MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam là quốc gia có trên 3200 km thềm lục địa, có nhiều sông ngòi lớn,
trong đó nhiều sông ngòi được hình thành do tự nhiên thì còn hệ thống sông ngòi do
con người tự đào để tận dụng cải tạo khai thác vận tải, thủy lợi, v.v...phục vụ cho sự
phát triển nền kinh tế.
Đi kèm theo hệ thống sông ngòi là các tuyến đê ngăn lũ được hình thành qua
bao thế hệ, lúc đầu nó chỉ dùng để phục vụ cho ngăn lũ, dần dần được tận dụng cho
giao thông vận tải.
Nền công nghiệp càng phát triển, các cảng lớn được hình thành dần theo các
dòng sông, cửa triều điều đó bắt buộc giao thông bộ hình thành và phát triển đáp
ứng cho giao thông thủy. Lúc này các tuyến đê dùng cho ngăn lũ được tận dụng cải
tạo thành các tuyến đường bộ chính phục vụ cho xe có tải trọng lớn như đê Nghi
Tàm, đê Thanh Trì chạy theo sông Hồng, đê sông Gianh Quảng Bình, đê sông Lam
qua thành phố Vinh .vv... đã và đang được cải tạo thành tuyến các đường bộ chính.
Thực tế đã nảy sinh một số vấn đề khi thiết kế, xây dựng đường ô tô là tận
dụng nền đường là các tuyến đê chống lũ hiện hữu có cấu tạo các lớp trong thân đê
lên tới bề mặt đê khác với các lớp cấu tạo của nền đường ô tô. Mặt khác khi các nhà
thiết kế giải quyết được bài toán nếu đảm bảo được ổn định, chịu được tải trọng lớn
khi phương tiện giao thông hoạt động thì lớp bề mặt cần được thi công như thế nào
để đảm bảo chất lượng, duy trì được độ bền, lực bám, tuổi thọ .vv…
Khi đưa vào sử dụng nhiều tuyến đường có lớp bề mặt mới đưa vào khai thác
đã bị hư hỏng, bong tróc lớp bê tông nhựa, bề mặt bị lún vệt bánh xe, thậm chí còn
tạo gờ, tạo sóng .vv…
Có nhiều nguyên nhân đưa ra như nhiệt độ thiết kế, nhiệt độ khi thi công, quy
trình thi công, chất lượng lớp đá không đảm bảo, cường độ, chất lượng đá trong hỗn
hợp bê tông nhựa, chất lượng nhựa, cấp phối, chiều dày các lớp cấp phối, tải trọng
xe vượt quy định thiết kế .vv..
Tất nhiên những vấn đề này còn phải được các nhà khoa học, các nhà thiết kế,
cục giám định chất lượng chuyên ngành .vv…nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân
cơ bản nhằm làm giảm thiểu những hư hỏng thường xuyên xảy ra mà đang được
công luận, dư luận xã hội quan tâm.
Đứng dưới góc độ của nhà thầu để nghiên cứu thì trước hết việc tuân thủ các
tiêu chuẩn và yêu cầu của nhà thiết kế là đầu tiên và bản thân nhà thầu cũng phải
xây dựng được quy trình đảm bảo chất lượng thi công lớp bề mặt (áo đường), nhất
là những tuyến đê ngày càng được tận dụng để cải tạo, bổ sung thêm chức năng
dung cho giao thông bộ trong điều kiện tự nhiên có nhiều sông ngòi, kênh rạch lớn
như Việt Nam. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài nghiên cứu: “ Đề xuất quy trình
quản lý chất lượng giai đoạn thi công lớp bề mặt công trình đường trên đê ngăn
lũ”.
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình khi thi
công lớp mặt các dự án đầu tư xây dựng các công trình đường đê ngăn lũ.
Đưa ra giải pháp nhằm quản lý chất lượng khi thi công lớp áo đường bằng bê
tông nhựa đối với công trình hai chức năng giao thông và thủy lợi.
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu tới công tác quản lý chất lượng giai
đoạn thi công bề mặt các công trình hai chức năng tác động gây ảnh hưởng đến chất
lượng công trình và tiến độ thi công đối với dự án đầu tư xây dựng các công trình
công trình hai chức năng tại công ty cổ phần 484 như: việc quản lý chất lượng vật
tư, vật liệu, quản lý thiết bị máy móc, quản lý về nhân lực con người, quản lý về
kinh tế, quản lý về tiến độ thi công dự án.
Đề tài này chủ yếu nghiên cứu quản lý chất lượng giai đoạn thi công lớp bề
mặt công trình hai chức năng thông qua thực tế dự án nâng cấp đê ven Sông Lam
thành đường bộ và các dự án giao thông ven biển thuộc tỉnh Hà Tĩnh là những công
trình có 2 chức năng giao thông và thủy lợi.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình khi thi
công lớp mặt các dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông đường bộ.
Đưa ra giải pháp nhằm quản lý chất lượng khi thi công lớp áo đường bằng bê
tông nhựa đối với công trình hai chức năng giao thông và thủy lợi.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tác giả nghiên cứu vấn đề này theo quá trình sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về quản lý xây dựng bề mặt các công trình.
- Thu thấp số liệu hiện trạng, phương thức quản lý chất lượng của các công
trình tương tự.
- Phân tích các yếu tố ảnh hướng đến chất lượng thi công lớp mặt của công
trình.
- Đưa ra các giải pháp nhằm quản lý chất lượng lớp mặt của công trình 2 chức
năng.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ PHẠM VI ỨNG DỤNG CỦA ĐỀ TÀI
Ý nghĩa khoa học: Hoàn thiện phương pháp luận trong việc đưa ra các giải
pháp nhằm quản lý chất lượng khi thi công lớp mặt của công trình 2 chức năng.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: Đề tài đã đưa ra được hệ thống các giải pháp
nhằm quản lý chất lượng khi thi công lớp mặt của công trình 2 chức năng. Từ đó, áp
dụng rộng rãi cho cả nước và đặc biệt áp dụng cho những nơi có hệ thống để thủy
lợi được sử dụng làm đường bộ.
CHƢƠNG 1 - TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƢỢNG VÀ QUẢN LÝ
CHẤT LƢỢNG SẢN PHẨM XÂY DỰNG
1.1. CHẤT LƢỢNG SẢN PHẨM VÀ CHẤT LƢỢNG SẢN PHẨM XÂY
DỰNG
Trên quan điểm triết học, chất lượng là đạt đến sự hoàn hảo, tuyệt đối. Chất
lượng là cái gì đó mang tính trừu tượng, mọi người chỉ nghe thấy đã cảm thấy sản
phẩm sản xuất ra đáp ứng ngay yêu cầu của khách hàng và có đầy đủ các tính năng,
tác dụng. Nhưng có những quan niệm trong lĩnh vực chất lượng cho rằng định nghĩa
này khả năng áp dụng không cao, không nắm bắt một cách cụ thể và trên quan điểm
kinh doanh chưa phù hợp[10].
