Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Bàn về cách tiếp cận của lý luận phương tây về trật tự thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.31 KB, 30 trang )

Bàn về cách tiếp cận của lý luận
phương Tây về Trật tự thế giới


Tóm tắt
Bướ c vào thế kỷ 21, dướ i tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hoá và
cách mạng khoa học công nghệ, hệ thống QHQT đang trải qua nh ững thay đổi
nhanh chóng và ở trong th ời kỳ quá độ t ừ trật t ự hai c ực th ời Chiến tranh lạnh
sang một mô hình trật tự m ới phù h ợp v ới th ực tiễn QHQT m ới. Tuy nhiên, ch ưa
có sự nhất trí cao trong cả gi ới học thuật và gi ới hoạch định chính sách về d ự
báo chiều hướ ng phát triển của một trật t ự thế gi ới m ới, một phần do khác biệt
trong cách hiểu về trật t ự thế gi ới và nh ững thuộc tính của nó cũng nh ư trong s ử
dụng các tiêu chí phân tích, d ự báo trật t ự thế gi ới. Bài viết này bàn về cách tiếp
cận của một số tr ườ ng phái lý luận ph ươ ng Tây về trật t ự thế gi ới, qua đó góp
phần làm rõ h ơn khái niệm trật t ự thế gi ới v ới nh ững thuộc tính c ơ bản (tính ổn
định, tính có thể d ự đoán, tính h ợp lệ, tính th ứ bậc/đẳng cấp, tính khả biến) và
một số tiêu chí chủ yếu để nhận dạng trật t ự thế gi ới (chủ thể chính, phân bổ
sức mạnh gi ữa các chủ thể chính, luật ch ơi và tập h ợp l ực l ượ ng của các chủ
thể chính, phươ ng thức của trật t ự, công cụ của trật t ự và cấu trúc địa lý của trật
tự).
Nội dung:
Nghiên cứu về hệ thống quốc tế (cũng nh ư mối quan hệ t ươ ng tác gi ữa hệ
thống và các đơn vị cấu thành) và trật t ự quốc tế t ừ khi các quốc gia – dân tộc
ra đời sau Hòa ướ c Westphalia 1648 là nền tảng quan trọng cho việc phân tích,
đánh giá, dự báo tình hình thế gi ới, các xu thế và đặc điểm của quan hệ quốc tế
(QHQT) trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của tất cả các quốc gia
– những chủ thể chính của hệ thống QHQT. Nhìn lại lịch s ử, QHQT đã ch ứng
kiến sự tồn tại của một số mô hình trật t ự cụ thể nh ư: bá quyền – đơn c ực, hòa
hợp quyền lực, đa c ực, hai c ực. Mỗi mô hình này không phải là một khuôn mẫu
cứng nhắc, mang tính chất “tĩnh” tuyệt đối, mà là một quá trình vận động, điều



chỉnh để đi đến hoàn thiện, ổn định. S ự chuyển đổi t ừ mô hình tr ật t ự này sang
mô hình trật t ự khác là một quá trình lâu dài và khó khăn, và th ường là thông
qua một cuộc chiến tranh, vì yếu tố t ươ ng quan so sánh l ực l ượng bi ến động d ễ
dàng và nhanh chóng h ơn yếu tố luật ch ơi do các chủ th ể xác lập và tuân
thủ/chấp thuận. Cách tiếp cận và phân loại phổ biến này chịu ảnh h ưởng l ớn
của Thuyết Hiện th ực và d ựa trên yếu tố chủ thể (c ực) h ơn là mục tiêu hay lu ật
ch ơi của hệ thống. Do đó, xoay quanh chủ thể là các n ước l ớn, vi ệc đánh giá,
phân loại trật t ự th ườ ng tập trung vào so sánh, phân b ổ s ức m ạnh, quy ền l ực
(s ức mạnh tổng thể ch ứ không riêng gì chính trị-quân s ự) và t ập h ợp l ực l ượng,
luật ch ơi/chuẩn m ực và quy tắc ứng x ử, s ự sắp xếp tôn ti tr ật t ự, tính ổn định và
tính h ợp lệ/chính đáng của trật t ự.
B ướ c vào thế kỷ 21, d ướ i tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa và
cuộc cách mạng khoa học công nghệ (KHCN) ch ứ không phải là hệ lụy của một
cuộc chiến tranh nóng, hệ thống QHQT đang trải qua nh ững thay đổi nhanh
chóng và ở trong th ời kỳ quá độ t ừ trật t ự hai c ực (Chiến tranh l ạnh) sang m ột
mô hình m ới phù h ợp v ới th ực tiễn QHQT m ới. Đã có nhi ều phân tích, d ự báo
về mô hình trật t ự thế gi ới sau Chiến tranh lạnh và trong nh ững năm đầu th ế kỷ
21 như trật tự đơn cực, trật t ự “đơn c ực, đa v ực”, trật t ự đa c ực, trật t ự hình
“mạng nhện”, trật t ự nhất siêu đa c ườ ng, trật t ự đa trung tâm, hay trật t ự “không
c ực”… Tuy nhiên, ch ưa có s ự nhất trí cao trong cả gi ới học thu ật và gi ới ho ạch
định chính sách về chiều h ướng phát triển của một trật t ự th ế gi ới m ới vì đa s ố
các phân tích, d ự báo đều tập trung vào s ự thay đổi trong t ương quan so sánh
l ực l ượ ng gi ữa các chủ thể chính (theo khái niệm “c ực”) h ơn là quá trình hình
thành nh ững luật ch ơi, nh ững chuẩn m ực; chủ th ể nào s ẽ đóng vai trò chủ y ếu
vào xây d ựng luật ch ơi đó, và nh ững nhân tố có khả năng tạo nên s ự ổn định
của hệ thống QHQT trong th ời gian t ới.
Bài viết này sẽ tập trung làm rõ các khái ni ệm c ơ b ản “h ệ th ống qu ốc t ế”, “tr ật



t ự”, “trật t ự thế gi ới”, một số thuộc tính/nội hàm chính của trật t ự thế gi ới, các
nhân tố tác động/tiêu chí xác định trật t ự thế gi ới trong các tr ường phái/lý thuy ết
QHQT chủ đạo của ph ươ ng Tây hiện nay. V ới nền tảng lý luận đó, bài vi ết hy
vọng sẽ cung cấp một cái nhìn t ươ ng đối toàn diện, hệ thống về tr ật t ự thế gi ới,
t ừ đó góp phần d ự báo, nhận dạng khoa học, chính xác h ơn về m ột trật t ự th ế
giới đang định hình.
I. Khái niệm “trật t ự thế gi ới”
1. Khái niệm “trật t ự” và “trật t ự thế gi ới”
Thuật ng ữ “trật t ự” và “trật t ự thế gi ới” (hay “trật t ự quốc tế”) th ường đượ c s ử
dụng trong cả gi ới hoạch định chính sách và học gi ả nh ằm mô t ả, đánh giá,
hoặc d ự báo th ực trạng thế gi ới trong một giai đoạn lịch s ử nhất định. Thuyết
Tân Hiện th ực th ườ ng s ử dụng khái niệm “trật t ự quốc tế” h ơn là “trật t ự th ế
gi ới” và không phân bi ệt rõ s ự khác bi ệt gi ữa hai khái ni ệm này. Ở Vi ệt Nam,
khái niệm “trật t ự thế gi ới” đượ c s ử dụng rộng rãi trong cả gi ới học thuật và
hoạch định chính sách; một số ý kiến trong n ước vẫn ch ưa phân bi ệt rõ gi ữa
“trật t ự thế gi ới” và “cục diện thế gi ới”[2]. Sau Chiến tranh lạnh, Barry Buzan đã
đưa ra khái niệm “tổ h ợp an ninh” (security complex) để xem xét quan h ệ gi ữa
các n ướ c theo chiều ngang (gi ữa các tổ h ợp v ới nhau) và theo chi ều d ọc (gi ữa
tổ h ợp thấp h ơn và cao h ơn) theo t ươ ng quan đơn vị-hệ thống trong lý thuy ết h ệ
thống.[3] Nh ư vậy, theo quan điểm này, “trật t ự thế gi ới” là “t ổ h ợp an ninh” cao
nhất trong các cấp độ phân tích hệ thống quốc tế.
Trong lĩnh v ực nghiên c ứu Quan hệ Quốc tế, “trật t ự quốc tế” đượ c phân tích t ừ
góc độ thiên về chủ thể (nhà n ướ c hay phi nhà n ước, t ương quan so sánh l ực
l ượ ng gi ữa các chủ thể/nhóm chủ thể), mục tiêu (ví dụ nh ư s ống còn, h ạn ch ế
bạo l ực, thay đổi hòa bình), ph ương th ức (bá quy ền, cân b ằng quy ền l ực, hòa
h ợp quyền l ực, thể chế đa ph ươ ng) và công cụ (chiến tranh, lu ật qu ốc t ế, ngo ại
giao chính trị, kinh tế, văn hóa). Tuy là một khái niệm đã có t ừ lâu và mang ý


