Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TL sỏ hữu CÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.05 KB, 22 trang )

1
MỤC LỤC
Nội dung

Trang

ĐẶT VẤN ĐỀ

1

I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG

4

II. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ
III. NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ

9

IV. XÂY DỰNG, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN
PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ

10
12

V. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT

18

VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22

1


2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển về khoa học kỹ thuật đã tạo ra các sản phẩn, thiết bị công
nghiệp phục vụ con người ngày càng tiện nghi và thông minh. Điều đó có
được là nhờ những cải tiến, sáng chế, phát minh được áp dụng thành công
trong thực tế sản xuất. Nó mang lại lợi nhuận rất nhiều cho các doanh nghiệp
trong kinh doanh sản xuất. Những sản phẩm giao dịch đa dạng và phong phú
tạo ra một thị trường kinh doanh năng động. Song, sự bùng nổ thông tin và
các phương tiện kỹ thuật hiện đại đã làm cho các bí mật của một sản phẩn,
công nghệ rất dễ bị đánh cắp và sao chụp. Để bảo vệ lợi ích, các doanh
nghiệp, các các nhân có những phát minh, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn mác hàng hoá (thương hiệu) đã đăng ký sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm
của mình.
Việc pháp luật bảo vệ các sản phẩm trí tuệ xuất phát từ sự cần thiết để
bảo vệ các quyền của người đã sáng tạo ra các phát minh, sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp. Pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công
nghiệp nói riêng, tạo môi trường phát huy tối đa sáng tạo những sản phẩm trí
tuệ và bảo vệ lợi ích của các cá nhân tập thể. Hoạt động sở hữu công nghiệp
đã góp phần tích cực vào việc mở rộng sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư
nước ngoài. Việc áp dụng sở hữu công nghiệp tạo ra những sản phẩm chứa
đựng hàm lượng trí tuệ cao, mang lại những khoản lợi vật chất lớn cho toàn

xã hội. Với xu hướng toàn cầu hoá và tự do thương mại, sản xuất kinh doanh
không còn bó hẹp trong một quốc gia nào. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không
còn là một vấn đề của một quốc gia mà đã trở thành một vấn đề có tính toàn
cầu, không những trong lĩnh vực giá trị của sảm phẩm, mà còn cả trong lĩnh
vực sản phẩm trí tụê của con người.
Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, với chủ chương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế, các hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng thì các hành vi
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đã xuất hiện và ngày càng nhiều. Trên
2


3
thực tế hiện nay việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp đã có chiều hướng phát triển. Điều đó đã gây ảnh
hưởng tiêu cực tới việc đầu tư của nứơc ngoài vào Việt Nam. Việc bảo hộ
quyền sở hữu nghiệp đã trở thành một nhu cầu bức xúc của các cá nhân, tổ
chức thuộc mọi thành phần kinh tế.
Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp không những làm mất uy tín của
những nhà sản xuất chân chính mà còn gây thiệt hại về kinh tế không chỉ cho
nhà sản xuất mà còn cho cả người tiêu dùng, gây rối loạn thị trường tạo ra
cạnh tranh không lành mạnh, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
Một vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là một vấn đề có tính
thời sự trong tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Vì vậy tôi đã
chọn tình huống này làm tiểu luận cuối khoá học Quản lý hành chính nhà
nước. Do vấn đề này mới đối với Việt Nam và cũng rất mới đối với bản thân
tôi, lại là hoạt động kinh tế phức tạp chắc chắn không tránh khỏi những khiếm
khuyết nhất định, rất mong được sự quan tâm giúp đỡ và góp ý của các thầy
giáo, cô giáo để tiểu luận đạt được kết quả tốt. Tôi xin tiếp thu và chân thành

cảm ơn.
Tiểu luận cuối khoá Quản lý hành chính nhà nước: “Một vụ xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp” được hoàn thành có sự giúp đỡ rất lớn của các
thầy giáo, cô giáo của Trường Chính trị tỉnh Nghệ An. Xin chân thành cảm ơn
các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Quản lý nhà nước đã tận tình giúp đỡ tôi
hoàn thành tiểu luận này.

3


4
NỘI DUNG
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Từ năm 2006 tại thành phố V của tỉnh NA đã sản xuất và tiêu thụ mặt
hàng X được nhiều người ưa chuộng. Mặt hàng X này trên thị trường có 2
loại do 2 cơ sở sản xuất giống hệt nhau về kiểu dáng và nhãn mác bao bì, chỉ
có cơ sở sản xuất là khác nhau. Một loại là do xí nghiệp L sản xuất, một loại
là do cơ sở H sản xuất. Đầu tháng 5 năm 2009, Ông Phan Quang M chủ cơ sở
sản xuất H làm đơn đề nghị Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh làm thủ tục để
Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam cấp bằng độc quyền kiểu dáng công
nghiệp cho mặt hàng X của cơ sở H .
Trước tình hình đó, ngày 25 tháng 5 năm 2009, Ông Nguyễn Văn Q Giám đốc xí nghiệp L làm đơn gửi các cơ quan chức năng thành phố V:
UBND thành phố; Sở công nghiệp; Sở Khoa học & Công nghệ; Sở Thương
mại – Du lịch với nội dung: “… Từ đầu năm 2006 đến nay, chúng tôi được
biết trên thị trường trong tỉnh và thị trường các tỉnh lân cận có lưu hành sản
phẩm do cơ sở H sản xuất tại số nhà 1234 thành phố V, mà sản phẩm, bao bì
đựng có hình dáng giống tương tự bao bì đựng sản phẩm của xí nghiệp chúng
tôi. Cơ sở H đã có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về kiểu dáng
công nghiệp đang được bảo hộ của xí nghiệp L, gây thiệt hại cho xí nghiệp…
Kính đề nghị Quý cơ quan xem xét và xử lý theo qui định của pháp luật…”

