Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bàn về phương pháp “tích hợp” trong dạy học môn lịch sử ở trường THCS – một xu hướng dạy học có tính khoa học và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.97 KB, 19 trang )

Bàn về phương pháp “tích hợp” trong dạy học môn Lịch sử ở
trường THCS – một xu hướng dạy học có tính khoa học và thực tiễn
Thái Nguyễn Đức Minh
Quân

Đặt vấn đề:
Quan điểm dạy học tích hợp là một định hướng trong đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục, là một bước chuyển từ cách tiếp cận nội dung giáo dục sang tiếp cận năng lực
nhằm đào tạo con người có tri thức mới, năng động, sáng tạo khi giải quyết các vấn đề
trong thực tiễn cuộc sống. “Tích hợp” chính là tiến trình tư duy và nhận thức của con
người, nó chi phối và quyết định thực tiễn hoạt động của con người. Lý thuyết tích

hợp từ lâu đã được ứng dụng vào trong giáo dục và đã trở thành xu thế phát
triển chương trình giáo dục phổ thông ở nhiều nước trên thế giới.

1. Lý luận về “tích hợp” trong giáo dục
Từ “tích hợp” (tiếng Anh là integrated, tiếng Pháp là intégré; tiếng Nga
là интегрированная),

xuất

phát

từ

chữ

latinh integer co

nghĩa




"tập hợp, tích cóp ,nhóm gọn một hoặc nhiều các phần tử riêng lẻ vào cùng một diện
tích". Theo từ điển tiếng Việt, “Tích hợp” là sự hợp nhất, sự hòa nhận, sự kết hợp [1].
Tư tưởng “tích hợp” trong giáo dục được thể hiện ở việc xây dựng chương trình dạy
học và được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống các kiến thức trong một
môn học hoặc giữa các môn học thành một nội dung thống nhất. Trên thế giới, tư
tưởng tích hợp giáo dục xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX và đã được áp dụng
rộng rãi. Các nhà nghiên cứu như X. Roegiers, d’Hainaut, Clark, Drake và Burn…
đưa ra những quan điểm khác nhau về dạy học tích hợp. Theo X. Roegiers, “tích hợp
là sự hình thành ở học sinh những năng lực cụ thể có dự tính trước những điều kiện
cần thiết trong quá trình học tập, nhằm phục vụ cho quá trình học tập sau này của học
sinh hoặc hoà nhập HS vào cuộc sống lao động”[2]. Clark cũng định nghĩa: “Tích
hợp” là cách tư duy trong đó các mối liên kết được tìm kiếm, do vậy, tích hợp làm cho
việc học chân chính xảy ra. Đối với môn học, các tác giả trên đề ra 4 quan điểm tích


hợp là: đơn môn, đa môn, liên môn và xuyên môn[3]. Về sau để dễ thuận tiện cho các
giáo viên trong việc tiến hành dạy học các môn học, Drake và Burn (2004)[4] đã đề
xuất các định hướng giáo dục tích hợp bao gồm:
1) Tích hợp đa môn (Multidisciplinary Integration);
2) Tích hợp liên môn: (Interdisciplinary Integration);
3) Tích hợp xuyên môn (Transdisciplinary Integration).
Ở mức độ cao có thể tích hợp các môn vật lí, hóa học, sinh học thành môn khoa
học tự nhiên, hoặc tích hợp các môn lịch sử, văn học, địa lí thành môn khoa học xã hội
nhân văn. Những môn tích hợp này là môn mới chứ không phải chỉ là việc ghép các môn
riêng rẽ với nhau, không có sự tách rời, độc lập giữa các lĩnh vực trong một môn tích hợp.
Ở mức độ vừa, các môn gần nhau được ghép trong một môn chung nhưng vẫn giữ
vị trí độc lập và chỉ tích hợp ở các phần trùng nhau.
Ở Việt Nam, từ những năm 1987, việc nghiên cứu và xây dựng chương trình của

các môn học theo hướng tích hợp đã được các nhà nghiên cứu như Trần Bá Hoành,
Nghiêm Đình Vỳ chú ý. Theo những nhà nghiên cứu này, “tích hợp” chính là lồng ghép
các nội dung của các môn khác (hơn nữa là nội dung thực tiễn) vào việc dạy học các môn
học. Vào những năm 90 của thế kỷ XX, việc đưa nội dung (của nhiều môn học) vào xây
dựng môn tự nhiên-xã hội theo quan điểm tích hợp đã được thực hiện và đã được thiết kế
đưa vào dạy học từ lớp 1 đến lớp 5. Chương trình ở cấp trung học chủ yếu thực hiện tích
hợp ở mức thấp, chưa đặt nặng vấn đề dạy học tích hợp ở trung học. Mặc dù còn gặp phải
nhiều khó khăn trước mắt[5], tuy vậy, ngày càng có nhiều nội dung GD được tích hợp
vào nội dung một số môn học ở trung học (dân số, môi trường, phòng chống HIV/AIDS,
chống các tệ nạn xã hội, giáo dục pháp luật, an toàn giao thông...) bằng phương thức lồng
ghép. Việc dạy học các nội dung này bước đầu đã làm cho GV có một số kinh nghiệm
thực tiễn về tích hợp, học sinh thêm hứng thú với bài học mà giáo viên giảng dạy, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện dạy học tích hợp trong chương trình và sách giáo
khoa mới sau 2015.
Thực tiễn trong những thập niên 90 cho đến nay, việc dạy học của chúng ta vẫn
mang tính “hàn lâm, lý thuyết”. Đặc điểm cơ bản đó là chú trọng việc truyền thụ hệ thống


tri thức khoa học đã được quy định trong chương trình nhưng chưa chú trọng đầy đủ đến
chủ thể người học cũng như đến khả năng ứng dụng tri thức đã học trong những tình
huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học trong chương trình được đưa ra một cách chung chung
và đại khái lược, không chi tiết; việc quản lý giáo dục học sinh chỉ giới hạn trong phần
nội dung dạy học mà quên đi việc ứng dung những cái đã học của người học vào thực
tiễn. Với quan điểm như trên, hệ quả tất yếu sẽ đến đó là tri thức của người học sẽ nhanh
chóng bị lạc hậu vì nội dung dạy học được quy định một cách chi tiết và cứng nhắc trong
chương trình; nội dung kiếm tra đánh giá học sinh chỉ dừng lại ở việc tái hiện kiến thức
mà không định hướng vào khả năng vận dụng tri thức trong tình huống thực tiễn vì vậy
sản phẩm đào tạo là những con người mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và
năng động, sản phẩm của giáo dục không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội
và thị trường lao động.

