Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đề cương môn lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật hoàn chỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.56 KB, 28 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Câu 1. Bằng lý luận và thực tiễn anh (chị) hãy phân tích
bản chất và cấu trúc của quyền lực nhà nước.
Khái niệm bản chất của nhà nước có những đặc tính sau
Tính giai cấp của nhà nước
Khái niệm tính giai cấp: là sự tác động mang tính chất
quyết định của yếu tố giai cấp đến nhà nước quyết định những xu
hướng phát triển và đặc điểm cơ bản của nhà nước.
Biểu hiện tính giai cấp của nhà nước: thông qua việc
thực hiện các chức năng của nhà nước nhằm đạt được mục tiêu,
nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra và qua các hình thức thực hiện
quyền lực kinh tế, chính trị, tư tưởng của nhà nước.
Nhà nước có tính giai cấp vì giai cấp là một trong những
nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự hình thành nhà nước và nhà
nước cũng là công cụ quan trọng để trấn áp giai cấp.
Tính xã hội của Nhà nước:
Khái niệm: là sự tác động của những yếu tố xã hội bên
trong quyết định những đặc điểm và xu hướng phát triển cơ bản
của nhà nước.
Biểu hiện của tính xã hội: thộng qua việc thực hiện chức
năng của nhà nước nhằm đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ của
nhà nước.
Nhà nước có tính xã hội bởi nhà nước ra đời nhằm đáp
ứng nhu cầu quản lý của xã hội và nhà nước cũng chính là một
trong những công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội.
Mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước
Là mối quan hệ giữa những mặt, những yếu tố thuộc bản
chất của nhà nước.
Mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính xã hội thể hiện sự
mâu thuẫn và thống nhất giữa hai mặt của khái niệm bản chất nhà


nước.

1


Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước không
chỉ chịu sự tác động của từng yếu tố (tính giai cấp và tính xã hội)
mà nó còn chịu sự tác động của mối quan hệ tương tác giữa tính
giai cấp và tính xã hội.
- Bản chất nhà nước là nền chuyên chính của một giai cấp này
đối với giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Nhờ có bộ máy nhà
nước, giai cấp thống trị chiếm số ít trong dân cư duy trì được sự áp
bức, bóc lột của mình đối với giai cấp bị trị bao giờ cũng chiếm số
đông. Bản chất đó được thể hiện ở chức năng và đặc trưng của nhà
nước.
- Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với
giai cấp khác, nhà nước của giai cấp bóc lột không thể là kẻ "công
bằng" bảo vệ lợi ích cho các giai cấp trong xã hội.
- Theo bản chất đó, nhà nước, là một bộ phận quan trọng nhất
của kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp. Do đó, "Nhà
nước nói chung chỉ là sự phản ánh, dưới hình thức tập trung của
những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất".
Kết luận: Nhà nước là một tổ chức chính trị có quyền lực
công cộng đặc biệt, được hình thành và bị quyết định bởi nhu
cầu trấn áp giai cấp và nhu cầu quản lý các công việc chung
của xã hội.
Cấu trúc của quyền lực nhà nước
Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước là kết quả của cuộc đấu
tranh giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp. Nhà nước khác
với các tổ chức xã hội khác ở chỗ, Nhà nước thiết lập quyền lực

công cộng đặc biệt, có bộ máy cưỡng chế để đảm bảo thực
thi quyền lực đó. Đây là thứ quyền lực chỉ riêng Nhà nước mới
có và nhờ thứ quyền lực này, cho phép Nhà nước thâu tóm quản
lý hầu hết các nguồn nhân lực, tài lực của một quốc gia.
Cùng với đó, quyền lực nhà nước luôn gắn với chủ quyền
quốc gia và trong điều kiện xã hội hiện đại, quyền lực này thuộc
về nhân dân và được thể hiện thông qua những định chế nhà nước
- pháp luật. Quyền lực nhà nước được biểu hiện cụ thể ở hệ thống
các cơ quan, tổ chức nhà nước, các quy định pháp luật và những

2


nguyên tắc vận hành của hệ thống đó tạo nên một cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước. Cơ chế đó được hình thành và phát triển cùng
với sự phát triển của văn minh nhân loại và được cụ thể hóa ở mỗi
quốc gia tùy thuộc vào những điều kiện khách quan và chủ quan ở
mỗi thời kỳ phát triển.
Quan niệm về tổng thể cấu trúc quyền lực nhà nước, ngay từ
trước Công nguyên, các nhà tư tưởng lớn như Platon và Aristote
đã nhắc tới phân quyền, nhưng chỉ dừng lại ở quan niệm về một sự
phân công lao động và phân nhiệm trong bộ máy nhà nước. Cho
đến tận thế kỷ thứ XVI - thế kỷ thứ XVIII, J.Locke và S.L
Montesquieu đã phát triển các tư tưởng này thành học thuyết
"phân chia quyền lực”. Cùng với các ông, nhiều học giả tư sản
khác cũng quan tâm đến vấn đề này. Có quan niệm thì phân chia
quyền lực thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền liên
bang (J. Locke); có quan niệm thì phân chia quyền lực thành
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp (S.L
Montesquieu, I. Cant). Nhưng dù sao cũng không ít quan niệm cho

