiểu thường có chứa đạm và
các chất chuyển hoá khác, trong
một số trường hợp còn có cả
hồng cầu, các quá trình trên xảy
ra do quá trình lọc ở thận bị rối
loạn.
- Thân nhiệt:
Thời gian hoạt động
kéo dài làm quá trình sản nhiệt
trong cơ thể tăng mạnh do phân
giải ATP và co cơ dẫn đến hiện
tượng tăng nhiệt độ cơ thể, Trời
nóng, ẩm nhiệt độ cơ thể có thể
lên tới 39 - 400c.
- Nguyên nhân mệt
mỏi
+ Cạn dự trữ năng
lượng của cơ thể.
+ Hoạt động đơn điệu
kéo dài gây mệt mỏi cho hệ thần
kinh trung ương.
- Dạng bài tập: ưa
khí.
3. Khái niệm, cơ sở sinh lý và
đặc điểm quá trình hình thành
kỹ năng vận động.
Khái niệm:

Kỹ năng vận động là
tổ hợp các động tác vận động
được hình thành trong cuộc sống
cá thể do luyện tập TDTT.
Ví dụ: Tổ hợp các
động tác gồm: Chạy đà, giậm
nhảy, bay trên không và rơi
xuống đất được tập luyện lặp đi
lặp lại thì hình thành được kỹ
năng vận động môn nhảy xa.
Bản chất:
Kỹ năng vận động là
một phản xạ vận động có điều
kiện phức tạp, chúng được hình
thành theo cơ chế của đường liên
hệ tạm thời.
Ví dụ: Kỹ năng vận
động môn nhảy xa là một phản
xạ vận động có diều kiện phức
tạp, tổng hợp của các phản xạ có
điều kiện về chạy đà, giậm nhảy,
bay trên không, rơi xuống đất,
các phản xạ có điều kiện này
được lặp đi lặp lại, hình thành
định hình động lực.
Cơ sở để hình thành
kỹ năng vận động:
Phản xạ có điều kiện
là cơ sở để hình thành kỹ năng
vận động

Ví dụ : Trong động
tác nhảy xa :
Để thực hiện động tác đo đà
,chúng ta phải dựa trên động tác
đứng
Để thực hiện động tác chạy
,chúng ta phải dựa trên động tác
đi vv…
Cơ chế hình thành
kỹ năng vận động:
Hình thành đường
dây liên hệ tạm thời trên não bộ
nối giữa hai trung tâm thần kinh
đại diện cho phản xạ có điều kiện
cũ và phản xạ có điều kiện mới

được lặp đi lặp lại, hình thành
định hình động lực . Khi đã hình
thành định hình động lực thì
không có phản xạ cũ mà chỉ cần
các phản xạ mới, gọi là kỹ năng
vận động.
Ví dụ : Kỹ thuật nhảy
xa có 4 giai đoạn: Chạy đà, giậm
nhảy, bay trên không và rơi
xuống đất.
Động tác chạy đà :
Phản xạ cũ là đi hình thành phản
xạ có điều kiện mới là chạy đà.
Động tác giậm nhảy:

Phản xạ cũ là đứng, hình thành
phản xạ có điều kiện mới là giậm
nhảy.
Động tác bay trên
không có phản xạ cũ là chạy,
hình thành phản xạ có điều kiện
mới là bay trên không.
Kỹ năng vận động
phụ thuộc vào:
- Trình độ tập luyện,
sức khoẻ của VĐV .
- Trạng thái tâm lý,
đặc điểm loại hình thần kinh của
vận động viên
- Điều kiện khách
quan : khí hậu, nhịp sinh học,
khán giả.v.v...).
Đặc điểm của kỹ
năng vận động.
Các kỹ năng vận động
được hình thành như một phản
xạ có điềukiện phức tạp theo cơ
chế hình thành đường liên hệ tạm
thời. Song so với phản xạ có điều
kiện quá trình hình thành kỹ
năng vận động có một số qui luật
đặc biệt:
- Hình thành kỹ năng
vận động, các đường dây liên hệ
tạm thời nối giữa 2 trung tâm

trên vỏ não đại diện cho phản xạ
có điều kiện cũ và đại diện cho
phản xạ có điều kiện mới.
- Kỹ năng vận động
phản ứng trả lời không phải có
sẵn mà phải xây dựng một tổ hợp
các động tác mới.
Ví dụ :Trong phản xạ
tiết nước bọt bằng ánh sáng khi
chúng ta kiến lập được phản xạ
có điều kiện cho Chó,đường liên
hệ tạm thời trên vỏ não được
hình thành giữa một kích thích
vô quan (ánh đèn )và phản ứng
không điều kiện (tiết nước bọt )
hay phản ứng có điều kiện đã có
một cách ổn định từ trước (ví dụ
tiết bọt bằng tiếng chuông -Phản
xạ có điều kiện cấp 2 ),trong các
phản xạ loại này ,phản ứng trả
lời của cơ thể là có sẵn,chỉ có
phần hướng tâm tức là phần thu
tín hiệu vô quan là mới lạ đối với
cơ thể .
Trong kỹ thuật
nhảy xa, phản ứng trả lời đối với
kích thích không phải là những
phản ứng có sẵn, mà chúng ta
phải xây dựng một động tác mới
hoặc phải xây dựng một tổ hợp

mới các động tác mà trước đó
chưa có. Ví dụ tổ hợp các động
tác nhảy xa: Chạy đà, giậm nhảy,
bay trên không, rơi xuống đất
dựa trên các phản xạ cũ là đi,
đứng, chạy,xây dựng được tổ

17

hợp các động tác mới là chạy đà,
giậm nhảy, bay trên không,rơi xuống
đát , Nghĩa là trong kỹ năng vận động
,đường liên hệ tạm thời phải được
hình thành không chỉ đối với phần
hướng tâm (cảm giác ) mà với cả
phần ly tâm (vận động)của bộ máy
vận động .
- Kỹ năng vận động phải phối hợp
giữa 2 loại đường dây liên hệ tạm
thời:
+ Một: Thông qua hệ
thống tín hiệu nhất và thứ hai cần
phải hình thành đường liên hệ giữa
kích thích vô quan và động tác mới
cần thực hiện.
Ví dụ: Xem thầy làm
mẫu ,Nghe thầy giảng giải ,phân tích
động tác về kỹ thuật nhảy xa cần hình
thành đường dây liên hệ tạm thời
giữa động tác giậm nhảy và động tác

chạy đà,giữa bay trên không và giậm
nhảy .
+ Mặt khác kỹ năng vận
động được hình thành còn xuất hiện
đường dây liên hệ tạm thời với các
chức năng dinh dưỡng. Như vậy kỹ
năng vận động gồm 2 thành phần
(thành phần vận động và thành phần
dinh dưỡng).
Thành phần vận động và
thành phần dinh dưỡng của kỹ năng
vận đông có thể hình thành không
cùng một lúc. Trong các kỹ năng vận
động đơn giản như đi, chạy, nhảy
thành phần vận động được hình thành
trước. Trong kỹ năng vận động có
động tác phức tạp như các môn bóng,
thể thao dụng cụ thành phần dinh
dưỡng lại hình thành trước .
Khi kỹ năng vận động đã
được hình thành thì thành phần dinh
dưỡng có quán tính cao và ít biến đổi
hơn thành phần vận động. Ví dụ khi
chuyển từ chạy sang ném bóng thì
chức năng vận động thay đổi rất
nhanh, ngay tức khắc, còn các cơ
quan dinh dưỡng vẫn tiếp tục hoạt
động như khi chạy một thời gian dài.
- Các kỹ năng động tác
mới bao giờ cũng được hình thành

dựa trên cơ sở của những động tác cũ
đã được xây dựng từ trước, Ví dụ kỹ
thuật nhảy xa :
Kỹ năng đi đo dà dược
hình thành trên cơ sở kỹ năng đứng
Kỹ năng chạy đà được
hình thành trên cơ sở của kỹ năng đi
Kỹ năng vận động không
phải là một hoạt động đơn lẻ mà là
một tổ hợp của các phản xạ vận
động có điều kiện phức tạp nối lại
với nhau theo một trình tự nhất định
tạo nên hoạt động thống nhất.
4. Cơ sở sinh lý phát triển tố chất
sức mạnh.
a. Khái niệm sức mạnh :
Sức mạnh là khả năng khắc phục một
trọng tải hoặc một lực nào đó bằng sự
căng cơ.Ví dụ :Cử tạ
b. Phân loại sức mạnh :
+ Sức mạnh mà cơ phát ra
phụ thuộc vào :
- Số lượng đơn
vị vận động ( sợi cơ )
tham gia vào căng cơ.
- Chế độ co cơ
của các đơn vị vận động


- Chiều dài ban

đầu của sợi cơ trước lúc
co.
a. Sức mạnh tối đa: Khi
số lượng sợi cơ là tối đa, các sợi cơ
đều co với chế độ co cứng và chiều
dài ban đầu của sợi cơ là tối ưu thì cơ
sẽ co với lực tối đa.Lực đó được gọi
là sức mạnh tối đa, sức mạnh tối đa
thường đạt được bằng co cơ tĩnh.
Sức mạnh tối đa của một
cơ phụ thuộc vào số lượng sợi cơ và
tiết diện ngang của cơ
b. Sức mạnh tương đối:
Sức mạnh tối đa tính trên tiết diện
ngang của cơ(kg/cm2)
c. Sức mạnh tích cực tối
đa (sức mạnh tuyệt đối): Sức mạnh
được đo khi cơ co tích cực, nghĩa là
co cơ với sự tham gia của ý thức
* Sức mạnh tích cực tối
đa chịu ảnh hưởng của hai nhóm yếu
tố chính là:
- Các yếu tố trong cơ ở
ngoại vi như :
+ Điều kiện cơ học
của sự co cơ như cánh tay đòn của
lực co cơ, góc tác động của lực co cơ
với điểm bám trên xương .
+ Chiều dài ban đầu
của sợi cơ.