Trong những năm gần đây, với sự phát triển như vũ bão của lượng kiến thức mới
do khoa học – công nghệ, sự bùng nổ thông tin mang lại, đồng thời là do yêu cầu cần giải
quyết các tình huống trong cuộc sống do xã hội đặt ra, vấn đề “tích hợp” trong dạy học
được đặt lên hàng đầu và được xem là một định hướng mang tính đột phát để đổi mới căn
bản và toàn diện về nội dung và phương pháp giáo dục.
Dạy học tích hợp (hay dạy học theo chủ đề) là cách tiếp cận giảng dạy liên ngành
theo đó các nội dung giảng dạy được trình bày theo các đề tài hoặc chủ đề. Mỗi đề tài
hoặc chủ đề được trình bày thành nhiều bài học nhỏ mà trong đó, mỗi bài học sẽ được
thiết kế theo kiểu tích hợp kiến thức từ nhiều ngành học mà qua đó, người học sẽ có thời
gian đọc và tìm hiểu rõ vấn đề được đặt ra trong bài, đồng thời phát triển các mối liên hệ
với những gì mà người học đã biết. Với cách học theo phương pháp mới này, người học
có điều kiện tìm hiểu sâu về các chủ đề, tìm đọc tài liệu từ nhiều nguồn và tham gia vào
nhiều hoạt động khác nhau; qua đó kích thích khả năng tìm tòi và tư duy tích cực và sâu
hơn so với cách học truyền thống với chỉ một nguồn tài liệu duy nhất. Kết quả là người
học sẽ hiểu rõ hơn và cảm thấy tự tin hơn trong việc học của mình. Không đơn thuần
được hiểu là sự kết hợp đơn giản giữa lý thuyết và thực hành trong một tiết/buổi dạy, phía
sau quan điểm về “phương pháp dạy học tích hợp” là cả một triết lý giáo dục, phản ánh
mục tiêu của dạy học – đó là hướng đến việc đào tạo ra những con người với những năng


lực cụ thể để giải quyết những vấn đề trong thực tiễn cuộc sống một cách sáng tạo. Tuy
nhiên để làm được việc này, đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị công phu về bài giảng,
cách tổ chức tiết giảng hợp lý và khoa học; nhằm phù hợp với hai đặc điểm chính của
“tích hợp” trong dạy học là: lấy người học làm trung tâm (giống với dạy học tích cực) và
người dạy phải dạy cho người học các “năng lực thực hiện” (nội lực, ngoại lực) – một
trong những yếu tố góp phần tạo sự thành công cho tiết dạy của giáo viên.
Và thực chất, dạy học tích hợp là vửa dạy nội dung lý thuyết và thực hành trong
cùng một bài dạy, nhưng sẽ nhấn mạnh nội dung thực hành hơn là lý thuyết – lý thuyết là
công cụ bổ trợ cho thực hành. Nếu quan sát thì ta sẽ thấy, hai khái niệm dạy học tích
hợp và dạy học tích cực cùng giống nhau ở chỗ lấy người học làm trung tâm, người dạy

có nhiệm vụ định hướng và kích thích hoạt động tư duy sáng tạo của người học; nhưng
hai khái niệm này khác ở chỗ: dạy học tích cực chỉ dừng lại ở việc giáo viên định hướng
học sinh (người học) phát huy tính tích cực, sáng tạo trong việc vận dụng kiến thức dưới
sự hướng dẫn của giáo viên thì trong dạy học tích hợp, giáo viên sẽ chọn kiến thức cơ bản
và kiến thức này ít nhiều có sự huy động kiến thức liên ngành trong học tập, hơn nữa kiến
thức này có liên quan nhiều đến thực tiễn, “gắn” với thực tiễn, để giúp người học làm
việc tốt hơn. Để làm được điều này, đòi hỏi giáo viên phải biết kiến thức của nhiều môn
và tích hợp vào kiến thức cụ thể sao cho phù hợp, phải cố gắng nhiều hơn nữa để cho ra
một bài dạy ưng ý. Ở hai phương pháp này, thầy – trò sẽ cùng làm việc nhưng thầy sẽ là
người định hướng, chọn lựa kiến thức và hệ thống câu hỏi phù hợp với bài giảng, để kích
thích tư duy học tập của học sinh. Học sinh sẽ làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên
để tiếp thu và lĩnh hội tri thức, vận dụng vào cuộc sống thường ngày qua việc tự đặt ra
các vấn đề, giải quyết các vấn đề thường gặp trong đời sống.

Vậy để dạy học bộ môn xã hội (cụ thể là môn Sử) theo hướng tích hợp, người
giáo viên cần chú ý những yêu cầu sau:
- Tích hợp đồng bộ tất cả các khâu trong quá trình dạy học. Đối với môn
lịch sử, khâu kiểm tra bài cũ luôn quan trọng. Giáo viên sẽ đặt những câu hỏi mang
tính tích hợp buộc học sinh phải trả lời, qua đó đánh giá được tình hình học tập, cũng
như trình độ tư duy của học sinh. Khi vào bài mới, giáo viên có thể khơi gợi sự chú ý


của các em bằng các câu hỏi nêu vấn đề, bài tập nhỏ liên quan đến nội dung cần học
để kích thích trí tò mò và tạo tâm thế đón chờ bài học cho các em. Do các bài trong
phần lịch sử thế giới, lịch sử Việt Nam…được biên soạn theo hướng tích hợp kiến
thức một cách cao độ nên trong quá trình dạy học, giáo viên nên chọn lựa nội dung
tích hợp hợp lí, làm rõ vấn đề đang dạy trong khuôn khổ thời lượng cho phép, phù hợp
với trình độ của học sinh và tầm hiểu biết của học sinh. Trong khi dạy bài mới, giáo
viên cần liên hệ kiến thức ở bài học trước để ứng dụng vào bài học, tích hợp theo trục
dọc giúp HS hồi cố, nhớ lại những kiến thức tu từ đã học, tạo điều kiện cho việc hình