rằng, quyền lực không thể phân chia hoặc chí ít cũng có mối quan
hệ khăng khít không thể tách rời (J.J Rousseau...). Ở Trung Quốc
trước kia - Trung Hoa Dân quốc, còn có quan niệm quyền lực
được phân chia thành 5 quyền và họ phản ánh 5 quyền đó vào
Hiến pháp năm 1947. Vậy có thể nói rằng, việc phân chia quyền
lực không hẳn là một nguyên tắc khoa học, hợp lý mà là một thủ
pháp chính trị nhằm hạn chế độc tài, chuyên chế, bảo vệ tự do của
con người. Tuy nhiên, việc phân công, phân nhiệm trong bộ máy
nhà nước là cần thiết để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quá trình
quản lý xã hội.
Nghiên cứu về cấu trúc quyền lực nhà nước, theo chúng tôi,
vấn đề cơ bản cần xem xét đó là kết cấu của các nhánh quyền lực
và nguyên tắc vận hành của các nhánh quyền lực. Trong xã hội
hiện đại, quyền lực nhà nước bao gồm 3 nhánh quyền lực chủ yếu
là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, theo đó:

3


(1) Quyền lập pháp là quyền làm ra Hiến pháp và luật, do cơ
quan lập pháp thực hiện. Cơ quan lập pháp ở các nước khác nhau
có tên gọi khác nhau và cách thức tổ chức cũng khác nhau;
(2) Quyền hành pháp là một bộ phận cấu thành của quyền lực
nhà nước, có nhiệm vụ thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào tổ
chức xã hội và quản lý xã hội. Quyền hành pháp do một bộ máy
hành chính nhà nước phức tạp trải rộng từ trung ương tới địa
phương thực hiện.
(3) Quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật do cơ quan
tư pháp thực hiện.
Về ba quyền cơ bản trong hệ thống quyền lực nhà nước, theo

Locke, thì ông ta chỉ thừa nhận hai quyền lập pháp và hành pháp,
đồng thời đề xuất về sự phân công quyền lực, nhưng không nêu
việc kiểm soát quyền lực. Chỉ đến Montesquieu, ngoài việc đề
xuất phân chia quyền lực nhà nước thành 3 quyền: Lập pháp, hành
pháp và tư pháp, thì ông cũng đề xuất thêm yêu cầu kiểm soát
quyền lực. Hơn nữa, không phải chỉ kiểm soát từ bên ngoài, mà là
ngay trong cơ cấu nội tại của hệ thống quyền lực nhà nước, như
một cơ thể sống với cơ chế tự động, tự phòng chống.

4


Câu 2. Bằng lý luận và thực tiễn anh (chị) hãy làm rõ tổ
chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay
- Về mặt lý luận
Ở nước ta, sau khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta mới có đủ những cơ sở và điều kiện khách quan để xây
dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà quyền lực
nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
được coi là một sáng tạo trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn
của Đảng ta về tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng và tổ chức quản
lý xã hội nói chung. Từ chỗ cơ bản quan tâm đến các vấn đề bên
ngoài của tổ chức quyền lực nhà nước (như kiện toàn tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước…),
chúng ta đã coi trọng bản chất của Nhà nước. Đó là việc xác lập
nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, coi trọng tính pháp
quyền trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Từ nhận
thức đúng đắn về nguyên tắc này, chúng ta ngày càng ý thức được
đây là tinh hoa của khoa học tổ chức quyền lực nhà nước, quản lý

xã hội của loài người và vận dụng sáng tạo, hài hòa với các
nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Nguyên tắc tổ chức của quyền lực nhà nước và xây dựng nhà
nước pháp quyền lần đầu tiên được Ðảng và Nhà nước ta xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 như sau: “Nhà nước Việt Nam
thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân
công rành mạch ba quyền đó”[4] và chính thức đưa vào văn kiện
Đại hội VII, được phát triển thêm qua văn kiện Đại hội VIII, đặc
biệt là văn kiện Đại hội IX của Đảng. Đồng thời với chủ trương
tăng cường pháp chế, các nghị quyết của Đại hội IX cũng chủ
trương mở rộng dân chủ và được coi là cơ sở chính trị - xã hội
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương này tiếp tục được khẳng định lại ở Đại hội X:
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây

5


dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi
của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện
cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền”.
Như vậy, ở đây chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy rằng, tính
pháp chế là đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền và bản

chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy lý luận, có lẽ điểm khác
biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với
các Nhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của Nhà
nước. Ở các nhà nước pháp quyền tư sản dù với các biến thể khác
nhau, thì cơ chế vận hành phổ biến vẫn là “tam quyền phân lập”.
Việc Đảng ta xây dựng cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo
đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, chính là dựa trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước và pháp luật.
Về mặt thực tiễn
Điều kiện thực tiễn thay đổi, Đại hội XI của Đảng đã kế thừa
quan điểm của Đại hội X và bổ sung phát triển phù hợp với tình
hình mới: “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
So với Đại hội X, việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà
nước ta theo quan điểm của Đại hội XI có hai điểm mới như sau:
Một là, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước trước đây
trong Văn kiện của Đảng thường sử dụng từ “dưới” nay thay bằng