nghĩa lý luận cũng nh ư th ực tiễn rất quan trọng nh ưng chỉ cóThuy ết Tân Hi ện

th ực (Neorealism) và Tr ườ ng phái nghiên c ứu Quan h ệ Qu ốc t ế ki ểu Anh
(English School) gi ới thiệu có hệ thống mảng lý thuyết tập trung chuyên bi ệt v ề
“trật t ự” hay s ử dụng “trật t ự” làm khung phân tích chính trị qu ốc t ế. M ột s ố
tr ườ ng phái lý luận khác tuy không tr ực tiếp đề cập đến “tr ật t ự qu ốc t ế” nh ưng
đi sâu vào nh ững khía cạnh liên quan d ưới một tên gọi khác nh ư “xã h ội qu ốc
tế” (international society), “cộng đồng an ninh” (security community), “thuy ết c ơ
chế” (regime theory) hay “thuyết thể chế t ự do” (liberal institutionalism).
1.1. “Trật t ự thế gi ới” trong Thuyết Tân Hiện th ực
Được phát triển trên nền tảng t ư t ưởng của Thomas Hobbes và thuy ết Hi ện
th ực cổ điển (Realism), Thuyết Tân Hiện th ực còn đượ c biết đến là thuy ết Hi ện
th ực cấu trúc do nhấn mạnh tính cấu trúc của hệ thống qu ốc t ế[4] v ới vai trò
trung tâm của các c ườ ng quốc và bản chất vô chính phủ (anarchy) cũng nh ư s ự
phân bổ s ức mạnh trong hệ thống quốc tế có ảnh h ưởng l ớn đến quan h ệ và s ự
l ựa chọn chính sách của các quốc gia (cách tiếp cận t ừ trên xu ống, khác v ới
cách tiếp cận t ừ d ướ i lên của thuyết Hiện th ực cổ điển).[5] Cấu trúc quan h ệ
quốc tế có tác động quyết định đến hành vi của các quốc gia nh ưng ng ược l ại
các n ướ c l ớn (cùng các n ướ c nhỏ) là nh ững chủ thể xây d ựng nên c ấu trúc, và
đây chính là mối quan hệ biện ch ứng gi ữa hệ thống và đơn vị trong lý thuy ết
này. Hệ thống quốc tế là khái niệm song hành v ới trật t ự, có ý ngh ĩa quy ết định
đối v ới trật t ự.[6] Hệ thống quốc tế được hình thành nên b ởi các qu ốc gia-dân
tộc (nation-state) hiện đại và đượ c đánh dấu mốc b ằng Hòa ướ c Westphalia
năm 1648 ở châu Âu. Tuy về pháp lý và đặc biệt đượ c nêu rõ trong Hi ến
ch ươ ng Liên H ợp Quốc, các quốc gia tham gia vào hệ thống quốc tế hiện đại
đều có vai trò bình đẳng trên tinh th ần tôn tr ọng độc l ập, ch ủ quy ền, toàn v ẹn
lãnh thổ, nh ưng trên th ực tế một số nhỏ các n ước l ớn giàu mạnh h ơn (v ề c ả
s ức mạnh c ứng và s ức mạnh mềm, hay s ức mạnh thông minh theo khái ni ệm


của Joseph Nye[7]) v ới các mục tiêu và định h ướng chính sách của mình có khả
năng chi phối tiến trình và kết quả của quan hệ gi ữa các n ước nh ỏ/yếu h ơn nói

riêng và quan hệ quốc tế nói chung.[8] Theo mạch lập luận đó, s ự xu ất hi ện
hoặc rút lui (t ự nguyện hay c ưỡ ng ép) của một n ước l ớn[9] trong hệ th ống qu ốc
tế sẽ làm thay đổi cấu trúc của hệ thống đó và số l ượng các n ước l ớn cũng nh ư
t ươ ng quan so sánh l ực l ượ ng (hay còn gọi là s ự phân b ố kh ả năng s ức m ạnh)
gi ữa các n ướ c này có ý ngh ĩa quyết định đến việc hình thành, ch ấm d ứt cũng
nh ư tính chất, cách th ức vận hành (luật ch ơi) của một hệ thống quan h ệ qu ốc t ế
cụ thể. Nh ư vậy, thông qua việc xây d ựng cấu trúc và xác l ập lu ật ch ơi (nguyên
tắc tổ ch ức và vận hành) của hệ thống, một hoặc nhiều h ơn một n ước l ớn đã
tạo nên trật t ự quốc tế – t ức là hệ thống quốc tế v ới nh ững thu ộc tính c ơ b ản
nh ư tính ổn định (stability), tính có thể đoán tr ước (predictability), tính h ợp l ệ
(legitimacy), tính th ứ bậc/đẳng cấp (hierarchy) và tính kh ả bi ến (changeability).
S ự ra đời và chấm d ứt tồn tại của một trật t ự th ườ ng là kết quả của chiến tranh
(chiến tranh mang tính hệ thống ở quy mô châu lục hoặc thế gi ới), dù tính ch ất
của chiến tranh có thể “nóng” hoặc “lạnh”.
Ảnh h ưởng l ớn của thuy ết Tân Hi ện th ực trong m ột th ời gian dài ( đến khi Chi ến
tranh lạnh kết thúc) đã dẫn đến việc chấp nhận rộng rãi ph ương pháp mô t ả và
phân loại hệ thống quốc tế/thế gi ới d ựa trên số l ượng các n ước l ớn hay còn g ọi
là “c ực”[10] – một khái niệm có nội hàm thiên về đối đầu, đấu tranh h ơn là h ợp
tác, và “c ực” có cách th ức tập h ợp l ực l ượng theo ki ểu “xếp hàng”, nh ất tuy ến.
Trong lịch s ử quan hệ quốc tế đã tồn tại rất nhiều mô hình trật t ự thế gi ới khác
nhau nh ư đơ n c ực/bá quy ền (có riêng thuy ết Ổn định Bá quy ền s ử d ụng “tr ật t ự”
làm khung phân tích cấu trúc hệ thống quốc tế do một siêu c ường chi ph ối), hai
c ực, ba c ực, đa c ực (hay còn gọi là Hòa h ợp quyền l ực ở châu Âu thế kỷ 19), và
thậm chí có cả trật t ự “không/vô c ực” (Non-polarity) theo cách mô tả của Richard
Haas về trật t ự thế gi ới sau Chiến tranh lạnh[11].


Nhìn chung, nh ững khiếm khuyết của Thuyết Tân Hiện th ực trong cách tiếp c ận
khái niệm “trật t ự quốc tế” phản ánh nh ững bất cập chung của tr ường phái Hi ện
th ực (Realism), đặc biệt là trong bối cảnh thế gi ới sau Chiến tranh lạnh. T ừ khi

trật t ự hai c ực sụp đổ đến nay và đặc biệt là d ưới tác động của tiến trình toàn
cầu hóa, tr ườ ng phái này không còn được coi là công cụ lý thuy ết đủ m ạnh và
toàn diện để đánh giá và d ự báo s ự vận động rất ph ức tạp của tình hình th ế
gi ới. Th ứ nhất, tr ườ ng phái này quá nhấn mạnh đến vai trò của qu ốc gia và coi
l ợi ích của quốc gia là tối th ượ ng trong quan hệ qu ốc tế, vì v ậy đã gián ti ếp ph ủ
nhận tầm quan trọng ngày càng tăng của các chủ thể phi qu ốc gia-phi nhà n ước
nh ư các tổ ch ức quốc tế, các công ty xuyên quốc gia, các tổ ch ức phi chính phủ,
các tôn giáo, v.v… Th ứ hai, tr ườ ng phái Hiện th ực quá coi trọng s ức mạnh c ứng
trong khi quan niệm về s ức mạnh quốc gia và các bộ phận cấu thành đã có
nhiều thay đổi. Tuy s ức mạnh quân s ự vẫn chiếm vị trí quan tr ọng nh ưng vị th ế
và s ức mạnh của một quốc gia còn phải d ựa trên s ức mạnh kinh tế, khoa h ọc kỹ
thuật, văn hóa, v.v… Hay nh ư cách nói của Joseph Nye, đó là s ự k ết h ợp gi ữa
s ức mạnh “c ứng” và s ức mạnh “mềm”. Th ứ ba, quan niệm của chủ ngh ĩa Hi ện
th ực về môi tr ườ ng quan hệ quốc tế, an ninh và vấn đề h ợp tác là quá bi quan.
Theo học thuyết này, toàn cầu hóa có hại nhiều h ơn có l ợi và đe d ọa đến ch ủ
quyền, an ninh của các quốc gia. Cho đến nay, tuy quan h ệ qu ốc t ế v ề c ơ b ản
vẫn mang bản chất “vô chính phủ” nh ưng các quốc gia ngày càng tùy thu ộc l ẫn
nhau về nhiều mặt (kinh tế và các vấn đề toàn cầu) và v ừa phải h ợp tác v ừa
phải đấu tranh để đảm bảo l ợi ích và an ninh của mình. H ơn n ữa, khái ni ệm “an
ninh” hiểu theo nghĩa truyền thống tr ở nên chật hẹp vì an ninh qu ốc gia không
phản ánh hết l ợi ích của các nhóm l ợi ích trong xã h ội (an ninh con ng ười); m ối
đe dọa an ninh nay không chỉ đến t ừ bên ngoài biên gi ới qu ốc gia mà còn đến
t ừ bên trong; và các vấn đề phi quân s ự, phi truy ền th ống có th ể đe d ọa nghiêm
trọng đến an ninh, ổn định và s ự phát triển của qu ốc gia. Th ực ti ễn cho th ấy, để


đảm bảo s ự “sống sót”, các quốc gia không chỉ t ự c ứu mình mà còn phải h ợp
tác trên c ơ s ở đôi bên cùng có l ợi (positive sum) nh ằm đảm b ảo tình tr ạng “cùng
an ninh”. Hình th ức h ợp tác không còn gi ới hạn trong các liên minh quân s ự mà
được m ở ra d ưới nhiều hình th ức, nhiều cấp độ, trên nhiều lĩnh v ực.