thành tri thức mới.
- Kết hợp hài hòa hai hướng tích hợp. Trong dạy học tích hợp sẽ có 2 hướng
tích hợp chính là tích hợp ngang (tích hợp liên môn) và tích hợp dọc (tích hợp nội bộ),
mỗi loại có một đặc trưng và mang lại một hiệu quả riêng [6] đối với quá trình dạy học.
Và ta luôn quan niệm, bài học hôm nay là một sự kế thừa, phát triển những bài học
trước đó, đồng thời lại tạo điều kiện cho những bài học tiếp theo. Nhờ vậy, HS sẽ nắm
kiến thức một cách có hệ thống. Tùy thuộc vào từng nội dung dạy học và hai hướng
tích hợp này luôn đi liền với nhau mà GV phải lựa chọn và vận dụng phương hướng
tích hợp cho hợp lý, việc đó sẽ giúp nội dung bài giảng của giáo viên được nổi bật lên,
đồng thời giúp HS hoạt động tích cực hơn, liên tục vận dụng, củng cố kiến thức đã
học.
- Chú trọng hệ thống câu hỏi vận dụng kiến thức tổng hợp, liên
ngành. Thực vậy, hệ thống câu hỏi có vai trò quan trọng đối với việc lĩnh hội kiến
thức và rèn luyện kĩ năng cho HS. Mỗi câu hỏi đặt ra một yêu cầu, một nhiệm vụ cụ
thể buộc HS phải tìm hiểu SGK, tài liệu tham khảo, vận dụng kiến thức, suy nghĩ và
tìm câu trả lời. Để sử dụng hệ thống câu hỏi một cách hợp lý, giáo viên cần biết lựa
chọn nội dung, phương pháp và lượng kiến thức phù hợp để đặt ra trong mỗi câu hỏi.
Nghệ thuật đặt câu hỏi là điều hết sức quan trọng để phát huy hiệu quả dạy học. Câu
hỏi tích hợp phải mang tính vừa sức đối với HS, tạo được sự hứng thú về nhận thức,
kích thích sự tìm tòi sáng tạo của HS, đồng thời phải sắp xếp theo một trình tự hợp lí,


phù hợp với logic bài học và logic nhận thức của người học. Đây không phải là một
công việc dễ dàng, nó đòi hỏi năng lực sư phạm và trình độ chuyên môn của GV.
- Kết hợp đồng bộ với định hướng giao tiếp và định hướng tích cực hóa
hoạt động của học sinh. Theo đó, Thầy cô, bằng kĩ năng sư phạm của mình, tổ chức
cho HS tích cực hoạt động trong giờ học, tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài, ôn
cũ - học mới trong khuôn khổ thời gian cho phép. GV có thể thực hiện được điều này
nhờ sự hỗ trợ của hệ thống câu hỏi tích hợp dùng xen kẽ trong lời thông báo, giải
thích, minh họa của mình. Kiến thức mà GV trình bày, những câu hỏi tích hợp mà GV

đặt ra phải vừa sức với HS, hướng tới số đông HS trong lớp chứ không được tập trung
vào một bộ phận HS khá - giỏi, sao cho tất cả HS đều là trung tâm của lớp học, đều
hứng thú tìm tòi và phát hiện tri thức. GV phải có cách thức tổ chức dạy học các phần
trong môn lịch sử được đánh giá là khó và khô này sao cho nó trở nên sinh động, hấp
dẫn đối với học trò của mình.
- Bám sát mục tiêu bài học, lựa chọn nội dung tích hợp hợp lý, tránh lạm
dụng. đối với các bài học thì mục tiêu cần đạt chính là cái đích cần đạt tới. Chúng
ta thừa nhận phương pháp dạy học tích hợp này làm cho bài giảng trở nên sâu
sắc, học sinh tập được tính tư duy khái quát, tổng hợp của HS được rèn luyện. Đối
với những kiến thức học sinh đã được trang bị ở các bài học trước hoặc bài học thuộc
các phân môn khác, GV chỉ cần gợi nhắc chứ không cần hướng dẫn HS tìm hiểu quá
chi tiết gây sự trùng lặp không cần thiết. Đối với những kiến thức tuy là cũ nhưng là
kiến thức trọng tâm của bài học hoặc HS có thể đã quên thì GV nên nhắc lại, huy động
lại để giúp HS có điều kiện so sánh, liên hệ và hiểu sâu sắc về vấn đề đang học.
2. Tích hợp trong dạy học bộ môn Lịch sử
Lịch sử đó chính là cái đã qua đi và còn để lại dấu vết qua ký ức nhân loại, các
thành tựu về vật chất và tinh thần, qua ghi chép của người xưa, tranh ảnh và báo chí.
Lịch sử có liên quan đến các môn học về khoa học tự nhiên, văn hóa. Lịch sử có tính
kế thừa qua nhiều giai đoạn và các phần như lịch sử Việt Nam, lịch sử khu vực và lịch
sử thế giới luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Dù trước đây nhiều giáo viên hiểu


thuật ngữ này có nghĩa là “liên môn” trong dạy học lịch sử, tuy nhiên việc liên môn
trong dạy học môn này cũng gặp nhiều khó khăn do hầu hết giáo viên đều chưa quen
(dù đã có lần dạy rồi) vì xã hội hiện nay theo công nghệ thông tin – coi thường môn
Sử, hơn nữa nhiều người còn cho rằng môn Sử là “môn phụ” nên dạy học chưa được
nghiêm túc và đàng hoàng, điều đó gây tác hại rất lớn cho người học, đó là khả năng
tư duy, xâu chuỗi kiến thức để tìm ra ngọn nguồn của mỗi vấn đề mà bài học đặt ra –
học sinh chỉ biết chứ chưa hiểu Lịch sử.
Vậy để giải quyết tình trạng này, chúng ta phải làm gì ? Theo tác giả, giáo viên