+ Độ dày của cơ .
+ Đặc điểm cấu tạo
(cơ cấu )của các sợi cơ chứa trong cơ.
- Các yếu tố thần kinh
trung ương điều khiển sự co cơ và
phối hợp giữa các cơ trước tiên là khả
năng chức năng của nơ ron thần kinh
vận động ,tức là mức độ phát xung
động với tần số cao.Để phát lực lớn,
hệ thần kinh cần phải hưng phấn ở rất
nhiều nơ ron vận động. Sự hưng phấn
đó không quá lan rộng để không gây
hưng phấn các cơ đối kháng, tức là
phải tạo ra sự phối hợp tương ứng
giữa các nhóm cơ, tạo điều kiện cho
các cơ chủ yếu phát huy sức mạnh
d..Sức mạnh tối đa sinh

Huy động toàn bộ
các đơn vị vận động trong cơ thể để
tạo ra sức mạnh .
Có thể đo sức mạnh tối đa sinh lý
bằng cách kích thích điện lên cơ.
*Sự khác biệt giữa sức
mạnh tối đa sinh lý và sức mạnh tích
cực tối đa được gọi là thiếu hụt sức
mạnh
Sức mạnh tối đa
sinh lý - sức mạnh tích cực tối đa =
sự thiêú hụt sức mạnh (Olifixit sức

mạnh).Nếu sự thiếu hụt giảm chứng
tỏ trình độ tập luyện tốt .Nếu sự thiếu
hụt tăng chứng tỏ trình độ tập luyện
giảm . vì vậy người ta đã sử dụng sự
thiếu hụt sức mạnh để đánh giá trình
độ VĐV hoạt động về sức mạnh
Bản chất của sức
mạnh : Phát triển sức mạnh cho cơ là
sự phì đại cơ (cơ to ra).
Sợi cơ là một tế bào
được biệt hóa rất cao, vì vậy sợi cơ
có thể phân chia để tạo tế bào mới,
Sự phì đại cơ xảy ra chủ yếu là do
sợi cơ có sẵn dày lên, khi sợi cơ đã
dày lên đến một mức độ nhất định
chúng có thể tách dọc để tạo ra những
sợi con có cùng một đầu gắn chung
vơí sợi mẹ .
Biểu hiện trong cơ

+Quá trình tổng hợp
Prôtit tăng trong khi quá trình
phân hủy chúng bị giảm đi
+Hàm lượng AND và
ARN tăng
+Hàm lượng Creatin
tăng ,có tác dụng kích thích quá
trình tạo Ac tin và Miozin và như
vậy thúc đẩy sự phì đại cơ.
d. Đặc điểm

cấu tạo sợi cơ
Tỷ lệ các loại
sợi cơ chậm (Nhóm I) và nhanh
(nhóm II-A và II-B)chứa trong
cơ .Các sợi nhanh ,nhất là nhóm
II-B chiếm tỉ lệ cao vì nó có khả
năng phát lực lớn hơn các sợi
chậm và có khả năng hoạt động
trong điều kiện thiêú O2 .Vì
vậy ,cơ có tỷ lệ các sợi nhanh
càng cao thì có sức mạnh càng
lớn .
Tập luyện sức
mạnh không làm thay đổi được tỉ
lệ các loại sợi cơ nhưng tập luyện
sức mạnh có thể làm tăng tỉ lệ
sợi cơ nhanh Glucophân nhóm
II-B ,giảm tỉ lệ sợi cơ nhanh ôxy
hóa nhóm II-A,tăng sự phì đại
các sợi cơ nhanh.
Số sợi cơ tham
gia :số lượng đơn vị vận động cơ
tham gia ,thần kinh hưng phấn
mạnh ở nhiều nơron vận động
tạo ra sức mạnh đồng bộ giữa các
nhóm cơ tham gia vào vận động
phát huy sức mạnh tối đa
e.Phương pháp phát
triển sức mạnh
Cơ sở sinh lý của phát

triển sức mạnh là tăng cường số
lượng đơn vị vận tham gia vào
hoạt động ,đặc biệt là các đơn vị
vận động nhanh ,chứa các sợi cơ
nhóm II có khả năng phì đại cơ
lớn, Để đạt được điều đó trọng
tải phải lớn để gây được hưng
phấn mạnh đối với các đơn vị
vận động nhanh có ngưỡng hưng
phấn thấp:
- Sức mạnh tối đa
:muốn phát triển thì không được
sử dụng 100% sức mạnh tích
cực tối đa mà chỉ sử dung 70% 90% sức mạnh tích cực tối đa
- Trong 1 tuần chỉ nên
tập 2 - 3 buổi và kết hợp nhiều
dạng bài tập khác nhau. VD: bài
tập phát triển - chân .
6.Cơ sở sinh lý phát triển tố
chất sức nhanh
1. Khái niệm :
Sức nhanh là khả
năng thực hiện động tác trong
khoảng thời gian ngắn nhất (tính
bảng m/s và tần số động tác )
Ví dụ : Chạy 100 m
tính bằng giây .
Gánh tạ 20% trọng
lượng tối đa tính bằng số lần
/giây.

2.Bản chất của sức
nhanh
Đánh giá bằng tính
linh hoạt thần kinh - cơ và tốc độ
co cơ
*Độ linh hoạt của quá
trình thần kinh thể hiện ở:

- Biến đổi nhanh
chóng quá trình hưng phân và ức
chế trong các trung tâm thần kinh
- Tăng tốc độ dẫn
truyền xung động của các nơron
vận động
- Khả năng thả lỏng
nhanh của đơn vị vận động
- Khả năng tiếp nhận
thông số vận động cao .Đó là các
yếu tố làm tăng cường biên độ và
tần số động tác.
*Tốc độ co cơ phụ
thuộc trước tiên vào tỷ lệ sợi cơ
nhanh và chậm trong một bó cơ
3.Phân loại: Sức
nhanh có thể biểu hiện ở dạng
sức nhanh đơn giản và sức nhanh
phức tạp.
*Sức nhanh đơn
giản :
Là sự tổng hợp hòa

của 3 yếu tố :
- Thời gian phản ứng
- Thời gian thực
hiện động tác đơn lẻ
- Tần số động
tác
Ví dụ: Ngồi bấm và
tắt đồng hồ
Sức nhanh ít chịu
ảnh hưởng của môi trường, nó
mang yếu tố bẩm sinh. Trong
quá trình tập luyện có làm thay
đổi tần số và biên độ động tác
nhưng yếu tố quyết định vẫn là
đặc điểm di truyền .
VD:Thành tích 100m
rút ngắn 1/100 giây là khó
,nhưng trong chạy maratong
thành tích có thể rút ngắn 5-10 '
*Sức nhanh phức
tạp :
Là thời gian thực hiện
các hoạt động thể thao phức tạp
khác nhau.
Ví dụ: Tốc độ dẫn
bóng trong bóng đá , tốc độ đấm
trong quyền anh, Chạy 100m.
Sức nhanh phức tạp được đánh
giá thành tích các bài tập chạy
80m , 60m, 100m .