6


từ “do” - “do sự lãnh đạo của Đảng”. Đây là một sự thay đổi nhận
thức quan trọng, khẳng định rằng, dù Đảng là hạt nhân của hệ

thống chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, dù “sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam” thì Đảng cũng không đứng trên Nhà nước
pháp quyền, không đặt Nhà nước pháp quyền “dưới” Đảng. Điều
này cũng thể hiện sự chuyển biến nhận thức về vai trò lãnh đạo
của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước.
Hai là, kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nghĩa
là,quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, mà trước hết kiểm
soát ngay từ bên trong Nhà nước, ngay trong quá trình tổ chức và
vận hành bộ máy nhà nước, sau đó là sự kiểm soát của nhân dân
bằng các hình thức giám sát, phản biện xã hội khác.
Như vậy, quá trình nhận thức lý luận của Đảng ta về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cấu trúc quyền lực trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã khẳng định rõ: Quyền lực nhà nước
là tập trung thống nhất thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của
quyền lực nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây chính là giá
trị đích thực và bền vững trong tư tưởng nhân loại về Nhà nước
pháp quyền. Để thực thi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân có
hiệu quả, quyền lực nhà nước được tổ chức thành ba bộ
phận, quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, đây
không phải ba bộ phận quyền tách rời nhau, mà mỗi bộ phận
quyền chỉ đại diện quyền lực nhà nước trong giới hạn chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Hệ thống tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước.
- Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà

nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối

7


nội và đối ngoại, Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội.
- Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành
pháp, Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội.
- Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội; Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
- Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên...
Sự phân công càng rõ ràng, cụ thể thì hiệu lực và hiệu quả
hoạt động của các cơ quan nhà nước càng được nâng cao. Vì
vậy, sự phân công quyền lực là cơ sở để thực hiện tốt nhất quyền
lực nhà nước thống nhất. Hơn nữa, với cơ cấu tổ chức quyền lực
như vậy, các cơ quan này thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn
nhau, loại bỏ có hiệu quả nguy cơ độc quyền hay lạm quyền và
nạn quan liêu hoá bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó là yêu cầu phải
có sự phối hợp của các cơ quan trong quá trình thực thi quyền
lực nhà nước mà nhân dân giao phó.

Từ nhận thứ lý luận, quan điểm về phân công, phối hợp trong
thực thi quyền lực nhà nước đã được thể chế hóa thành các quy
định trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), thể
chế hóa trong các Luật về tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân nhân, Viện Kiểm sát
nhân nhân và nhiều đạo luật khác...

8


Câu 3. Bằng lý luận và thực tiễn anh (chị) hãy làm r õ bản
chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của
nhà nước Cộng hòa xã hội chú nghĩa Việt Nam
Bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam.
- Bản chất bao trùm nhất, chi phối mọi lĩnh vực đời sống nhà
nước Việt Nam hiện nay từ tổ chức đến hoạt động thực tiễn là tính
nhân dân của nhà nước. Điều 2- Hiến pháp 1992 quy định:" nhà
nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức".
- Như vậy, quyền lực nhà nước không thuộc một đẳng cấp,
một tổ chức xã hội hoặc một nhóm người nào. Quyền lực nhà
nước phải hoàn toàn thuộc về nhân dân lao động bao gồm giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao
động khác mà nòng cốt là liên minh công nhân- nông dân- trí thức.
Nông dân là người chủ sở hữu duy nhất toàn bộ tài sản vật chất và
tinh thần của nhà nước, có quyền quản lý toàn bộ công việc của
nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả công việc có liên quan đến
vận mệnh đất nước, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, tư

tưởng của toàn thể dân tộc.
Bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam được thể hiện rõ
thông qua đặc điểm của nó.
Đặc điểm của nhà nước CHXHCN Việt Nam.
1. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
- Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam đã tiến hành đấu tranh cách mạng trải qua nhiều gian
khổ đánh đuổi quân xâm lược, làm nên cuộc Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, tự mình thiết lập nên nhà nước của mình. Nhà
nước CHXHCN VN hiện nay là nhà nước do nhân dân mà nòng
cốt là liên minh công nông trí tự tổ chức thành, tự mình định đoạt
quyền lực nhà nước.
- Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà
nước thực hiện quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức khác

9


nhau. Hình thức cơ bản nhất là thông qua bầu cử, lập ra các cơ
quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy
định:" nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí
và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân".
Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực của mình dưới
hình thức trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản
lý xã hội, tham gia thảo luận Hiến pháp và pháp luật, trực tiếp thể
hiện ý chí của mình khi có trưng cầu dân ý. Nhân dân trực tiếp bầu
ra các đại biểu của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước
Trung ương và địa phương và có quyền bãi nhiệm các đại biểu đó

khi họ tỏ ra không xứng đáng, không làm tròn trách nhiệm. Các
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân phải báo cáo công việc
của mình trước cử tri.
2. Nhà nước CHXHCN VN là nhà nước của tất cả các dân tộc
trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn
kết các dân tộc anh em.
Tính dân tộc của nhà nước Việt Nam là vấn đề có tính lịch sử,
truyền thống lâu dài, chính là nguồn gốc sức mạnh của nhà nước.
Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định" nhà nước CHXHCN VN là nhà
nước của các dân tộc cùng sing sống trên đất nước Việt Nam..."
Nhà nước đảm bảo để trong các cơ quan đại diện quyền lực
nhà nước (Quốc hội và HĐND) các thành phần dân tộc thiểu số có
số đại biểu thích đáng (Điều 10 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội),
các đại diện dân tộc được chú ý lựa chọn bầu giữ chức vụ trong
chính quyền địa phương.
- Có các hình thức tổ chức trong các cơ quan quyền lực nhà
nước để thực hiện lợi ích dân tộc và tham gia quyết định các chính
sách dân tộc như Hội đồng dân tộc trong Quốc hội và các ban dân
tộc trong HĐND... Các cơ quan này đặc biệt là Hội đồng dân tộc
không chỉ được quyền tham gia, giám sát, kiến nghị các vấn đề
dân tộc mà còn được quyền tham gia các phiên họp của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, các phiên họp của Chính phủ bàn về chính