Quan điểm thứ hai, định nghĩa được xuất phát từ các đặc tính của sản phẩm.
Waite.A. Shewart - một nhà quản lý người Mỹ là người khởi xướng và đại diện cho
quan điểm này. Ông cho rằng: Chất lượng sản phẩm trong sản xuất công nghiệp là
một tập hợp các đặc tính của sản phẩm phản ánh các giá trị sử dụng của nó. Định
nghĩa này coi chất lượng là một vấn để cụ thể có thể đo đếm được. Theo quan điểm
này, người kinh doanh sẽ cố gắng đưa ra càng nhiều đặc tính sản phẩm càng tốt. Sản
phẩm sẽ đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Chính vì vậy chất lượng là sự phản
ánh số lượng tồn tại các đặc tính trong sản phẩm. Chất lượng cao - chi phí cao. Tuy
nhiên, theo quan điểm này các nhà sản xuất ra sản phẩm đã tách khỏi nhu cầu của
khách hàng, không tính đến sự thích nghi khác nhau về sở thích của từng người[10].
Quan điểm thứ ba, chất lượng được xuất phát từ nhà sản xuất: Chất lượng sản
phẩm là sự đạt được và tuân thủ đúng những tiêu chuẩn, yêu cầu kinh tế kỹ thuật đã
được thiết kế từ trước cũng như quy trình, quy phạm và các yêu cầu về thời gian khi
chế tạo chúng. Theo quan điểm này, các nhà sản xuất để ra các tiêu chuẩn áp dụng
và sản xuất theo đúng các tiêu chuẩn đó đồng thời thấy rõ các chỉ tiêu nào không
phù hợp thì loại bỏ dựa vào các công cụ thống kê. Tuy nhiên, quan điểm này nó sẽ
không phù hợp, sản phẩm không xuất phát từ yêu cầu của khách hàng, nhu cẩu của
khách hàng luôn luôn thay đổi do đó chất lượng ngày càng lạc hậu so với yêu cầu,
cần phải cải tiến liên tục[10].
Trong những năm 20 ở các nước đã xuất hiện một số nhóm quan niệm mới về
chất lượng, không tiếp cận lĩnh vực chất lượng trong không gian hẹp, không chỉ tập
trung vào yếu tố bên trong mà phải tiếp cận lĩnh vực chất lượng dựa trên các điều
kiện nhu cầu của khách hàng, ý tưởng của nhà sản xuất và sự cải tiến liên tục. Chất
lượng sản phẩm sẽ luôn đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Do đó, chất lượng
phải được xuất phát từ người tiêu dùng, Chất lượng là sự phù hợp yêu cầu và mục
đích của người tiêu dùng. Theo quan niệm này, chất lượng được xuất phát từ người
tiêu dùng, nó gắn liền với tiêu dùng và được người tiêu dùng đánh giá thông qua sử
dụng. Tuy nhiên, định nghĩa này mang tính chất trừu tượng, khó có sự phù hợp nhất
định và chỉ sử dụng mới biết phù hợp và chất lượng sản phẩm lại đi sau quá trình
sản xuất. Có những quan niệm chất lượng xuất phát từ mối quan hệ chi phí - lợi ích:
Chất lượng sản phẩm là thoả mãn được khả năng thanh toán của khách hàng. Theo
quan điểm này chất lượng sản phẩm dựa vào khả năng thanh toán của người tiêu
dùng, người tiêu dùng thanh toán được là sản phẩm đó đạt được chất lượng như yêu
cầu. Như vậy nó chỉ đúng trong một phạm trù kinh tế hẹp giữa chi phí và lợi ích của
một nhóm người, không mang tính xã hội[10].
+ Chất lượng sản phẩm xây dựng: Đối với ngành chất lượng sản phẩm đảm
bảo chất lượng là những yêu cầu tổng hợp đối với các đặc tính về kỹ thuật, về mỹ
thuật, an toàn, bền vững của công trình xây dựng phù hợp với quy chuẩn xây dựng,
tiêu chuẩn xây dựng, đáp ứng đúng như hợp đồng kinh tế và pháp luật hiện hành.
Để làm rõ chất lượng sản phẩm xây dựng, ta phải xét đến khái niệm và đặc
điểm của sản phẩm xây dựng:
- Đơn chiếc: chất lượng từng sản phẩm cá biệt không giống nhau
- Do nhiều chủ thể tham gia chế tạo.
- Sản phẩm phụ thuộc chất lượng từng giai đoạn trong quá trình đầu tư (thiết
kế, thi công, khai thác, bảo dưỡng sửa chữa)
- Sản phẩm xây dựng sau khi hoàn thành có nhiều bộ phận bị che khuất cho
nên để đánh giá chất lượng sản phẩm sau khi hoàn thành thì phải đánh giá từng
khâu, từng giai đọan của quá trình chế tạo sản phẩm, nghĩa là chất lượng phải được
kiểm soát theo quá trình.
Để giúp cho hoạt động quản lý chất lượng được thống nhất, dễ dàng. Tổ chức
quốc tế về tiêu chuẩn hóa (ISO) trong bộ tiêu chuẩn ISO (International Organization
for Standardization), phần thuật ngữ ISO đã đưa ra định nghĩa chất lượng như sau:
“Chất lƣợng là mức độ thỏa mãn của một tập hợp các thuộc tính đối với các
yêu cầu”.
Yêu cầu có nghĩa là những nhu cầu hay mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu
chung hay bắt buộc. Nói cách khác, chúng ta có thể hiểu chất lượng là sự phù hợp
với yêu cầu, Định nghĩa chất lượng trong ISO 9000 là thể hiện sự thống nhất giữa
các thuộc tính nội tại, khách quan của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu chủ quan của
khách hàng.
1.1.1. Chất lƣợng sản phẩm
Có nhiều quan điểm, quan niệm về chất lượng, bởi vì các tác giả đứng dưới
các góc độ khác nhau, ở những thời điểm khác nhau của sự phát triển xã hội để đưa
ra các định nghĩa. Do giới hạn của luận văn, tác giả tổng hợp lại một số định nghĩa
có liên quan đến chất lượng sản phẩm.
Định nghĩa chất lượng xuất phát từ cạnh tranh: Chất lượng sản phẩm là tạo ra
các đặc điểm sản phẩm và dịch vụ mà đối thủ cạnh tranh không có được. Theo quan
điểm này chất lượng sản phẩm dựa vào những đặc điềm sản phẩm của mình khác
với các đối thủ cạnh tranh, đặc điểm sản phẩm có một cái gì khác biệt với đối thủ,
đặc điểm này mới và có tính năng sử dụng tốt hơn[10].