* Mối quan hệ giữa
2 loại sức nhanh .
Các dạng đơn giản
của sức nhanh liên quan chặt chẽ
với kết quả sức nhanh ở dạng
phức tạp.Thời gian phản ứng,
thời gian của một động tác đơn lẻ
hoặc tần số động tác cục bộ càng
cao thì tốc độ thực hiện các hoạt
động phức tạp sẽ càng cao.
Các dạng biểu hiện
sức nhanh đơn giản phát triển
tương đối độc lập với nhau. Thời
gian phản ứng có thể rất tốt,
nhưng động tác đơn lẻ lại chậm
hoặc tần số động tác lại rất
thấp.Vì vậy sức nhanh là tố chất
tổng hợp của 3 yếu tố cấu thành
là thời gian phản ứng, thời gian
của động tác đơn lẻ và tần số
động tác.
4. Đặc điểm cấu tạo
sợi cơ
Khi áp dụng bài tập
tốc độ, tốc độ co cơ phụ thuộc
vào tỉ lệ sợi cơ, trong 1 bó cơ
( sợi cơ nhanh II và sợi cơ chậm
I)

18


Đặc biệt là sợi cơ nhóm
II-A có khả năng co cơ tốc độ nhanh.
Nó phụ thuộc vào :
- Nồng độ ATP - CP trong
cơ, Khi hàm lượng ATP và CP trong
cơ cao thì khả năng co cơ nhanh cũng
tăng lên.
Trong các bài tập sức
nhanh phản ứng đơn giản, theo một
số tác giả, hàm lượng ATP - CP có
thể tăng 10-30 %
- Phụ thuộc vào hoạt tính
của men phân giải và tổng hợp ATP
-CP,Tập luyện sức nhanh có thể làm
tăng hoạt tính của các men này .
5. Quan hệ giữa sức
nhanh và sức mạnh
Trong các hoạt động thể
thao, tốc độ và sức mạnh có liên quan
mật thiết với nhau. Phát triển sức
mạnh ảnh hưởng rõ rệt đến sức
nhanh. Trong nhiều môn thể thao, kết
quả hoạt động phụ thuộc không chỉ
vào sức nhanh hay sức mạnh riêng lẻ
mà phụ thuộc vào sự phối hợp hợp lý
giữa 2 tố chất. Sự phối hợp giữa sức
nhanh và sức mạnh gọi là sức mạnh
tốc độ .
Ví dụ:Chạy 100m là bài

tập có cả sức nhanh và sức mạnh, sức
mạnh thể hiện ở động tác đạp sau và
giữ trương lực cơ lưng .
Các môn không có chu kỳ: võ
vật , đấu kiếm , quyền anh, ném, nhảy
có cả sức nhanh và sức mạnh.
6.Phương pháp phát triển sức
nhanh
Cơ sở sinh lý để phát triển
sức nhanh là tăng cường độ linh hoạt
và tốc độ dẫn truyền hưng phấn ở
trung tâm thần kinh và bộ máy vận
động, tăng cường sự phối hợp giữa
các sợi cơ, nâng cao tốc độ thả lỏng
cơ.
Sử dụng bài tập tần số
cao, trọng tải nhỏ, thời gian nghỉ giữa
dài .
6. Cơ sở sinh lý của tố chất sức bền
Khái niệm : Sức bền là
khả năng thực hiện lâu dài một hoạt
động chuyên môn nào đó . Phát triển
sức bền là biện pháp chống lại mệt
mỏi có hiệu quả nhất.
VD : Chạy việt dã, Đua
xe đạp đường trường, đi bộ thể thao
Đó là những hoạt động
mang tính ưa khí .
Bản chất của sức bền
Trong sinh lý học thể dục

thể thao, Sức bền đặc trưng cho các
hoạt động từ 2 -3 phút trở lên, Với sự
tham gia của một khối lượng cơ bắp
lớn (Từ 1/2 toàn bộ lượng cơ bắp của
cơ thể) nhờ sự hấp thụ ô xy để cung
cấp cho cơ thể chủ yếu hoặc hoàn
toàn bằng con đường ưa khí.
Ví dụ chạy từ 1500m trở
lên, Bơi từ 400m trở lên …
Mức hấp thụ ô xy tối đa
của một người quyết định khả năng
làm việc trong điều kiện ưa khí của
họ , VO2 maxcàng cao thì công suất
hoạt động ưa khí sẽ càng lớn, VO2
max càng cao thì cơ thể thực hiện
hoạt động ưa khí càng dễ dàng, và vì
vậy càng được nhanh hơn.
Bản chất, Sức bền chính
là khả năng hấp thụ ô xy tối đa của
cơ thể (đạt VO2 max).


Phân loại : Có 2 loại sức
bền là sức bền chung và sức bền
chuyên môn
Sức bền chung gồm năng
lực vận động chung, biểu thị khả
năng của con người hoàn thành một
công động có cường độ nhất định
trong thời gian từ vài chục phút đến

vài giờ.Phương pháp huấn luyện là sử
dụng các bài tập chạy, đi bộ, bơi, xe
đạp, các môn bóng.
Sức bền chuyên môn gồm
:

Sức bền hệ cơ (sức
bền tốc độ): Là khả năng duy trì nhịp
vận động cao để chuyển động rất
nhanh trong cự ly ngắn.Ví dụ chạy
100m, 200 m được đánh giá bằng sức
bền hệ cơ, cơ càng có khả năng thả
lỏng nhanh càng có khả năng tăng tần
số động tác
Sức
bền tuần hoàn hô hấp: Trong các
hoạt động dưới tối đa và lớn, cơ thể
phải chịu đựng tình trạng thiếu ô xy
trong một thời gian dài, vì vậy hệ hô
hấp và hệ tuần hoàn phải phát huy
công suất cao để tăng cường vận
chuyển ô xy cho các cơ quan hoạt
động. Ví dụ chạy 1500 m, bơi100
m....
Sức bền năng lượng:
Trong các hoạt động với thời gian
quá dài, cơ thể phải sử dụng hết các
nguồn năng lượng dự trữ. Ví dụ chạy
maratong, bơi vượt sông, đua xe đạp
đường trường ...

Các yếu tố ảnh hưởng :
Sức bền phụ thuộc vào:
- Khả năng hấp thụ ô xy
tối đa của cơ thể
- Khả năng duy trì lâu dài
mức hấp thụ ô xy cao
*Khả năng hấp thụ ô xy tối
đa được quyết định bởi hai hệ thống
chức năng chính :
Hệ vận chuyển ô xy: Máu,
tuần hoàn, hô hấp đảm nhiệm vai trò
hấp thụ ô xy từ môi trường bên ngoài
và vận chuyển ô xy đến cơ và các cơ
quan.
Hệ sử dụng ô xy: Hệ cơ,
là hệ sử dụng ô xy được cung cấp.
* Hệ hô hấp
Là khâu đầu tiên của hệ
vận chuyển ô xy. Hệ hô hấp đảm bảo
việc trao đổi khí không khí bên ngoài
và máu, tức là làm cho phân áp ô xy
trong máu được duy trì ở mức cần
thiết để cung cấp cho cơ và các cơ
quan.
Để đảm bảo được sự trao
đổi khí cao, tức là đảm bảo sự phát
triển sức bền, hệ hô hấp phải có
những biến đổi cả về cấu tạo và chức
năng nhất định. Những biến đổi đó
bao gồm 3 nhóm chính sau:

- Các thể tích của phổi
tăng lên rõ rệt trong tập luyện sức bền
:10 -20% ( trừ không khí lưu thông ),
lượng khí cặn giảm đi.
- Công suất và hiệu quả
của hô hấp ngoài tăng lên Sự tăng
công suất và hiệu quả của hô hấp
ngoài xảy ra trước tiên là do lực và
sức bền của các cơ hô hấp đều tăng.
Độ sâu hô hấp tăng lên, Tần số hô

hấp giảm xuống. Độ đàn hồi của
của lồng ngực và phổi cũng thay
đổi, độ giãn nở tốt hơn trong khi
hít vào , kháng trở đối với dòng
không khí đi vào phổi giảm
xuống .
Các biến đổi nêu trên
làm cho thông khí phổi trong một
phút tăng lên.
-Tăng cường khả
năng khuyếch tán của phổi do
mạng mao quản trong phế nang
tăng lên và do lượng máu tuần
hoàn qua phổi tăng. Khả năng
khuyếch tán cao của phổi làm
cho ô xy đi từ phế nang vào máu
và làm cho máu bão hoà ô xy
nhanh hơn .
* Hệ máu

Thể tích máu và hàm
lượng hemoglobin quyết định
khả năng vận chuyển ô xy của cơ
thể
Tập luyện sức bền
làm tăng lượng máu tuần hoàn, ở
các VĐV sức bền, lượng máu
lưu thông trung bình cao hơn
người thường 20 % để tăng quá
trình vận chuyển ô xy, chủ yếu
do tăng thể tích huyết tương, vì
vậy độ nhớt của máu giảm. Lượng máu tuần hoàn lớn làm cho
lượng máu về tim sẽ lớn hơn,
tăng lưu lượng tâm thu và làm
tăng cường dòng máu chảy vào
hệ thống mạch máu ở da, do đó
nâng cao khả năng thải nhiệt của
cơ thể, lượng máu tăng làm pha
loãng các sản phẩm trao đổi chất
Ví dụ: Axitlactic có trong máu và
làm giảm nồng độ của chúng
Thể tích và hàm lượng Hb
quyết định khả năng kết hợp ô
xy, tức là khả năng vận chuyển ô
xy của cơ thể .Hàm lượng Hb và
Hồng cầu của VĐV sức bền
giống như ở VĐV khác và người
thường nhưng do lượng máu của
VĐV sức bền cao hơn nên số lượng hồng cầu và Hb tuyệt đối
của họ cao hơn.