1.2. “Trật t ự thế gi ới” trong Tr ường phái của Anh
Hugo Grotius – cha đẻ của ngành luật quốc tế hiện đại – là một trong nh ững h ọc
giả đầu tiên bàn về “trật t ự quốc tế” và đặt nền móng cho nh ững phát tri ển sau
này của Tr ườ ng phái Anh (vì vậy, nh ững quan đi ểm của Grotius còn được bi ết
đến là Tr ường phái Grotius (Grotianism)[12]). Tuy nhiên, Hedley Bull là đại di ện
tiêu biểu và có ảnh h ưở ng nhất của tr ường phái này trong cách ti ếp c ận “tr ật t ự
quốc tế” trong quan hệ quốc tế.[13] Theo ông, trong chính trị qu ốc t ế luôn luôn
tồn tại trật t ự ở một dạng th ức nào đó và chính trị quốc tế đượ c mô tả nh ư m ột
xã hội của các quốc gia hay còn gọi là xã hội qu ốc tế (international society). Trật
t ự tồn tại khi xã hội quốc tế tồn tại và xã hội quốc tế là môi tr ường để duy trì tr ật
t ự trong chính trị quốc tế. Hedley Bull định ngh ĩa “xã hội qu ốc t ế” là “m ột nhóm
các quốc gia nhận th ức đượ c một số giá trị và l ợi ích chung cùng nhau xây
d ựng một xã hội mà trong đó các quốc gia này bị ràng bu ộc b ởi nh ững lu ật l ệ
chung điều chỉnh các mối quan hệ và h ợp tác trong nh ững th ể chế do h ọ chung
tay tạo d ựng”[14]. D ựa trên cách hiểu này, Hedley Bull định ngh ĩa “tr ật t ự qu ốc
tế” là “một dạng th ức hoạt động nhằm duy trì các mục tiêu c ơ b ản và quan tr ọng
của xã hội các quốc gia hay còn gọi là xã hội quốc tế”[15].
Thay vì tập trung vào phân tích cấu trúc quyền l ực của hệ th ống qu ốc t ế d ựa
trên các yếu tố vật chất h ữu hình nh ư thuyết Tân Hiện th ực, tr ường phái Anh
chú trọng các mục tiêu chung của trật t ự và cách th ức để các qu ốc gia trong tr ật
t ự đó đạt đượ c các mục tiêu chung, hay nói cách khác là cách th ức để duy trì
trật t ự đó. Theo Hedley Bull, bất kỳ một trật t ự nào cũng nh ằm đạt đượ c sáu
mục tiêu c ơ bản hàng đầu: bảo vệ hệ thống nhà n ước; duy trì chủ quyền của


các quốc gia; hoà bình quốc tế; hạn chế bạo l ực; gi ữ cam kết, tho ả thu ận; và
duy trì ổn định quan hệ gi ữa các n ước thông qua công nh ận quy ền tài phán c ủa
nhau. Muốn đạt đượ c nh ững mục tiêu này, các quốc gia trong xã h ội qu ốc tế
cần xây d ựng các luật lệ để điều chỉnh các mối quan hệ gi ữa các qu ốc gia và
các thể chế để đảm bảo th ực thi các luật lệ đó. Có ba nhóm luật lệ chính để duy

trì trật t ự quốc tế: (i) nhóm các nguyên t ắc c ơ b ản, chu ẩn m ực của các qu ốc gia
thành viên và hệ thống/xã hội quốc tế; (ii) nhóm các lu ật lệ v ề các điều ki ện t ối
thiểu cùng tồn tại và điều chỉnh hành vi của các qu ốc gia; (iii) nhóm các lu ật l ệ
điều chỉnh quan hệ h ợp tác gi ữa các quốc gia để đạt được các mục tiêu chung
của hệ thống/xã hội quốc tế. Việc bảo đảm th ực thi các luật lệ này không chỉ
thông qua hành động đơn lẻ của t ừng quốc gia (self-help) mà còn c ần đến các
thể chế/c ơ chế quốc tế v ới 5 loại chính: cân bằng quyền l ực, lu ật pháp qu ốc t ế,
c ơ chế ngoại giao, hệ thống quản lý của các c ườ ng quốc, và chiến tranh.
Có thể thấy rằng, Tr ườ ng phái Anh v ới quan ni ệm v ề “xã h ội qu ốc t ế” có s ự k ế
th ừa dòng t ư t ưở ng của Hobbes, Kant và Grotius, và c ố g ắng ch ứng minh r ằng
luật lệ đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật t ự quốc tế và luật pháp qu ốc
tế giúp cho các quốc gia chung sống hoà bình và h ợp tác v ới nhau. Khác v ới t ư
t ưở ng của Hobbes, quan niệm này cho rằng tr ật t ự của xã h ội qu ốc t ế không
d ựa trên l ợi ích h ợp tác nhất th ời, các yếu tố vật chất h ữu hình (đặc bi ệt là s ức
mạnh quân s ự) và môi tr ườ ng đấu tranh giành quyền l ực gi ữa các qu ốc gia (vô
chính phủ), mà được xây d ựng trên c ơ s ở các l ợi ích chung, giá trị chung, luật lệ
chung và thể chế chung. Bản chất của trật t ự quốc tế là đạo lý và lu ật pháp (tôn
trọng quyền và nghĩa vụ quốc gia và quốc tế), nh ưng khác v ới luật pháp và đạo
lý trong t ư t ưở ng của Kant (mang t ư t ưởng cách mạng không t ưởng, l ật đổ h ệ
thống quốc gia để xây d ựng một cộng đồng chung cho nhân loại), luật pháp và
đạo lý trong xã hội quốc tế có mục tiêu thúc đẩy cùng tồn t ại hoà bình và h ợp
tác gi ữa các quốc gia.[16]


Đóng góp của Hedley Bull và tr ường phái Anh vào việc làm rõ nội hàm của “trật
t ự quốc tế” qua khái niệm “xã hội quốc tế” là h ữu ích nh ưng v ẫn b ộc l ộ m ột s ố
yếu điểm c ơ bản[17]. Th ứ nhất, tr ườ ng phái này l ẫn l ộn gi ữa khái ni ệm “tr ật t ự
quốc tế” và “xã hội quốc tế”. Tuy lập lu ận trật t ự g ắn li ền v ới xã h ội qu ốc t ế và
th ừa nhận trật t ự cũng có thể tồn tại trong thế gi ới của Hobbes và Kant nh ưng
Hedley Bull lại bác bỏ quan niệm của Hobbes về vai trò của l ợi ích qu ốc gia và

quan niệm của Kant về ch ức năng của luật pháp và đạo lý trong quan h ệ qu ốc
tế. Th ực tế cho thấy trật t ự có thể tồn tại trong các hình th ức đời s ống xã h ội
khác nhau v ới tính chất và m ức độ khác nhau, và mô hình tr ật t ự có th ể thay đổi
t ừ dạng này sang dạng khác. Th ứ hai, tr ường phái này quan ni ệm sai l ầm v ề s ự
khác biệt gi ữa hệ thống và xã hội quốc tế khi cho r ằng y ếu t ố tr ật t ự giúp phân
biệt xã hội và hệ thống và xã hội là một hệ thống có trật t ự. Tuy nhiên, m ột h ệ
thống có thể trật t ự và có thể không có trật t ự, và m ức độ, loại hình tr ật t ự gi ữa
các hệ thống là khác nhau. Th ứ ba, tr ường phái này quan ni ệm l ẫn l ộn v ề lu ật l ệ
và thể chế, về mục đích và các yếu tố cấu thành nên luật lệ, về s ự khác biệt
gi ữa “thể chế” và ph ươ ng th ức (cân bằng quyền l ực và hệ thống qu ản lý của
các n ướ c l ớn) hay công cụ của trật t ự (chiến tranh, ngoại giao và luật pháp qu ốc
tế).
1.3. Định nghĩa “trật t ự quốc tế/thế gi ới”
Thuyết Tân Hiện th ực và Tr ường phái Anh đều có nh ững điểm m ạnh và đi ểm
yếu trong cách tiếp cận khái niệm “trật t ự quốc tế/thế gi ới”, và trên th ực tế
Thuyết Tân Hiện th ực hay còn gọi là Hiện th ực cấu trúc t ừ lâu đã có ảnh h ưởng
l ớn h ơn trong cả gi ới học thuật và hoạch định chính sách. Trong bối cảnh quan
hệ quốc tế th ời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, kiểu t ư duy “Hiện th ực” theo khái ni ệm
“c ực” (chủ thể) vẫn còn chi phối mạnh trong cách nh ận d ạng, đánh giá m ột tr ật
t ự thế gi ới đang nổi lên thay thế trật t ự hai c ực đã sụp đổ và cục di ện đơn c ực
tồn tại ngắn ngủi. Tuy nhiên, th ực tiễn m ới ch ứa đựng nh ững y ếu t ố b ất bi ến và


