Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Một Số Kiến Nghị Nhằm Thúc Đẩy Hoạt Động Xuất Khẩu Hàng Hoá Của Việt Nam Vào Thị Trường Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.73 KB, 34 trang )

Đề tài nghiên cứu khoa học
Lời mở đầu

Trong xu hớng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng phát triển
mạnh mẽ của kinh tế thế giới. Hiện nay, việc mở rộng các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại là một tất yếu khách quan. Đây là một quá trình thu hút các
nguồn lực phát triển bên ngoài đồng thời phát huy nội lực của nền kinh tế
trong nớc nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Việt Nam cũng vậy, với một nền kinh tế đang phát triển thì thơng
mại quốc tế đã tạo điều kiện cho Việt Nam tận dụng và phát huy lợi thế so
sánh của mình. Đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá giúp tăng
nguồn thu ngoại tệ, thúc đẩy sản xuất trong nớc, tạo công ăn việc làm, thúc
đẩy nhanh quá trình CNH- HĐH đất nớc. Đồng thời góp phần nâng cao vị
trí của Việt Nam trên thị trờng quốc tế và tạo điều kiện để Việt Nam tham
gia bình đẳng trong các hoạt động giao lu và quan hệ kinh tế quốc tế. Vì
vậy, Đảng và Nhà nớc chủ trơng thực hện đa dạng hoá thị trờng, đa phơng
hoá quan hệ kinh tế các nớc trong khu vực và trên thế giới, gia nhập các tổ
chức, các hiệp hội kinh tế khi cần thiết và có điều kiện. Đặc biệt là đối với
các nớc láng giềng có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, tơng đồng về văn
hoá... nh Trung Quốc, Thái Lan, Singapo...
Việt Nam và Trung Quốc là hai nớc láng giềng núi liền núi, sông
liền sông, quan hệ ngoại giao, văn hoá, thơng mại giữa hai nớc đã hình
thành từ lâu, nh một tất yếu khách quan và là mối quan hệ truyền thống bền
vững. Những biến động chính trị, xã hội trong lịch sử có những ảnh hởng
tiêu cực nhng cha bao giờ triệt tiêu hoàn toàn mối quan hệ giữa nhân dân
hai nớc. Chính vì vây, sau một thời kỳ sóng gió, với sự nỗ lực của cả hai
bên quan hệ đã trở lại bình thờng hoá vào cuối năm 1991. Từ đó đến nay
quan hệ giữa hai nớc nói chung và quan hệ thơng mại nói riêng đã phát
triển ngày càng mạnh, bền vững và đang trở thành một trong bộ phận quan
trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.


1


Đề tài nghiên cứu khoa học
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trờng
Trung Quốc vẫn gặp phải không ít những khó khăn, tồn tại cả ở tầm vỹ mô
và vi mô. Nên trong qúa trình học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực chuyên
ngành, quan tâm đến vấn đề Việt Nam trớc thềm hội nhập khu vực và
quốc tế và ý thức đợc sự cần thiết của sự phát triển quan hệ thơng mại Việt
Nam- Trung Quốc nên em quyết định chọn đề tài: Một số kiến nghị nhằm
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trờng Trung
Quốc. Nội dung của đề tài bao gồm ba chơng:
ChơngI: Tổng quan về thị trờng Trung Quốc.
Chơng II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị
trờng Trung Quốc từ năm 1991 đến nay.
ChơngIII: Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam vào thị trờng Trung Quốc.

2


Đề tài nghiên cứu khoa học

Mục lục

Lời mở đầu
Chơng I: Tổng quan về thị trờng Trung Quốc

I. Tổng quan về Trung Quốc
1. Đặc điểm vị trí địa lý kinh tế, xã hội của Trung Quốc

2. Sức mua của ngời tiêu dùng trung Quốc
II. Một số điểm cần lu ý ở thị trờng Trung Quốc

Chơng II. Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam vào
thị trờng Trung Quốc từ năm 1991 đến nay

Trang
1
3
3
3
4
6
8

I. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc từ

8

năm 1991 đến nay
1. Kim ngạch xuất khẩu
2. Cơ cấu hàng xuất khẩu
3. Phơng thức buôn bán
II. Đánh giá thực trạng xuất khẩu của Việt Nam sang thị

8
11
15
17


trờng Trung Quốc
1. Đặc điểm quan hệ thơng mại Việt Nam - Trung Quốc
2. Thuận lợi
3. Khó khăn và tồn tại
III. Triển vọng quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong

17
18
20
24

thời gian tới

Chơng III. Một số kiến nghị thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam vào thị trờng Trung Quốc

I. Đối với Nhà nớc
II. Đối với doanh nghiệp
Kết luận
Tài liệu tham khảo

3

25
25
27
31
32



Đề tài nghiên cứu khoa học
chơng I: Tổng quan về thị trờng Trung Quốc:
I, Tổng quan về Trung Quốc.