cần có sự chuẩn bị và đầu tư chu đáo cẩn thận cho bài giảng theo kế hoạch và yêu cầu
đặt ra. Việc chuẩn bị đó sẽ được thể hiện trong giáo án mà giáo viên đã biên soạn –
bao gồm các bước chuẩn bị và tiến hành một bài giảng theo hướng tích hợp như sau:
* Xác định mục tiêu bài học: Mục tiêu được thể hiện bằng các động từ có thể
lượng hóa được với 3 mức độ: Biết, Hiểu, Vận dụng. Phải đối chiếu với mặt bằng
trình độ của học sinh để quyết định thứ bậc cụ thể của mục tiêu.
* Xác định công việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh: Giáo viên và học
sinh cần chuẩn bị những đồ dùng dạy học cần cho bài học. Giáo viên sẽ dựa trên tình
hình chương trình học, mặt bằng kiến thức chung của lớp để đề xuất, xây dựng một số
chủ đề cụ thể mà mỗi chủ đề đó là tập hợp những bài học liên quan đến chủ đề đó. Các
chủ đề được đề xuất thường là:
- Chủ đề 1: Tìm hiểu Lịch sử - Địa lí khu vực Đông Nam Á (lớp 8)
- Chủ đề 2: Tìm hiểu một số vấn đề của địa phương ví dụ là: Tìm hiểu tài nguyên
du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (lớp 9).

Ở mỗi bài học trong chủ đề, giáo viên sẽ lựa chọn các hình thức tích hợp phù
hợp với bài (tích hợp ngang hay tích hợp dọc). Ví dụ giáo viên chọn bài dạy là “những
cuộc cách mạng tư sản đầu tiên” thuộc chủ đề “cách mạng tư sản”, họ sẽ đọc sách giáo
khoa và sách giáo viên để nghiên cứu xem, nên chọn cách tích hợp nào cho bài giảng.
Thường thì các dạng bài liên quan đến các chủ đề khoa học – kỹ thuật, chính trị, kinh
tế - xã hội thì giáo viên chọn cách “tích hợp ngang” (tích hợp giữa các phần, phân
môn, các chương). Ví dụ như bài 12: Những thành tựu chủ yếu và ý nghĩa lịch sử của


cách mạng khoa học - kỹ thuật làm ví dụ cho tích hợp các phần lịch sử thế giới: cổ đại
– trung đại – cận đại – hiện đại. GV cho HS nhận thức rõ : bước sang thế kỷ XX, khoa
học-kĩ thuật đã đạt được những thành tựu kỳ diệu trên tất cả các lĩnh vực(Toán học, Vật
lý, Hoá học, Sinh học), đến những công cụ sản xuất mới (máy tính, máy tự động và hệ
thống máy tự động), những nguồn năng lượng mới (năng lượng nguyên tử, năng lượng
gió, năng lượng thủy triều…); bài 11: Những chuyển biến về xã hội – Lịch sử 6: những

phát minh lớn về sản xuất đồ gốm, nghề trồng lúa nước, thuật luyện kim…làm thay đổi
về mặt xã hội. Những chuyển biến về xã hội là do tác động của kinh tế. Các bài về ôn
tập hay là một số bài có cùng chủ đề (đề tài) với nhau thì sẽ dùng “tích hợp dọc” ( tổng
hợp lại kiến thức đã học; tích hợp các phần, phân môn, các chương của cùng một loại

bài lịch sử vào nhau). Ví dụ như: Hai bài “Những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên” với
bài “Cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794) trong chương trình lịch sử 8 có thể tích
hợp lại với nhau. GV cho HS trao đổi về Cách mạng tư sản Pháp có điểm gì giống và
khác với các cuộc cách mạng trước đó (cách mạng Hà Lan, cách mạng Anh...). Để
thực hiện bài 23: Ôn tập lịch sử thế giới hiện đại của môn lịch sử 8, GV phải cho HS
nắm được kiến thức liên thông, móc nối từ các chương I – V, có như thế HS mới nắm
được các sự kiện chính của phần lịch sử thế giới theo bảng sau:
Thời gian

Sự kiện

Kết quả

Khi đã tìm ra được bài để dạy và phương pháp tích hợp chủ yếu được ứng dụng
vào bài đó, tiếp đến thì giáo viên cần xác định ngay những kỹ năng và tiểu kỹ năng cần
thực hiện – lồng ghép các kiến thức liên quan vào từng kỹ năng đã vạch sẵn – xác định
trình tự thực hiện các kỹ năng. Trong môn lịch sử, các kỹ năng được dùng chủ yếu là: sưu
tầm tài liệu, phân tích, so sánh, giải thích các khái niệm, thuật ngữ, đối chiếu để rút ra kết
luận và bài học lịch sử; và mỗi loại bài sẽ có những kỹ năng khác nhau nên sau khi đã
chọn được bài dạy, giáo viên nên dựa trên những kỹ năng của bài (có trong giáo án và
sách giáo viên) được đề sẵn, lựa chọn kiến thức cần thiết và phương pháp tích hợp chủ
yếu để đưa vào bài. Ví dụ, khi xác định các kỹ năng như: hiểu các khái niệm, phân tích
các sự kiện cơ bản trong bài 7: Phong trào công nhân quốc tế, giáo viên nên đặt ra hệ



thống câu hỏi có các cụm từ “Vì sao cách mạng 1905 – 1907 là cách mạng dân chủ tư sản
kiểu mới ?” (phân tích) – xem cuộc cách mạng này có gì khác với cách mạng trước đó
(liên hệ với bài trước, tích hợp dọc) và đưa kiến thức vào câu hỏi để học sinh trả lời dễ
dàng hơn. Còn học sinh thì về nhà đọc lại sách giáo khoa (có thể xem thêm sách bài tập)
trả lời câu hỏi trong sách và tập trả lời trước các câu hỏi trong sách giáo khoa. Và để thực
hiện cho đúng tinh thần của dạy học tích hợp, học sinh phải hình thành và phát huy năng