khả biến trong chính trị quốc tế đòi hỏi phải có một cách tiếp cận toàn di ện h ơn,
có tính kế th ừa và chọn lọc h ơn để có thể mô tả chính xác h ơn bản ch ất và lo ại
hình trật t ự thế gi ới trong nh ững thập niên đầu của thế kỷ 21.
Theo T ừ điển Tiếng Việt, “trật t ự” đượ c định ngh ĩa là “s ự sắp xếp theo m ột th ứ
t ự, một quy tắc nhất định”, là “tình trạng ổn định, có t ổ ch ức, có kỷ lu ật”.[18]
Cách tiếp cận của bài viết này s ử dụng thuyết Hiện th ực cấu trúc làm nền t ảng
và kết h ợp v ới nh ững luận điểm phù h ợp của Tr ường phái Anh để nhận định

hình thái trật t ự thế gi ới m ới d ựa trên hai thu ộc tính c ơ b ản của tr ật t ự là tính ổn
định (phân bổ s ức mạnh, điều chỉnh/thích nghi, tính h ợp lệ và tính có th ể đoán
tr ướ c), tính th ứ bậc/đẳng cấp, và tính kh ả bi ến, và 5 tiêu chí xác định g ồm ch ủ
thể (chủ thể và t ươ ng quan so sánh l ực l ượng), lu ật ch ơi (nguyên t ắc t ổ ch ức,
vận hành trật t ự, tập h ợp l ực l ượng), công cụ, ph ương th ức, và c ấu trúc địa lý
của trật tự.
T ừ cách tiếp cận đó có thể định ngh ĩa trật t ự quốc tế/thế gi ới thể hiện một ki ểu
so sánh và phân bổ s ức mạnh tổng h ợp (chính trị, quân s ự, kinh tế, văn hoá…)
gi ữa các c ườ ng quốc, và là dạng th ức hoạt động hay dàn xếp (chính th ức và
không chính th ức) của các quốc gia có chủ quyền nh ằm duy trì các m ối quan h ệ
gi ữa họ v ới nhau theo nh ững luật ch ơi chung (hay tiêu chu ẩn chung v ề hành vi)
vì mục tiêu/l ợi ích của t ừng n ướ c và của cả hệ thống.[19]
2. Nh ững thuộc tính của trật t ự thế gi ới
2.1. Tính ổn định
Nhiều định nghĩa về “trật t ự thế gi ới” nhấn mạnh thuộc tính “ ổn định” nh ư m ột
“chất l ượ ng riêng biệt, căn bản” của trật t ự. Tuy nhiên, không nên coi bất c ứ m ột
trật t ự nào là một khuôn mẫu c ứng nhắc hay ở trạng thái “t ĩnh” mà ng ược l ại đó
là một quá trình vận động để đi đến hoàn thiện, có kh ởi đầu, thay đổi và k ết
thúc. Th ực tiễn lịch s ử cho thấy, tính ổn định trong trật t ự th ế gi ới đượ c th ể hiện
qua tính có thể đoán tr ướ c (predictability) và tính h ợp lệ/chính đáng (legitimacy).


Nh ư đã phân tích ở trên, trật t ự quốc tế hiện đại đượ c xây d ựng trên h ệ th ống
quốc gia-dân tộc – nh ững chủ thể chính có chủ quyền cùng nhau tồn t ại và cùng
nhau xây d ựng, công nhận nh ững lu ật ch ơi chung nh ư nguyên t ắc t ổ ch ức, v ận
hành trật t ự, các tiêu chuẩn về hành vi điều chỉnh các m ối quan h ệ, t ương tác
gi ữa các chủ thể này v ới nhau. Luật ch ơi là sản phẩm của quá trình t ương tác
gi ữa các chủ thể nh ưng bản thân luật ch ơi khi đã ra đời s ẽ có nh ững động l ực
riêng và s ức sống riêng của nó, cho phép nó chi ph ối ng ược tr ở l ại ( ở các m ức
độ khác nhau) hành vi của các chủ thể trong trật t ự. Chính nh ững lu ật ch ơi này

tạo nên một môi tr ườ ng ổn định và có thể đoán tr ước, và trong môi tr ường đó
các n ướ c có thể tồn tại bên nhau, h ợp tác v ới nhau để đạt đượ c các mục tiêu/l ợi
ích quốc gia, khu v ực, và toàn cầu; cùng nhau giải quyết các bất đồng, tranh
chấp một cách hoà bình thông qua các nỗ l ực song ph ương, đa ph ương, lu ật
pháp quốc tế, thể chế hay s ự phán xét, trọng tài, can thi ệp của các n ước l ớn;
hay tạo nên nh ững thay đổi trong bản thân tr ật t ự hay t ừ tr ật t ự này sang tr ật t ự
khác mà không s ử dụng đến chiến tranh, vũ l ực. Nói nh ư vậy không có ngh ĩa là
không có chiến tranh, xung đột, vũ l ực trong m ột trật t ự cụ th ể; mục tiêu của tr ật
t ự là s ử dụng vũ l ực trong tr ườ ng h ợp cần thiết để đảm bảo s ự tuân thủ lu ật
ch ơi và tr ừng phạt nh ững hành động vi phạm, đồng th ời hạn chế và quản lý việc
s ử dụng chiến tranh, xung đột để giải quyết bất đồng, tranh chấp gi ữa các qu ốc
gia thông qua các thể chế đa ph ươ ng và các yếu t ố có tính ch ất điều chỉnh nh ư
chính trị, ngoại giao, luật pháp, kinh tế, văn hoá.[20] Nh ư v ậy, tr ật t ự là m ột
“quang phổ” ổn định trong đó m ức độ ổn định của trật t ự có thể biến thiên t ừ mất
ổn định hoàn toàn đến ổn định tuyệt đối.
Bên cạnh việc tạo nên tính có thể d ự báo/đoán tr ước, luật ch ơi còn th ể hiện tính
chính đáng/h ợp lệ của trật t ự và t ừ đó tạo nền tảng cho s ự ổn định của trật t ự.
Luật ch ơi không phải là yếu tố ngẫu nhiên, mà trái l ại là k ết qu ả của m ột quá
trình một hoặc các n ướ c l ớn có vai trò trong hệ thống cùng nhau xây d ựng, tho ả


hiệp, công nhận nh ững nguyên tắc t ổ ch ức, v ận hành tr ật t ự, các bi ện pháp ch ế
tài, các tiêu chuẩn về hành vi điều chỉnh các mối quan h ệ, t ương tác gi ữa các
chủ thể v ới nhau. Đồng th ời, s ự tồn tại của luật ch ơi cũng thể hiện s ự công
nhận/chấp nhận t ươ ng quan so sánh l ực l ượng gi ữa các n ước l ớn v ới nhau và
gi ữa các n ướ c nhỏ/yếu h ơn đối v ới các n ướ c l ớn trong hệ thống. Nh ư vậy, s ự
công nhận/chấp nhận này làm cho trật t ự có tính chính đáng/h ợp lệ, qua đó góp
phần đảm bảo s ự ổn định của trật t ự. Ch ừng nào s ự công nh ận/chấp nh ận này
không còn thì luật ch ơi sẽ bị thách th ức và phá v ỡ, thuộc tính này cũng m ất đi,
và kết cục s ự ổn định của trật t ự bị đe doạ, trật t ự cũ cần phải đượ c thay thế

bằng một trật t ự m ới để phản ánh t ươ ng quan so sánh l ực l ượ ng m ới.
2.2. Tính th ứ bậc, đẳng cấp
S ự hiện diện của các chủ thể là điều kiện tiên quyết để hình thành nên m ột tr ật
t ự, và theo khung phân tích của Thuyết Tân Hiện th ực, chủ th ể đó không ch ỉ là
các n ướ c l ớn xác lập luật ch ơi, xây d ựng hệ thống mà còn có c ả các n ước
nhỏ/yếu h ơn buộc phải tuân thủ luật ch ơi và thích nghi v ới h ệ th ống (không có
khả năng làm thay đổi hệ thống). Đồng th ời, chính sách và hành vi của các
n ướ c l ớn cũng có tác động tr ực tiếp lên chính sách và hành vi của các n ước
nhỏ/yếu h ơn. Quy luật này xuất phát t ừ quan niệm rất đặc thù của tr ường phái
Hiện th ực về t ươ ng quan so sánh quyền l ực/s ức mạnh gi ữa các qu ốc gia trong
quan hệ quốc tế.
Theo Kenneth Waltz, các yếu tố vật chất (mà sau này tr ường phái Hiện th ực xếp
vào “s ức mạnh c ứng” trong s ức mạnh tổng thể quốc gia) có ý ngh ĩa quy ết định
trong việc đánh giá tầm vóc của một n ước[21] và tiêu chí này th ường xuyên
được s ử dụng để so sánh quyền l ực/s ức mạnh gi ữa các n ước v ới nhau. Khái
niệm “s ức mạnh mềm” (yếu tố/s ức hấp dẫn phi vật chất) đượ c Joseph Nye đưa
ra năm 1990 là để giảm b ớt s ự nhấn mạnh quá m ức vào vai trò của “s ức m ạnh
c ứng” và bổ sung cho “s ức mạnh c ứng” trong s ức mạnh t ổng th ể qu ốc gia.[22]