Ngày 07 tháng 6 năm 2009, một cuộc họp liên ngành do UBND thành
phố V tổ chức và chủ trì để xem xét, giải quyết đơn khiếu kiện trên. Tham gia
cuộc họp có đại diện của Sở Khoa học và Công nghệ , Sở Thương mại – Du
lịch, Chi cục tiêu chuẩn - Đo lường – Chất lượng, Chi cục Quản lý thị trường,
giám đốc xí nghiệp L và chủ cơ sở H. Sau khi nghe nghe hai bên liên quan
trình bày, cung cấp tài liệu chứng cứ có liên quan đến việc khiếu kiện về xâm
phạm kiểu dáng công nghiệp. Cuộc họp kết luận:
- Xí nghiệp L và cơ sở H cùng hoạt động sản xuất kinh doanh một loại
hàng X trên địa bàn thành phố.
4


5
- Xí nghiệp L hoạt động theo Luật doanh nghiệp, có giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh số 009/CN – KHĐT do Sở kế hoạch - Đầu tư tỉnh cấp
bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số 5211 do Cục Sở hữu công nghiệp
thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ cấp ngày 21 tháng 5 năm 2006 cho ông
Nguyễn Văn H giám đốc Xí nghiệp T, còn hiệu lực về thời gian bảo hộ, có
thuế môn bài, xí nghiệp nộp thuế bảo hộ đầy đủ đúng thời gian, có thuế môn
bài, cơ sở nộp thuế đầy đủ và đúng thời hạn, mức nộp thuế tăng sau 3 tháng
một lần.
- Cơ sở H hoạt động sản xuất kinh doanh theo Nghị định 66/CP ngày
03 tháng 02 năm 1992 của Chính phủ, có Giấy phép kinh doanh số 0110/GP
– UB do UBND thành phố cấp, vẫn còn hiệu lực, có môn bài thuế, nộp thuế
đầy đủ và đúng thời hạn, mức nộp thuế từ đầu năm đến giờ là không thay đổi.
- Cơ sở H đã đưa ra thị trường nhằm mục đích kinh doanh các sản
phẩm của mình mà bao bì có hình dáng giống kiểu dáng bao bì đang được bảo
hộ độc quyền của ông Nguyễn Văn Q giám đốc xí nghiệp L, vi phạm điểm g
khoản 1 Điều 9 Nghị định 106/2006/NĐ - CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của
Chính phủ.

- Về việc dăng ký sở hữu kiểu dáng công nghiệp của cơ sở H. Đại diện
Sở Khoa học và Công nghệ giải trình: Sở chỉ có nhiệm vụ tuyên truyền hướng
dẫn các nhà sản xuất kinh doanh làm hồ sơ thủ tục trực tiếp đăng ký kiểu dáng
công nghiệp với Cục sở hữu công nghiệp chứ không có quyền đề nghị và
quyết định.
Ngày 08 tháng 6 năm 2009, căn cứ Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
2008, Nghị định số 106/2006/NĐ - CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính
phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, UBND thành
phố V đã ra Quyết định xử phạt hành chính số 11/QĐ - UB: phạt tiền 20 triệu
đồng đối với chủ cơ sở H; buộc chủ cơ sở H phải chấm dứt hành vi xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp; xin lỗi công khai ông Nguyễn Văn Q trên các
phương tiện thông tin đại chúng trong tỉnh.
5


6
Sau khi nhận được Quyết định xử phạt hành chính, chủ cơ sở H thấy
việc xử phạt đối với mình là quá vô lý, là bị phạt oan vì nghĩ rằng: trong việc
sản xuất kinh doanh của cơ sở, ông luôn chấp hành đúng các qui định của
pháp luật, cơ sở có giấy phép kinh doanh, có môn bài thuế, nộp thuế đầy đủ
và đúng thời hạn. Riêng đối với vấn đề bao bì để đựng sản phẩm thì cơ sở đã
sử dụng từ hơn một năm nay, bản thân không có ý định bắt chước mẫu mã sản
phẩm của ai, cũng không có ý định làm giả bao bì để cạnh tranh hoặc làm mất
uy tín của người khác, cơ sở khác. Tuy nhiên, chủ cơ sở H một mặt vẫn chấp
hành Quyết định là đem tiền đến nộp tại kho bạc thành phố và xin lỗi ông
Nguyễn Văn Q, mặt khác làm đơn khiếu nại gửi đến UBND thành phố đề
nghị xem xét lại quyết định xử phạt hành chính.
Ngày 15 tháng 6 năm 2009, UBND thành phố đã ra quyết định giải
quyết khiếu nại (lần đầu): Giữ nguyên nội dung của quyết định số 11/ QĐ UB ngày 08 tháng 6 năm 2009.
Ngày 23 tháng 6 năm 2009, ông Nguyễn Văn Q lại tiếp tục có đơn

khiếu kiện tới các cơ quan chức năng thành phố V với nội dùng: cơ sở H vẫn
tiếp tục xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ, sử dụng bao
bì mới chỉ sửa đổi chút ít so với mẫu bao bì cũ, có kiểu dáng không khác biệt
cơ bản kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ độc quyền của ông.
Ngày 26 tháng 6 năm 2009, tức ba ngày sau khi ông Nguyễn Văn Q gửi
đơn kiện chủ cơ sở H tiếp tục tái phạm, chủ cơ sở H nhận ra rằng: việc mình
phải xin lỗi chủ xí nghiệp L và phải chịu xử phạt vi phạm hành chính là vô lý,
nên đã gửi đơn lên Cục Sở hữu công nghiệp thuộc Bộ Khoa học và Công
nghệ đề nghị xem xét lại các điều kiện cấp bằng độc quyền kiểu dáng công
nghiệp số 5211 ngày 21 tháng 6 năm 2006 cho ông Nguyễn Văn Q. Trong
đơn khiếu nại chủ cơ sở H có đưa ra hai căn cứ đề nghị xem xét:
- Thứ nhất, theo khoản 13, điều 4, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 thì
“Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện
bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này”.
6