1, Đặc điểm vị trí địa lý, kinh tế, xã hội của Trung Quốc:
Trung Quốc là một thị trờng lớn đối với diện tích là 9,6 triệu km2, độ
dài đờng biên giới đất liền là 22143, 34km, đờng bờ biển là 14.500km, giáp
với rất nhiều nớc nh ấn Độ, Bắc Triều Tiên. Myanmar, Lào, Nga, Mông Cổ,
Nepal, Tajikistan, Việt Nam ... nên rất thuận lợi cho việc mở rộng hoạt
động buôn bán qua biên giới với các nớc láng giềng, trong đó có Việt Nam.
Thủ đô của Trung Quốc là Bắc Kinh, cùng với các đặc khu hành chính
Hồng Kông, MaKao, Thành phố Thợng Hải, Thiên Tân, Vũ Hán, Thẩm Dơng, Quảng Châu, Trùng Khánh, Thành Đô và Cáp Nhĩ Tân có sự phát
triển kinh tế rất cao, góp phần chủ yếu vào sự tăng trởng kinh tế Trung
Quốc tơng đối cao trong các năm qua, năm 2000 đạt 8,0%, 2001 đạt 7,3%
sau 1997 khi Hồng Kông trở về với Trung Quốc.
Về văn hoá- xã hội, Trung Quốc là một quốc gia có nền văn hoá rất
phong phú, đa dạng và mang nhiều nét đặc trng của phong cách á Đông.
Từ đó hình thành thói quen tiêu dùng đặc trng của ngời Phơng Đông, sống
giản dị, tiết kiệm, mang nặng t tởng phong kiến, coi trọng quan hệ gia đình.
Trong gia đình ngời đàn ông đóng vai trò trụ cột và thờng là ngời ra quyết
định các loại hàng hoá có giá trị cao.
Trung Quốc là một nớc trong hệ thống XHCN, tiến hành cải cách
kinh tế năm 1979 từ đó nền kinh tế Trung Quốc không ngừng phát triển với
tốc độ cao. Kéo theo đó là sự thay đổi thói quen tiêu dùng, các sản phẩm
cao cấp, sản phẩm nhập ngoại phổ biến hơn.
Một thị trờng có 1,3 tỷ dân, GDP năm 2001 (đạt 1,179,9) tỷ USD, có
nơi thu nhập rất cao bằng các nớc phát triển vào khoảng 18000 - 20000
USD/ năm/ đầu ngời, nhng cũng có nơi chỉ đạt 250 - 300 USD/ năm/ một
ngời vị thế sức mua rất đa dạng, từ hàng có chất lợng trung bình đến hàng
4