Ơ người bình thường
và VĐV sức mạnh tốc độ, Hb
trong máu khoảng 700 -900 g
Trong khi ở các VĐV sức bền
khoảng 1000 -1200g.
Axitlactic trong máu:
Trong các hoạt động sức bền
những hoạt động ưa khí , hàm lượng axitlactic trong máu tỷ lệ
nghịch với thời gian vận động.
Trong quá trình tập luyện sức
bền hàm lượng axitlactic trong
cơ và máu khi thực hiện bài tập
ưa khí dưới tối đa sẽ giảm đi, lý
do :
* Cơ bắp của VĐV
tập luyện sức bền có khả năng
trao đổi chất ở điều kiện hàm lượng ô xy cao, vì vậy chúng ít sử
dụng cách cung cấp năng lượng
yếm khí, có nghĩa là ít tạo ra
axitlactic hơn ở người thường.
* Hệ vận chuyển ôxy của
VĐVsức bền thích nghi với vận
động nhanh hơn do đó cung cấp
ô xy đầy đủ cho cơ thể hơn mà
axitlactic thường đươc hình
thành ở giai đoạn đầu vận động,

khi ô xy chưa được cung cấp đầy
đủ .
* Các VĐV Sức bền

có tỷ lệ sợi cơ chậm và cơ tim
phát triển nên nó có khả năng sử
dụng a xid lac tic để làm nhiên
liệu cung cấp năng lượng rất tốt
nên a xit lac tic giảm .
* Lượng máu
tuần hoàn tăng ở VĐV Sức bền
làm pha loãng sản phẩm a xit
lactic chứa trong máu, vì vậy làm
giảm nồng độ a xid lactic trong
máu xuống.
ở các hoạt động mang
tính chất sức bền, các chỉ số sinh
lý sinh hóa trong cơ thể biến đổi
phụ thuộc vào công suất và thời
gian vận động, Công suất cao thì
các chỉ số biến đổi nhiều, công
suất thấp thì các chỉ số biến đổi ít
.
Glucoza huyết trong
các hoạt động kéo dài sẽ giảm
dần (từ 80 mg % xuống 50 - 60
mg%).Trong quá trình tập luyên
sức bền, sự giảm đường huyết
xảy ra chậm hơn và ít hơn. Khả
năng làm việc khi đường huyết
giảm cũng tăng lên, vì vậy sức
bền phát triển tốt hơn.
* Hệ tuần hoàn :
Trong quá trình tập luyện sức

bền, Hay nói cách khác , để có
khả năng sức bền cao, tim và
mạch máu có những biến đổi sâu
sắc cả về cấu tạo và chức năng.
Những biến đổi đó biểu hiện
trong yên tĩnh và trong vận động
với những lượng vận động khác
nhau.
Tập luyện sức bền
làm cho tim biến đổi theo 2
hướng: Giãn buồng tim và phì
đại cơ tim
Giãn buồng tim làm
cho lượng máu chứa trong các
buồng tim tăng lên . Đó là các
yếu tố quan trọng để tăng thể
tích tâm thu khi cần thiết .
Phì đại cơ tim làm
tăng lực bóp cơ tim, tức là làm
tăng thể tích tâm thu .
Về mặt chức năng,
tập luyện sức bền làm giảm nhịp
tim khi yên tĩnh. Mức độ giảm
nhịp tim tương ứng với VO 2
max và với thành tích trong các
môn thi đấu thể thao thời gian
dài như chạy maraton, đua xe
đạp đường dài …
Sự giảm nhịp tim làm
cho tim hoạt động kinh tế, ít tiêu

hao năng lượng hơn và có thời
gian nghỉ dài hơn, Sự giảm nhịp
tim không làm cho thể tích phút
của dòng máu bị giảm đi, vì đồng
thời với giảm nhịp tim, lực bóp
của tim , tức là thể tích tâm thu
đã tăng lên do phì đại cơ tim và
giãn buồng tim.
Những biến đổi về
cấu tạo và chức năng trong yên
tĩnh có tăng khả năng tối đa của
tim trong vận động, Khi thực
hiện lượng vận động ưa khí tối
đa, thể tích phút tối đa của VĐV
có thể gấp đôi người thường, đạt
38 - 40lít/ phút, thể tich tâm thu
tối đa của VĐV sức bền có thể

19

đến 190 - 210ml, trong khi ngừơi
thường không quá 130 ml.
Trong các hoạt động ưa
khí dưới tối đa, ở mức hấp thụ ô xy
tương đương như nhau,thể tích phút
của VĐV và người thường nói chung
không có sự khác biệt đáng kể, song
nhịp tim của VĐV sức bền thấp hơn
so với của người thường(Nghĩa là thể
tích tâm thu cao hơn). Trình độ phát

triển sức bền càng cao thì nhịp tim
trong các hoạt động ưa khí dưới tối
đa càng thấp .
Quá trình tập luyện thể
lực làm biến đổi sự phân bổ máu giữa
các cơ quan hoạt động và không trực
tiếp hoạt động, vì vậy mà lượng máu
đi đến cơ bắp trong thời gian vận
động ở VĐV sẽ nhiều hơn người
thường, Tập luyện sức bền làm tăng
mao mạch ở cơ, mạng mao mạch đầy
đặc ở cơ là cơ chế quan trọng để phát
triển khả năng hoạt động của chúng.
Nhờ mạng mao mạch đầy đặc như
vậy, dòng máu tối đa của VĐV sẽ rất
lớn .
ở các VĐV tập luyện sức
bền, khả năng khuyếch tán các chất,
kể cả ô xy qua màng mao mạch cũng
tăng lên, vì vậy lượng ô xy mà cơ có
thể nhận được cao hơn.
* Hệ cơ: Lượng ô xy mà hệ vận
chuyển ô xy mang tới trong thời gian
hoạt động thể lực chủ yếu được sử
dụng ở cơ.
Đặc điểm nổi bật về cấu
tạo cơ của các VĐV có thành tích cao
trong các môn thể thao sức bền là tỷ
lệ các sợi cơ châm (nhóm I) trong cơ
rất cao. Giữa tỷ lệ sợi chậm và VO 2

Max có mối liên quan chặt chẽ.
Những người tỷ lệ sợi cơ chậm cao
thường có VO 2 Max cũng cao.
ỞVĐV chạy maratong trình độ cao,
tỷ lệ sợi chậm I chiếm 80 % ,cơ
nhanh chiếm 20 % . tỷ lệ là 4/1.
trong khi ở VĐVchạy 100 m tỷ lệ này
là 20 - 30 %
Tập luyện sức bền không
làm thay đổi tỷ lệ sợi chậm và nhanh
song tập luyện sức bền có thể làm
tăng tỷ lệ sợi nhanh II A, giảm tỷ lệ
sợi nhanh nhóm II B vì nhóm IIA là
những sợi có khả năng trao đổi năng
lượng bằng con đường ô xy hóa cao
hơn sợi II B.
+ Biểu hiện trong cơ:Tăng
sự phì đại cơ tựơng, tăng khả năng
hấp thụ ô xy, Ty lạp thể và số lượng
các men trong cơ đều tănglên, điều
đó làm cho khả năng hấp thụ ô xy của
cơ nói chung tăng lên.
Tập luyện sức bền làm
tăng số mao mạch trong cơ.Trung
bình trên 1 mm2tiết diện ngang của
sợi cơ ở người thường có 320 mao
mạch, còn ở VĐV là 400.
Trong quá trình tập luyên
sức bền ở cơ xảy ra hàng loạt biến
đổi hoá sinh để năng cao khả năng sử

dụng ô xy:
Tăng hàm lượng và hoạt
tính của các men trao đổi chất ưa khí
Tăng
hàm
lượng
myoglobin (1,5 -2 lần),
Tăng hàm lượng các chất
chứa năng lượng như glycogen và
lipid (tối đa 50 %).
Tăng khả năng xy hóa
đường và đặc biệt là mỡ của cơ.


e. Hiệu quả của phát
triển sức bền
Nâng cao khả năng hoạt
động ưa khí tôí đa của cơ thể
Nâng cao hiệu quả (tính
kinh tế) hoạt động của cơ thể trong
hoạt động với công suất thấp lâu dài.
g.
Phương pháp phát
triển sức bền:
Cơ sở sinh lý phát triển
sức bền:Để phát triển sức bền cần
phải có sự phối hợp giữa các chức
năng dinh dưỡng và vận động của cơ
thể, Ngoài ra sức bền phụ thuộc vào
tốc độ tham gia điều hoà nội môi, đặc

biệt là điều hoà thân nhiệt của các
quá trình thần kinh - thể dịch .
Có các phương pháp để
phát triển tố chất sức bền:
Phương pháp tập luyện
giãn cách
phương pháp biến tốc
Phương pháp vượt chướng ngại vật
phương pháp dùng trọng
tải liên tục .