7
- Thứ hai, theo điểm c, khoản 1, điều 5 Nghị định số 63/CP ngày 24
tháng 10 năm 1996 của Chính phủ qui định chi tiết về sở hữu công nghiệp:
“…trước ngày ưu tiên của đơn vị yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ, kiểu dáng
công nghiệp nêu trong đơn chưa bị bộc lộ công khai ở trong và ngoài nước”.
Ngày 29 tháng 6 năm 2009, sau khi thụ lý đơn khiếu nại của ông
Nguyễn Văn Q, UBND thành phố V có Báo cáo số 85/BC-UB trình UBND
tỉnh: Cơ sở H tiếp tục xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của ông Nguyễn
Văn Q, căn cứ vào khoản 2, điều 13 Nghị định số 106/2006/NĐ - CP ngày 22
tháng 9 năm 2006 của Chính phủ: nếu tái phạm thì mức phạt tiền là từ 20
triệu đồng đến 50 triệu đồng. Vì vậy, UBND thành phố đề nghị UBND tỉnh ra
quyết định xử phạt cơ sở H, cụ thể là tiền phạt 30 triệu đồng (trong khoảng từ
20 triệu đồng đến 50 triệu đồng) và tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh

của cơ sở H có thời hạn.
Ngày 01 tháng 7 năm 2009, Sở Khoa học và Công nghệ có Báo cáo số
36/BC-SKHCN trình UBND tỉnh, với nội dung: cơ sở H chưa thấy có dấu
hiệu tái phạm về sử dụng bao bì hình dáng giống với kiểu dáng bao bì của xí
nghiệp L. Việc xí nghiệp L khiếu nại cơ sở H đưa vào sử dụng bao bì có kiểu
dáng công nghiệp không khác biệt cơ bản với kiểu dáng công nghiệp số 5211
là chưa đủ chứng cứ theo quy định về Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp
tại điều 101, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 và điều 5 Nghị định
63/CP ngày 14 tháng 10 năm 1996 về sở hữu công nghiệp. Sở Khoa học công
nghệ còn cho rằng: Việc ông Nguyễn Văn Q - Giám đốc xí nghiệp L khiếu
nại làm ảnh hưởng đến công việc và mất nhiều thời gian xử lý của cơ quan
chức năng, đưa thông tin không chính xác, làm tổn hại đến uy tín và danh dự
của các cơ quan chức năng và làm cho dư luận hiểu sai lệch quá trình xử lý
đơn khiếu nại của cơ sở.
Xét thấy vụ việc trên có nhiều tình tiết phức tạp, theo đề xuất của Sở
Khoa học và Công nghệ, UBND tỉnh NA đã làm công văn và chuyển toàn bộ
hồ sơ vụ việc ra Cục sở hữu công nghiệp giải quyết, với nội dung: Đề nghị
7


8
xem xét lại việc cấp văn bằng bảo hộ độc quyền kiểu dáng công nghiệp số
5211 theo các quy định của pháp luật.
Sau khi nhận được Công văn UBND tỉnh NA và toàn bộ hồ sơ vụ việc
liên quan đến bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số 5211, Cục sở hữu
công nghiệp đã tiến hành xem xét lại các điều kiện để cấp Văn bằng bảo hộ,
thấy rằng:
- Căn cứ điều 04, Luật Sở hữu trí tuệ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2005 quy định về kiểu dáng công nghiệp thì: kiểu dáng công
nghiệp nêu trong đơn xin đề nghị cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp

phải có tính mới, trong khi có mẫu bao bì của ông Nguyễn Văn Q là một loại
bao bì có kiểu dáng hình hộp lập phương, có kích thức (120 x 250 x 50) mm
các cạnh thẳng đứng và vuông góc với nhau. Đây là loại bao gì có kiểu dáng
đơn giản giống như các loại bao bì hình hộp khác đang lưu hành trên thị
thường, chỉ khác về kích thước mà không có tính mới.
- Căn cứ điểm c, khoản 1, điều 5 của Nghị định số 63/CP ngày 24 tháng
10 năm 1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp thì: trước
ngày ưu tiên của đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp
nêu trong đơn chưa bị bộc lộ công khai ở trong và ngoài nước. Bằng độc
quyền kiểu dáng công nghiệp số 5211 do Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam
cấp cho ông Nguyễn Văn Q có ghi ngày ưu tiên là ngày 26 tháng 3 năm 2006
(là ngày nộp đơn) trong khi đó tại đơn khiếu nại lần thứ nhất của ông Nguyễn
Văn Q ngày 25 tháng 6 năm 2009 có ghi: "Từ đầu năm 2006 đến nay trên thị
trường trong tỉnh và các tỉnh lân cận đã lưu hành bao bì đựng sản phẩm của
cơ sở H sản xuất có hình dáng giống tương tự kiểu dáng bao bì đang được
bảo hộ độc quyền của xí nghiệp chúng tôi…”. Như vậy, kiểu dáng công
nghiệp nêu trong đơn xin cấp văn bằng bảo hộ đã được sử dụng công khai
trên thị trường trước ngày nộp đơn.
- Căn cứ điều 63, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam quy định thì kiểu dáng công nghiệp chưa bị bộc lộ công
khai tới mức căn cứ vào đó, một có trình độ trung bình có thể thực hiện được
8