Đề tài nghiên cứu khoa học
cao cấp. Qua đó, ta nhận thấy thị trờng Trung Quốc có nhiều nét tơng đồng
với Việt Nam. Điều này rất thuận lợi cho việc hàng hoá Việt Nam thâm
nhập thị trờng này.
2.Sức mua của ngời tiêu dùng Trung Quốc:
Nhu cầu của thị trờng Trung Quốc khá đa dạng và có thể đợc xem
nh một thị trờng dễ tính do có các tầng lớp dân c thu nhập khác nhau, nên
sức mua rất phong phú. Trên thị trờng cùng tồn tại các loại hàng hoá có quy
cách, chất lợng khác xa nhau đến mức giá cả chênh lệch nhau hàng chục
thậm chí hàng trăm lần. Với sự chênh lệch rõ rệt nh vậy phản ánh sức mua
của từng vùng. Sức mua của phần lớn dân thành thị (nh ở Thâm Quyến,
Quảng Tây..) là khoảng 10.000 đến 100.000 NDT/ một ngời/ một năm( từ
1.210 đến 12.097 USD), một phần nhỏ dân thành thị có sức mua trên
100.000 NDT. ở nông thôn ( nh ở các vùng miền Tây) sức mua trung bình
từ 1.000 đến 10.000 NDT( 121 đến 1210 USD). Sức mua của ngời tiêu dùng
Trung Quốc đợc chia ra làm bốn nhóm sau:
*Nhóm ngời tiêu dùng có thu nhập cao:
Ngời tiêu dùng có thu nhập cao tức là có mức thu nhập trung bình từ
18.840 NDT trở lên. Số lợng này vào khoảng 14 triệu, chiếm 10% dân số đô
thị và 3,5% đân số toàn quốc. Sức mua của họ là 840 tỉ NDT, chiếm 17%
tổng sức mua của toàn quốc. Trong nhóm này chiếm phần lớn nhất là các
chủ doanh nghiệp(31%), tiếp theo là cán bộ cấp cao, các chủ doanh nghiệp
t nhân, các chuyên viên kỹ thuật cao...Đối với nhóm ngời tiêu dùng này,
hàng hoá chất lợng cao, có hàm lợng kỹ thuật cao, mẫu mã phong phú, kiểu
dáng đẹp, sang trọng sẽ đợc a thích hơn. Giá cả có thể không phải là yếu tố
quan trọng. Chúng ta có thể các mặt hàng tiêu dùng cao cấp phục vụ tiêu
dùng của tầng lớp này.
*Nhóm ngời tiêu dùng có thu nhập trung bình:

Nhóm này bao gồm những ngời có mức thu nhập trung bình từ 6000
đến 7000 NDT và có số lợng khoảng 445 triệu, chiếm khoảng 10% dân số
nông thôn và 80% dân số thành thị. Nhóm này có sức mua là 2,89 nghìn tỉ
5


Đề tài nghiên cứu khoa học
NDT, chiếm gần 60% sức mua của toàn quốc, bao gồm phần lớn dân thành
thị và một số lợng nhỏ dân giàu ở nông thôn, chủ yếu là các quan chức
chính phủ, cán bộ công nhân viên...Hàng hoá có chất lợng vừa phải, một số
mặt hàng có hàm lợng kỹ thuật cao, mẫu mã đẹp sẽ đợc a thích. Giá cả
cũng có thể coi là một yếu tố quyết định đến viẹc mua sản phẩm hay không.
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể có thể cung cấp các mặt hàng tiêu dùng
có chất lợng vừa phải, giá cả phải chăng cho nhóm ngời tiêu dùng này.Đặc
biệt nhóm này có sức mua lớn( gần 60% tổng sức mua), coi đây là nhóm
khách hàng tiềm năng của các doanh nghiệp Việt Nam.
*Nhóm ngời tiêu dùng có thu nhập thấp:
Bao gồm những ngời có thu nhập ròng 2000 NDT(242 USD) có thu
nhập gia đình khoảng 7000 đến 8000 NDT (847 đến 968 USD). Có khoảng
689 triệu ngời thuộc nhóm này, chiếm 10% dân thành thị, 80% dân nông
thôn. Số gia đình thuộc nhóm này là 200 triệu. Sức mua của ngời tiêu dùng
nhóm này là 1,33 tỷ NDT, chiếm khoảng 27% sức mua toàn quốc.
*Nhóm còn lại:
Nhóm này bao gồm những ngời tiêu dùng có mức thu nhập khoảng
700 NDT(85 USD) chiếm gần 10% dân số toàn quốc.
Ngời tiêu dùng của hai nhóm này a chuộng các sản phẩm có chất lợng thấp hơn, không cần chú ý nhiều đến hình thức, kiểu dáng của sản
phẩm, giá cả hàng hoá là một yếu tố hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp
Việt Nam cũng có thể coi đây là lớp khách hàng tiềm năng cho các hàng
hoá xuất khẩu có chất lợng cha cao, chỉ ở mức sản xuất đại trà vì hai nhóm
tiêu dùng chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng sức mua( hơn 30%).