N ướ c l ớn th ườ ng hội tụ đủ cả s ức mạnh c ứng và mềm và một số n ước nhỏ tuy
s ức mạnh c ứng hạn chế nh ưng s ở h ữu nhiều s ức mạnh mềm. Trong nh ững
năm gần đây, Joseph Nye tiếp tục phát triển khái niệm “s ức mạnh thông minh” –
t ức là ph ươ ng th ức s ử dụng cả s ức mạnh c ứng lẫn s ức mạnh mềm nhằm
chuyển hoá tiềm l ực của một quốc gia thành hiệu quả chính sách t ối ưu nh ất.
[23] V ới ý nghĩa nh ư vậy, n ướ c l ớn hay n ước nhỏ đều có th ể phát huy s ức
mạnh thông minh này để đạt đượ c mục tiêu của mình.[24] Nh ư v ậy, yếu t ố
t ươ ng quan so sánh l ực l ượ ng ngày càng xoay chuy ển nhanh và d ễ dàng h ơn
khiến thuộc tính th ứ bậc/đẳng cấp trong trật t ự cũng d ễ thay đổi h ơn. M ức độ
thay đổi đến đâu tuỳ thuộc vào khả năng thách th ức, thay đổi lu ật ch ơi của các

chủ thể cũng nh ư s ự công nhận/chấp nhận vai trò của nhau gi ữa các n ước l ớn
và gi ữa n ướ c l ớn v ới các n ướ c nhỏ/yếu h ơn. Tính th ứ b ậc/đẳng c ấp không ph ải
lúc nào cũng mang tính quan hệ một chiều mà còn th ể hi ện s ự độc l ập t ương
đối của các n ước nhỏ/yếu h ơn vì bản thân các n ước này cũng có th ể chủ động
phát huy s ức mạnh thông minh bằng nh ững chính sách khôn ngoan c ủa mình
(l ợi dụng mâu thuẫn các n ướ c l ớn, cân b ằng l ực l ượng (balancing) ho ặc phù
thịnh (bandwagoning)) và các n ướ c l ớn không chỉ coi các n ước nh ỏ/y ếu h ơn là
đối t ượng áp đặt, tr ừng phạt mà còn là đối t ượng cần tranh thủ, lôi kéo, t ập h ợp
đồng minh.[25]
2.3. Tính khả biến
Trật t ự mang thuộc tính ổn định nh ưng bản thân nó là một quá trình v ận động để
đạt đến s ự hoàn thiện. Theo tr ường phái Hiện th ực và chủ ngh ĩa Mác-Lênin,
thuộc tính “khả biến” của trật t ự đượ c đánh giá t ừ góc độ chủ thể (hay còn g ọi là
“c ực”) h ơn là mục tiêu, ph ươ ng th ức hay công cụ của tr ật t ự, t ức là s ự thay đổi
số l ượ ng n ướ c l ớn có vai trò trong trật t ự sẽ dẫn đến s ự thay đổi về luật ch ơi và
mô hình trật t ự. S ự thay đổi về số l ượ ng chủ th ể chi ph ối di ễn ra khi có s ự thay
đổi về t ương quan s ức mạnh/quyền l ực, và luật ch ơi m ới cùng trật t ự m ới


th ườ ng đượ c xác lập nh ư là kết quả của một cuộc chiến tranh “hệ thống” và một
quá trình tranh giành quyền l ực, l ợi ích trong quan hệ qu ốc tế.
Tuy không tr ực tiếp s ử dụng khái niệm “trật t ự” làm khung phân tích nh ưng ch ủ
nghĩa Mác – Lênin có ảnh h ưở ng l ớn đến cách tiếp cận của các lý thuyết quan
hệ quốc tế, đặc biệt là tr ườ ng phái Hiện th ực, khi bàn về khả năng, quy luật thay
đổi của trật t ự quốc tế thông qua việc nhấn mạnh tác động của ph ương th ức
sản xuất và hình thái kinh tế – xã hội đối v ới quan h ệ qu ốc t ế, là n ội dung c ấu
thành và quyết định tính chất của th ời đại.[26] Trong tác phẩm “Chủ ngh ĩa đế
quốc, giai đoạn tột cùng của chủ ngh ĩa t ư bản” xuất bản năm 1916, Lê-nin đã
chỉ ra quy luật “tuyệt đối” về phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị
(cùng v ới quy luật giá trị thặng d ư) của CNTB, và khi CNTB b ước vào giai đoạn

phát triển tột cùng là chủ ngh ĩa đế quốc, chiến tranh là gi ải pháp duy nh ất để
sắp xếp, tổ ch ức lại trật t ự và luật ch ơi gi ữa các n ước TBCN.[27] Nói r ộng ra,
theo quy luật này, t ươ ng quan so sánh l ực l ượng gi ữa các n ước l ớn sau một
th ời gian nhất định sẽ có s ự thay đổi v ới một bên là s ự suy gi ảm s ức m ạnh
t ươ ng đối của nh ững n ướ c l ớn phát triển trì trệ, th ực hiện chính sách đối ngo ại
không hiệu quả và tiêu tốn nhiều vào việc duy trì trật t ự và lu ật ch ơi, và bên kia
là nh ững n ướ c l ớn “cũ” hoặc “m ới” nổi lên có s ự phát tri ển năng động, hi ệu qu ả
h ơn, cùng chính sách nhiều tham vọng h ơn. Nh ững thế l ực mạnh lên này coi
trật t ự và luật ch ơi hiện hành là không công b ằng và c ản tr ở nh ững tham v ọng,
l ợi ích của mình (ví dụ trong quá trình cạnh tranh, giành giật tài nguyên, th ị
tr ườ ng, thuộc địa vì l ợi nhuận của các n ước TBCN). Vì vậy, chiến tranh mang
tính chất hệ thống là không thể tránh khỏi gi ữa một bên mu ốn duy trì tr ật t ự c ũ
và một bên muốn thách th ức, phá v ỡ nó để thay th ế b ằng m ột tr ật t ự m ới có l ợi
h ơn và phản ánh đúng h ơn t ương quan so sánh l ực l ượng m ới trong h ệ th ống
quốc tế.[28] Đây cũng chính là một trong nh ững mạch lập luận chính của các
nhà Hiện th ực chủ nghĩa về tính khả biến của trật t ự.


Dựa trên những lập luận của Hedley Bull, Barry Buzan và Andrew Hurrell thu ộc
Tr ườ ng phái Anh, và Alexander Wendt thuộc chủ ngh ĩa Kiến tạo Xã h ội (Social
Constructivism), Muthiah Alagappa đưa ra một cách tiếp cận m ới thiên v ề “ch ất
l ượ ng” thay vì “số l ượ ng” (chủ thể) của tr ật t ự. Tr ường phái này cho r ằng tr ật t ự
cũng mang tính “động” và s ự thay đổi của trật t ự xuất phát t ừ s ự thay đổi
nguyên tắc tổ ch ức và vận hành của hệ thống quốc tế, s ự phân b ổ quy ền
l ực/s ức mạnh, và nh ững động l ực của môi tr ường chính trị quốc tế (do các y ếu
tố vật chất và phi vật chất tác động).[29]
Tính chất “động” hay “khả biến” này thể hiện qua hai ph ương di ện: thay đổi
trong bản thân một mô hình trật t ự và thay đổi t ừ m ột mô hình tr ật t ự này sang
một mô hình trật t ự khác.[30] Thay đổi trong bản thân m ột tr ật t ự x ảy ra khi
nh ững nguyên tắc c ơ bản của mô hình tr ật t ự đó v ẫn phù h ợp nh ưng bi ểu hi ện

của chúng thay đổi. Ví dụ s ự thay đổi t ương quan so sánh l ực l ượng t ừ bá
quyền đơn c ực sang hai c ực hay đa c ực và ng ược lại chỉ là s ự thay đổi trong
một mô hình trật t ự vì nguyên tắc d ựa trên s ức m ạnh/quy ền l ực c ủa tr ật t ự đó
vẫn không thay đổi. Đánh giá nh ững thay đổi về s ự phân b ổ s ức m ạnh và l ợi ích
của các n ướ c l ớn là rất cần thiết để giải thích tính “khả biến” của tr ật t ự nh ưng
theo Muthiah Alagappa nh ững thay đổi đó không làm thay đổi “n ội dung” hay
tính chất của trật t ự vì nguồn gốc sâu xa của l ợi ích vật ch ất là nh ững giá tr ị phi
vật chất (value/idea) tạo nên bản sắc chính trị, kinh tế của các n ước l ớn. S ức
mạnh vật chất là cần thiết để giải quyết các bất đồng về l ợi ích nh ưng một trật t ự
tồn tại chủ yếu d ựa trên nguyên tắc giải quyết bằng s ức m ạnh/vũ l ực nh ư th ế
luôn ch ứa đựng mâu thuẫn chồng chất và không có độ ổn định/b ền v ững cao.
Để duy trì độ bền v ững cao và vận hành suôn sẻ, trật t ự ph ải được xây d ựng
d ựa trên s ự đồng nhất về t ư t ưở ng/ý th ức hệ và thế gi ới quan gi ữa các chủ th ể
chính có vai trò trong trật t ự cũng nh ư gi ữa các n ước l ớn và các n ước nh ỏ/y ếu
h ơn. Các n ướ c l ớn cũng chịu trách nhiệm chính xây d ựng các giá trị và th ể ch ế,