9
kiểu dáng công nghiệp đó; trong khi đó kiểu dáng bao bì của ông Nguyễn Văn
Q lại rất đơn giản, không có gì là phức tạp, bất cứ một người nào khéo tay
(Không cần có trình độ kỹ thuật cao) cũng có thể làm được.
Như vậy, ngay trong đơn khiếu nại lần đầu của mình, ông Nguyễn Văn
Q đã tự thừa nhận mẫu bao bì của mình đã bị bộc lộ công khai trước ngày nộp

đơn xin cấp bằng bảo hộ. Ngày 03 tháng 7 năm 2009, Cục Sở hữu công
nghiệp có Công văn số 1198 gửi cho ông Nguyễn Văn Q, chủ xí nghiệp L với
nội dung: Kiểu dáng bao bì trong đơn xin đáp ứng văn bằng bảo hộ không đáp
ứng các điều kiện pháp luật quy định không có tính mới đã bị bộc lộ công
khai trước ngày nộp đơn, không đáp ứng đầy đủ các điều kiện pháp luật quy
định. Ngày 04 tháng 7 năm 2009, Cục trưởng Cục sở hữu trí công nghiệp đã
chính thức ra Quyết định số 42/QĐ-KN: Huỷ bỏ hiệu lực của Bằng độc quyền
kiểu dáng công nghiệp số 5211 cấp ngày 21 tháng 6 năm 2006 của ông
Nguyễn Văn Q.
II. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ
3.1. Mục tiêu giải quyết vấn đề
Để đảm bảo nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh, cần phải củng
cố tăng cường pháp chế XHCN, đặc biệt trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói
chung, quyền sở hữu công nghiệp nói riêng thì việc tăng cường pháp chế
XHCN càng có ý nghĩa hết sức quan trọng và thiết, đảm bảo cho việc xử lý
các hành vi xâm phạm về quyền sở hữu công nghiệp một cách chính xác,
đúng người, đúng tội, thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng
cho các tổ chức, cá nhân khi bị xâm hại quyền. Căn cứ vào các quy định hiện
hành của Nhà nước về sở hữu công nghiệp và bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp, mục tiêu của tiểu luận này chủ yếu liên quan đến tình huống đã nêu
trên, nhwng vẫn đảm bảo theo hướng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước: xây
dựng một xã hội Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn
minh.
+ Mục tiêu chung
9


10
Một là, nhà nước cần tăng cường pháp chế XHCN trên tất cả các lĩnh
vực, coi trọng công tác bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, chống xâm phạm

quyền sở hữu công nghiệp là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, không phải chỉ
của các cơ quan, tổ chức khác và mọi công dân, trong đó có các doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại và dịch vụ đóng vai trò hết sức
quan trọng.
Hai là, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần phải phát huy vai trò tích
cực trong hoạt động quản lý Nhà nước trên lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Xử
lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời các hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp, nâng cao uy tín của mình và tạo ra được lòng tin của nhân dân.
Đồng thời khi xem xét cần đảm bảo hào hoà giưa tính hợp tình và hợp lý.
Ba là, việc giải quyết tình huống trong tiểu luận này giúp cho bản thân
học tập kiến thức quản lý Nhà nước, nắm bắt thêm được các quy định của
pháp luật trên lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, còn nắm được các quy định
của pháp luật như trình tự, thủ tục, thời gian, thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
tố cáo.
+ Mục tiêu cụ thể
Một là, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần giải quyết triệt để vụ
việc này, không để tiếp tục kéo dài làm mất thời gian công sức của tất cả các
bên;
Hai là, tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên, xử
lý một cách có tình, có lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại;
III. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
3.1. Nguyên nhân
Sự việc trên xảy ra theo tôi do một số nguyên nhân sau:
+ Cục sở hữu công nghiệp: Khi xem xét hồ sơ xin cấp văn bằng bảo hộ
đã không kiểm tra đầy đủ các điều kiện pháp luật quy định, không kiểm tra lại
trên thực tế, dẫn đến việc cấp bằng theo kiểu dáng công nghiệp số 5211 ngày
21 tháng 6 năm 2006 cho ông Nguyễn Văn H không đủ cơ sở pháp lý. Cùng
chính văn bằng này đã dẫn đến các bên tranh chấp, kiện cáo lẫn nhau buộc
10



11
các cơ quan Nhà nước phải tham gia giải quyết. Đến khi có đơn khiếu nại mới
phát hiện ra và buộc phải ra quyết định huỷ bỏ hiệu lực của bằng đặc quyền
kiểu dáng công nghiệp số 5211.
+ UBND Thành phố V: Các bộ phận tham mưu giúp việc chưa xem xét
kỹ nội dung đơn khiếu nại xem có đúng hay không? ông Nguyễn Văn H có
được quyền khiếu nại không (sẽ phân tích ở phần các phương án giải quyết và
lựa chọn phương án giải quyết). Hay nói cách khác là bộ phận tham mưu chưa
nắm kỹ các quy định của pháp luật, từ đó, đã đề xuất cho lãnh đạo ra quyết
định xử phạt hành chính chưa chính xác.
+ Sở Khoa học và Công nghệ, Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng
là cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương, những chưa đi sâu đi sát thực tế
để nắm bắt tình hình thực tế, hướng dẫn các cá nhân, pháp nhân hoạt động
đúng các quy định của pháp luật:
Khi hướng dẫn ông Nguyễn Văn H làm thủ tục hồ sơ xin cấp văn bằng
bảo kiểu dáng công nghiệp, phải xem xét các điều kiện để cấp văn bằng đã đủ
chưa, có thỏa mãn đầy đủ các yếu tố của quy định Điều 63 Luật sở hữu trí tuệ
năm 2005: 1. Có tính mới; 2. Có tính sáng tạo; 3. Có khả năng áp dụng công
nghiệp. Nếu làm tốt bước này thì Cục Sở hữu công nghiệp sẽ không cấp bằng
độc lập quyền kiểu dáng công nghiệp cho ông Nguyễn Văn Q thiếu cơ sở pháp
lý, là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, kiện tụng nhau của hai cơ sở nói trên.
Khi xảy ra tranh chấp, Sở Khoa học và Công nghệ chưa tìm hiểu, kiểm
tra lại nội dung của đơn khiếu nại đã đúng chưa, ông Ông Phan Quang M có
được quyền khiếu nại không. Nếu làm tốt bước này thi tin chắc sẽ không có
việc UBND thành phố ra quyết định xử phạt hành chính đối với chủ cơ sở H.
+ Đối với ông Nguyễn Văn Q: Là một nhà kinh doanh, ông phải tìm
hiểu rõ các quy định của pháp luật trong hoạt động thương mại, nhất là lĩnh
vực quyền sở hữu công nghiệp. Ông Q nên tiếp xúc với chủ cơ sở H để thoả
thuận, yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm, ông tỏ ra thiếu thiện chí hay nói