lực hợp tác; học cách tìm kiếm thông tin, bộc lộ năng lực của họ và học cách học... để
phát huy hết năng lực của bản thân mỗi người HS trong quá trình học tập.
Bước tiếp theo là sử dụng tài liệu nào cho bài dạy bằng phương pháp tích hợp ?
Theo kinh nghiệm của một số giáo viên dạy học thành công bằng phương pháp này,
tài liệu họ hay dùng là: tài liệu liên môn, tài liệu Sử - Địa và tài liệu ở các lĩnh vực
khác. Đó là những tài liệu giáo viên hay dùng và áp dụng vào bài sẽ giúp các em ”khôi
phục, tái hiện hình ảnh quá khứ. Tài liệu tham khảo giúp người học xây dựng được
tầm đón nhận phù hợp với văn bản”. Tài liệu tham khảo về lịch sử văn hóa là phương
tiện có hiệu quả để giúp giáo viên làm rõ nội dung sách giáo khoa, kích thích sự hứng
thú học tập của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Lịch sử. Và việc
sử dụng tài liệu như thế nào tùy thuộc vào suy nghĩ, ý đồ của giáo viên và bài giảng
của họ
Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ mọi mặt, bài giảng của giáo viên theo phương pháp
mới có thể bắt đầu. Theo Minh Phong, để xây dựng bài giảng các môn xã hội theo
hướng tích hợp kiến thức liên môn, giáo viên cần:
+ Xác định đúng nội dung kiến thức nào trong bài cần tích hợp, tích hợp với
kiến thức thuộc môn học hay lĩnh vực nào, tích hợp ở mức độ nào.
+ Chọn hình thức tích hợp: giáo viên diễn giảng bằng lời, cung cấp trên giáo
cụ trực quan hay đưa ra nhiệm vụ học sinh thu thập, tìm hiểu ở nhà trước hoặc sau
bài học.
Để dễ hình dung cách dạy một bài học lịch sử theo dạng tích hợp như thế nào,
tác giả trình bày các bước trong giáo án tích hợp sau đây:



a. Giới thiệu bài:
Trong phần ”chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang” của bài Khởi nghĩa Lam
Sơn (lịch sử 7), GV giới thiệu bằng cách treo bức hình Đền thờ vua Lê Thái Tổ và hỏi:
Hình chụp đền thờ ai ? Người đó có công lao gì đối với dân ta ? – Sau đó GV trình
bày: đây là hình chụp đền thờ vua Lê Thái Tổ, người có công lãnh đạo quân dân ta
đánh thắng giặc Minh và lập ra triều Hậu Lê. Bài học hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về
chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang – trận chiến có ý nghĩa quyết định đến sự thắng
lợi của nghĩa quân Lam Sơn trước quân Minh. Hay ví dụ bài 15: nước Âu Lạc, GV
đọc thơ về Mị Châu: Tôi kể người nghe chuyện Mị Châu...đắm bể sâu”. Sau đó GV
nói thêm về chuyện Nỏ thần – nếu lượt bỏ yếu tố hoang đường thì một sự thật lịch sử
đã diễn ra, bằng chứng là thành Cổ Loa vẫn còn kia ! Vậy sự thật ra sao chúng ta sẽ
vào bài mới (GV treo hình thành Cổ Loa)
b. Kiểm tra bài cũ:
Kiểm tra bài 28: Sự phát triển của văn hóa dân tộc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX (lịch sử 7), GV hỏi: Nghệ thuật nước ta cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX có
điểm gì khác so với các thế kỷ trước đó ? HS xem hình 67, 68 – SGK/144 – 145 và
nhận xét.
c. Hệ thống câu hỏi:
- Tích hợp với địa lý. GV dựa vào nội dung bài 16: Ôn tập chương I – II (lịch
sử 6) và hỏi: Dấu tích của sự xuất hiện người tối cổ trên đất nước ta ? (thời gian, địa
điểm) – Trước khi HS trả lời, GV cho HS giới thiệu về điều kiện tự nhiên Việt Nam
(tích hợp địa lý) để nêu bật những điều kiện để người tối cổ có thể tồn tại và phát triển
được.
- Tích hợp trong văn học. Học nội dung ”Văn hóa, khoa học – kỹ thuật của
Trung Quốc thời phong kiến” của bài 4: Trung Quốc thời phong kiến (lịch sử 7), GV
cho HS đọc các câu thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị....
- Tích hợp trong nội bộ lịch sử. Bài 7: Những nét chung về xã hội phong
kiến (lịch sử 7), GV cho HS lập bảng sau:



Các thời kỳ lịch sử

Xã hội phong kiến phương Đông

Xã hội phong kiến phương Tây

Thời kỳ hình thành
Thời kỳ phát triển
Thời kỳ khủng hoảng và suy sụp
Cơ sở kinh tế
Các giai cấp cơ bản

d. Củng cố bài học
- Sưu tầm tranh ảnh về chiến thắng Điện Biên Phủ (tích hợp Mỹ thuật)
- Sưu tầm câu thơ hoặc bài văn viết về hoạt động xây dựng CNXH của nhân
dân miền Bắc (tích hợp Văn học).
e. Dặn dò: Cũng làm y như thế với các phần trên.
Vậy dạy học tích hợp có ưu và nhược điểm gì ? Chúng ta xem:


Ưu điểm của dạy học tích hợp:
+ Đối với người dạy (giáo viên):
- Mục tiêu của việc học được người học xác định một cách rõ ràng ngay tại thời

điểm học. Điều đó có nghĩa là các phần kiến thức, tư tưởng và kỹ năng được xác định
một cách rõ ràng ngay từ đầu, giúp cho giáo viên bớt lúng túng và định rõ cho mình
những kế hoạch sắp tới cho bài dạy của mình.