đồng th ời lôi kéo s ự chấp nhận, tham gia của các n ước khác trong hệ th ống.
Tóm lại, s ự thay đổi về phân bổ s ức mạnh và l ợi ích của các n ước l ớn s ẽ t ạo ra
nh ững thay đổi nhanh chóng h ơn về số l ượng chủ thể nh ưng bản chất tr ật t ự
(luật ch ơi, giá trị, t ư t ưở ng) sẽ thay đổi chậm h ơn và diễn ra một cách t ừ t ừ.
Theo Muthiah Alagappa, trật t ự chỉ thay đổi t ừ m ột mô hình này sang m ột mô
hình khác khi có s ự thay đổi căn bản của nh ững y ếu t ố c ấu thành nên tr ật t ự
gồm mục tiêu, ph ươ ng th ức và công cụ (bên cạnh yếu tố chủ th ể đã phân tích ở
trên).[31] D ựa trên 3 yếu tố này, trật t ự đượ c chia làm 3 lo ại: tr ật t ự mang tính
chỉ định, áp đặt (instrumental); trật t ự mang tính quy t ắc-khế ướ c (normativecontractual); và trật t ự mang tính đoàn kết, cộng đồng (solidarist). Trật t ự mang
tính chỉ định, áp đặt mang t ư t ưở ng “Hiện th ực” và h ướng đến nh ững mục tiêu
riêng của t ừng n ướ c; bản sắc, s ức mạnh và l ợi ích quốc gia là nh ững m ối quan
tâm hang đầu; tính gắn kết, h ợp tác gi ữa các chủ thể thấp; lu ật ch ơi đượ c t ạo ra
nhằm tạo thuận l ợi cho việc các n ướ c chung sống v ới nhau và h ạn ch ế nh ững

rủi ro, hậu quả tiêu c ực. Vì vậy, đây là mô hình trật t ự thông qua quy ền l ực và
cạnh tranh (power and competition). Trật t ự mang tính quy t ắc-kh ế ướ c h ướng
đến nh ững mục tiêu riêng và chung của các n ước thông qua các quy t ắc h ợp
tác; các n ướ c tuy h ợp tác v ới nhau trong các thể chế và cùng tuân th ủ các
khung quy tắc nh ưng l ợi ích quốc gia vẫn là ưu tiên hang đầu. Vì v ậy, mô hình
này còn được gọi là trật t ự thông qua h ợp tác (cooperation). Trật t ự mang tính
đoàn kết, cộng đồng d ựa trên s ự tin cậy lẫn nhau gi ữa các chủ th ể, ngh ĩa vụ đối
v ới cộng đồng, và th ượ ng tôn luật lệ, quy tắc; b ản s ắc, mục tiêu của c ộng đồng
đứng trên và định hình bản sắc, l ợi ích của t ừng qu ốc gia thành viên. Mô hình
này đượ c gọi là trật t ự thông qua s ự chuyển hoá (transformation). Nh ư v ậy, khi
mục tiêu, ph ươ ng th ức và công cụ của trật t ự thay đổi thì sẽ có s ự chuy ển dịch
giữa 3 loại mô hình trật t ự nói trên.[32]
Bài viết này cho rằng hệ thống quan hệ quốc tế hi ện nay c ơ b ản v ẫn mang b ản


chất của thế gi ới “Hiện th ực” và mô hình trật t ự chỉ định, áp đặt có s ự pha tr ộn
v ới một số yếu tố của hai mô hình trật t ự kia. Xu h ướng phát triển trong quan h ệ
quốc tế hiện nay cho thấy mong muốn chung của thế gi ới là h ướng t ới mô hình
2 và cuối cùng là mô hình 3, và nh ững dấu hiệu manh nha của hai mô hình này
(đặc biệt là mô hình 3) đã xuất hiện nh ưng không đồng đều và chi phối, bao phủ
toàn bộ thế gi ới. Mô hình 2 và 3 có biểu hiện rõ nét h ơn và phù h ợp h ơn ở c ấp
độ h ợp tác khu v ực (ví dụ nh ư nỗ l ực xây d ựng cộng đồng ở châu Âu và Đông
Nam Á).
3. Các tiêu chí chủ yếu để xác định trật t ự thế gi ới
3.1. Chủ thể chính
Xác định các chủ thể chính trong hệ thống quan hệ qu ốc tế trong m ột giai đoạn
lịch s ử nhất định là một tiêu chí c ơ bản để nhận dạng và đánh giá b ản ch ất của
trật t ự thế gi ới. Các tr ườ ng phái nghiên c ứu l ớn c ơ bản có s ự nhất trí v ới chủ
nghĩa Hiện th ực về vai trò chủ đạo của các quốc gia – dân tộc nói chung và các
n ướ c l ớn nói riêng trong hệ thống, và không tồn tại một chính phủ/nhà n ước

siêu quốc gia nào đứng trên chủ quyền của các quốc gia. Chính sách c ủa các
n ướ c l ớn cũng nh ư mối quan hệ t ươ ng tác gi ữa các n ước l ớn v ới nhau ở t ừng
khu v ực và trên toàn thế gi ới có ảnh h ưở ng mang tính quyết định đến “hình thù”,
tính chất của trật t ự và buộc nh ững n ướ c nhỏ/yếu h ơn phải điều chỉnh, thích
nghi v ới “luật ch ơi” để tìm một chỗ đứng ít bất l ợi nhất trong tr ật t ự. Th ực ti ễn
lịch s ử cho đến nay vẫn ch ứng minh luận điểm đó c ơ bản còn phù h ợp và là
kiểu t ư duy phổ biến của các nhà hoạch định chính sách cũng nh ư các h ọc gi ả
ở nhiều n ước khi đánh giá trật t ự thế gi ới theo khái niệm “c ực” bất luận m ặt đấu
tranh hay mặt h ợp tác là hiện t ượ ng nổi trội.
Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hoá di ễn ra m ạnh mẽ, sâu r ộng t ạo nên
nh ững thay đổi l ớn trong quan hệ quốc tế, nhiều ý ki ến ph ản bi ện t ừ sau Chi ến
tranh lạnh cho rằng kiểu t ư duy truyền thống nói trên quá nh ấn m ạnh đến vai trò


của quốc gia và coi l ợi ích của quốc gia là tối th ượng trong quan h ệ qu ốc t ế, vì
vậy đã gián tiếp phủ nhận tầm quan trọng ngày càng tăng c ủa các ch ủ th ể phi
quốc gia-phi nhà n ướ c nh ư các tổ ch ức quốc tế liên chính ph ủ, các công ty
xuyên quốc gia, các tổ ch ức phi chính phủ, các tôn giáo, v.v… Đặc bi ệt ở châu
Âu, tiến trình nhất thể hóa theo mô hình “cộng đồng” đã đạt đượ c nhi ều ti ến b ộ
đáng kể và Liên minh châu Âu (EU) t ừ thập kỷ 1970 đến nay đã tr ở thành m ột
chủ thể có tiếng nói và ảnh h ưở ng ngày càng quan trọng trong quan h ệ qu ốc t ế.
Tuy nhiên điều đó không có ngh ĩa là vai trò của các quốc gia giảm đi. M ột thế kỷ
tr ướ c đây nhiều ng ườ i đã t ừng lầm t ưở ng rằng nh ững ý t ưởng m ới nh ư chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa cộng sản m ới là dòng chính trong
quan hệ quốc tế ch ứ không phải chủ ngh ĩa dân tộc, nh ưng trên th ực t ế chủ
nghĩa dân tộc vẫn có vai trò hết s ức quan trọng. Ngày nay, các chủ th ể phi nhà
n ướ c đưa ra ý t ưở ng, nh ưng chính phủ của các quốc gia m ới là “ng ười” bện các
ý t ưở ng này cùng v ới các l ợi ích khác thành l ợi ích qu ốc gia. Các qu ốc gia v ẫn
là nh ững chủ thể quan trọng trong nền chính trị quốc tế và các chủ th ể phi qu ốc
gia/nhà n ướ c ở một số n ướ c đượ c xem là chủ thể “phái sinh” của chủ th ể nhà

n ướ c.[33] Th ực tế cho thấy, ảnh h ưởng của gần 200 qu ốc gia trên thế gi ới đối
v ới tình hình thế gi ới không giống nhau. Các n ước v ừa và nh ỏ đang có vai trò
ngày càng tăng trên tr ườ ng quốc tế (G20) song khó ai có th ể bác b ỏ được th ực
tế là các c ườ ng quốc có ảnh h ưởng đặc biệt đối v ới chính trị thế gi ới trong th ế
kỷ 21, đặc bi ệt là nhóm G8 và nhóm m ới n ổi BRIC (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung
Quốc).[34] Bên cạnh đó, tiến trình nhất th ể hóa châu Âu v ẫn còn m ột ch ặng
đường dài phía tr ước đầy khó khăn, đặc biệt là về chính trị và an ninh-qu ốc
phòng. EU hiện chỉ đượ c xem là một chủ thể mạnh về kinh tế và quan h ệ qu ốc
tế ở châu Âu hiện tại vẫn chịu s ự chi phối mạnh mẽ của các n ước l ớn trong và
ngoài khu vực (Mỹ).
M ới đây, t ừ góc độ chủ thể, Richard Haass đưa ra thuyết Trật t ự thế gi ới Không