11


12
cách khác đó là sự cạnh tranh không lành mạnh, muốn triệt tiêu đối thủ cùng
hoạt động trong cùng một lĩnh vực.
+ Đối với chủ cơ sở H: Do thói quen suy nghĩ đã là: cái gì đưa ra ngoài
xã hội, thị trường đều là của chung, ai cần thì cứ việc sao chép, bắt chước.
Ngay từ đầu cùng không am hiểu các quy định của pháp luật, chưa am hiểu hết
pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ. Chỉ sau khi bị xử phạt hành chính thì lúc đó
mới chịu tìm hiểu, đây cũng là một bài học kinh nghiệm đối với bản thân.
2.3 Hậu quả
Sự việc trên dẫn đến hậu quả sau:
Thứ nhất, chủ cơ sở H bị xử phạt hành chính nộp phạt 20 triệu đồng
còn phải huỷ bỏ toàn bộ số bao bì có hình dáng tương tự thay bằng một loại
bao bì mới, tốn thêm một khoản kinh phí không nhỏ. Ngoài ra còn bị mất uy
tín, danh dự đối với khách hàng.
Thứ hai, tạo nên mối quan hệ không tốt giữa 2 cơ sở sản xuất kinh
doanh cùng một mặt hàng trên cùng một địa bàn. Làm ảnh hưởng không tốt
đến khách hàng: băn khoăn không biết chọn sản phẩm của cơ sở nào hoặc
nghi nghờ về chất lượng sản phẩm X.
Thứ ba, làm cho dư luận hiểu sai lệch quá trình xử lý, làm ảnh hưởng
đến uy tín, thời gian của các cơ quan chức năng quản lý nhà nước.
IV. XÂY DỰNG, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ
4.1. Phân tích tình huống
Trước khi đi vào phân tích tình huống tìm hiểu nguyên nhân của sự
việc trên, chúng ta cần phải làm rõ một số khái niệm: quyền Sở hữu công
nghiệp, bảo hộ quyền sở hữu công nghiêp, hành vị xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp…

Quyền sở hữu công nghiệp
Theo khoản 4, điều 4, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 nước Cộng Hoà Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam: "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức,
cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do
12


13
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh".
Chính sách của Nhà nước về sở hữu trí tuệ
Điều 8, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam quy định:
1. Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên
cơ sở bảo đảm hài hoà lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích
công cộng; không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội,
trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh.
2. Khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khai thác tài sản trí tuệ
nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân.
3. Hỗ trợ tài chính cho việc nhận chuyển giao, khai thác quyền sở hữu
trí tuệ phục vụ lợi ích công cộng; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước
và nước ngoài tài trợ cho hoạt động sáng tạo và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
4. Ưu tiên đầu tư cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức, các đối tượng liên quan làm công tác bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ và nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp
Điều 126, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam quy định: các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền của

chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí:
1. Sử dụng sáng chế được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ
hoặc kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó, thiết
kế bố trí được bảo hộ hoặc bất kỳ phần nào có tính nguyên gốc của thiết kế bố
trí đó trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của
chủ sở hữu;
2. Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mà không
trả tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời quy định tại Điều 131 của
13


14
Luật này.
Sau khi cục Sở hữu công nghiệp ra quyết định huỷ bỏ hiệu lực bằng
độc quyền kiểu dáng công nghiệp 5211, có nghĩa là ông Nguyễn Văn Q
không còn lý do gì để kiện chủ cơ sở H nữa. Tuy nhiên, sự việc không phải là
kết thúc, vì khi giải quyết các cơ quan chức năng đã không xem xét toàn diện,
đầy đủ các tính tiết, yếu tố có liên quan đến nội dung sự việc, từ đó giải quyết
không chính xác, dứt điểm. Chính vì vậy, mà sự việc có thể còn sẽ tiếp tục
kéo dài để giải quyết hậu quả của nó, với các lý do sau:
Thứ nhất, Căn cứ điều 750, 751, Bộ luật Dân sự năn 2005 quy định:
Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh thuộc về tổ chức, cá
nhân có được thông tin tạo thành bí mật kinh doanh một cách hợp pháp và
thực hiện việc bảo mật thông tin đó, bao gồm:
Cấm người khác tiếp cận, sử dụng, tiết lộ bí mật kinh doanh.
Cấm người khác sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu của mình; cấm người khác sử dụng tên thương mại
gây nhầm lẫn với hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ hai, căn cứ vào điều 50, Nghị định số 63/CP ngày 24 tháng 10 năm
1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp: “Nếu trước

ngày công bố đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp mà có cá nhân, cá nhân hoặc chủ thể khác đã tiến
hành sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích kiểu dáng công nghiệp mà có cá
nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác đã tiến hành sử dụng sáng chế, giải pháp
hữu ích kiểu dáng công nghiệp một cách độc lập với chủ sở hữu đối tượng sở
hữu công nghiệp thi khi được cấp văn bằng bảo hộ, chủ sở hữu đối tượng
công nghiệp không được thực hiện quyền yêu cầu xử lý khởi kiện đối với cá
nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác đã sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
nói trên”
Các quy định trên chính là cơ sở để:

14


15
- Ông Nguyễn Văn Q xí nghiệp L tố cáo Ông Phan Quang M cơ sở H
xâm phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp.
- Đồng thời cũng là cơ sở để Ông Phan Quang M chủ cơ sở H có thể
đề nghị các cơ quan Nhà nứơc có thẩm quyền xem xét lại quyết định xử phạt
hành chính đối với ông, theo ông:
Trước khi bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số 5211 có hiệu lực
(căn cứ vào ngày ưu tiên ghi trong bằng) thì bao bì của cơ sở ông đã sử dụng
trước một cách độc lập.
Sau khi bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số 5211 có hiệu lực thì
cơ sở của ông vẫn duy trì hoạt động sản xuất bình thường không hề tăng thêm
khối lượng cũng như mở rộng phạm vi.
Hiện nay, bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp số 5211 đã bị Cục Sở
hữu trí tuệ huỷ bỏ hiệu lực. Như vậy, ông chủ cơ sở H có quyền khiếu nại để
đòi hỏi lại số tiền mà ông đã phải nộp phạt, tuy nhiên vấn đề đặt ra là lấy lại
tiền như thế nào? với hình thức khiếu nại ra sao?

4.2. Xây dựng phương án
Để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên có các phương án giải
quyết sự việc trên như sau:
+ Phương án 1: Hai bên thỏa thuận
Chủ cơ sở H có thể gặp ông Nguyễn Văn Q để thỏa thuận, đề nghị ông
Nguyễn Văn Q đền bù cho mình một khoản tiền mà mình bị thiệt hại, gồm: số
tiền nộp phạt và xin lỗi công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng
nhằm khôi phục lại danh dự, uy tín của mình. Đối với phương án này có mặt
ưu điểm và hạn chế như sau:
Ưu điểm: Sự việc nếu giải quyết theo phương án này mà thành công thì
mục tiêu đề ra đạt hiệu quả cao nhất, vừa có tình có lý, giải tỏa được mối căng
thẳng, mâu thuẫn giữa hai bên do quá trình khiếu nại tố cáo nhau gây ra, sự
việc giải quyết nhanh gọn, không làm mất thời gian của các cơ quan Nhà
nước.
15


16
Hạn chế: Khả năng thực hiện phụ thuộc nhiều vào hành vi cư sử thân
thiện của cả 2 bên vì:
Ông Nguyễn Văn Q sẽ khó chấp nhận bởi ngay từ đầu ông đã không có
thiện chí: Khi được cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp được ông
Nguyễn Văn Q đã tiến hành khiếu nại tố cáo chủ cơ sở H. Hơn nữa sau khi
chủ cơ sở H bị xử phạt thì ông vẫn tiếp tục khiếu nại tố cáo, có lẽ ông Q muốn
dùng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình, nghĩa là ông muốn dùng lý hơn
dùng tình để giải quyết sự việc;
Giả thiết nếu ông Nguyễn Văn Q đồng ý thỏa thuận, thì ông cũng phải
chấp nhận đền bù số tiền (20 triệu đồng) mà chủ cơ sở H đã nộp vào kho bạc
Nhà nước (chứ không phải nộp cho ông), như vậy ông Q bị thiệt hại không dễ
dàng chấp nhận;

Việc khiếu nại tố cáo của ông Q đã tạo ra những dư luận không tốt, làm
mất uy tín danh dự người khác, nay nếu chấp nhận thỏa thuận thì ông phải xin
lỗi, như vậy chính ông lại tự làm mất uy tín danh dự của mình không. Điều
này ông Q khó chấp nhận.
+ Phương án 2: Khiếu nại (lần hai) lên UBND tỉnh
Căn cứ vào Điều 118, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2008 về khiếu
nại quyết định hành chính, ông chủ cơ sở H tiếp tục làm đơn khiếu nại (lần
hai) gửi lên UBND tỉnh, là cấp trên trực tiếp của người đã ra quyết định xử
phạt, yêu cầu xem xét lại quyết định xử phạt số 11/QĐ-UB của UBND thành
phố V. Đối với phương án này có những ưu điểm và hạn chế sau:
Ưu điểm: Thời gian giải quyết nhanh, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
(UBND tỉnh) căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, ra quyết định
giải quyết khiếu nại (lần hai): Hủy bỏ toàn bộ nội dung của quyết định số
11/QĐ-UB ngày 08 tháng 6 năm 2009 của UBND thành phố V.
Hạn chế: Khả năng thực hiện khó vì những lý do sau: Nếu căn cứ vào
hiệu lực của Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp tại thời điểm kết luận, thì
việc ra quyết định số 11/QĐ- UB ngày 8 tháng 6 năm 2009 của UBND thành
phố là hoàn toàn đúng, nhưng nếu căn cứ vào các điều kiện để xin cấp văn
16