Định nghĩa chất lượng xuất phát từ thị trường: Chất lượng sản phẩm là sự
thoả mãn và vượt sự mong đợi của khách hàng. Theo quan niệm này, chất lượng
sản phẩm được dựa vào các yêu cầu của khách hàng và nhà thiết kế sẽ tạo ra những
các đặc tính cho sản phẩm của mình mà khách hàng khi sử dụng sẽ thỏa mãn với
các đặc tính tốt hơn của bản thân sản phẩm[10].
Chất lượng sản phẩm là tổng hợp các thuộc tính của sản phẩm có thể đo, đếm
được, cảm nhận được về hình dáng, mỹ quan, độ bền, độ an toàn, thuận tiện trong
quá trình sử dụng, đáp ứng nhu cầu người sử dụng, phù hợp với trình độ phát triển
của xã hội về khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa xã hội trong từng giai đoạn
(Đối với các hoạt động dịch vụ có thể nhận biết được, cảm nhận được thông qua sự
hài lòng của khách hàng).
Từ những quan điểm trên ta đi đến khái niệm sau: Chất lượng sản phẩm là
tổng hợp các thuộc tính của sản phẩm có thể đo, đếm được về hình dáng, mỹ quan,
độ bền, độ an toàn, thuận tiện trong quá trình sử dụng, đáp ứng nhu cầu người sử
dụng, phù hợp với trình độ phát triển của xã hội về khoa học công nghệ, kinh tế, văn
hóa xã hội trong từng giai đoạn.
1.1.2. Chất lƣợng sản phẩm xây dựng
Chất lượng sản phẩm xây dựng là những yêu cầu tổng hợp đối với các đặc tính về
kỹ thuật, mỹ thuật, an toàn, bền vững của công trình xây dựng phù hợp với quy chuẩn
xây dựng, tiêu chuẩn xây dựng và các tiêu chuẩn quy trình, đáp ứng yêu cầu của Chủ
đầu tư thông qua hợp đồng kinh tế trên cơ sở pháp luật hiện hành. Ví dụ chất lượng
một tuyến đường bộ tốt nghĩa là đường bằng phẳng, đảm bảo độ êm thuận, độ dính
bám tốt, các đường cong chuyển tiếp hợp lý, tạo cảm giác thoải mái khi điều khiển
xe…
Chất lƣợng công trình xây dựng
Môi trường
và không
gian thi
công
Vật
liệu
Thiết
bị
Con
người
Quy
trình
khảo
sát
Tiêu chuẩn,
quy chuẩn
kỹ thuật áp
dụng
Hình 1.1. Chất lƣợng công trình xây dựng
Nguồn: [10]
Do đặc điểm, tính riêng lẻ của Sản phẩm Xây dựng cho nên mặc dù thiết kế có
thể giống nhau, nhưng vị trí thi công, không gian thi công, thời gian thi công, môi
trường và mặt bằng thi công khác nhau cũng cho ra đời những sản phẩm có chất
lượng khác nhau.
Chất lượng công trình tổng thể phải được hình thành từ việc tổng hợp chất
lượng của các đối tượng vật chất hình thành nên chất lượng như nguyên vật liệu,
cấu kiện, chất lượng của công việc xây dựng riêng lẻ, của các bộ phận, hạng mục
công trình. Các tiêu chuẩn kỹ thuật không chỉ thể hiện ở các kết quả thí nghiệm,
kiểm định nguyên vật liệu, cấu kiện, máy móc thiết bị mà còn ở quá trình hình
thành và thực hiện các bước công nghệ thi công, chất lượng các công việc của đội
ngũ công nhân, kỹ sư lao động trong quá trình thực hiện các hoạt động xây dựng.
1.1.3. Chất lƣợng sản phẩm xây dựng giao thông
Thông thường xét từ góc độ bản thân sản phẩm xây dựng, chất lượng sản
phẩm xây dựng giao thông được đánh giá bởi các đặc tính cơ bản như: công năng,
độ tiện dụng; đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, độ bền vững, độ tin cậy, tính thẩm
mỹ, an toàn trong khai thác sử dụng, tính kinh tế; và đặc biệt đảm bảo về tuổi thọ
(thời gian phục vụ của công trình).
Rộng hơn, chất lượng sản phẩm xây dựng giao thông còn có thể và cần được
hiểu không chỉ từ góc độ bản thân sản phẩm xây dựng và người hưởng thụ sản
phẩm xây dựng mà còn cả trong quá trình hình thành sản phẩm xây dựng giao thông
đó với các vấn đề liên quan khác.
Chất lượng công trình xây dựng, chất lượng hoạt động bảo trì, chất lượng sản
phẩm khai thác được xác định bởi hai hệ thống văn bản pháp quy quan trọng là quy
chuẩn xây dựng và tiêu chuẩn xây dựng.
Hình 1.2. Sự hình thành chất lƣợng sản phẩm xây dựng GT
Nguồn: [10]
Chất lượng sản phẩm xây dựng giao thông cần được quan tâm ngay từ khi
hình thành ý tưởng về xây dựng công trình, từ khâu quy hoạch, lập dự án, đến khảo
sát thiết kế, thi công... cho đến giai đoạn khai thác, sử dụng và dỡ bỏ công trình sau
khi đã hết thời hạn phục vụ. Chất lượng sản phẩm xây dựng giao thông thể hiện bắt
đầu từ chất lượng quy hoạch, xây dựng, chất lượng dự án đầu tư xây dựng công
trình, chất lượng khảo sát, chất lượng bản vẽ thiết kế, chất lượng công tác thi công...
Vấn đề an toàn không chỉ là trong khâu khai thác sử dụng đối với người thụ
hưởng công trình mà còn cả trong giai đoạn thi công xây dựng đối với đội ngũ công
nhân kỹ sư xây dựng. Tất cả điều này đều do con người quyết định bởi vì quy trình
an toàn cũng do con người viết ra và tổ chức thực hiện
Tính thời gian không chỉ thể hiện ở thời hạn công trình đã xây dựng có thể
phục vụ mà còn ở thời gian xây dựng và hoàn thành, đưa công trình vào khai thác
sử dụng.
Tính kinh tế không chỉ thể hiện ở số tiền quyết toán công trình chủ đầu tư phải
chi trả mà còn thể hiện ở góc độ đảm bảo lợi nhuận cho cho các chủ thể thực hiện
các hoạt động và dịch vụ xây dựng như lập dự án, khảo sát thiết kế, thi công xây
dựng, khai thác…
Vấn đề môi trường cần chú ý ở đây không chỉ từ góc độ tác động của dự án tới
các yếu tố môi trường mà cả tác động theo chiều ngược lại, tức là tác động của các
yếu tố môi trường tới quá trình hình thành dự án.