10


sách dân tộc, được Chính phủ tham khảo ý kiến khi quyết định các
chính sách dân tộc(Điều 94- Hiến pháp 1992).
- Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, đoàn kết
tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị chia rẽ

dân tộc, thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu
số.
3. Nhà nước CHXHCN VN được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở nguyên tắc bình đẳng trong các mối quan hệ giữa nhà nước và
công dân.
- Trước đây trong điều kiện nhà nước cực quyền, mối quan hệ
nhà nước và công dân là mối quan hệ lệ thuộc. Nhà nước với tính
cách là bộ máy quan liêu luôn áp đặt, đè nén nhân dân. Người dân
bị lệ thuộc vào nhà nước, các quyền tự do, dân chủ bị hạn chế.
Quyền thì ít nhưng nghĩa vụ thì lại nhiều. Trước nhà nước, người
dân chỉ thấy bổn phận và nghĩa vụ mà không có quyền đòi hỏi.
- Ngày nay, khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mối
quan hệ giữa bộ máy nhà nước và công dân đã thay đổi, công dân
có đầy đủ các quyền tự do, dân chủ trên tất cả lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đồng thời công dân cũng tự giác thực hiện mọi nghĩa
vụ trước nhà nước. Về phần mình, nhà nước XHCN cũng tôn
trọng các quyền tự do dân chủ của công dân, ghi nhận đảm bảo
cho các quyền tự do được thực hiện đầy đủ.
- Mối quan hệ nhà nước và công dân được xác lập trên cơ sở
tôn trọng lợi ích giữa các bên. Luật pháp không chỉ quy định địa vị
pháp lý của công dân mà còn buộc các cơ quan nhà nước phải tôn
trọng và đưa ra các đảm bảo thực tế cho các quyền ấy, tránh mọi
nguy cơ xâm hại từ phía các cơ quan nhà nước, các nhà chức
trách.

11


Câu 4. . Từ một ví dụ cụ thể, anh (chị) hãy phân tích các

giai đoạn áp dụng pháp luật:
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, một
hoạt động rất phức tạp được diễn ra theo một quá trình nhất định.
Có thể phân quá trình đó thành bốn giai đoạn sau: Xét trường hợp
cụ thể về về Quyết định 02 về quản lý hoạt động bán hàng rong
trên địa bàn Hà Nội mới được UBND TP cho ra đời và có hiệu lực
từ 19/1/2008
- Thu thập, phân tích, đánh giá các tình tiết của cấu
thành thực tế của vụ việc được xem xét.
Ở giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp
luật cần phải thu thập, xem xét, đánh giá tất cả các tình tiết của vụ
việc, làm sáng tỏ tất cả các sự kiện, tình tiết có liên quan. Trong
những trường hợp cần thiết phải sử dụng các biện pháp chuyên
môn đặc biệt để xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc (như
giám định). Việc xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ việc phải
trả lời câu hỏi vụ việc đó có cấu thành pháp lý hay không? Việc
thu thập, phân tích và đánh giá các tình tiết cụ thể của vụ việc phải
bảo đảm tính khách quan, công bằng và tuân theo những qui định
của pháp luật mang tính thủ tục. Như vậy, giai đoạn đầu của quá
trình áp dụng pháp luật giải quyết hai nội dung : thu thập, phân
tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình
tiết thực tế của vụ việc; xác định các dấu hiệu đặc trưng pháp lý
của nó.
Trong trường hợp ban hành Quyết định 02 về quản lý hoạt
động bán hàng rong trên địa bàn Hà Nội. Cơ quan có thẩm quyền
chưa thu thập đủ thông tin, chưa đánh giá được tác động
Thứ nhất đó là tất yếu trong cuộc mưu sinh của nhiều người
dân và cũng là nhu cầu thực sự của những người tiêu dùng. Nên
rất khách quan ở chỗ, gánh hàng rong là có cung có cầu thật sự.
Đất nước mình đang phát triển, đang còn khó khăn nhất là trong

bối cảnh lạm phát thế này, bán hàng rong tồn tại như một tất yếu
trong cuộc mưu sinh, cả người mua người bán sẵn sàng che dấu
cho nhau để cùng mua bán nên nó phải tồn tại thôi.

12


Thứ hai là lực lượng sản xuất (người bán hàng rong) họ tự
sản tự tiêu, những người khác (tiêu dùng) lại sẵn sàng chia sẻ ủng
hộ điều đó, ngay cả những người đuổi họ (quản lý) cũng không
làm nặng quá.
- Lựa chọn qui phạm pháp luật để áp dụng giải quyết vụ
việc và làm sáng tỏ nội dung của nó:
Trước hết, cần xác định qui phạm pháp luật của ngành luật
nào điều chỉnh vụ việc này, tiếp đến lựa chọn qui phạm pháp luật
cụ thể thích hợp với vụ việc. Khi đã chọn được qui phạm pháp luật
để giải quyết vụ việc phải kiểm tra tính hiệu lực và giá trị pháp lý
của nó. Sau đó phải làm sáng tỏ nôi dung của qui phạm được lựa
chọn. Tóm lại, giai đoạn này thể hiện ở các việc sau:
- Lựa chọn đúng qui phạm pháp luật làm căn cứ pháp lý cho
việc giải quyết vụ việc;
- Xác định tính hiệu lực và giá trị pháp lý của nó;
- Xác định nguồn văn bản chứa đựng qui phạm đó;
- Nhận thức đúng đắn nội dung của qui phạm pháp luật được
lựa chọn.
Với quyết định 02 không có gì là mới chủ trương chỉ lặp lại
cao hơn những cái Hà Nội đã làm, ví dụ tuyến phố văn minh
thương mại; trật tự đô thị nhân rộng lại xoá đi chuyển các quận
huyện rồi lại quay trở lại; Hay nghị định 36 về trật tự hè phố cũng
làm mãi rồi; nên chủ trương này không có gì là mới.