17
bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, thì có thể nói là Bằng độc quyền kiểu
dáng công nghiệp số 5211 cấp cho ông Nguyễn Văn H là không đúng pháp
luật, vì chưa đáp ứng đủ các điều kiện độc quyền kiểu dáng công nghiệp, cho
nên bằng độc quyền sẽ không phát sinh hiệu lực, thì việc ra quyết định số
11/QĐ-UB thành phố V là chưa hoàn toàn chính xác. Mặt khác, Điều 50 Nghị
định 63/CP ngày 24 tháng 10 năm 1996 thì ông Nguyễn Văn H không được
thực hiện quyền yêu cầu xử lý, khởi kiện đối với người sử dụng trước. Như
vậy, UBND tỉnh sẽ ra quyết định giải quyết khiếu nại (lần hai): Hủy bỏ toàn

bộ nội dung quyết định xử phạt hành chính số 11/QĐ-UB, tức là trả lại cho
ông chủ cơ sở H toàn bộ số tiền bị phạt là 20 triệu đồng.
Theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính tại điều 118
khoản 4 về khiếu nại quyết định xử phạt hành chính: “Trong trường hợp
người giải quyết khiếu nại ra quyết định thay đổi hình thức, mức độ, biện
pháp xử phạt, hủy quyết định xử phạt thì có thể quyết định việc bồi thường,
bồi hoàn thiệt hại trực tiếp (nếu có) theo quy định của pháp luật. Trong trường
hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định về bồi thường, bồi hoàn, thì
họ có thể yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”. Do đó, đồng
thời với việc hủy quyết định xử phạt, UBND tỉnh có thể phải bồi thường thiệt
hại (nếu có) cho chủ cơ sở H, nhưng việc ra quyết định xử phạt hành chính là
nhằm giải quyết đơn khiếu nại và bảo vệ quyền của ông M, như vậy ông M là
người có lợi, còn UBND tỉnh lại phải bồi thường thiệt hại cho ông chủ cơ sở
H là một điều vô lý. Hơn nữa thiệt hại ở đây (nếu có) là chưa tính toán được
cụ thể là bao nhiêu, trong trường hợp chủ cơ sở H không đồng ý với quyết
định bồi thường thiệt hại lại phải yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tóm lại, đối với phương án này chủ cơ sở H muốn lấy lại số tiền và đòi
bồi thường thiệt hại là khó và có thể tiếp tục kéo dài.
+ Phương án 3: Kết hợp giữa phương án 1 và phương án 2
Đây là phương án kết hợp giữa phương án 1 và phương án 2, lựa chọn
các mặt ưu điểm, khắc phục những mặt hạn chế của phương án 1 và phương
án 2, đó là: Về lý thì UBND tỉnh căn cứ vào đơn khiếu nại (lần hai) của chủ
17


18
cơ sở H, hủy bỏ toàn bộ nội dung của quyết định xử phạt hành chính số
11/QĐ-UB của UBND thành phố V, trả lại toàn bộ số tiền (20 triệu đồng) cho
chủ cơ sở H; về tình thì UBND tỉnh đứng ra làm công tác hòa giải giữa hai
bên. Hai bên sẽ cùng nhau thương lượng, giải quyết đền bù thiệt hại (nếu có),

ông Nguyễn Văn Q sẽ xin lỗi công khai chủ cơ sở H (giống như trước đây chủ
cơ sở H cũng đã từng xin lỗi ông Nguyễn Văn Q). Yêu cầu mỗi cơ sở sản xuất
kinh doanh cầm làm các thủ tục công bố nhãn hiệu hàng hoá riêng theo quy
định của pháp luật, tránh sự chồng chéo về nhãn hiệu hàng hoá trên thị
trường.
Tuy nhiên giải quyết theo phương án này cũng có mặt ưu và hạn chế sau:
Ưu điểm: Giải quyết triệt để vụ việc, không để kéo dài, đạt được mục
tiêu đề ra.
Hạn chế: UBND tỉnh phải trực tiếp đứng ra giải quyết, hay nói cách
khác là UBND tỉnh vừa làm công việc giải quyết khiếu nại tố cáo, vừa làm
công việc hòa giải giữa hai bên chứ không thể giao cho bất cứ cơ quan nào.
Đây là việc làm rất phức tạp và đòi hỏi sự khéo léo.
V. LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN.
5.1. Lựa chọn phương án
Từ phân tích các mặt ưu và hạn chế của từng phương án trên thì chọn
phương án 3 là tốt nhất: giữ vững mối đoàn kết giữa 2 cơ sở sản xuất kinh
doanh; Đảm bảo cạnh tranh lành mạnh; không gây thiệt hại về vật chất cho
các bên; khẳng định tinh thần chịu trách nhiệm trước nhân dân, tạo dựng uy
tín trước nhân dân của các cơ quan chức năng nhà nước. Đây là một cái mới
vì lâu nay người ta hay nghĩ đã là cấp trên, là cơ quan Nhà nước thì “luôn
luôn đúng”; đảm bảo hài hoà giữa lý và tình, giữa lợi ích kinh tế và xã hội.
5.2. Lập kế hoạch thực hiện
UBND tỉnh sẽ tổ chức và chủ trì cuộc họp với các thành phần tham dự:
Đại diện Sở Khoa học và Công nghệ; Sở thương mại – du lịch, Sở Công
nghiệp Chi cục tiêu chuẩn - Đo lường – chất lượng, có mời thêm phóng viên
của các cơ quan thông tin đại chúng, thông tấn báo chí. Tại cuộc họp, đại diện
18