1.2. QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƢ XÂY DỰNG
1.2.1. Khái niệm và nội dung quản lý chất lƣợng
Theo cách hiểu thông thường của Tiếng Việt, thì thuật ngữ trên bao gồm nghĩa
tổng hợp của hai khái niệm “quản lý” và “chất lượng”; “quản lý chất lượng” có thể
được hiểu là “chăm nom và sắp đặt công việc về chất lượng sản phẩm trong một tổ
chức” hay là “tổ chức, điều khiển, hoạt động về chất lượng sản phẩm của một đơn
vị, một cơ quan”. Định nghĩa này có phạm vi rất lớn nhưng chưa cụ thể, bởi nó
không nói rõ các “công việc về chất lượng”; “hoạt động chất lượng” là những công
việc hay hoạt động nào.
Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) định nghĩa: "Quản lý chất lượng
là một tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung nhằm xác định chính
sách chất lượng, mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng những phương tiện
như lập kế hoạch, điều khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng
trong khuôn khổ một hệ thống chất lượng”.
Theo ISO 9000: “Quản lý chất lượng là tất cả những hoạt động chức năng
chung của quản lý, bao gồm các việc xác định chính sách chất lượng, mục tiêu, trách
nhiệm và thực hiện chúng bằng các biện pháp như lập kế hoạch chất lượng, kiểm soát
chất lượng, bảo đảm chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ hệ chất lượng.
Điều đó cho thấy chất lượng sản phẩm là tập hợp các chỉ tiêu, đặc trưng của
sản phẩm (Các tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật) thoả mãn nhu cầu xã hội trong những
điều kiện sử dụng nhất định.
1.2.2. Các phƣơng thức quản lý chất lƣợng
Trong thực tế hiện nay, về cơ bản có 5 phương thức quản lý chất lượng thường
được các nhà sản xuất áp dụng:
1. Kiểm tra chất lượng (KCS): là hoạt động đánh giá sự phù hợp thông qua
việc đo lường, xem xét, thử nghiệm một hay nhiều đặc tính của đối tượng và so
sánh kết quả với yêu cầu nhằm xác định sự phù hợp của mỗi đặc tính. Kiểm tra chất
lượng là phương pháp phổ biến trong đảm bảo chất lượng của sản phẩm/dịch vụ
cung cấp phù hợp với quy định, bằng cách kiểm tra sản phẩm/dịch vụ nhằm sàng
lọc và loại bỏ những sản phẩm không đảm bảo tiêu chuẩn.
2. Kiểm soát chất lượng (Quality Control – QC): Là một phần của quản lý chất
lượng tập trung vào thực hiện các yêu cầu chất lượng. Kiểm soát chất lượng là việc
kiểm soát các quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ thông qua kiểm soát các yếu tố như
con người, máy móc, nguyên vật liệu, phương pháp, thông tin và môi trường làm
việc.
Kiểm soát chất lượng trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm giao thông là kiểm tra
chất lượng đầu vào ví dụ: chất lượng cốt liệu, vật liệu, máy móc thiết bị, quy trình
chế tạo sản phẩm, quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng…để đảm bảo chất lượng
sản phẩm đầu ra.
3. Đảm bảo chất lượng (Quality assurance – QA): Là toàn bộ hoạt động có kế
hoạch của hệ thống, được tiến hành trong quản lý chất lượng và được chứng minh là
đủ mức cần thiết để tạo sự tin tưởng thỏa đáng rằng sản phẩm hay dịch vụ của tổ
chức sẽ đáp ứng các yêu cầu về chất lượng. Theo ISO, đảm bảo chất lượng là một
phần của Quản lý chất lượng tập trung vào việc cung cấp niềm tin rằng các yêu cầu
chất lượng sẽ được thực hiện. Đảm bảo chất lượng nhằm cả hai mục đích: trong nội
bộ tổ chức nhằm tạo sự thống nhất bên trong và bên ngoài tổ chức, việc bảo đảm
chất lượng sẽ tạo lòng tin cho khách hàng và những người khác có liên quan về chất
lượng sản phẩm, dịch vụ mà tổ chức đó cung cấp.
4. Quản lý chất lượng (Quality management – QM): Là các hoạt động có phối
hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng. Việc định hướng và
kiểm soát về chất lượng nói chung bao gồm lập chính sách chất lượng và mục tiêu
chất lượng, hoạch định - kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất
lượng.
Ví dụ: Quản lý chất lượng trong khai thác công trình giao thông bao gồm:
quản lý về mặt kỹ thuật (bảo trì, bảo dưỡng, dặm vá đường...), dịch vụ (tổ chức giao
thông, thu phí,…), khai thác (phân luồng, cấp thoát nước, hệ thống chiếu sáng …).
5. Quản lý chất lượng toàn diện (TQM - Total Quality Management): Quản lý
chất lượng đồng bộ hay Quản lý chất lượng toàn diện hoặc quản lý chất lượng tổng
thể, trước hết là một triết lý về quản trị. TQM tập trung vào việc cải thiện chất
lượng sản phẩm, dịch vụ của các công ty. Quản lý chất lượng đồng bộ luôn nhấn
mạnh rằng tất cả các hoạt động của công ty cần phải hướng tới việc thực hiện mục
tiêu chất lượng nhưng vẫn phải đảm bảo mục tiêu kinh tế là chi phí thấp nhất. (Theo
Edwards Deming J.Juran và A.V.Feigenbaum).
1.2.3. Đặc điểm công tác quản lý chất lƣợng
1.2.3.1. Các nguyên tắc
Nguyên tắc 1: Hƣớng vào khách hàng
DN phụ thuộc vào khách hàng của mình vì vậy cần phải hiểu được nhu cầu
hiện tại và tương lai của họ để không chỉ đáp ứng mà còn vượt trên cả sự mong đợi
của họ.
Chất lượng sản phẩm do khách hàng đánh giá và quyết định. Các chỉ tiêu chất
lượng sản phẩm mang lại giá trị cho khách hàng, làm cho khách hàng thỏa mãn phải
là nhiệm vụ trọng tâm của DN.
Chất lượng được định hướng bởi khách hàng và là một yếu tố chiến lược, cho
phép DN có khả năng chiếm lĩnh thị trường duy trì khách hàng. Để thực hiện tốt
nguyên tắc này, DN cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu nhu cầu, mong đợi của khách hàng
- Thông tin về những nhu cầu, mong đợi này trong DN
- Đo lường mức độ thỏa mãn của khách hàng, luôn cải tiến các kết quả.
- Xây dựng và quản lý tốt các mối quan hệ khách hàng.
Nguyên tắc 2: Sự cam kết của lãnh đạo
Hoạt động chất lượng sẽ không có kết quả nếu không có sự cam kết của lãnh
đạo. Lãnh đạo DN phải chỉ đạo và tham gia xây dựng các chiến lược, kế hoạch và
các biện pháp, huy động tính sáng tạo và sự tham gia của mọi nhân viên vào cách
hoạt động chất lượng.