- Ra văn bản áp dụng pháp luật :
Đây là giai đoạn rất quan trọng của quá trình áp dụng pháp
luật. Ở giai đoạn này, các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của
các chủ thể được xác định. Ra văn bản áp dụng pháp luật là hoạt
động thể hiện rõ tính sáng tạo. Vì khi ra QĐ áp dụng PL là quá
trình đánh giá, đối chiếu, xem xét những vi phạm PL…Mặt khác,
chính việc ra văn bản áp dụng PL tức là quyền và nghĩa vụ pháp lý
của các chủ thể được cụ thể hóa, cá biệt hóa. Văn bản áp dụng
pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, tên gọi, có cơ sở
thực tế và cơ sở pháp lý, theo đúng mẫu đã qui định. Nội dung của

13


văn bản phải rõ ràng, chính xác, nêu rõ trường hợp cụ thể, chủ thể
cụ thể và chỉ được áp dụng một lần.
Với quyết định 02 chưa chuẩn bị kỹ về cơ chế, định nghĩa
hàng rong là gì - không có! Ví dụ chúng ta chỉ hiểu ngầm với
nhau hàng rong là những người bán quang gánh, bày bán ở vỉa
hè, nhưng nếu họ chỉ bảo tôi chỉ đi qua, tôi không bán, vậy vừa đi
vừa bán có phải là hàng rong không? Hay họ rẽ vào nhà người ta
bán rồi lại đi tiếp ngoài đường, vậy thì những người đi như thế có
bị cấm không - không có luật, không có quy định nào như thế!
Một ông trật tự đuổi theo người bán hàng rong bảo là không được
đi, họ bảo chỉ đi qua có bán đâu - cấm người ta đi lại là vi phạm
luật pháp rồi! chưa có văn bản nào quy định như thế nào là hành
vi bán hàng rong, thậm chí văn bản mới nhất của lãnh đạo TP Hà
Nội ký để tổ chức thực hiện cũng không có
- Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật:
Việc tổ chức thực hiện trên thực tế văn bản áp dụng luật là

giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật. Giai đoạn
này được tiến hành nhằm tạo ra những bảo đảm về mặt vật chất,
kỹ thuật, tổ chức cho việc thực hiện đúng văn bản áp dụng pháp
luật đã được ban hành . Giai đoạn này bao gồm cả việc thực hiện
trên thực tế văn bản áp dụng pháp luật, việc kiểm tra, giám sát
việc thực hành quyết định áp dụng pháp luật.
Việc xây dựng PL và thực hiện PL đều là công tác rất quan
trọng của nhà nước, nhưng nó lại được quyết định bởi những điều
kiện chung về mọi mặt : kinh tế, chính trị, văn hóa của XH. Đối
với việc xây dựng PL trong các quan hệ XH, cần chú ý những
quan hệ ổn định và điển hình nhất, trong khi đó việc áp dụng PL
lại áp dụng cho các quan hệ cụ thể. Do đó, hoàn thiện hệ thống PL
là phải trên cơ sở hai mặt xây dựng PL và thực hiện PL, hai mặt
này có quan hệ khăng khít với nhau.
Trong quyết định 02 chọn thời điểm tổ chức thực hiện cũng
là không thích hợp vì Tết là thời điểm tất cả các loại hàng đều
bung ra - đấy là một phần bản sắc chợ Tết Hà Nội (chợ hoa, nơi
bán hoa di động, cây cảnh, quầy tết cơ động...)

14


Với những thiếu sót đã phân tích trong trường hợp quyết định
02 cấm hàng rong ở Hà nội việc áp dụng quyết định 02 rất khó
thành công và đi vào đời sông xã hội

15


Câu 5. Bằng lý luận và thực tiễn anh (chị) hãy làm r õ cần

phải tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý n hà
nước ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN)
Khái niệm pháp chế XHCN có từ sau Cách mạng Tháng Mười
Nga. V.I.Lê-nin là người đưa ra định nghĩa pháp chế và các
nguyên tắc của nó đã làm giàu thêm lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về nhà nước và pháp luật. Khái niệm pháp chế: “Pháp chế
XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong
đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên nhà nước và mọi công
dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách
nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi
ích của nhà nước, quyền, lợi ích của tập thể, của công dân đều bị
xử lý theo pháp luật”
Các biểu hiện của pháp chế XHCN:
+ Pháp chế XHCN là nguyên tắc trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước.
+ Pháp chế XHCN là nguyên tắc hoạt động của các tổ chức
chính trị, chính trị xã hội.
+ Pháp chế XHCN là nguyên tắc trong xử sự của công dân.
Ý nghĩa của pháp chế: pháp chế là điều kiện cơ bản để phát
huy dân chủ.
Như vậy, tăng cường pháp chế XHCN là một đòi hỏi khách
quan của quá trình quản lý và lãnh đạo. Nó trở thành nguyên tắc
hiến định của xã hội ta được quy định tại Điều 12, Hiến pháp
1992: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế XHCN. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải chấp hành nghiêm
chỉnh Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các
tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”. Do đó, pháp chế
XHCN là một khái niệm rất quan trọng trong tổ chức của bộ máy

nhà nước, trong hoạt động của mỗi chủ thể, công dân. kể từ Đại
hội VI của Đảng đến nay, các nghị quyết của Đảng thường xuyên,