19

UBND tỉnh sẽ nêu rõ lý do tổ chức cuộc họp, quá trình giải quyết vụ việc,
thiếu sót của các cơ quan Nhà nước trong quá trình giải quyết như: Cục Sở
hữu công nghiệp chưa xem xét kỹ các điều kiện để cấp văn bằng bảo hộ, Sở
Khoa học và Công nghệ chưa làm tròn chức năng tham mưu cho UBND trên
lĩnh vực mà mình phụ trách. Để từ đó ra quyết định xử phạt chưa được chính
xác, làm cho vụ việc kéo dài. Tất cả các thiếu sót từ các cơ quan Nhà nước
trên, là cơ quan hành chính cao nhất ở địa phương UBND tỉnh là người chịu
trách nhiệm, nhận khuyết điểm về mình. Tuy nhiên, về các bên tranh chấp
cũng phải thấy được cái sai, cái chưa đúng của mình, đó là chưa chịu tìm hiểu
các quy định của pháp luật trong kinh doanh, nhất là đối với ông Nguyễn Văn
Q, dẫn đến việc khiếu nại tố cáo không đúng quy định của pháp luật, làm mất
thời gian của các cơ quan Nhà nước, tạo ra dư luận không tốt trên địa bàn
tỉnh. Sau đó, UBND tỉnh ra quyết định giải quyết khiếu nại (lần hai): Hủy bỏ
toàn bộ nội dung của QĐ số 11/QĐ-UB của UBND thành phố V, trả lại cho
ông chủ cơ sở H số tiền đã nộp phạt; ông Nguyễn Văn Q có trách nhiệm xin
lỗi ông chủ cơ sở H. Yêu cầu mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh cầm làm các thủ
tục công bố nhãn hiệu hàng hoá riêng theo quy định của pháp luật, tránh sự
chồng chéo về nhãn hiệu hàng hoá trên thị trường. Đảm bảo tính mới và mỹ
thuật cho sản phẩm X.
Nhận định: sự việc trên nếu giải quyết theo phương án này thì chắc chắn
thành công vì:
Đối với ông Nguyễn Văn Q thì cái khó khăn nhất đối với ông chính là
việc phải xin lỗi ông chủ cơ sở H, thế nhưng trong cuộc họp trên, UBND tỉnh
– là cơ quan hành chính cao nhất ở địa phương cũng đã nhận khuyết điểm thì
đối với ông sẽ không còn mặc cảm nữa.
Đối với ông chủ cơ sở H thì mục đích khiếu nại của ông là nhằm muốn
chứng minh mình vô tội, lấy lại uy tín danh dự, nay mục đích của ông đã đạt:
được trả tiền, được ông Q xin lỗi.
Như vậy vụ việc trên đã được giải quyết xong, đạt được mục tiêu đề ra:
Nhanh, triệt để, không còn kéo dài, thấu tình đạt lý.

19


20
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
6.1. Kết luận
Sự việc trên là một trong những vụ việc xâm phạm sở hữu trí tuệ nói
chung, quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Việc áp dụng các đối tượng sở
hữu và sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra những loại hàng hóa mới có chất
lượng cao, hình thức đẹp và đa dạng, phản ánh sức sáng tạo trong việc tạo ra
những sản phẩm hàng hóa, góp phần tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh
tế. Chính vì vậy quyền sở hữu công nghiệp cũng được coi như là quyền dân
sự cần phải bảo vệ, được pháp luật thừa nhận và được bảo hộ trong thời gian
bảo hộ (thời hạn có hiệu lực của văn bằng bảo hộ). Do vậy, để bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của mình, chủ sở hữu công nghiệp có quyền yêu cầu các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt
hành vi đó và bồi thường thiệt hại.
Sự việc trên là một vụ điển hình mà khi giải quyết xong, cũng để lại
trong mỗi chúng ta những suy nghĩ, là một bài học cảnh báo cho các nhà sản
xuất kinh doanh, các cá nhân, pháp nhân cần phải hết sức thận trọng trong
hoạt động trên lĩnh vực thương mại, cũng như các cơ quan Nhà nước thẩm
quyền khi xem xét giải quyết tranh chấp sở hữu công nghiệp luôn khách quan,
giải quyết chính xác.
6.2. Kiến nghị
Nhà nước đã có một hệ thống pháp luật tương đương hoàn chỉnh và đồng
bộ về sở hữu trí tuệ, nâng cao hiệu lực pháp lý về sở hữu trí tuệ là cơ sở quan
trọng có ý nghĩa đối với quan hệ sở hữu trí tuệ nói chung, sở hữu công nghiệp
nói riêng. Để làm tốt công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực sở hữu công
nghiệp, tôi cũng xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:
Một là, các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải tăng cường công tác

tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung, pháp luật về sở hữu công nghiệp
nói riêng cho các tổ chức, cơ quan và mọi công dân biết để chấp hành và thực
hiện tốt. Tuyên truyền vận động nhân dân không buôn bán, tiếp tay bao che
cho các hành vi sản xuất buôn bán hàng giả. Chủ động tố giác những các sai
20


21
phậm vềpháp luật nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Các quy
định hình phạt đối với các tội sản xuất buôn bán hàng giả về kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa;
Hai là, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần phải tăng cường công
tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp để mọi người đều biết;
Ba là, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi tiếp nhận, thụ lý đơn
khiếu nại, tố cáo về xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cần phải nghiên cứu
thật kỹ các quy định của pháp luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm xem xét sự
việc một cách có tình có lý. Tránh cứng nhắc máy móc hoặc qua loa đại khái,
xử lý vội vàng dẫn đến oan sai, không chính xác làm suy giảm lòng tin của
nhân dân vào các cơ quan Nhà nước và pháp luật;
Bốn là, xây dựng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức có
trình độ, có chuyên môn cao và am hiểu về lĩnh vực sở hữu công nghiệp, đáp
ứng được nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay và lâu dài của đất nước;
Năm là, bản thân các doanh nghiệp cũng phải tự giác không sản xuất,
buôn bán hàng giả, thường xuyên thông báo cho người tiêu dùng nhận biết
các loại hàng giả hàng hóa của mình, đồng thời có biện pháp chống làm hàng
giả như: đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, tích cực phối
hợp và hỗ trợ các cơ quan Nhà nước trong công tác chống xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp.


21


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2005.
2. Luật khiếu nại, tố cáo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2005.
3. Luật Sở hữu trí tuệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2005.
4. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008;
5. Nghị định số 63/CP ngày 24 tháng 10 năm 1996 của Chính phủ quy
định chi tiết về sở hữu công nghiệp;
6. Nghị định số 106/2006/NĐ- CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính
phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

22



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×