Để thực hiện nguyên tắc này, lãnh đạo DN cần phải:
- Thiết lập chiến lược, mục tiêu và các chính sách chất lượng cho DN
- Nên có vai trò, vị trí của việc đảm bảo chất lượng ở tất cả các cấp DN. Trao
quyền cho mọi người bằng cách tạo cho họ chủ động hành động, đồng thời phải tự
chịu trách nhiệm.
- Giáo dục, đào tạo và huấn luyện mọi người về vấn để chất lượng
- Gây cảm hứng, cổ vũ và thừa nhận sự đóng góp của mọi người
Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi thành viên
Con người là nguồn lực quan trọng nhất của mỗi DN. Thành công trong cải
tiến chất lượng phụ thuộc chủ yếu và trình độ, kỹ năng, lòng nhiệt tình trong công
việc của lực lượng lao động. Vì vậy, DN cần phải tạo điều kiện để người lao động
được học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ và thực hành những kỹ năng mới.
Khi được huy động đầy đủ, các thành viên trong DN sẽ:
- Dám nhận công việc, trách nhiệm để giải quyết các vấn để
- Tích cự tìm kiếm các cơ hội để cải tiến, nâng cao chất lượng, nâng cao giá
trị cho khách hàng.
- Nâng cao lòng tự hào nghề nghiệp cho nhân viên.
Nguyên tắc 4: Quản lý theo quá trình
Quá trình là tập hợp các hoạt động có liên quan hoặc tương tác lẫn nhau để
biến đổi đầu vào thành đầu ra. Một quá trình được coi là có ý nghĩa khi giá trị của
đầu ra phải lớn hơn đầu vào. Trong DN, đầu vào của quá trình sau lại chính là đầu
ra của quá trình trước đó và toàn bộ các quá trình trong DN sẽ lập thành một mạng
lưới quá trình. Vi vậy quản lý hoạt động của DN thực chất là quản lý các quá trình
và mối quan hệ giữa chúng.
Để thực hiện nguyên tắc này DN cần phải:
- Xác định rõ các quá trình và mối quan hệ giữa các quá trình, trình tự tiến
hành các bước trong từng quá trình.
- Xác định rõ trách nhiệm để quản lý từng quá trình.
- Kiểm soát các yếu tố đầu vào, kiểm soát các bước trong quá trình, kịp thời
điều chỉnh các sai lệch.
Nguyên tắc 5: Tiếp cận theo hệ thống
Như là trình bày ở phần trước, ta không thể giải bài toán chất lượng theo từng
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng một cách riêng lẻ mà phải xem xét các yếu tố một
cách có hệ thống và đồng bộ, phối bợp hài hòa các yếu tố.
Để thực hiện nguyên tắc này DN cần phải:
- Xác định một hệ thống các quy trình
- Lập cấu trúc của hệ thống để đạt mục tiêu một cách có hiệu quả nhất.
- Xác định mối liên hệ lẫn nhau giữa các quá trình của hệ thống.
- Cải tiến liên tục hệ thống thông qua việc đo lường, đánh giá.
Nguyên tắc 6: Cải tiến liên tục
Cải tiến liên tục vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để đạt mục tiêu chất
lượng. Cải tiến chất lượng có thể tiến hành theo từng bước nhỏ hoặc nhảy vọt.
Để thực hiện nguyên tắc này DN cần phải:
- Phải làm cho việc cải tiến trở thành mục tiêu thường trực của mọi bộ phận,
cá nhân trong DN.
- Giáo dục, đào tạo từng thành viên trong DN về các công cụ, phương pháp
cải tiến liên tục.
- Thừa nhận và trân trọng khẩn trương áp dụng cải tiến vào sản xuất, quản lý.
Nguyên tắc 7: Quyết định dựa trên sự kiện
Mọi quyết định liên quan đến chất lượng phải dựa trên việc phân tích dữ liệu,
thông tin. Việc đánh giá, lựa chọn phương án quyết định phải dựa vào chiến lược
kinh doanh, các quá trình trọng yếu và kết quả của các quá trình đó.
Để thực hiện nguyên tắc này DN cần phải:
- Lựa chọn các phương pháp thu thập, xử lý thông tin, đảm bảo để thông tin
được chính xác, tin cậy, dễ sử dụng.
- Đưa ra các quyết định và hành động dựa trên kết quả xử lý thông tin kết
hợp với kinh nghiệm và khả năng tư duy của người lãnh đạo.
Nguyên tắc 8: Phát triển quan hệ hợp tác
DN cần tạo dựng các mối quan hệ hợp tác nội bộ và hợp tác với bên ngoài.
Các mối quan hệ nội bộ nhằm thúc đẩy hợp tác, tăng cường sự linh hoạt và khả
năng đáp ứng nhanh. Các mối quan hệ bên ngoài gồm quan hệ với nhà cung cấp,
khách hàng, đối tác, các cơ sở đào tạo...
Để thực hiện nguyên tắc này DN cần phải:
- Xác định và lựa chọn đối tác, xây dựng các mối quan hệ
- Chia sẻ thông tin
- Phối hợp triển khai cải tiến sản phẩm, quá trình.
1.2.3.2. Các yêu cầu về chất lượng công trình xây dựng
Là sản phẩm mang tính chất cá biệt, vì thế nó có những đặc tính chất lượng
cũng khác biệt và có tính xã hội hóa cao. Ngoài việc, tiêu dùng cho sản xuất mà nó
còn là phương tiện phục vụ cho sản xuất và là sản phẩm thiết yếu phục vụ cho tiêu
dùng của các thành viên trong xã hội như các công trình công cộng.
Với những đặc điểm khác với sản phẩm thông thường khác nên các sản phẩm
của ngành xây dựng có yêu cầu về đặc thù chất lượng sản phẩm. Những yêu cầu về
chất lượng sản phẩm của ngành xây dựng được thể hiện ở các chi tiết dưới đây:
a. Yêu cầu đảm bảo an toàn
Trong bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì việc đảm bảo an toàn
trong sản xuất là một trong những nội dung quan trọng. Đảm bảo an toàn trong
ngành xây dựng được đặt lên hàng đầu. Do tính chất của ngành phải tiếp xúc trực
tiếp với điều kiện tự nhiên, và tham gia sản xuất trên công trường vì thế khẩu hiệu
“An toàn là bạn" không còn xa lạ trong toàn ngành. Nội dung về an toàn được quy
định trong những nội dung sau:
+ An toàn trong thi công xây lắp: Trong quá trình thi công xây lắp cần đảm
bảo thi công trong điều kiện bình thường, đảm bảo đến sự an toàn của người đang trực
tiếp thi công cũng như là tình trạng tài sản trong quá trình thi công.