Chính sự phân nhóm tiêu dùng này đã tạo điều kiện thuân lợi cho các
nhà xuất khẩu đa hàng hoá phù hợp với yêu cầu của từng khu vực thị trờng
về giá cả và chất lợng, giúp khai thác hết tiềm năng tiêu dùng của ngời tiêu
dùng Trung Quốc.
II. Một số điểm cần lu ý ở thị trờng Trung Quốc:

6


Đề tài nghiên cứu khoa học
Thị trờng Trung Quốc có một số điểm cần lu ý sau:
Về mặt pháp lý:
Trung Quốc đã xây dựng đợc một hệ thống Luật pháp ngoại thơng tơng đối
hoàn thiện gồm có Luật ngoại thơng ra đời vào tháng 7/ 1994 làm nền tảng
tiêu chuẩn hoá các hoạt động ngoại thơng. Luật này quy định việc quản lý
các nhà doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực ngoại thơng, các mặt hàng
xuất nhập khẩu, kiểm dịch động vật, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, trọng tài
kinh tế và thơng mại cóliên quan đến quyền lợi và doanh thu từ phía nớc
ngoài. Ngoài luật ngoại thơng còn có các văn bản pháp lý tham khảo khác
liên quan nh:
- Quy định về những vấn đề liên quan đến việc kiểm tra và phê
chuẩn cho phép các công ty ngoại thong hoạt động.
- Các quy trình tạm thời về điều hành và quản lý các mặt hàng
xuất nhập khẩu.
- Luật và quy định chính đối với việc quản lý các mặt hàng nhập
khẩu
- Các bộ luật về quy trình quản lý nhãn hiệu các mặt hàng thực
phẩm xuất nhập khẩu và kiểm dịch động thực vật
- Luật Hải quan...
Về hệ thống thuế và các quy định về giấy phép, hạn ngạch đối với

hàng hoá nhập khẩu:
Đối với hệ thống thuế, đặc biệt quan tâm tới thuế nhập. Thuế nhập
khẩu của Trung Quốc cũng tính theo giá CIF nh các nớc có nền kinh tế thị
trờng. Tại hội nghị APEC tại OSAKA( Nhật Bản), Trung Quốc đã chấp
nhận giảm thuế từ năm 1996 cho trên 4000 mặt hàng với mức thuế ít nhất là
30% trong tổng số 6000 mặt hàng nhập khẩu, trong đó có các mặt hàng của
Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Nhng từ đầu năm 2001, Trung Quốc
đã tăng thuế suất rất cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu có khối lợng
lớn theo đờng biên mậu từ Việt Nam sang, ví dụ nh hàng Thuỷ Sản thuế
nhập khẩu đã tăng đến 27% nếu nh trớc đây hầu nh không thuế.
7


Đề tài nghiên cứu khoa học
Ngoài thuế ra Trung Quốc còn sử dụng biện pháp quản lý hàng hoá nhập
khẩu theo hạn ngạch và giấy phép đối với các loại hàng hoá tổng hợp, máy
móc và thiết bị điện tử, hàng nông sản nh cao su thiên nhiên, hạt ngũ cốc...,
dầu thực vật, một số hàng dệt may, linh kiện điện tử...
Về vấn đề sở hữu trí tuệ:
Mặt khác Trung Quốc đã trở thành thành viên của Tổ chức Thơng mại Thế
giới( WTO) nên phạm vi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, ngăn cấm, và xử lý tội
giả mạo, ăn cắp bản quyền. Điều này tạo điều kiện thuận lợi. Cho doanh
nghiệp Việt Nam khi đăng ký nhãn hiệu thơng mại ở Trung Quốc, tránh
tình trạng mất thơng hiệu nh một số sản phẩm xuất của Việt Nam trong thời
gian qua. Đồng thời cũng khuyến nghị cho các doanh nghiệp Việt Nam
thực hiện việc đăng ký nhãn hiệu thơng mại, bản quyền tác giả...
* Về kinh tế:
Thứ nhất, các doanh nghiệp Trung Quốc thờng thích thanh toán và
mua bán qua đờng biên mậu vì họ có những u đãi nhất định của Chính phủ
Trung Quốc.