16


liên tục đề cập đến vấn đề này. Hiến pháp với tính chất là đạo luật
cao nhất của nhà nước đã thể chế hóa quan điểm nêu trên của
Đảng, càng chứng tỏ pháp chế XHCN rất cần thiết, không thể
thiếu trong đời sống xã hội nước ta.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền có
mối liên hệ với pháp chế. Nhà nước pháp quyền khẳng định tính
tối cao của pháp luật, trong đó Hiến pháp là đạo luật cơ bản, pháp
luật chi phối và điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước định ra
pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Đây là
đặc trưng cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền nói chung cũng
như Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam nói riêng. Vì thế, nhất thiết
phải tăng cường pháp chế nhằm tạo ra những văn bản pháp luật có
chất lượng để tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, phòng tránh
sự lạm quyền của cán bộ, cơ quan nhà nước...vấn đề tăng cường
pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi
trọng gíao dục nâng cao đạo đức trong xã hội là một quan điểm có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, chỉ đạo xuyên suốt quá trình cải cách
và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN.
- Tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Có nghĩa là: xây dựng nhà nước pháp quyền tất yếu phải xây dựng
bằng pháp luật. Không có một nhà nước pháp quyền nào lại từ
chối việc quản lý xã hội bằng pháp luật; Quản lý xã hội bằng pháp
luật là yêu cầu khách quan của một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, là phương pháp chủ yếu bảo đảm hiệu lực quản lý của nhà

nước.
Xây dựng nhà nước pháp quyền và thực hiện quản lý xã hội
bằng pháp luật là xây dựng một nhà nước bảo đảm sự thống trị của
pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm cho
toàn xã hội tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật. Mặt khác, nhà nước
quản lý xã hội bằng nhiều công cụ: pháp luật, đạo đức, tổ chức,
thuyết phục, sử dụng tập quán, chính sách. Nhưng trong những
công cụ này, pháp luật bao giờ cũng được xác định là công cụ cơ
bản nhất. Vì so với những công cụ khác, pháp luật bao giờ nó
cũng có ưu thế hơn: Nó là loại quy tắc phổ biến trong toàn xã hội;

17


nó xâm nhập, tác động đến từng cá thể (còn những công cụ khác
chỉ tác động đến một số dân cư). Mặt khác, pháp luật bao giờ cũng
được thể hiện bằng văm bản, qui định cụ thể, ngắn gọn, không thể
hiểu theo nhiều cách, trong khi đó qui phạm đạo đức không thể có;
Hơn nữa pháp luật có tính cưỡng chế, nó được đảm bảo bằng sức
mạnh của nhà nước nhờ vậy pháp luật có sức mạnh riêng của nó.
Do đó phải tăng cường pháp chế, có nghĩa là tăng cường hoạt
động xây dựng pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,
đồng bộ, chất lượng cao. pháp luật phải được xây dựng kịp thời,
phù hợp với thực trạng kinh tế xã hội. Có cơ chế xây dựng và ban
hành pháp luật hợp lý, vừa bảo đảm ban hành pháp luật kịp thời,
vừa bảo đảm chất lượng của các văn bản pháp luật; Tăng cường
hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật sao cho đồng bộ, nghiêm
minh. Triển khai công tác tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn,
giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, biện pháp với sự tham
gia của nhiều lực lượng; Tăng cường hoạt động xử lý vi phạm

pháp luật. Thực hiện nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp
luật
Vậy tại sao trong bối cảng phát triển kinh tế thị trường phải
tăng cường pháp chế XHCN? Điều này có thể giải thích ở một số
khía cạnh sau:
- Nền kinh tế thị trường muốn phát triển thì phải có sự điều
chỉnh bằng pháp luật, pháp luật phải thực sự nghiêm minh, công
bằng, mọi chủ thể kinh tế phải triệt để thực hiện pháp luật.
- Trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN hiện nay, phải
gắn liền với việc xây dựng pháp chế.
- Hiện nay chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền, vì vậy tăng cường pháp chế sẽ tác động tích cực đến
công cuộc cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách hành
chính nhà nước nói riêng, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước.
- Hiện nay, tình trạng vi phạm pháp luật, đặ biệt là tham
nhũng, diễn ra phổ biến, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chung,

18


vì vậy cần tăng cường pháp chế để ngăn chặn, loại trừ những hành
vi vi phạm pháp luật.
Như vậy tăng cường PCXHCN có ý nghĩa quan trọng trong
bối của nước ta hiện nay.