- Nội dung dạy học: Tránh những kiến thức, kỹ năng bị trùng lặp nhiều lần ở

các môn học khác nhau; phân biệt được nội dung trọng tâm và nội dung ít quan trọng.
GV có thể ”nhai lại” lượng kiến thức đó liên quan đến các môn khác nhiều lần, do vậy
vô hình chung GV đã sự am hiểu về những kiến thức ở nhiều môn học khác nhau để
tích hợp vào bài giảng đó. Các kiến thức gắn liền với kinh nghiệm sống của học sinh.
- Phương pháp dạy học: Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống; Thiết lập mối
liên hệ giữa các khái niệm đã học. Theo PGS Nghiêm Đình Vỳ, theo phương pháp
mới này thì GV sẽ ”có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, giúp các em tự
tìm kiếm thông tin theo chủ đề có tính chất khái quát và chuyên sâu; tích cực, chủ
động thu nhận kiến thức để có thể vận dụng vào thực tiễn”. Chương trình lịch sử
THCS được thiết kế theo đường thẳng, từ lịch sử cổ - trung đến lịch sử cận - hiện đại;
giúp HS học và hiểu đầy đủ quá trình phát triển của lịch sử.


+ Đối với người học: phương pháp dạy học mới này có tính thực tiễn nên sinh
động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập
cho học sinh. Học phương pháp mới này, học sinh được tăng cường vận dụng kiến
thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một
cách máy móc. Điều quan trong nữa là ở phương pháp mới này, học sinh sẽ không
phải học đi học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau,
vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả
năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn; học sinh được học qua một lần
với một lượng kiến thức như vậy, nhưng lượng kiến thức đó đủ để họ giải quyết được
một tình huống, một vấn đề trong thực tiễn cuộc sống từ đó có điều kiện phát triển kỹ
năng chuyên môn. Nhiều học sinh cho biết, nếu tích hợp các môn học trong giảng dạy
thì sẽ dẫn đến ít môn học, nhẹ gánh cho họ. Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh
Hiển cho biết: "Dạy học tích hợp sẽ mang lại nhiều lợi ích như giúp học sinh áp dụng
được nhiều kỹ năng, nền tảng kiến thức tích hợp giúp việc tìm kiếm thông tin nhanh
hơn, khuyến khích việc học sâu và rộng, thúc đẩy thái độ học tập tích cực đối với học
sinh. Thay đổi cách dạy này không gây ra sự xáo trộn về số lượng và cơ cấu giáo viên,
không nhất thiết phải đào tạo lại mà chỉ cần bồi dưỡng một số chuyên đề dạy học tích

hợp. Không đòi hỏi phải tăng cường quá nhiều về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học".
Tuy nhiên, khi thực hiện dạy học tích hợp cũng gặp phải không ít khó khăn vì đây
còn là một quan điểm còn mới đối với nhà trường, với giáo viên, với phương diện quản
lý, với tâm lý học sinh và phụ huynh học sinh cũng như các nhà khoa học của mỗi bộ
môn; Các chuyên gia, các nhà sư phạm đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm, các
chuyên viên phụ trách môn học rất khó để chuyển đổi từ chuyên môn sang lĩnh vực mới
trong đó cần sự kết hợp với chuyên ngành khác mà họ đã gắn bó; giáo viên và các cán bộ
thanh tra, chỉ đạo thường gắn theo môn học, không dễ để thực hiện chương trình tích hợp
các môn học; phụ huynh học sinh khó có thể ủng hộ những chương trình khác với chương
trình mà họ có đã được học.

3. Để thực hiện dạy học tích hợp có hiệu quả chúng ta cần quan tâm đến
những vấn đề sau đây:


1. Đối với giáo viên:

- Không ngừng học tập để nâng cao kiến thức và trang bị thêm những điểm mới
về kỹ năng cũng như phương pháp dạy học. Vấn đề bây giờ là phải vận dụng những
kiến thức đó để: xây dựng các chủ đề dạy học; xác định những năng lực có thể phát
triển cho học sinh trong mỗi chủ đề; biên soạn các câu hỏi, bài tập để đánh giá năng
lực của học sinh trong dạy học; thiết kế tiến trình dạy học thành các hoạt động học của
học sinh; tổ chức dạy học để dự giờ, phân tích, rút kinh nghiệm. Việc vận dụng kiến
thức đó trong các hoạt động dạy học tích hợp cần tuân thủ các yêu cầu sau: hướng đến
mục tiêu giáo dục phổ thông, đảm bảo mục tiêu giáo dục môn học; đảm bảo tích hợp
được nội dung bài học luôn gắn liền với thực tiễn, phù hợp với trình độ và tình cảm,
đem lại lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh; đảm bảo để tổ chức cho học sinh
học tập tích cực, giúp học sinh khai thác kiến thức môn, phát hiện một số kỹ năng,
năng lực chung. Theo kế hoạch của Bộ GD&ĐT, định mức cho mỗi tổ/nhóm chuyên
môn là xây dựng và thực hiện được tối thiểu 02 chủ đề/học kì. Việc thực hiện những

chủ đề ấy chính là môi trường huấn luyện tốt nhất cho giáo viên ở trong tổ bộ môn,
trong nhà trường. Tất nhiên giáo viên còn phải tăng cường giao lưu với các tỉnh khác,
đơn vị khác thông qua diễn đàn trên mạng mà Bộ GD&ĐT mới xây dựng.
- Phải sáng tạo và linh hoạt khi lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với mỗi
chủ đề tích hợp trong phương pháp dạy học mới này. Các phương pháp thường được sử
dụng đó là Phương pháp dạy học theo dự án, Phương pháp trực quan, Phương pháp thực
địa, Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề. Các phương pháp nói trên đã được
các trường học và các giáo viên ở Việt Nam thự hiện lẻ tẻ ở một số nơi, chưa được tổ
chức một cách đại trà và có hệ thống. Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang quá độ
chuyển từ dạy học lấy GV làm trung tâm sang lấy HS làm trung tâm nên việc đổi mới
phương pháp là cần thiết. Tuy nhiên việc đổi mới phương pháp với các giáo viên thì phải
có quá trình lâu dài vì phương pháp dạy học này mới, nhiều giáo viên còn bỡ ngỡ và lúng
túng, chưa thực hiện tốt hay nhiều lý do khác nhau.
- Cần cải thiện và đổi mới các trang thiết bị dạy học để phù hợp với phương pháp
dạy học mới. Nên trang bị thêm ở các trường phòng Multimedia, máy tính, máy chiếu,