c ực (Nonpolarity) nhận định s ự chấm d ứt thế đơn c ực của Mỹ không có ngh ĩa là
s ự nổi lên của một trật t ự đa c ực.[35] Trật t ự Không c ực đượ c hình thành d ựa
trên s ự suy giảm quyền l ực của chủ thể chính là các qu ốc gia dân t ộc và s ự
mạnh lên của một loạt các chủ thể phi nhà n ướ c nh ư các tổ ch ức quốc tế, các t ổ
ch ức phi chính phủ, các tập đoàn xuyên quốc gia. Cũng t ừ góc độ phân tích này,
một số quan điểm còn phản bác lại việc s ử dụng khái ni ệm “c ực” truy ền th ống
để mô tả một trật t ự thế gi ới m ới đang hình thành. Nh ững quan điểm này cho
rằng khái niệm “c ực” có nội hàm thiên về đối đầu, đấu tranh h ơn là h ợp tác, và
“c ực” có cách th ức tập h ợp l ực l ượ ng theo kiểu “xếp hàng”, nhất tuy ến (khái
niệm này đượ c Alexis de Tocqueville đưa ra đầu tiên năm 1835 để d ự báo v ề
quan hệ Nga-Mỹ và sau đó được s ử dụng rộng rãi khi trật t ự hai c ực Yalta ra đời
sau năm 1945). Trong bối cảnh thế gi ới sau Chiến tranh lạnh, khái ni ệm này
càng lộ rõ nhiều bất cập vì không phản ánh đượ c xu thế h ợp tác, đa dạng hóa,
đa ph ương hóa ngày càng nổi trội trong QHQT. Vì vậy, “c ực” c ần được thay th ế
bằng một khái niệm khác (ví dụ nh ư “trung tâm” chẳng h ạn).
Bài viết này cho rằng trong quan hệ quốc tế t ừ sau Chi ến tranh l ạnh đến nay,
các n ướ c l ớn vẫn đóng vai trò quyết định hình thành nên trật t ự th ế gi ới, m ặt

h ợp tác là xu thế nổi trội trong trục h ợp tác-đấu tranh gi ữa các n ước l ớn hi ện
nay, và cách th ức tập h ợp l ực l ượ ng của các n ướ c l ớn không còn theo ki ểu “x ếp
hàng”, nhất tuyến mà đa dạng h ơn, lỏng lẻo h ơn. Chiều h ướng phát tri ển s ức
mạnh của EU nh ư một chủ thể đặc biệt cũng đượ c phân tích, đánh giá do bài
viết lập luận rằng quan hệ quốc tế đang trong th ời kỳ quá độ v ới nh ững xu
h ướ ng, biểu hiện nổi trội làm c ơ s ở cho việc d ự báo về một trật t ự thế gi ới m ới
(mà trong đó EU có khả năng hoàn thiện s ức mạnh của mình và tr ở thành một
chủ thể siêu quốc gia “đối trọng” v ới các n ước l ớn khác) có thể định hình rõ nét
t ừ nay đến năm 2020. Vì vậy, bài viết đề xuấts ử dụng khái niệm “trung tâm” thay
cho “c ực” để nhận dạng một trật t ự thế gi ới “đa trung tâm” trong nh ững th ập kỷ


đầu của thế kỷ 21.
3.2. Phân bổ s ức mạnh gi ữa các chủ thể chính
Tiêu chí này không thể tách r ời khỏi tiêu chí chủ thể vì s ức m ạnh t ương đối hay
t ươ ng quan l ực l ượ ng gi ữa các chủ thể là c ơ s ở quan tr ọng để phân bi ệt n ước
l ớn, n ướ c trung bình, n ướ c nhỏ trong quan hệ quốc tế, so sánh ph ạm vi, m ức
độ, khả năng ảnh h ưởng, chi phối các mối quan hệ trong hệ thống gi ữa các
n ướ c l ớn v ới nhau, và đánh giá nh ững thuộc tính c ơ b ản (tính ổn định, tính th ứ
bậc và tính khả biến) của trật t ự thế gi ới. Nh ư đã phân tích ở trên, n ội hàm c ủa
khái niệm s ức mạnh tổng h ợp quốc gia ngày càng đượ c m ở r ộng bao g ồm c ả
s ức mạnh c ứng (h ữu hình), s ức mạnh mềm (vô hình) và s ức mạnh thông minh
(ph ươ ng th ức kết h ợp) ( ở Việt Nam khái niệm “thế và l ực” th ường được s ử
dụng). Do đó, việc xác định chủ thể chính/n ướ c l ớn và đánh giá phân b ổ s ức
mạnh gi ữa các chủ thể chính trong một trật t ự thế gi ới m ới đòi h ỏi một cách ti ếp
cận đa chiều, tổng h ợp và toàn diện.
3.3. Luật ch ơi (nguyên tắc tổ ch ức, vận hành tr ật t ự) và t ập h ợp l ực l ượng c ủa
các chủ thể chính
Tiêu chí này là một trong nh ững nội dung c ơ bản trong định ngh ĩa v ề “tr ật t ự”,
theo đó mọi quan hệ gi ữa các quốc gia trong trật t ự thế gi ới đều chịu s ự điều

chỉnh của nh ững luật ch ơi chung do một hoặc các n ước l ớn thiết lập nên.
Chúng có thể là các nguyên tắc, chuẩn m ực/tiêu chu ẩn ứng x ử (quy ền và ngh ĩa
vụ), luật lệ, quy trình thủ tục và luật pháp quốc tế (gồm cả các biện pháp ch ế tài,
x ử phạt). Luật ch ơi chính là biểu hiện của nh ững tiêu chu ẩn chung v ề hành vi
của các quốc gia tham gia và thể hiện nguyên t ắc t ổ ch ức, v ận hành c ủa m ột
trật t ự thế gi ới. Ví dụ nh ư trật t ự bá quyền đơn c ực đượ c xây d ựng d ựa trên s ự
mất cân x ứng về phân bổ quyền l ực, đượ c tổ ch ức theo nguyên t ắc th ứ b ậc, t ập
h ợp l ực l ượ ng theo kiểu phù thịnh d ướ i s ự dẫn d ắt, chi ph ối của m ột c ường
quốc duy nhất. Trật t ự có một số luật ch ơi c ơ bản nh ư các n ước/nh ỏ y ếu h ơn


chấp nhận (t ự nguyện hay bị ép buộc) s ự lãnh đạo của n ước bá quyền; n ước bá
quyền chịu trách nhiệm bảo đảm ổn định cho trật t ự và bảo vệ an ninh cho tất cả
các n ướ c phục tùng; tranh chấp gi ữa các n ước được phân x ử b ởi n ước bá
quyền (đơn ph ươ ng) hoặc c ơ chế do n ướ c này lập ra (đa ph ương), trong đó
kiểu hành x ử đơn ph ươ ng của n ướ c bá quyền là phổ biến; nh ững hành động vi
phạm sẽ bị x ử phạt (cây gậy) và phục tùng sẽ đượ c th ưởng (củ cà rốt).
T ừ góc độ luật ch ơi, một trật t ự thế gi ới chỉ có thể ra đời khi đáp ứng đượ c
nh ững điều kiện c ơ bản sau: (i) có hệ thống luật ch ơi rõ ràng do các chủ th ể
chính thỏa thuận/xây d ựng nên; (ii) luật ch ơi phải đượ c các chủ th ể tham gia,
đặc biệt là các chủ thể chính, th ừa nhận (t ự nguyện hay do c ưỡng ép) và cam
kết tuân thủ; (iii) hành vi của các chủ thể tham gia phải phù h ợp v ới các lu ật ch ơi
và có một biên độ dao động nhất định, s ự vi phạm th ường xuyên và v ượt quá
biên độ dao động cho phép sẽ dần vô hiệu hóa luật ch ơi; (iv) nh ững hành vi vi
phạm luật ch ơi sẽ bị x ử phạt theo các biện pháp chế tài và luật pháp qu ốc t ế, và
không loại tr ừ việc s ử dụng vũ l ực nhằm đảm b ảo việc tuân thủ lu ật ch ơi chung;
(v) luật ch ơi có thể thay đổi hoặc điều chỉnh do ý mu ốn chủ quan của các ch ủ
thể chính, do s ự thách th ức/tác động của các chủ th ể khác (các n ước nh ỏ h ơn
hay các c ườ ng quốc m ới nổi), hay do mục tiêu và l ợi ích chung của c ả hệ thống.
Th ực tế hiện nay cho thấy xu thế dân chủ hóa quan hệ qu ốc tế ngày càng m ạnh

lên v ới vai trò gia tăng của các thể chế/luật pháp qu ốc t ế và các chủ th ể nh ỏ/y ếu
h ơn cùng các chủ thể phi quốc gia đang có nh ững tác động nhất định đến quá
trình hình thành luật ch ơi trong một trật t ự thế gi ới m ới.
3.4. Ph ươ ng th ức của trật t ự
Tiêu chí này mô tả ph ương th ức đặc thù nh ằm t ổ ch ức và duy trì các quan h ệ
gi ữa các quốc gia do luật ch ơi điều chỉnh trong trật t ự. V ới cách ti ếp c ận tr ật t ự
thế gi ới theo ba mô hình (chỉ định/áp đặt, quy t ắc/khế ướ c, đoàn kết/cộng đồng),
Muthiah Alagappa cho rằng trật t ự th ườ ng đượ c đặt tên theo ph ương th ức ch ủ