+ An toàn trong quá trình sử dụng: Các công trình xây dựng là một sản phẩm
tiêu dùng trong thời gian dài. Như vậy, vấn đề an toàn của công trình là một vấn đề
quan trọng. Để an toàn trong quá trình sử dụng thì nhiệm vụ của công tác thiết kế
xây lắp luôn tìm tòi áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật về cấu trúc, về kết
cấu những nguồn nguyên liệu mới để áp dụng vào quá trình xây dựng nhằm tăng
cường khả năng chống lại sự phá hủy của tự nhiên và môi trường.
b. Yêu cầu về chất lượng kỹ thuật
Trong quá trình thiết kế thi công, để đạt được yêu cầu của phía khách hàng thì
phải căn cứ và dựa vào mục đích sử dụng khác nhau, để đảm bảo chất lượng công
trình ngoài yếu tố chuyên môn, thì quản lý chất lượng thi công công trình cũng là
nhân tố quan trọng trong việc tạo ra chất lượng. Ngoài ra, sản phẩm xây dựng đạt
chất lượng cũng phải đáp ứng tốt các quy trình, quy phạm của nhà nước, các tiêu
chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành, v.v...để làm cơ sở đánh giá chỉ tiêu đảm bảo chất
lượng của công trình xây dựng.
c. Yêu cầu về thẩm mỹ, cảnh quan, môi trường
Ngoài các yếu tố về tiêu chuẩn kỹ thuật thì chất lượng công trình thì công trình
còn phải có tính thẩm mỹ, đó là một trong những yếu tố để khách hàng đánh giá cao
sản phẩm của doanh nghiệp. Do đặc thù của ngành giao thông ngoài yếu tố tiện lợi,
hữu ích công trình còn phải đảm bảo rằng cảnh quan, mỹ quan, các yêu cầu về môi
trường và chứng tỏ khả năng, công nghệ của đất nước, xã hội.
1.2.4. Hệ thống quản lý chất lƣợng
1.2.4.1. Khái niệm
Hệ thống quản lý chất lượng là tổ chức, công cụ, phương tiện để thực hiện
mục tiêu và các chức năng quản lý chất lượng.
Đối với doanh nghiệp, hệ thống quản lý chất lượng là tồ hợp những cơ cấu tổ
chức, trách nhiệm, thủ tục, phương pháp và nguồn lực để thực hiện quá trình quản
lý chất lượng.
Hệ thống quản lý chất lượng của một tổ chức có nhiều bộ phận hợp thành, các
bộ phận này có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau.
1.2.4.2. Vai trò của hệ thống quản lý chất lượng
Hệ thống quản lý chất lượng là một bộ phận hợp thành của hệ thống quản lý tổ
chức hay doanh nghiệp. Hệ thống quản lý chất lượng không chỉ là kết quả của các
hệ thống khác mà nó còn là yêu cầu đối với các hệ thống khác như hệ thống quản lý
tài chính, hệ thống quản lý nhân sự, hệ thống quản lý công nghệ, kỹ thuật. Hệ thống
quản lý chất lượng đóng vai trò quan trọng trên các lĩnh vực sau:
- Tạo ra sản phẩm, dịch vụ thoả mãn yêu cầu của khách hàng.
- Đảm bảo cho các tiêu chuẩn kỹ thuật, dịch vụ mà tổ chức đặt ra trong mục
tiêu nhiệm vụ của mình.
- Tạo điều kiện cho các bộ phận hoạt động có hiệu quả, giảm thiểu sự chồng
chéo, thiếu trách nhiệm trong quản lý.
- Tập trung vào việc liên tục cải thiện, nâng cao chất lượng, giảm chi phí.
1.2.4.3. Phân loại hệ thống quản lý chất lượng
Có thể phân loại hệ thống quản lý chất lượng theo nhiều cách khác nhau như
phân loại theo nội dung, theo chu kỳ sống của sản phẩm, theo cấp quản lý... Để việc
quản lý chất lượng mang lại hiệu quả cao, mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn cho mình
một hệ thống quản lý chất lượng phù hợp.
Hiện nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới đang tồn tại nhiều loại hệ thống
quản lý chất lượng khác nhau, có thể thấy một số hệ thống quản lý chất lượng hiệu
quả và được áp dụng rộng rãi như hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO,
hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM, hệ thống quản lý chất lượng QC, SA...
Phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay là hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO. Hệ thống quản lý chất lượng này đang tỏ ra là một hệ thống quản lý có
hiệu quả, phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Do đó,
hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO đang được các doanh nghiệp Việt
Nam tín nhiệm và áp dụng.
1.2.4.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
a. Nhóm các yếu tố bên ngoài
- Chính sách kinh tế của Nhà nƣớc
Chất lượng chịu tác động mạnh mẽ bởi các chính sách kinh tế của Nhà nước:
Chính sách đầu tư, chính sách phát triển ngành và chủng loại sản phẩm, chính sách
thuế, xuất nhập khẩu...
- Trình độ phát triển kinh tế của đất nƣớc
Để có thể lựa chọn một mức chất lượng phù hợp với nhu cầu thị trường, nhà
sản xuất thông qua hoạt động nghiên cứu thị trường cần phải xác định được khả
năng kinh tế, khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Chất lượng là nhu cầu nội
tại của bản thân sản phẩm, cho nên trình độ chất lượng sản phẩm phải phù hợp với
khả năng cho phép và sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
- Trình độ phát triển khoa học công nghệ
Ngày nay, khoa học công nghệ đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất
trực tiếp. Do đó chất lượng của bất kỳ sản phẩm nào cũng gắn liền và bị quyết định
bởi sự phát triển khoa học công nghệ. Mặt khác, tiến bộ khoa học công nghệ tạo
phương tiện điều tra, nghiên cứu khoa học chính xác hơn, xác định đúng nhu cầu và
biến đổi nhu cầu thành đặc điểm sản phẩm chính xác hơn nhờ trang bị những
phương tiện hiện đại.
- Cơ chế quản lý
Trên cơ sở một hệ thống luật pháp chặt chẽ quy định những hành vi, thái độ và
trách nhiệm pháp lý, nhà nước tiến hành kiểm tra, theo dõi chặt chẽ trách nhiệm,
cam kết của nhà sản xuất nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chất lượng, các cơ quan quản lý tiến
hành các hoạt động kiểm tra, giám sát, có chế độ thưởng, phạt nhằm động viên,
khuyến khích doanh nghiệp không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Các yếu tố thuộc về văn hóa, xã hội
Chất lượng sản phẩm là sự đáp ứng những nhu cầu xác định trong điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể. Do đó quan niệm về tính hữu ích mà sản phẩm mang lại cho mỗi
người, mỗi dân tộc cũng khác nhau. Một sản phẩm ở nơi này được coi là có chất
lượng nhưng ở nơi khác lại không được chấp nhận do sự khác biệt về yếu tố văn
hóa, xã hội, thói quen tiêu dùng
b. Nhóm yếu tố bên trong Doanh nghiệp
- Trình độ, kỹ năng của đội ngũ quản lý và nhân viên.