tivi, đầu máy... (liên quan đến công nghệ thông tin), GV được học cách sử dụng được các
trang thiết bị có liên quan đến công nghệ thông tin, học thêm các phần mềm liên quan đến
dạy học như Activ Inspire (phần mềm dạy học bằng bảng tương tác), Adobe
Presenter (phần mềm tạo bài giảng điện tử), Flash, Lecture Maker.... để phục vụ tích

cực vào bài giảng.
2. Đối với các cấp quản lý, các nhà hoạch định chiến lược

- Trước hết cần đào tạo bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia về tích hợp môn học, bồi
dưỡng và nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng được yêu cầu học tập
tích hợp. Hiện nay có không ít những người và giới chuyên gia chưa nhận thức đầy đủ
về phương pháp mới này và thâm chí có những ý kiến trái ngược nhau. Theo các PGSTS Đỗ Ngọc Thống, GS Trần Kiều, GS Hồ Sĩ Đàm thì việc tích hợp các môn học nên
được điều chỉnh và bổ sung về nội dung, thiết kế các nội dung dạy học dưới dạng câu

chuyện lịch sử, hiện tượng tự nhiên và xã hội nhằm giúp các em có những hiểu biết sơ
giản, gần gũi về những hiện tượng tự nhiên và xã hội xung quanh” (ý kiến của PGS
Thống). Hay GS Đàm không đồng ý tích hợp môn Sử và Địa vì cho rằng, điều này là
”phản khoa học”. Nhiều giáo viên hiện nay còn bỡ ngỡ, e ngại về phương pháp dạy
học mới vì nó quá rắc rối và cầu kỳ. Khi thực hiện dạy thành công bài học với chủ đề
”Phân bón hóa học” (tích hợp môn Hóa – Sinh) cho HS lớp 9B trường Thực nghiệm
Hà Nội (khối THCS), giáo viên giảng dạy tiết học cho biết: “Chỉ trong 1 tiết học
nhưng học sinh đã được trang bị kiến thức của cả 2 môn hoá và sinh học, kiến thức
rất thực tế, ít hàn lâm nên học sinh nhanh hiểu bài”. Tuy nhiên, giáo viên này cũng
cho biết, để có được một tiết học tích hợp như thế cả thầy và trò đã phải “làm việc” cật
lực. Giáo viên đòi hỏi phải am hiểu sâu kiến thức 2 môn, học sinh phải chuẩn bị bài
rất cầu kỳ. GS Phạm Minh Hạc thì cho rằng, việc tích hợp giúp HS tốn ít thời gian,
biết nhiều thông tin, nhưng thực chất là ......... tăng tải. Đồng cảm với 2 ý kiến trên, cô
Đỗ Thị Hà– giáo viên một trường tiểu học tại TP.Vinh (Nghệ An) cũng cho rằng:
Hiện giáo viên nói đến dạy tích hợp còn rất e ngại, bởi tích hợp đồng nghĩa với việc
giáo viên phải dạy 2 - 3 môn trong 1, lượng kiến thức vẫn thế nhưng làm thế nào để


cắt, giảm mà vẫn phải đủ, không thừa, không thiếu. Đối với những giáo viên đã quen
với việc giảng dạy truyền thụ đơn thuần nhiều năm nay để thay đổi họ là điều không
hề dễ. Cho nên, để đào tạo bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia về tích hợp môn học, bồi
dưỡng và nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng được yêu cầu học tập
tích hợp là cả một quá trình lâu dài với nhiều cam go thử thách, cần nhiều thời gian và
công sức thực hiện.
- Thiết kế lại chương trình đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm từ mục
tiêu đến nội dung, phương pháp để chuẩn bị năng lực cho đội ngũ giáo viên khi thực
hiện chương trình tích hợp. Trong dự thảo đề án “Đổi mới chương trình, sách giáo
khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015” của Bộ GD-ĐT đã “bật đèn xanh” - định
hướng xây dựng chương trình mới tiếp cận xu hướng dạy tích hợp và phân hóa trên
thế giới thì tại các cơ sở đào tạo giáo viên, mọi việc “vũ như cẩn”. Đề cập đến hạn chế

này, TS Phạm Thị Kim Anh cho biết: “Chương trình đào tạo giáo viên phổ thông hiện
nay chỉ đào tạo họ dạy một hoặc hai môn nên không có khả năng dạy tích hợp cho một
số môn cùng lĩnh vực. Chính điều này đã giảm khả năng phát triển, thích ứng của giáo
viên trước yêu cầu thay đổi chương trình giáo dục phổ thông”. Như TS Nguyễn Văn
Dụ, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo viên, đã chua chát ví von rằng một khi ngành sư phạm
đứng bên ngoài nhìn vào hoặc thụ động tham gia thì việc bồi dưỡng giáo viên chỉ do
đội quân “không chuyên” đảm trách Theo kế hoạch của Bộ, chương trình đào tạo giáo
viên sẽ dự kiến số môn học giảm, chủ yếu là hoạt động giáo dục. Do vậy, thời lượng
của CTĐTGV cần ít hơn 40 môn, tương đương 120 tín chỉ. Cơ cấu giữa kiến thức nền
tảng/chuyên sâu khoảng 70/30% dối với nhóm giáo viên tự nhiên và xã hội. Tỉ lệ lí
thuyết/thực hành - Thảo luận phấn đấu đạt khoảng 50/50 để giải quyết các vấn đề đặt
ra trong công việc của giáo viên về sau này. Ví dụ, môn Toán là phương tiện để hình
thành năng lực tính toán, ứng dụng trong cuộc sống dành cho số đông và năng lực giỏi
toán, hiểu sâu để tham gia giáo dục sau phổ thông, học sâu các chuyên ngành khác –
dành cho số ít); hoặc kiến thức: Lịch sử, Địa lí, Văn hóa…là phương tiện để hình
thành năng lực giải quyết vấn đề xã hội, lí giải phân tích chứng minh… các hiện tượng