Thứ hai, khi phải cạnh tranh với hàng hoá Trung Quốc ở bất cứ một
thị trờng nào, ngay cả trên thị trờng Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt
Nam không nên đối đầu. Cái gì Trung Quốc không sản xuất thì chúng ta
sản xuất nếu không rất dễ thất bại do hàng hoá của Trung Quốc có khả
năng cạnh tranh về giá, mẫu mã, chủng loại sản phẩm.
Thứ ba, để thâm nhập vào Trung Quốc, các doanh nghiệp nên cố
gắng cải tiến mẫu mã, xem xét giá thành vì tại thị trờng này, mẫu mã thay
đổi liên tục. Nhà nớc cần hỗ trợ ban đầu cho các doanh nghiệp thâm nhập
thị trờng nh chia sẻ kinh phí tổ chức hội chợ triển lãm, giảm thua lỗ cho các
doanh nghiệp bắt đầu vào chiếm thị trờng.
Tóm lại, Trung Quốc là một thị trờng tơng đối dễ tính và phù hợp với
khả năng của Việt Nam. Đây là một thị trờng đầy triển vọng đối với Việt

8


Đề tài nghiên cứu khoa học
Nam trong khi mà chúng ta cha có những biện pháp để khai thác thị trờng
rộng lớn với mức tiêu thụ 1,3 tỷ dân này.
Chơng II: Thực trạng xuất khẩu của Việt Nam
vào thị trờng Trung Quốc từ 1991 đến nay.

I. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc
trong giai đoạn 1991 đến nay:

Ngày 7 -11- 1991 tại lầu số 18, Nhà khách chính phủ Điếu Ng Đài ở
Bắc Kinh đã diễn ra cuộc hội đàm quan trọng giữa các nhà lãnh đạo cấp cao
nhất Việt Nam và Trung Quốc. Kết quả cuộc hội thảo là các hiệp định hợp
tác và ra thông báo chung Việt Nam - Trung Quốc về bình thờng hoá quan
hệ. Để có đợc kết quả nh vậy là do sự nỗ lực, thiện chí giữa chính phủ và

nhân dân 2 nớc trong suốt thời gian trớc đó. Từ đó sự giao lu, hợp tác Việt
Trung trên các lĩnh vực ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Những quá
khứ để lại đã đợc hai bên giải quyết dần từng bớc. Hai nớc đã ký kết hiệp ớc
về biên giới trên đất liền, hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và hiệp định
nghề cá. Đặc biệt, quan hệ thơng mại giữa hai nớc mở ra một trang mới với
nhiều thành tựu và triển vọng.
1. Kim ngạch xuất khẩu:
Kể từ 1991 trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Trung
Quốc không ngừng tăng lên, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế
nớc nhà. Đặc biệt, năm 2000, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1.534 triệu
USD, tăng 79 lần so với năm 1991 là 19,3 triệu USD. Riêng 6 tháng đầu
năm 2001, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Trung Quốc đạt 794, triệu
USD với mức tăng trởng là 30%. Tính trung bình tốc độ tăng trởng giai
đoạn 1991 đến nay là khoảng xấp xỉ 20%/ năm. Tốc độ phát triển này khá
cao so với tốc độ phát triển thơng mại Việt Nam với một số nớc khác (nh

9


Đề tài nghiên cứu khoa học
Mỹ, EU, Nhật Bản) đã phần nào chứng minh đợc tiềm năng xuất khẩu của
Việt Nam vào Trung Quốc.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá Việt Nam sang Trung Quốc trong giai đoạn 1991 - 2000 cụ thể
nh sau:
Bảng 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam - Trung Quốc
thời kỳ 1991-2000:
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1991

1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000

Kim ngạch xuất khẩu
19,3
95,6
135,8
295,7
361,9
340,2
471,1
478,9
858,9
1.534,0

Tốc độ phát triển
395%
42%
118%
22%
- 5%
38%
1.7%

79%
78%

(Nguồn: Hải Quan Việt Nam)

Trong giai đoạn này xuất khẩu Việt Nam sang Trung Quốc tăng đều
qua các năm. Theo bảng 1, nếu nh năm 1991 Việt Nam mới xuất khẩu sang
Trung Quốc 19,3 triệu USD thì năm 1992 tăng lên 95,6 triệu USD, xấp xỉ 4
lần so với năm 1992, năm 1993 đạt 135,8 triệu USD, tăng 42% và đến năm
1995 đạt 361,9 triệu USD, tăng 22% so với năm 1994. Mức tăng đều hàng
năm cho thấy khả năng duy trì xuất khẩu khá tốt, luồng lu thông hàng hoá
ngày càng cao. Tuy nhiên, năm 1996 kim ngạch xuất khẩu giảm nhẹ từ
361,9 triệu USD năm 1995 xuống còn 340,2 triệu USD ( bằng 94%) do sự
dao động của thị trờng qua hàng năm, sự biến động này có thể chấp nhận đợc.
Trong giai đoạn 1991 - 1996 kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và
Trung Quốc tăng đều hàng năm và chỉ giảm nhẹ vào năm 1996. Nhng đến
năm 1997 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam và Trung Quốc lại
tăng lên và đạt 471,1 triệu USD, đặc biệt năm 1997 Việt Nam xuất siêu
10