20


7.Đặc điểm sinh lý của trạng thái
cơ thể xuất hiện trước vận động và
khởi động.
Khái niệm: Trạng thái
trước vận động là trạng
thái đặc biệt của cơ thể
xuất hiện trước một hoạt
động thể thao (thi đấu tập luyện).
Các giai đoạn của trạng
thái trước vận động:
- Trạng thái trước thi đấu.
- Trạng thái trước xuất
phát.
Phụ thuộc vào thời gian
xuất hiện, trạng thái trước vận động
được chia làm:

a.Trạng thái trước thi
đấu:Diễn ra trước vài giờ, vài ngày,
thậm chí nhiều ngày.
b-Trạng thái trước xuất
phát: Diễn ra ở một vài phút cuối
trước vận động.
. Diễn biến sinh lý trước
vận động:
Xuất hiện ở hầu hết các cơ
quan, hệ cơ quan trong cơ thể, đặc
biệt là hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ
thần kinh và cơ...Các biến đổi đó
thường là tăng cường hưng phấn ở
các trung tâm thần kinh, tăng cường
trao đổi chất,tăng Tần số tim và sự
trao đổi khí, thân nhiệt tăng…
* Mức độ biến đổi chức năng trong
trạng thái trước vận động phụ thuộc
vào:
- Tính chất của cuộc thi
đấu sắp tới.
- Điều kiện tập luyện - thi
đấu.
- Thái độ và trình độ tập
luyện của vận động viên.
- Yếu tố tâm lý, đặc biệt là
loại hình thần kinh.
Loại hình thần kinh quyết
định trạng thái trước vận động. Ví dụ
vận động viên có loại hình thần kinh

mạnh, cân bằng, linh hoạt thì hưng
phần thần kinh tăng lên vừa phải, các
biến đổi chức năng dinh dưỡng và
vận động tương ứng với hoạt động
sắp tới.
* Phân loại trạng thái
trước vận động.
Trạng thái trước vận động
có thể ảnh hưởng đến thành tích thể
thao, do trạng thái trước vận động có
thể có 3 loại: Trạng thái thái sẵn
sàng, trạng thái bồn chồn, trạng thái
thờ ơ.
* Trạng thái sẵn sàng.là
trạng thái trước vận động hợp lý .
Trong trạng thái này , hưng phấn và
tính linh hoạt thần kinh tăng lênvừa
phải ,các biến đổi chức năng vận
động và dinh dưỡng tương ứng với
hoạt động sắp tới.Cảm xúc của VĐV
hưng phấn vừa phải , ham muốn thi
đấu , trạng thái sẵn sàng đảm bảo cho
cơ thể hoạt động tốt nhất trong thi
đấu.
* Trạng thái bồn chồn
hay còn được gọi là trạng thái sốt
trước vận động .Trong trạng thái
này , VĐV hưng phấn quá mức , dễ
bị kích động .Những biến đổi chức
năng xảy ra quá mạnh , nhiệt độ tăng

cao . Những biến đổi đó làm hao phí

năng lượng dự trữ của cơ thể và
làm mất sự cân bằng của các quá
trình thần kinh .VĐV dễ phạm
sai lầm về kĩ thuật và chiến thuật
trong thi đấu .Noí chung trạng
thái bồn chồn có ảnh hưởng xấu
đến thành tích thể thao , chỉ trừ ở
một số VĐV có loại hình thần
kinh mạnh thì sự hưng phấn quá
mức mới không làm giảm mà
ngược lại còn làm tăng thành tích
thi đấu thể thao .
* Trạng thái thờ ơ:
Là trạng thái trước thi đấu có quá
trình ức chế chiếm ưu thế trong
hệ thần kinh .Sự ức chế này
thường xảy ra sau khi hưng phấn
quá mạnh trên giới hạn .Trong
trạng thái thờ ơ, biến đổi về chức
năng vận động và dinh dưỡng
đều thể hiện yếu, có sự rối loạn
phối hợp giữa các chức năng
,vận động viên có trạng thái cảm
xúc trầm buồn, sợ thi đấu, sợ
giao tiếp.Trạng thái thờ ơ làm
giảm thành tích thể thao, nhất là
trong những môn thể thao có thời
gian thi đấu ngắn .

* Các biện pháp
khắc phục các trạng thái không
tốt
Trạng thái trước vận
động có thể điều chỉnh được
bằng nhiều biện pháp khác nhau
phụ thuộc vào đặc điểm của
trạng thái và đặc điểm loại hình
thần kinh của VĐV. Do ảnh
hưởng của chúng đối với thành
tích thể thao nên hiện nay, trạng
thái trước vận động của VĐV
được kiểm soát rất chặt chẽ và là
một nội dung quan trọng của
công tác huấn luyện :
- Biện pháp tâm lý.
+ Cho vận động viên tham quan
thi đấu.
Vận động viên trạng thái bồn
chồn thì tham gia thi đấu với đối
phương yếu để giảm hưng phấn.
Vận động viên trạng thái thờ ơ
thì cần tham gia thi đấu với đối
phương mạnh.
+ Làm quen với điều kiện sân
bãi: Cho vận động viên đi thi đấu
trước để làm quen với sân bãi,
dụng cụ.
+ Phát triển tính cân bằng thần
kinh, tránh tình trạng căng thẳng

quá mức.
VD: Xem phim, nghe nhạc phù
hợp.
- Biện pháp y sinh học: Xoa bóp,
tắm hơi.
Trạng thái bồn chồn
thì xoa với cường độ trung
bình,Tần số đều, thời gian dài.
Trạng thái thờ ơ thì
xoa với cường độ
trung bình hoặc trên
trung bình, Tần số
không đều thời gian
ngắn .
- Biện pháp sư phạm: Sắp xếp
lượng vận động hợp lý.
- Chế độ sinh hoạt: Ăn, ngủ, nghỉ
hợp lý.
VD: Vận động viên trạng thái
bồn chồn có thể cho thức uống
giảm tính hưng phấn như đỗ
đen.

- Biện pháp khởi động.
Vận động viên trạng thái bồn
chồn: Ra sân muộn, Khởi động
ít, bài tập với cường độ thấp.
Vận động viên trạng thái thờ ơ:
Ra sân sớm, Khởi động nhiều,
bài tập với cường độ cao

2.Khởi động
- Khái niệm khởi
động: Là thực hiện một tổ hợp
các động tác chuẩn bị trước một
buổi tập luyện hoặc thi đấu thể
thao
Khởi động do con
người tạo ra
- Mục đích của khởi
động: Rút ngắn quá trình thích
nghi của cơ thể với vận động,
chuyển tất cả chức năng của cơ
thể từ trạng thái yên tĩnh sang
trạng thái vận động.
*Ý nghĩa
- Khởi đông tăng
cường tính hưng phấn của trung
tâm thần kinh và tăng cường hoạt
động của các tuyến nội tiết, vì
vậy tạo điều kiện tối ưu để thúc
đẩy quá trình điều hoà chức năng
trong hoạt động thể lực, củng cố
các phản xạ cần thiết.
- Khởi đông tăng
cường hoạt động của toàn bộ hệ
thống đảm bảo dinh dưỡng và
vận chuyển ô xy của cơ thể :
Tăng thông khí phổi, tốc độ trao
đổi khí giữa phế nang và máu
tăng, tăng thể tích tâm thu và tần

số co bóp của tim, tăng huyết áp
và dòng máu tĩnh mạch trở về
tim, tăng số lượng mao mạch
tíchcực để tăng dòng máu đến
tim, phổi và cơ. Toàn bộ các tác
động nêu trên đều nhằm cung
cấp ô xy tốt hơn cho các tổ chức,
rút ngắn quá trình thích nghi với
trạng thái vận động của cơ thể.
- Khởi đông làm tăng
cườngdòng máu ở davà thúc đẩy
quá trình tiết mồ hôi, vì vậy có
ảnh hưởng tốt đối với quá trình
trao đổi nhiệt trong vận động.
- Khởi đông làm
tăng nhiệt độ của cơ, tăng khả
năng co rút và tốc độ các phản
ứng hoá sinh của cơ, nâng cao
khả năng đàn hồi của dây chằng
và khớp, tăng độ linh hoạt và tiết
dịch ở khớp. Nói chung các tác
động nêu trên làm tăng khả năng
hoạt động của bộ máy vận động
và ngăn ngừa chấn thương
*Đặc điểm Diễn biến theo quy
luật:
- Tăng dần
- Không đồng bộ
* Cấu trúc khởi động: Gồm 2
phần: Khởi động chung và khởi

động chuyên môn.
+ Khởi động chung:
Bài tập phát triển chung đa dạng,
tác động lên toàn bộ cơ thể, đặc
biệt là hệ tuần hoàn, hô hấp.
- Làm tăng nhiệt độ
cơ thể.
- Tăng hưng phấn hệ
thần kinh trung ương và chức
năng vận chuyển ôxy.
- Tăng cường trao đổi
chất.