đạo của trật t ự tuy bản thân ph ương th ức ch ưa phản ánh đầy đủ tính ch ất của
trật t ự đó. Chẳng hạn nh ư mô hình chỉ định/áp đặt mang b ản ch ất quy ền l ực và
cạnh tranh, và đượ c triển khai theo các ph ương th ức chính nh ư bá quy ền, cân
bằng l ực l ượ ng, hoà h ợp quyền l ực, c ơ chế quốc tế. Trong đó, ph ương th ức bá
quyền d ựa trên s ự thống trị/lãnh đạo của một c ường quốc duy nhất và khác bi ệt
v ới cân bằng l ực l ượ ng hay hoà h ợp quyền l ực về s ự phân b ổ quy ền l ực c ũng
như luật ch ơi. Hai mô hình còn lại có các ph ương th ức chính đặc thù nh ư h ợp
tác kinh tế, c ơ chế quốc tế, an ninh tập thể, nhất thể hoá v ề kinh t ế-chính trị, xây
d ựng cộng đồng…
Bài viết này tiếp cận trật t ự thế gi ới chủ yếu t ừ góc độ chủ th ể và đánh giá b ối
cảnh quan hệ quốc tế hiện nay có s ự “giao thoa” gi ữa mô hình 1 và 2 theo quan
niệm của Muthiah Alagappa. Tiêu chí này là một tham số quan trọng để đánh giá
xu thế, hình th ức quan hệ chủ đạo trong quan hệ qu ốc tế, qua đó góp ph ần
nhận dạng rõ h ơn mô hình trật t ự thế gi ới trong th ời gian t ới.
3.5. Công cụ của trật t ự
Công cụ của trật t ự giúp xây d ựng và đảm bảo th ực thi luật ch ơi của trật t ự, qua
đó duy trì ổn định của trật t ự. Công cụ của trật t ự là một bộ phận không thể tách
r ời ph ươ ng th ức của trật t ự. Theo Muthiah Alagappa, có 3 nhóm công cụ chính:
ngoại giao (mang tính chất hoà bình, phi bạo l ực); lu ật pháp qu ốc t ế; và chi ến
tranh (mang tính bạo l ực). 3 nhóm công cụ này bao g ồm r ất nhi ều các công cụ

cụ thể, đa dạng đượ c các n ướ c l ớn s ử dụng trong quá trình xoá b ỏ tr ật t ự/lu ật
ch ơi cũ, thiết lập nên trật t ự/luật ch ơi m ới và triển khai quan h ệ gi ữa các n ước
l ớn có vai trò v ới nhau cũng nh ư gi ữa các n ước l ớn v ới các n ước nh ỏ/y ếu h ơn
trong nỗ l ực tập h ợp l ực l ượ ng, thúc đẩy h ợp tác, hay giải quy ết b ất đồng, tranh
chấp nhằm phục vụ l ợi ích riêng của t ừng n ước và đảm bảo s ự v ận hành ổn
định của cả hệ thống. Việc các n ước l ớn ưu tiên s ử dụng nhóm công cụ nào nói
trên sẽ thể hiện xu thế nổi trội trong quan hệ qu ốc tế, t ương quan so sánh l ực


lượ ng gi ữa các n ướ c l ớn cũng nh ư ưu tiên chính sách của các n ước này, và
nh ững đặc tính căn bản của trật t ự, qua đó giúp xác định ph ương th ức và mô
hình trật tự.
3.6. Cấu trúc địa lý của trật t ự
Nh ư đã phân tích ở trên, thuyết Tân Hiện th ực hay còn gọi là lý thuy ết h ệ th ống
tiếp cận “trật t ự thế gi ới” t ừ góc độ chủ thể và phân b ổ quyền l ực/s ức mạnh (hay
đẳng cấp, th ứ bậc) gi ữa các chủ thể trong quan h ệ qu ốc t ế. Đây là cách ti ếp c ận
“c ực tính”, theo chiều dọc hay ph ươ ng th ẳng đứng. Tuy nhiên, ngo ại tr ừ tr ật t ự
đơn c ực, kiểu mô tả theo “c ực tính” này không th ể giải thích được m ức độ chi
phối, ảnh h ưở ng khác nhau của các c ực ở các khu v ực địa lý trên th ế gi ới, đặc
biệt trong bối cảnh quá trình khu v ực hoá đang phát tri ển mạnh m ẽ bên c ạnh
quá trình toàn cầu hoá và tác động của các khu v ực Âu, Á, Phi, Mỹ Latinh đến
s ự h ợp tác, đấu tranh của các n ướ c l ớn ngày càng rõ nét. Do đó, để đánh giá
chính xác s ức mạnh tổng thể của các n ướ c l ớn ở cấp độ phân tích “thế gi ới” còn
cần phải đánh giá, so sánh s ức mạnh, ảnh h ưởng của t ừng n ước ở t ừng khu
v ực địa lý cụ thể trên thế gi ới (hay còn gọi là “tầm v ới địa lý”). Đây là cách ti ếp
cận “v ực tính”, theo chiều ngang đượ c các học giả đưa ra sau Chiến tranh l ạnh
để bổ sung cho cách tiếp cận theo chiều dọc vốn được chấp nhận rộng rãi t ừ
lâu trên th ực tế.[36]
T ừ đầu nh ững năm 1990, Barry Buzan đã đưa ra khái ni ệm “t ổ h ợp an ninh”
(security complex) để xem xét quan hệ gi ữa các n ước theo chiều ngang (gi ữa

các tổ h ợp v ới nhau) và theo chiều dọc (gi ữa t ổ h ợp thấp h ơn và cao h ơn) theo
t ươ ng quan đơn vị-hệ thống trong lý thuyết hệ th ống. Trong b ối c ảnh tùy thu ộc
lẫn nhau về an ninh ngày càng tăng, các ti ểu h ệ th ống an ninh khu v ực c ần
được nghiên c ứu chủ yếu qua các kiểu quan hệ h ữu nghị và thù địch (lịch s ử)
trong một phạm vi địa lý nhất định. Quan hệ h ữu nghị hay thù địch có th ể liên
quan đến tranh chấp biên gi ới, lãnh thổ, l ợi ích, nhận th ức v ề m ối đe d ọa, liên


kết về ý th ức hệ, các mối liên hệ lịch s ử (tích c ực và tiêu c ực) lâu đời. Theo
Barry Buzan, tổ h ợp an ninh là sản phẩm của môi tr ường quốc t ế vô chính ph ủ
và đượ c định nghĩa là “một nhóm quốc gia có nh ững quan niệm và lo ngại v ề an
ninh gắn kết chặt chẽ v ới nhau đến m ức việc phân tích các v ấn đề an ninh qu ốc
gia của t ừng n ướ c không thể tách r ời nhau đượ c”. T ổ h ợp an ninh chính là
nh ững mối quan hệ láng giềng chặt chẽ và có th ể bị can thiệp, tác động t ừ
nh ững n ướ c l ớn h ơn ở bên ngoài do s ự mất cân x ứng về s ức mạnh. Theo quan
điểm này, đa số các n ước nhỏ/yếu ít có tác động đối v ới cấu trúc của t ổ h ợp an
ninh và dù cho tổ h ợp đó đượ c sắp xếp có tôn ti, tr ật t ự hay không thì an ninh
của các n ướ c này luôn bị chi phối b ởi cấu trúc quyền l ực gi ữa các n ước l ớn
hơn.
Trong mạch lập luận này, Vũ Hồng Lâm đã chỉ ra khiếm khuyết l ớn nhất của các
công th ức theo “c ực tính” mô tả cấu trúc quyền l ực của th ế gi ới đương đại (nh ư
“đơn c ực”, “đa c ực”, “nhất siêu đa c ườ ng”) là việc bỏ qua chi ều “n ằm ngang”
(v ực tính) khi phân tích s ức mạnh, quyền l ực địa chính trị của các n ước l ớn.
Thông qua tập trung đánh giá s ức mạnh, ảnh h ưởng của các n ước l ớn có vai
trò quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế hiện nay ở châu Âu và châu Á, Vũ
Hồng Lâm kết luận rằng sẽ không có một tr ật t ự thế gi ới th ống nh ất trên ph ạm vi
toàn cầu mà sẽ là một s ự đa v ực hoá của trật t ự thế gi ới, và tr ật t ự th ế gi ới m ới
sẽ là một trật t ự đơn c ực và đa v ực (trong đó biểu hiện ở châu Á là l ưỡng c ực).
Nh ư vậy, s ự thể hiện của trật t ự thế gi ới là không đồng nhất ở các khu v ực trên
thế gi ới. Điều này là h ợp lý và tính chất “đa v ực” sẽ có tác động tri ệt tiêu đối v ới

tính chất “đơn c ực” của trật t ự./.
——Nguồn: Nghiên c ứu quốc tế, Số 85 (06-2011).
[1] Vụ Chính sách Đối ngoại, Bộ Ngoại giao. Các quan điểm trong bài vi ết này là
của cá nhân tác giả và không nhất thiết phản ánh quan đi ểm của n ơi tác gi ả


×