xã hội.
- Thiết kế lại nội dung chương trình-sách giáo khoa các môn học theo hướng
tích hợp. Đổi mới cách thức tổ chức quản lý trong Nhà trường, cách kiểm tra đánh giá
theo hướng tích hợp. Về nội dung và chương trình dạy học, thực hiện theo tinh thần
Nghị quyết về “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã được thông qua tại hội nghị TƯ8 Khóa XI, đề ra
mục tiêu Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của người học,
hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề; nhiều nhà nghiên cứu có
tâm huyết với giáo dục đề nghị nên xây dựng lại chuẩn kiến thức chung để nhìn vào
đó, , người viết sách giáo khoa, người dạy, người học sẽ tập trung vào đó để giáo dục,
đánh giá. Nội dung đào tạo sẽ chỉ mang tính nguyên liệu để tạo ra các phẩm chất cần

có, vì thế, có thể có nhiều bộ sách giáo khoa. Và cùng với việc thiết kế chương trình
theo năng lực học sinh, các giáo viên trên lớp có thể phát huy sáng tạo tối đa. Về lộ
trình viết sách, thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết:“Trước hết chúng ta sẽ phải
viết sách theo tích hợp nông, rồi sau này khi giáo viên năng lực hơn, kể cả người viết
sách có điều kiện hơn thì mình sẽ hướng tới làm tốt hơn.”. Theo kế hoạch chung của
Bộ, chương trình được thiết kế theo trục dọc và ở cấp THCS, nên tích hợp bài giảng
với các câu chuyện kể cho học sinh và dạy thường là theo những chủ đề được biên
soạn và xác định từ trước. “Tích hợp chương trình giảng dạy nhằm tạo mối liên hệ
chặt chẽ giữa các môn học khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, hình thành hệ thống
kiến thức thống nhất, từ đó bồi dưỡng năng lực khoa học và kĩ năng sống cho học
sinh, tạo hứng thú và động lực cho việc học” - PGS. TS Trần Trung Ninh thể hiện
quan điểm. GS Đinh Quang Báo chia sẻ: , phần nội dung môn học trong mô hình câu
trúc SGK không nên trình bày đơn vị bài học theo tiết học, mà nên theo chủ đề nội
dung ứng với các tình huống tích hợp. Cố gắng để các chủ đề này được sắp xếp làm
sao không phá vỡ quá nhiều logic nội tại của nội dung khoa học mỗi môn học, phân
môn trong SGK. Theo kế hoạch, dự kiến chúng ta sẽ xây dựng lại nội dung hai môn


học mới: Môn Khoa học tự nhiên (trên cơ sở các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học hiện
hành) và môn Khoa học xã hội (trên cơ sở các môn Lịch sử, Địa lý hiện hành và một
số vấn đề xã hội). Hai môn học này được xây dựng cơ bản đảm bảo tính logic, nội
dung các phân môn được sắp xếp sao cho có sự hỗ trợ lẫn nhau và tránh trùng lặp;
đồng thời xây dựng thêm những chủ đề liên kết giữa các phân môn.

Đồng thời với xây dựng chương trình, phương thức giáo dục cũng cần được đổi
mới như phương thức giáo dục đạo đức, tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên


lớp, giáo dục hướng nghiệp theo tinh thần lồng ghép và tích hợp; nâng cao chất lượng
giáo dục nghề phổ thông; chú trọng giáo dục giá trị, giáo dục kỹ năng sống cho học

sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc, vùng núi. Tiếp tục thực hiện tích hợp ở một số nội
dung môn học và các hoạt động giáo dục: Tích hợp giáo dục đạo đức, học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục phòng chống tham nhũng; sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo vệ môi trường; đa dạng sinh học và bảo tồn
thiên nhiên; giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo theo hướng dẫn của
Bộ GD-ĐT. Về đánh giá học tập theo phương pháp dạy học mới, ThS Nguyễn Hồng
Liên (Viện Khoa học giáo dục Việt Nam) cho rằng: đánh giá kết quả học tập cần nhấn
mạnh vào quá trình tiến bộ của học sinh và tài liệu dạy học không bị bó hẹp trong tài
liệu SGK. Việc lựa chọn nội dung cần chú ý hơn đến tính ứng dụng, thực tiễn, phù
hợp và gần gũi hơn với cuộc sống của HS; tránh sự lệ thuộc quá lớn vào logic của
khoa học bộ môn làm cho kiến thức đưa vào nhà trường quá mang tính hàn lâm, nặng
nề...
- Tiếp tục khai thác nghiên cứu thử nghiệm nội dung tích hợp theo các phương
án khác nhau để có thể triển khai một cách phù hợp cho thực tiễn Việt Nam. Để làm
được điều này, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm và phương pháp dạy học, nội dung
dạy học theo các phương án khác nhau ở các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến
như Anh, Australia, Singapore, Thái Lan để có thể triển khai một cách phù hợp cho
thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam cũng nên học tập ở bạn bè quốc tế về ”xử lý
các vấn đề khúc mắc ở thực tiễn thông qua áp dụng kiến thức đã học ở trường lớp”.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển thì: trên thế giới có nhiều mức độ xử lý tích hợp
khác nhau thông qua chương trình, SGK. “Chúng ta sẽ xử lý ở những bước ban đầu
rồi dần dần trải qua thời gian sẽ tích hợp ở mức độ cao hơn” - ông cho biết.

Kết luận:
Dạy học tích hợp có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục, rèn luyện và phát
triển kĩ năng tư duy, phân tích tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa cho người học. Sự


phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật trong giai đoạn hiện nay đang đòi hỏi sự
thay đổi căn bản và toàn diện về nội dung và phương pháp giáo dục. Quan điểm dạy học

tích hợp là một định hướng trong đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, là một bước
chuyển từ cách tiếp cận nội dung giáo dục sang tiếp cận năng lực nhằm đào tạo con người
có tri thức mới, năng động, sáng tạo khi giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống.



×