21

+ Khởi động chuyên môn:
Được tiến hành sau khởi động chung
các động tác phối hợp kỹ thuật phức
tạp và các động tác chuyên môn với
dụng cụ chuyên môn.
Tác dụng: Chuẩn bị cho
cơ thể thực hiện một hoạt
động chuyên môn cụ thể.
*Yêu cầu
- Thời gian khởi động tối
thiểu là 5 – 6 phút
- Quãng nghỉ sau khởi
động 5 - 6 phút
- Giữ ấm cơ thể
Nội dung cũng như

khoảng cách giữa khởi động và hoạt
động chính thức( trọng động) có thể rất
khác nhau phụ thuộc vào hàng loạt yếu
tố, như đặc điểm hoạt động trọng động,
điều kiện môi trường bên ngoài, trình
độ và đặc điểm tâm lý của VĐV, trạng
thai trước vận động của VĐV…Đôi khi
còn phụ thuộc vào ý đồ chiến thuật của
Huấn luyện viên .
Về nguyên tắc khởi động
phải đủ, nhưng không gây mệt mỏi cho
VĐV. Trong thực hành đó là khi VĐV
đã ra mồ hôi và với thời gian khoảng 10
- 30 phút.
Thời gian giãn cách giữa khởi động
và trọng động vào khoảng 3-10 phút.
Khởi động có ảnh hưởng rõ rệt nhất
trong môn sức mạnh tốc độ có thời gian
tương đối ngắnvà các môn có sự phối
hợp phức tạp .
Khi nhiệt độ môi trường quá cao trên
360C Khởi động có thể ảnh hưởng xấu
đến thành tích thi đấu trong các cự ly
dài và đường trường
8.Đặc điểm sinh lý của trạng thái
trong vận động
1.Đặc điểm sinh lý của
trạng thái bắt đầu vận động..
a. Khái niệm: Trạng thái
bắt đầu vận động là giai đoạn đầu tiên

của những biến đổi chức năng trong
hoạt động thể lực.
b. Bản chất: Trạng thái bắt
đầu vận động là giai đoạn thích nghi
của có thể với những yêu cầu cao của
vận động.
c. Đặc điểm sinh lý của
trạng thái bắt đầu vận động.
Quá trình bắt đầu vận
động gây biến đổi mạnh chỉ số sinh
lý, sinh hoá và phát huy các chức
năng cơ quan, hệ cơ quan phù hợp
với nhu cầu vận động.Từng chức
năng cũng như toàn bộ cơ thể có
những biến đổi đáng kể nhằm đảm
bảo cho việc thực hiện hoạt động cơ
bắp.
- Mục đích của những
biến đổi đó nhằm tìm ra một mức
hoạt động phối hợp mới, phù hợp với
yêu cầu của vận động. Vì vậy trong
trạng thái bắt đầu vận động xảy ra các
quá trình sau:
+ Biến đổi về sự điều
khiển thần kinh và thể dịch đối với
các chức năng vận động và dinh
dưỡng phù hợp với yêu cầu vận động.
+ Xác định cơ cấu động
tác (tốc độ, lực, nhịp điệu, tính chất,
hình thức...) phù hợp với nhiệm vụ

vận động.
+ Nâng cao các chức năng
dinh dưỡng (tim - mạch, hô hấp, trao
đổi chất, điều nhiệt...) đến mức cần


thiết để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng
của vận động.
- Trạng thái bắt đầu vận
động mang tính quy luật đặc trưng
cho rất nhiều hoạt động.Sự thích nghi
của cơ thể đối với hoạt động thể lực
trong trạng thái bắt đầu vận động xảy
ra dần dần, trong một khoảng thời
gian nhất định .tức là trong hoạt động
thể lực, nhất thiết phải xảy ra một
giai đoạn bắt đầu vận động, mặc dù
sự biểu hiện và thời gian của nó có
thể khác nhau.
- Sự biến đổi chức năng
trong trạng thái bắt đầu vận động
tuân theo một số quy luật sau:
+ Sự biến đổi
tăng cường các chức năng
xảy ra không đồng bộ:
Các chức năng vận động
biến đổi nhanh hơn so với
chức năng dinh dưỡng.
Trong cùng một chức
năng, có chỉ số biến đổi

nhanh trong khi các chỉ số
khác lại biến đổi chậm.
VD: Tần số Tần số tim tăng nhanh
hơn so với lực bóp của tim ; thông
khí phổi tăng nhanh hơn so với hấp
thu ôxy.
+ Tốc độ biến
đổi các chức năng sinh lý
tỷ lệ thuận với cường độ
(công suất) hoạt động,
công suất càng lớn thì sự
tăng cường chức năng ban
đầu xảy ra càng nhanh.
Ví dụ:
Trong chạy
Maratong thời gian để đạt mức hấp
thụ ôxy cần thiết là 7-10 phút còn
trong chạy 1500m thì thời gian đó chỉ
khoảng 1,5-2 phút.
+ Trong trạng
thái bắt đầu vận động, các chức
năng sinh lý được tăng cường không
đều. Trên cơ sở đó người ta chia
trạng thái bắt đầu vận động ra làm
hai giai đoạn:
Giai đoạn phát động
nhanh. Ví dụ: tăng tần số Tần số tim
trong chạy 100m.
Giai đoạn phát động
chậm: Ví dụ lưu lượng tâm thu và lưu

lượng phút trong chạy 100m.
+ Sự cung cấp năng lượng
trong trạng thái bắt đầu vận động chủ
yếu do quá trình yếm khí đảm nhiệm:
Phân giải ATP - CP hoặc Glucophân
tạo Axitlactic và như vậy sẽ tạo ra nợ
dưỡng.
- Trạng thái bắt đầu vận
động khi thực hiện các hoạt động
phối hợp phức tạp sẽ dài hơn so với
khi thực hiện các hoạt động đơn giản.
Ví dụ: Chạy 100m khởi động tần số
Tần số tim là 120 lần/1'. Chạy dài
không cần khởi động 120 lần/1 '.
Vận động viên có trình độ
càng cao thì trạng thái bắt đầu vận
động xảy ra càng ngắn.
2.Trạng thái ổn định.
Trong các hoạt động thể lực ưa khí
công suất lớn hoặc trung bình, sau
trạng thái bắt đầu vận động các chức
năng của cơ thể sẽ ổn định ở một
mức nhất định.
a. Khái niệm: Trạng thái
tương đối ổn định về chức năng khi
thực hiện các hoạt động thể lực kéo
dài gọi là trạng thái ổn định.

b. Phân loại: Trạng
thái ổn định chia hai loại : ổn

định thật và ổn định giả.
+ Cơ sở phân loại
trạng thái ổn định: Dựa trên nhu
cầu ôxy và khả năng hấp thụ ôxy
của cơ thể.
+ Trạng thái ổn định
thật: Xuất hiện trong hoạt động
thể lực với công suất trung bình
khi nhu cầu về ôxy và các nhu
cầu dinh dưỡng khác nhỏ hơn
khả năng tối đa của cơ thể. Do
được cung cấp ôxy đầy đủ, năng
lượng để hoạt động được cung
cấp chủ yếu bằng con đường ưa
khí, nợ dưỡng không đáng kể,
các chỉ tiêu sinh lý khác đều duy
trì ở mức tương đối ổn định.
+ Trạng thái ổn định
giả: Xuất hiện ở bài tập công
suất lớn hoặc dưới cực đại kéo
dài.
Nhu cầu về ôxy cũng
như các nhu cầu về trao đổi chất
khác rất cao.
Khả năng hấp thụ ôxy
và các chỉ tiêu sinh lý được duy
trì ở mức tối đa hoặc gần tối đa
mặc dù vẫn chưa đáp ứng đủ nhu
cầu của cơ thể .
Trong trạng thái ổn

định giả , nợ dưỡng tăng dần và
ngày càng lớn, năng lượng được
cung cấp chủ yếu bằng các phản
ứng yếm khí.
Hoạt động trong trạng
thái ổn định giả vô cùng khó
khăn và thường không thể kéo
dài quá lâu vì nợ dưỡng tăng dần
và ngày càng lớn, đòi hỏi sự nỗ
lực cao độ của hệ vận động và
các hệ thống chức năng khác.
+ Trong thực tế tập
luyện và thi đấu, thể thao hầu
như không thể xác định được
trạng thái ổn định thật vì vận
động viên luôn cố gắng tăng tốc
độ hoặc công suất để đạt thành
tích thể thao cao hơn, tức là luôn
hoạt động trên mức tối đa của cơ
thể. Vì vậy sau trạng thái bắt đầu
vận động, trạng thái tiếp theo của
cơ thể vận động viên sẽ là trạng
ổn định giả.
3. Cực điểm và hô hấp lần hai
Trong
những
hoạt động thể lực căng thẳng và
kéo dài, sau khi bắt đầu hoạt
động vài phút, trong cơ thể VĐV
có thể xuất hiện một trạng thái

tạm thời đặc biệt gọi là "Cực
điểm"
a. Khái niệm : Cực điểm là sự
tạm thời giảm sút khả năng vận
động.
b. Bản chất : Sự rối loạn phối
hợp giữa chức năng vận động và
chức năng dinh dưỡng.
c. Biểu hiện của cực điểm.
Về chủ quan Vận
động viên cảm thấy tức ngực,
chóng mặt, hoa mắt, đánh trống
ngực, đau bụng, đau cơ, muốn bỏ
cuộc. Các dấu hiệu bên ngoài của
cực điểm gồm có thở nhanh và
nông, mạch nhanh, hàm lượng
CO2 trong máu và trong khí thở
ra tăng cao. Độ pH của máu
giảm, mồ hôi ra nhiều. Sự phối