19


Câu 6. Bằng lý luận và thực tiễn anh (chị) hãy làm rõ cơ

chế điều chỉnh pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật:
- Khái niệm "cơ chế điều chỉnh pháp luật" có ý nghĩa lớn về
mặt phương pháp luận. Nó giúp cho người nghiên cứu tiếp cận
pháp luật từ quan điểm hệ thống.
- Cơ chế điều chỉnh pháp luật là khái niệm phức tạp:
+ Dưới góc độ chức năng: là hệ thống các phương tiện pháp
lý tác động đến các quan hệ xã hội thông qua chủ thể.
+ Góc độ tâm lý: là sự tác động đến ý chí của con người nhằm
tạo ra cách xử sự thích hợp (với quy phạm pháp luật) ở chủ thể.
+Góc độ xã hội: nằm trong cơ chế xã hội, tức cơ chế tác động
của các quy phạm xã hội lên các quan hệ xã hội nhằm tạo ra 1 trật
tự xã hội phù hợp với lợi ích cộng đồng xã hội.
- Cơ chế điều chỉnh pháp luật là 1 quá trình thực hiện sự tác
động của pháp luật lên các quan hệ xã hội: 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: là giai đoạn định ra các quy phạm pháp luật.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật bắt đầu"hoạt động" bằng sự kiện
đề ra các quy phạm pháp luật. Chính các quy phạm pháp luật buộc
các chủ thể phải hành động phù hợp với lợi ích của sự phát triển
xã hội mà khuôn mẫu của hành động đó do chính quy phạm đưa
ra.
+ Giai đoạn 2: là giai đoạn áp dụng pháp luật. Đây là giai
đoạn cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào các quy phạm pháp luật
để ban hành các quyết định áp dụng pháp luật. ( có trường hợp
không có giai đoạn này).
+ Giai đoạn 3: là giai đoạn xuất hiện các quan hệ pháp luật mà
nội dung của nó là xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
chủ thể (cá nhân , tổ chức).
+ Giai đoạn 4: là giai đoạn thực hiện quyền chủ thể và nghĩa
vụ pháp lý. Các chủ thể bằng hành vi của mình thực hiện quyền và

nghĩa vụ pháp lý trong thực tiễn đời sống.
- Các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật:

20


+Yếu tố 1: ý thức cơ sở của cơ chế điều chỉnh pháp luật là
quy phạm pháp luật. Đây chính là sự mô hình hóa các hành vi xử
sự trong quan hệ xã hội.
+ Yếu tố 2: là các quyết định áp dụng pháp luật của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có tính cá biệt, cụ thể, nhằm đảm
bảo đưa các yêu cầu của quy phạm pháp luật vào cuộc sống; hoặc
bảo đảm sự xuất hiện các quan hệ pháp luật hoặc bảo đảm sự thực
hiện quyền và nghĩa vụ.
+ Yếu tố 3: là các quan hệ pháp luật. Trên cơ sở quy phạm
pháp luật và các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành theo
sáng kiến hoặc trên cơ sở xuất hiện các sự pháp lý khác, các quan
hệ pháp luật phát sinh với nội dung là các quyền và nghĩa chủ thể.
+ Yếu tố 4: là các hành vi thực tế của các chủ thể quan hệ
pháp luật thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Như vậy, trên cơ sở pháp lý của cơ chế điều chỉnh pháp luật là
quy phạm pháp luật. Chính các quy phạm pháp luât tạo nên mô
hình, khuôn mẫu cho hành vi của các chủ thể( cá nhân, tổ chức, cơ
quan).
Trong nhiều trường hợp quy phạm pháp luật không thể tự
thân đi vào cuộc sống nếu không có hoạt động áp dụng pháp luật
của cơ quan có thẩm quyền. Nếu cơ chế điều chỉnh pháp luật có
yếu tố quyết định áp dụng pháp luật: cơ chế điều chỉnh pháp luật
phức tạp. Cũng có trường hợp quy phạm pháp luật được thực hiện
1 cách trực tiếp bởi các chủ thể mà không cần trải qua giai đoạn áp

dụng pháp luật, trong trường hợp này ta có cơ chế điều chỉnh pháp
luật đơn giản.
Ví dụ: chủ thể tuân thủ đúng những quy tắc hành vi chứa
đựng trong pháp luật: làm việc phải làm, không làm việc bị cấm.
Các quy phạm pháp luật và các quyết định áp dụng pháp luật
được ban hành kéo theo sự xuất hiện của quan hệ pháp luật. Quan
hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội được quy
phạm pháp luật điều chỉnh. Sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt quan
hệ pháp luật gắn liền với sự kiện pháp lý tức là những hoàn cảnh,
điều kiện của đời sống thực tế quy định trong phần giả định của

21


quy phạm pháp luật. Quan hệ pháp luật với nội dung là quyền chủ
thể và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia chính là phương tiện
để thực hiện quy phạm pháp luật. Và cuối cùng thông qua hành vi
thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể mà quy
phạm pháp luật được thực hiện trong cuộc sống.

22


Câu 7. Bằng lý luận và thực tiễn anh (chị) hãy làm rõ
những chỉ số đánh giá hiệu quả của pháp luật ở Việt Nam hiện
nay
Để đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật cần
phải dựa vào những tiêu chuẩn được xác định về mặt lý thuyết, từ
đó liên hệ với hoàn cảnh thực tế để rút ra kết luận, làm sáng tỏ ưu,
nhược điểm của hệ thống pháp luật.