Lao động là yếu tố giữ vị trí then chốt, quan trọng đối với hoạt động chất
lượng doanh nghiệp. Đây là một trong những yếu tố cơ bản để tạo ra những sản
phẩm hàng hóa có chất lượng tốt. Cùng với công nghệ, con người, giúp doanh
nghiệp đáp ứng các yêu cầu về chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ.
- Quy trình quản lý, sản xuất sản phẩm.
- Chất lượng các yếu tố đầu vào.
- Môi trường làm việc: Môi trường vật chất, môi trường vệ sinh an toàn và môi
trường văn hóa Doanh nghiệp
c. Sự cần thiết áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
Việc ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng cũng là xu thế chung của thị
trường để xác định một sản phẩm mà DN tạo ra đều đảm bảo về chất lượng. Do vậy
yếu tố sống còn của một DN là chất lượng phải đáp ứng được sự thỏa mãn của
khách hàng.
Trong doanh nghiệp sản xuất sản phẩm nếu sản phẩm làm ra không đảm bảo
chất lượng tất nhiên sẽ không bán được, khả năng thu hồi vốn chậm. Điều đó cho
thấy sự cần thiết áp dụng hệ thống quản lý chất lượng.
1.2.5. Chu trình PDCA trong công tác quản lý chất lƣợng
PDCA (Lập kế hoạch - Thực hiện Kiểm tra - Hành động) là chu trình cải tiến
liên tục. Trên thực tế việc thực hiện PDCA
phức tạp hơn nhiều so với tên của nó. Tuy
nhiên, nếu như bạn quan tâm đến ISO 9001
thì bạn sẽ thấy chu trình PDCA là nền tảng
cho các chu trình cải tiến trong ISO 9001.
Làm chủ được PDCA bạn cũng sẽ làm chủ
được hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001.
Hình 1.3. Chu trình PDCA
Nguồn: [14]
Chu trình PDCA được nghiên cứu và phát triển bởi Tiến sĩ Walter Shewhart một trong những người đi đầu trong lĩnh vực quản lý chất lượng. Tiến sĩ
W.Edwards Deming thường gọi đó là PDSA (Plan, Do, Study, Act) hay Lập kế
hoạch, Thực hiện, Nghiên cứu, Hành động bởi ông quan niệm rằng hoạt động
“Kiểm tra - Check” chú trọng vào rà soát, đánh giá hơn là phân tích. Hầu hết mọi
người đều dành phần lớn thời gian vào hai hoạt động Lập kế hoạch và Thực hiện mà
có xu hướng bỏ qua hoạt động Kiểm tra và Hành động. Hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001 là một hệ thống cân bằng do đó để giữ cho hệ thống ISO
hoạt động có hiệu lực thì chúng ta cần phải đánh giá đồng đều mỗi yếu tố trong
PDCA, tránh việc chỉ xem xét riêng lẻ một yếu tố như Lập kế hoạch, Thực hiện hay
Kiểm tra, Hành động.
Trước đây, đã có rất nhiều bài viết về PDCA, tuy nhiên luận văn tiếp cận
PDCA dưới góc độ của tiêu chuẩn ISO 9001. Chúng ta phân tách các yêu cầu của
ISO 9001 thành các yếu tố chính và đặt chúng vào chu trình PDCA để phân tích.
Mỗi điều khoản của tiêu chuẩn ISO 9001 đều bao hàm bước Lập kế hoạch, điều 7
của tiêu chuẩn thì tập trung vào Thực hiện, và điều 8 tập trung và Kiểm tra và Hành
động. Vậy trong số đó, điều khoản nào mà chúng ta khó tiếp cận nhất?
Đó là điều khoản 8 bởi nó tập trung vào Kiểm tra và Hành động. Chúng ta
hoàn thành bước Lập kế hoạch và Thực hiện và sau đó chúng ta tiến hành Kiểm tra
và có Hành động tiếp theo tuân theo đúng thói quen làm việc truyền thống. Vì vậy,
để áp dụng thành công ISO 9001, chúng ta phải thay đổi thói quen và dành nhiều
thời gian hơn cho bước Kiểm tra và Hành động như trong điều khoản 8. Chúng ta
hãy nhìn vào từng yếu tố của PDCA và xem nó tương ứng với các điều khoản của
ISO 9001 như thế nào.
Hình 1.4. PDCA
Nguồn: [14]
LẬP KẾ HOẠCH
Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả bắt buộc phải lập kế hoạch hàng năm, kế
hoạch dài hạn, ngắn hạn… như kế hoạch sản xuất kinh doanh bao gồm: tầm nhìn/
nhiệm vụ, chính sách chất lượng, mục tiêu hoạt động, ngân sách, kế hoạch bảo
dưỡng, các tiêu chuẩn, sự kiện quan trọng và giới thiệu sản phẩm/ thị trường/ quá
trình mới. Đây là những yếu tố cần được lên kế hoạch. ISO 9001 đưa ra các yếu tố
hoạch định trên trong 7 mục.
- Duy trì hệ thống quản lý chất lượng (QMS) (4.1)
- Tài liệu hệ thống quản lý chất lượng (4.2)
- Trách nhiệm lãnh đạo (5)
- Quản lý nguồn lực (6)
- Hoạch định việc tạo sản phẩm (7.1)
- Kiểm soát thiết bị theo dõi và đo lường (7.6)
- Hành động phòng ngừa (8.5.3)
Hành động phòng ngừa là một kế hoạch để loại trừ khuyết tật chưa xảy ra nên
cần đưa nó vào mục cần hoạch định. Vì chúng ta không biết bao giờ nó sẽ xảy ra
(có thể có hoặc không có các hành động phòng ngừa), nên nó giống như một kế
hoạch có chủ đích. Nếu khuyết tật xảy ra thì kế hoạch đó thất bại. Nếu khuyết tật
không xảy ra có phải bởi vì chúng ta đã có những hành động để phòng ngừa nó? Vì
chúng ta không chắc chắn về điều này nên tôi gọi nó là một kế hoạch.
THỰC HIỆN
Các bước thực hiện diễn ra thường xuyên hơn, có thể trong chu kỳ hàng tháng
nó tạo ra các dữ liệu để đo lường, phân tích và được xem như kết quả của việc thực
hiện kế hoạch hàng năm. Việc Thực hiện tập trung nhiều trong Mục 7 – tạo sản
phẩm. Hầu hết các hồ sơ của hệ thống ISO tại doanh nghiệp được tạo ra trong các
quá trình tại mục 7.
- Năng lực và Đào tạo (6.2.2)
- Thiết kế và phát triển (7.3)
- Mua hàng (7.4)
- Sản xuất và cung cấp dịch vụ (7.5)
KIỂM TRA
Khi có dữ liệu từ bước thực hiện, cần tiến hành phân tích và nghiên cứu dữ
liệu (PDSA), để xem các bước thực hiện đã hoàn thành hay chưa hoặc kiểm tra xem
dữ liệu đã đầy đủ hay chưa. Từ việc phân tích và tìm hiểu xem dữ liệu muốn nói gì,
thông qua việc chuyển đổi dữ liệu thành thông tin.