hợp động tác và khả năng vận
động tạm thời giảm sút
Nguyên nhân của
trạng thái cực điểm là sự rối loạn
điều hoà chức năng tạm thời do
nhu cầu của các cơ rất cao mà
khả năng của hệ vận chuyển ôxy
chưa kịp đáp ứng. Vì vậy mà các
sản phẩm trao đổi chất yếm khí
bị tích tụ lại trong cơ và máu ,

gây ra những biến đổi xấu như
trên.
d. Khắc phục cực điểm.
Để khắc phục "cực
điểm" Vận động viên phải nỗ lực
ý chí. Nếu vẫn tiếp tục hoạt động
,cực điểm sẽ chuyển sang một
trạng thái dể chịu, hô hấp trở lại
bình thường. Tần số hô hấp giảm
, độ sâu hô hấp tăng. Tần số Tần
số tim giảm , hàm lượng CO2
trong máu và không khí thở ra
giảm đi. Độ pH của máu tăng,
mồ hôi ra nhiều. Trạng thái dễ
chịu này được gọi là "hô hấp lần
thứ hai "hay còn gọi là hiện
tượng thoát cực điểm chứng tỏ
rắng cơ thể đã tìm ra sự phối hợp
chức năng thích hợp và đã huy
động được khả năng của mình để
đáp ứng lại yêu cầu cao của vận
động .
e- Xuất hiện cực điểm phụ thuộc
vào :
Cực điểm không nhất
thiết phải xuất hiện trong hoạt
động thể lực. Thường thường,
cực đểm hay xuất hiện ở những
người luyện tập kém hay khởi
động không đầy đủ.Thời điểm

xuất hiện cực điểm phụ thuộc
vào công suất và thời gian vận
động
VD: Chạy 800m cực
điểm xuất hiện ở thời điểm
600m.Chạy 5000 thì cực điểm
xuất hiện vào phút thứ 4 - 6. Nếu
các cự ly dài hơn thì cực điiểm
xuất hiện muộn hơn .
4. Khái niệm, phân loại ,
nguyên nhân và ý nghĩa của
mệt mỏi trong hoạt động thể
thao.
1. Khái niệm: Mệt mỏi là trạng
thái sinh lý đặc biệt của cơ thể
thể hiện bởi những biến đổi đặc
biệt xảy ra trong các cơ quan, hệ
cơ quan tạm thời, giảm sút khả
năng hoạt động.
Mệt mỏi xuất hiện trong vận
động là hậu quả của hoạt động
và mất di sau nghỉ ngơi.
Trong trạng thái mệt mỏi ,cơ thể
không thể duy trì cường độ hoặc
chất lượng vận động ở mức yêu
cầu hoặc phải ngừng hoạt động .
2. Các giai đoạn phát triển của
mệt mỏi.
Mệt mỏi trong hoạt động thể lực
phát triển theo 2 giai đoạn:

- Mệt mỏi có thể khắc
phục: Khả năng hoạt động không
bị giảm sút rõ rệt do thay đổi sự
phối hợp của các cơ quan dưới
tác động của nỗ lực, ý chí.
Trong giai đoạn này,
khả năng hoạt động có thể duy trì
bằng cách thay đổi cơ cấu động
tác (mệt mỏi có bù).Ví dụ khi độ
dài của bước chạy giảm đi do

22

mệt mỏi thì trong thời gian nhất
định ,tốc độ chạy có thể duy trì bằng
cách tăng tần số bước chạy
- Mệt mỏi không thể khắc
phục (mệt mỏi mất bù) mặc dù khắc
phục bằng cách nào đi nữa ,cơ thể
cũng không thể hoạt động được
mãi ,cuối cùng khả năng hoạt động
giảm sút phải ngừng hoạt động.Dó là
giai đoạn mệt mỏi không thể khắc
phục có tính chất bảo vệ .
3. Phân loại mệt mỏi Mệt mỏi có 2
loại :
- Mệt mỏi sơ phát : là sự
giảm hoạt động của cơ quan do
những biến đổi xảy ra ngay chính cơ
quan đó.

Ví dụ: Sợi cơ không thể co lâu khi
Axitlactic trong cơ tăng cao mặc dù
xung động thần kinh vẫn truyền đến
cơ đầy đủ.
- Mệt mỏi thứ phát: Mệt
mỏi ở một cơ quan phát sinh do
những biến đổi của các bộ phận khác
gây nên.
Ví dụ: Mệt mỏi cơ do sự điều khiển
của thần kinh trung ương kém đi,
trong khi trạng thái cơ vẫn hoàn toàn
ổn định.
4. Nguyên nhân của mệt mỏi.
Do hoạt động thể lực đa
dạng và sự tham gia của các cơ quan
vào mỗi hoạt động khác nhau nên
nguyên nhân gây mệt mỏi cũng khác
nhau.
* Thứ nhất là ở địa điểm phát sinh
mệt mỏi.
- Hệ các cơ quan điều khiển bao gồm
hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh
dinh dưỡng, hệ nội tiết
- Hệ các cơ quan đảm bảo dinh
dưỡng cho hoạt động thể lực: Hệ
máu, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp.
- Hệ vận động: Bộ máy thần kinh - cơ
ngoại biên.
* Thứ hai: Mệt mỏi do cơ chế: Mệt
mỏi trong hoạt động thể lực giải thích

bằng bốn cơ chế cơ bản sau:
- Mệt mỏi do trung tâm
thần kinh: Bất kỳ hoạt động nào, các
trung tâm thần kinh, là cơ quan điều
khiển cao nhất, đều có những biến
đổi rõ rệt và xuất hiện rất sớm.
- Mệt mỏi do nhiễm độc các sản
phẩm trao đổi chất như: Axitlactic,
ôxy làm cho độ pH giảm, làm hạn
chế quá trình Glucophân tức là hạn
chế việc cung cấp năng lực cần thiết
để co cơ.
- Mệt mỏi do thiếu ôxy
trong vận động.
- Mệt mỏi do cạn dự trữ
năng lượng.
Khi thực hiện bất kì một
hoạt động thể lực nào ,các trung tâm
thần kinh là cơ quan điều khiển cao
nhất , đều có những biến đổi rõ rệt và
xuất hiện rất sớm .Kích thích hoặc ức
chế các trung tâm thần kinh vận
động , nhất là các trung tâm ở vỏ não
đều có thể làm tăng hoặc giảm khả
năng vận động. Sự mệt mỏi ở trung
tâm thần kinh có thể xuất hiện khi tế
bào thần kinh hoạt động mạnh và kéo
dài. Theo Paplop, sự mệt mỏi này là
biểu hiện của ức ché bảo vệ trên giới
hạn phát sinh khi hưng phấn quá

mức. ngoài ra , các xung động hướng
tâm đơn điệu hoặc cường độ mạnh đi
từ các cơ quan cảm thụ ngoại biên ở


cơ, dây chằng , bao khớp cũng có thể
gây ức chế trên giới hạn trong các
trung tâm thần kinh .
Trong họat động thể
lực , nhất là trong hoạt động thiếu
ôxy với công suất dưới cực đại , năng
lượng được cung cấp chủ yếu bằng
cách phân giải glucose yếm khí . Quá
trình này tạo ra một lượng axit lactic
rất lớn , làm giảm độ pH của cơ thể .
Axit lactic và độ pH làm hạn chế quá
trình gluco phân , tức là hạn chế việc
cung cấp năng lượng cần thiết để co
cơ .Như vậy là việc hình thành và
tích tụ axit lactic ( và một số sản
phẩm trao đổi chất khác )làm giảm
khả năng hoạt động của cơ.Trong
trường hợp này mệt mỏi xuất hiện do
cơ bị nhiễm độc chỉ có vai trò chủ
yếu đối với sự phát sinh mỏi mệt
trong các hoạt động được cung cấp
năng
lượng
bằng
conđường

glucophân yếm khí tạo axitlactic .
Có thể có các nguồn
dự trữ năng lượng chủ yếu là hệ
photphagen (ATP và CP) ở trong cơ
và đường ( glycogen và glucose )
chứa trong cơ và gan . Trong các hoạt
động thể lực với công suất tối đa
hoặc gần tối đa ,hàm lượng ATP - CP
có thể giảm đi đáng kể (50-90% so
với mức ban đầu - Kox).Glucose và
đặc biệt là glycogen trong các cơ có
thể bị phân giải hoàn toàn hoặc
không hoàn toàn khi thực hiện các
hoạt động công suất dưới cực đại
hoặc công suất lớn hơn .Vì vậy việc
cạn dự trữ năng lượng được coi là
một trong các cơ chế làm xuất hiện
mệt mỏi trong hoạt động thể lực .
Mệt mỏi trong hoạt
động thể lực còn được giải thích bằng
cơ chế thiếu ô xy trong vận động ,do
khả năng hạn chế của hệ vận chuyển
ô xy bao gồm hệ hô hấp ,hệ máu ,hệ
tuần hoàn .Sự thiếu ô xy làm cho các
tế bào cơ cũng như tế bào thần kinh
bị" ngạt thở "gây ra hiện tượng ức
chế ở trung tâm thần kinh ,tích tụ
axitlactic hoặc cạn dự trữ năng lượng
do không được tái tổng hợp kịp thời .
* Trên cơ sở địa điểm và cơ chế phát