Những tiêu chuẩn đó là:
l. Tính toàn diện
Tính toàn diện của hệ thống pháp luật thể hiện ỏ hai cấp độ:
ở cấp độ chung đòi hỏi hệ thống pháp luật phải đủ các
ngành luật theo cơ cấu nội dung lôgíc và thể hiện thống nhất trong
hệ thông văn bản quy phạm pháp luật tương ứng .
Ớ cấp độ cụ thể đòi hỏi mỗi ngành luật phải có đủ chế
định pháp ỉuật và các quy phạm pháp luật.
2. Tính đồng bộ
Tính đồng bộ của hệ thông pháp luật thể hiện sự thống nhất
của nó.Tính đồng bộ cũng thể hiện ở hai cấp độ.
ở cấp độ chung đó là sự đồng bộ giữa các ngành luật với
nhau, phải xác định rõ ranh giới giữa các ngành luật tránh sự
chồng chéo.
ở cấp độ cụ thể, tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất, không
mâu thuẫn, không trùng lặp trong mỗi ngành luật, mỗi chế định
pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật với nhau.
3.
Tính phù hợp
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tương quan
giữa trình độ của hệ thông pháp luật với trình độ phát triển của
kinh tế - xã hội. Đồng thời phải chú ý và giải quyết tốt mốì quan
hệ giữa pháp luật với chính trị, đạo đức, tập quán, truyền thông và
các quy phạm xã hội khác.
các tiêu chí đánh giá luật trên giấy và các tiêu chí đánh giá
luật trong hành vi (còn gọi là thực hiện pháp luật). Các tiêu chí
đánh giá THPL bao gồm việc thực hiện pháp luật phải đạt được
các mục tiêu chính sách đề ra; chi phí thực hiện pháp luật phải hợp

23



lý; đảm bảo tôn trọng quyền con người; việc tổ chức thực hiện
pháp luật phải phù hợp với hệ thống pháp luật; đảm bảo sự công
bằng, nhất quán và nghiêm minh; công khai, minh bạch.
4. Trình độ lập pháp ở mức độ cao
Điều này thể hiện khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật cần
phải đảm bảo các yêu cầu sau.
Kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tôi ưu
được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật.
Ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô đọng, lôgíc,
chính xác và một nghĩa.
Phân tích đánh giá hiệu quả THPL của cơ quan nhà nước cần
4 yếu tố: - Phương hướng, nội dung và kết quả đạt được về tổ chức
và hoạt động THPL của các cơ quan nhà nước và cán bộ công
chức có thẩm quyền;
- Chi phí về thời gian để tiến hành tổ chức các hoạt động
THPL;
- Cách thức hoạt động THPL của các cơ quan nhà nước và
cán bộ nhân viên nhà nước có thẩm quyền;
- Các chi phí về cán bộ, kỹ thuật, xã hội và tài chính để thi
hành và đảm bảo THPL của cơ quan nhà nước. Điều quan trọng là
“phải xem xét kết quả đạt được trên thực tế trong mối quan hệ với
hiệu quả về tổ chức và hoạt động THPL của cơ quan nhà nước
Để đánh giá hiệu quả THPL, người ta thường xét đến các điều
kiện, tiền đề cần thiết trong thực thi pháp luật và để đo lường,
người ta có thể sử dụng các tiêu chí định tính và định lượng. Các
điều kiện cần thiết là sự hợp lý và đầy đủ của các quy định pháp
luật, các điều kiện vật chất và tinh thần, ý thức của người dân và

chế tài phải đủ sức răn đe, chi phí về thời gian và tiền bạc. Nhưng
bất kể thế nào, “việc đo hiệu lực và hiệu quả THPL phải dựa trên
phân tích thực tế, chứ không thể chỉ căn cứ vào việc ban hành văn
bản hay những quy định trên giấy tờ”

24


Câu 8. Bằng lý luận và thực tiễn anh (chị) hãy lảm rõ
những điều kiện bảo đảm hiệu quả pháp luật ở Việt Nam hiện
nay.
Để bảo đảm hiệu quả pháp luật cần những điều kiện sau
1. Đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật
Để văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam đạt được hiệu
quả mong muốn, cần phải coi trọng thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần phải chú ý đến là tính hợp pháp, tính thống
nhất, tính hợp lý của các văn bản quy phạm pháp luật. Tính hợp
pháp, hợp lý và thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật
chỉ có thể được đảm bảo khi công tác xây dựng, soạn thảo các văn
bản quy phạm pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Việt Nam cần
phải có một cơ quan lập pháp làm việc chuyên nghiệp hơn để có
thể cho ra những văn bản luật có hiệu quả. Bên cạnh đó, hệ thống
các văn bản lập quy cũng cần được nâng cao về mặt chất lượng.
Để làm được việc này, bên cạnh việc chú trọng công tác đào tạo
nguồn nhân lực, bộ phận pháp chế của các Bộ, ngành cần phải chủ
động phối hợp với nhau và có sự tham khảo ý kiến của đa số quần
chúng nhân dân trước khi ban hành một văn bản dưới luật cụ thể.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật cần phải đảm bảo được
khả năng tiếp cận của quần chúng nhân dân. Để đảm bảo cho công

dân được chủ động tiếp cận thông tin, cơ quan nhà nước phải chủ
động công bố công khai những trình tự thủ tục rõ ràng thuận tiện
để người dân có thể dễ dàng tiếp cận được thông tin khi có nhu
cầu. Ngoài ra, người dân có thể tiếp cận được thông tin ngay cả
khi không có nhu cầu bằng việc cơ quan nhà nước chủ động công
khai thông tin trên các trang thông tin điện tử của cơ quan hoặc
thông qua các kênh phổ biến kiến thức khác để đông đảo quần
chúng được biết mà không cần phải yêu cầu.
Thứ ba, liên quan đến các cơ quan thực thi pháp luật. Văn bản
quy phạm pháp luật sẽ có hiệu lực cao khi được các cơ quan thực
thi thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để việc áp dụng luật.
Các cơ quan này cần phải được trang bị không chỉ về cơ sở pháp

25


×