Tiêu chuẩn ISO 9001xác định rõ những quá trình kiểm tra khác nhau, như là
chu trình đo lường và phân tích để định rõ tổ chức tiến hành kế hoạch năm đạt như
thế nào.
- Xem xét của lãnh đạo (5.6)
- Theo dõi và Đo lường (8.2)
- Sự thỏa mãn của khách hàng (8.2.1)
- Đánh giá nội bộ (8.2.2)
- Phân tích dữ liệu (8.4)
Đây không phải là những sự kiện chỉ diễn ra một lần. Những quá trình kiểm
tra liên tục đưa ra kết quả là những biểu đồ về xu hướng giống như một cách chuyển
đổi dữ liệu thành thông tin.
HÀNH ĐỘNG
Hành động được thực hiện không chậm trễ nhằm loại bỏ những thiếu sót, được
xác định thông qua việc đo lường, phân tích giữa các kế hoạch năm và hồ sơ dữ liệu
trong thực tế. Tất nhiên có yếu tố Hành động trong sự xem xét của lãnh đạo vì sau
khi chúng ta xem xét các yếu tố đầu vào cần thiết, chúng ta có nghĩa vụ phải phân
công tới từng cá nhân để thực hiện các hành động khắc phục cần thiết (cũng có thể
bao gồm các hành động phòng ngừa)
Tiêu chuẩn ISO 9001 yêu cầu có hành động rõ ràng như cô lập sản phẩm
không phù hợp, thực hiện hành động khắc phục và có thể cả hành động phòng ngừa.
- Sản phẩm không phù hợp (8.3)
- Hành động khắc phục (8.5.2)
- Hành động phòng ngừa (8.5.3)
Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001 không phải là một chu
trình PDCA đơn lẻ. Đó thực chất là một loạt các chu trình PDCA. Mục 7 không chỉ
đơn thuần là Thực hiện. Việc tạo sản phẩm bản thân nó là một chu trình PDCA
được bắt đầu bằng việc lên kế hoạch các yêu cầu và nhu cầu thực hiện. Tiếp theo,
“Thiết kế và phát triển” là Thực hiện, “Xem xét thiết kế và phát triển” là Kiểm tra,
và “xoát xét lại thiết kế phát triển” là Hành động. Chu trình PDCA tương tự hiện
hữu trong các hoạt động như: đào tạo, hệ thống tài liệu, mua hàng, đánh giá, hành
động khắc phục... Toàn bộ khái niệm về cải tiến liên tục được dựa trên chu trình
PDCA.
1.3. CẤU TẠO CÁC LỚP ĐÊ NGĂN LŨ CỦA VIỆT NAM
Về tổng thể, sơ đồ mặt cắt đê biển gồm các thành phần sau: (1) Bảo vệ ngoài
chân kè, (2) Chân kè, (3) Mái dưới phía biển, (4) Cơ đê phía biển, (5) Mái trên phía
biển, (6) Đỉnh đê, (7) Mái trong, (8) Thiết bị thoát nước phía đồng, (9) Kênh tiêu
nước phía đồng, (10) Thân đê, (11) Nền đê và (12) Phần chuyển tiếp giữa các bộ
phận của đê. Các nội dung tính toán sẽ bao gồm:
1. Cao trình đỉnh đê
2. Thiết kế thân đê
3. Thiết kế tầng lọc
4. Thiết kế lớp bảo vệ mái
5. Thiết kế bảo vệ chân
6. Thiết kế đỉnh đê
7. Thiết kế tường đỉnh (nếu bố trí)
8. Thiết kế các kết cấu chuyển tiếp
9. Tính toán ổn định
Hình 1.6. Cấu tạo thân đê
Nguồn: [15]
Các thông số tính toán trên đây đã được đề cập trong tiêu chuẩn thiết kế đê
biển 14TCN-2002, tuy nhiên thông số có sự khác biệt về quan điểm thiết kế nhiều
nhất là tính toán xác định cao trình đê, nên trong phần này tôi xin được đề cập nội
dung tính toán xác định cao trình đỉnh đê.
Cao trình đỉnh đê có quan hệ trực tiếp đến sự an toàn của bản thân đê và của
vùng mà đê bảo vệ, khối lượng công trình và kinh phí đầu tư. Vì vậy đây là khâu rất
quan trọng khi thiết kế tuyến đê biển. Có rất nhiều các yếu tố chi phối đến cao trình
đỉnh đê như các yếu tố khí tượng, thủy hải văn, điều kiện địa chất địa hình, đặc
điểm kết cấu cụ thể của đê biển…. Trong đó quan trọng nhất là các chỉ tiêu về chu
kỳ lặp lại của mực nước biển và sóng bởi chúng thể hiện một cách tập trung tầm
quan trọng và phạm vi bảo vệ của đê biển, đặc tính thích ứng của các dạng đê biển
đối với tác dụng của mực nước và sóng. Trong báo cáo này tập trung vào tính toán
các thành phần cấu thành cao trình đỉnh đê phía trên mực nước thiết kế.
Hình 1.7. Cao trình quan tâm khi thi công
Nguồn: [15]
1.4. KẾT LUẬN
Chương 1 đã làm rõ một số vấn đề lý luận về chất lượng, các khái niệm về
quản lý chất lượng, đặc biệt về quản lý chất lượng trong lĩnh vực xây dựng công
trình giao thông, phân tích các yếu tố có ảnh hưởng về chất lượng, chương 1 cũng
đã đi sâu vào việc phân tích việc hình thành và phát triển của hệ thống ISO, giới
thiệu hệ tiêu chuẩn ISO 9001: 2008, từ những phân tích lý luận cơ bản trên để làm
cơ sở cho việc phân tích thực trạng quản lý chất lượng của Công ty Cổ phần 484.
Công ty Cổ phần 484 là đơn vị chuyên thi công các công trình giao thông,
đặc biệt là công trình đường bộ. Vì vậy việc nghiên cứu, đề xuất, ban hành và áp
dụng các quy trình nội bộ trong việc quản lý chất lượng trong giai đoạn thi công các
công trình giao thông nói chung và mặt đường nói riêng là hết sức cần thiết và cấp
bách, nhằm tạo ra những sản phẩm đảm bảo hiệu quả về mặt kỹ thuật và kinh tế.
Hiện tại công ty cổ phần 484 đang thực hiện dự án công trình giao thông 2
chức năng đê ngăn lũ kết hợp đường trên đê. Trong quá trình thực tế thi công công
ty đã gặp nhiều vướn mắc và khó khan trong việc quản lý chất lượng công trình nên
tôi mạnh dạng đưa ra hướng quản lý chất lượng công trình theo tiêu chuẩn ISO
9001-2008.