sinh mệt mỏi, trong hoạt động thể
lực trong sinh lý học hình thành 2
thuyết mệt mỏi cơ bản:
- Thuyết thứ nhất: Thuyết
thể dịch - cục bộ.Cho rằng nguyên
nhân mệt mỏi là do những rối loạn
cục bộ nằm ở các cơ quan vận động.
Ví dụ: Vận động viên chạy ngắn thì
mệt cơ chân.
Vận động viên
3000m thì mệt mỏi ở hệ tuần hoàn,
hô hấp.
- Thuyết thứ 2: Thuyết
thần kinh trung ương.Giải thích sự
mệt mỏi xuất hiện hoàn toàn do hoạt
động của hệ thần kinh, cụ thể là của
vỏ não.
* Các số liệu thực nghiệm
cho thấy, không thể hạn chế nguyên
nhân mệt mỏi ở một cơ quan, hệ cơ
quan riêng lẻ nào, kể cả hệ thần kinh.
Hoạt động thể lực đòi hỏi sự tham gia
của nhiều cơ quan và hệ cơ quan khác
nữa như cơ vân, hệ hô hấp, tim mạch,
máu, các tuyến nội tiết.v.v...
5. Ý nghĩa của mệt mỏi.
- Phản ứng tốt của mệt
mỏi: Xuất hiện mệt mỏi là xuất hiện

phản ứng bảo vệ, tránh cho các

cơ quan, hệ cơ quan không bị
mệt mỏi quá mức.
- Phản ứng xấu của
mệt mỏi: Không đạt thành tích
mong muốn.
9.Đặc điểm sinh lý của trạng
thái sau vận động (trạng thái
hồi phục).
1. Khái niệm.
- Trạng thái hồi phục:
Là trạng thái của cơ thể khi quá
trình hồi phục đang diễn ra.
2. Bản chất của hồi
phục.
- Đào thải các sản
phẩm trao đổi chất: Axitlactic,
urê, CO2... qua con đường bài
tiết.
- Phục hồi các năng
lượng đã mất đi và tổng hợp,các
men thích ứng.
VD: Sau khi đường
cung cấp cho hoạt động, nó được
tổng hợp lại và tăng lên ở dạng
dự trữ để chuẩn bị cho các hoạt
động tiếp theo.
- Đưa cơ thể trở về
trạng thái ban đầu.
VD: Tần số nhịp tim
tăng lên khi vận động, khi nghỉ

ngơi lại trở về mức ban đầu là 75
lần/1' (bình thường) còn với vận
động viên thậm chí thấp hơn 5560 lần/1 phút. Đó là sự biểu hiện
của sự thích nghi với vận động.
- Biến đổi trong quá
trình hồi phục sẽ làm tăng khả
năng chức phận, tăng đồng hoá
các chất.
* Khả năng chức
phận là các chức năng của bộ
phận cơ thể.
+ Trạng thái chức
năng: Bao gồm cả cấu trúc và
chức năng.
Ví dụ: Tim vận động
viên có sự phì đại mới có lưu
lượng phút là 32 đến 34 lít/phút.
+ Trạng thái thể chất
bao gồm cả cấu trúc, chức năng
và tố chất vận động.
Ví dụ: Cơ phì đại thì
chức năng co rút, thả lỏng nhanh
và biểu thị tăng tố chất sức
nhanh, sức mạnh.
3- Các yếu tố ảnh
hưởng đến hồi phục.
- Trình độ tập luyện:
Trình độ càng cao thì hồi phục
càng nhanh.
- Công suất vào thời

gian hoạt động: Công suất hoạt
động càng cao những biến đổi
xảy ra càng mạnh thì tiến độ hồi
phục càng nhanh.
Ví dụ: Hoạt động
công suất tối đa, hồi phục sau
vận động xảy ra sau vài phút
trong khi chạy maratong hồi
phục có thể kéo dài vài ngày.
4- Đặc điểm hồi phục:
Quá trình hồi phục
của các chức năng sinh lý xảy ra
theo một số đặc điểm chung.
- Quá trình hồi phục
của từng chức năng cũng như
khả năng hoạt động thể lực nói
chung xảy ra theo hình làn sóng
và không đều, được biểu diễn

theo một đường đồ thị dạng hình
sin, tăng giảm theo tính chất có
quy luật chu kỳ tắt dần.

Hồi phục vượt
mức

-Biểu đồ 2: Đặt lượng vận động sau
thời kỳ hồi phục vượt mức .
-Biểuđồ 3 : Đặt lượng vận động
trong thời kỳ hồi phục vượt mức .

a. Biểu đồ 1: Đặt lượng vận
động trước thời kỳ hồi phục vượt
mức.
LVĐ1
LVĐ2

Lượng vận động
Khởi điểm (1)

Mức khởi điểm
Hoạt động nghỉ
- Nhịp độ hồi phục
của các chức năng sinh lý xảy ra
không đều: Ngay sau hoạt động,
sự hồi phục chức năng xảy ra
nhanh hơn, sau đó chậm hơn.
Ví dụ: Sau hoạt động
tốc độ trong 5 phút hồi phục đầu
tiên, nợ dưỡng trả gấp 5 lần so
với 13 phút tiếp theo.
- Các chức năng sinh
lý khác nhau, thậm chí chỉ số
sinh lý khác nhau hồi phục với
tốc độ khác nhau.
Ví dụ: Sau hoạt động
công suất tối đa, huyết áp trở về
mức ban đầu sau 6-8 phút, trong
khi tần số nhịp tim: 20 phút.
- Khả năng hoạt động
thể lực và nhiều chức năng liên

quan với khả năng hoạt động thể
lực của cơ thể sau hoạt động vơí
cường độ lớn không chỉ phồi
phục đến mức trước vận động mà
còn vượt quá mức đó, tạo ra sự
hồi phục vượt mức.
5- Phân loại hồi phục
: 4 giai đoạn.
- Hồi phục nhanh:
VD tần số nhịp tim, lưu lượng
phút, lưu lượng tâm thu, tấn số
hô hấp, thông khí phổi.
- Hồi phục chậm: VD
năng lượng.
- Hồi phục vượt mức:
Là hồi phục các chỉ tiêu sinh lý
cao hơn mức ban đầu
- Hồi phục muộn.
6- ápdụng quy luật
hồi phục vượt mức trong huấn
luyện thể thao.
Ông Folbort là người
đầu tiên áp dụng quy luật hồi
phục vượt mứctrong huấn luyện
nâng cao. Dựa vào hồi phục vượt
mức Folbort dẫ đưa ra 4 biểu đồ
gồm có 3 đặc điểm sau:
+Chọn thời điểm để
tác động lượng vận động tiếp
theo

+Thời gian giãn cách
giữa các lần tác động lượng vận
động.
+Năng lực làm việc
của cơ thể ở các thời điểm tác
động khác nhau và thời gian giãn
cách khác nhau.
-Biểu đồ 1- Đặt lượng vận động
trước thời kỳ hồi phục vượt
mức .

23

- Năng lực vận động ở
mức thấp nhất thì đặt lượng vận động
tiếp theo. Như vậy năng lực vận động
của cơ thể giảm xuống vì thời gian
giữa 2 lượng vận động gần nhau quá.
Sau vài lần lặp lặi như vậy
phải cho cơ thể hồi phục vượt mức
thì mới tác động lượng vận động tiếp
theo. Kiểu này trong thể thao chủ yếu
để huấn luyện sức bền.
Lứa tuổi thanh thiếu niên
thì không nên huấn luyện kiểu này vì
như vậy sẽ tích luỹ mệt mỏi dẫn đến
mệt mỏi quá sức.
Tập luyện quá sức là
:giảm sút kéo dài năng lực hoạt
động ,ngừng phát triển thành tích .

b.Biểu đồ 2 : Đặt lượng
vận động sau thời kì hồiphục vượt
mức
Biểu thị dạng sóng hình
sin không có chu kì tắt dần , sử dụng
phương pháp nàyđể huấn luyện nâng
cao sức khỏe chứ không có tác dụng
nâng cao thành tích
c.Biểu đồ 3 : Đặt lượng vận động
trong thời kì hồi phục vượt mức

Huấn luyện kiểu này là tăng dần đều .
Folbort kết hợp biểu đồ 1
và 3 thì thành tích thể thao sẽ cao,
huấn luyện cho VĐV đã có thành tích
tốt rồi, các chỉ tiêu sinh lý được ổn
định (nam 20-25 tuổi, nữ 18-20 tuổi )
không huấn luyện cho VĐV tuổi
thanh thiếu niên . VD:3 thánghuấn
kuyện chia nhỏ thành 1 tháng,
1tháng,1 tháng. Kết thúc chu kì 1
nghỉ ngơi tích cức chờ cho năng lực
hoạt động hồi phục vượt mức thì
huán luyện chu kì 2 sau đó nghỉ ngơi
tích cực chờ cho năng lực hoạt động
hồi phục vượt mức thì huấn luyện
chu kì 3 sao cho đến khi thi đấu đạt
trạng thái sung sức thể thao .




×