Đề tài nghiên cứu khoa học
sang Trung Quốc (70 triệu USD). Nguyên nhân xuất siêu là do năm 1997,
Việt Nam giảm nhận thiết bị cho các nhà máy đờng, xi măng, nhất là đối
với các thiết bị của nhà máy xi măng lò đứng (gần nh không nhập nữa) đã
làm giảm kim ngạch nhập khẩu, trong khi số lợng hàng hoá xuất khẩu vẫn
đợc duy trì, dẫn đến xuất siêu. Các năm sau kim ngạch vẫn tiếp tục năng lên
đạt 478,9 triệu USD vào năm 1998, đạt 858,9 triệu USD năm 1999, năm
2000 đạt 1.534,0 triệu USD là liên tục xuất siêu qua các năm đó.
Có hai nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến tình hình xuất siêu của Việt

Nam: thứ nhất do trong mấy năm gần đây ảnh hởng của cuộc tài chính
Châu á đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu của các nhà nhập khẩu Hàn Quốc,
Thái Lan. Indonesia, là những nớc thiệt hại lớn trong cuộc khủng hoảng và
cũng là đối tác thơng mại lớn của Việt Nam. Vì vậy các doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam phải tìm đối tác cho sản phẩm của mình bằng cách xuất
khẩu sang Trung Quốc.Thứ hai, mấy năm gần đây Việt Nam đã bắt đầu coi
Trung Quốc là một thị trờng xuất khẩu quan trọng nên tập trung khai thác,
tìm cách tăng xuất khẩu sang thị trờng này.
Nhìn chung, trong giai đoạn 1991 - 2000, ta đã dần nâng cao kim
ngạch xuất khẩu với Trung Quốc và duy trì tăng trởng ổn định, bất chấp sự
biến động của nền kinh tế khu vực và thế giới. Chứng tỏ, Việt Nam đã, đang
và sẽ coi Trung Quốc là một thị trờng xuất khẩu quan trọng, cố gắng tạo
nhiều cơ hội để tăng kim ngạch trong thời gian tới với một tốc độ tăng trởng
cao, đây đợc coi là một kết quả đáng ghi nhận trọng trao đổi thơng mại nói
chung và quan hệ thơng mại Việt Nam Trung Quốc nói riêng.
2. Cơ cấu hàng xuất khẩu:
Trung Quốc là một trong những nớc có nền máy móc - công nghệ
khá phát triển trong khu vực cũng nh trên thế giới. Với thế mạnh là giá rẻ,
công nghệ sản xuất khá tiên tiến, mẫu mã đẹp.. sản phẩm của Trung Quốc
không chỉ có u thế trên thị trờng Châu á mà còn chiếm lĩnh đợc thị trờng
các nớc Châu Âu và Châu Mỹ. Một trong những khó khăn của Việt Nam
khi xuất khẩu hàng sang Trung Quốc là những mặt hàng đợc coi là thế
11


Đề tài nghiên cứu khoa học
mạnh của Việt Nam nh gạo, cà phê, chè và một số sản phẩm nông nghiệp
khác cũng là thế mạnh của Trung Quốc nên những mặt hàng này rất khó
mở rộng thị trờng, nâng cao số lợng tiêu thụ tại thị trờng nớc này.
Trong giai đoạn đầu sau khi bình thờng hoá quan hệ, hàng xuất khẩu

của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là nông sản và một vài khoáng sản
có thế mạnh nh quặng crôm, dầu thô. Tuy nhiên, các sản phẩm này chủ yếu
là nguyên liệu thô cha qua chế biến, loại hàng Công nghiệp tiêu dùng chiếm
một tỷ lệ nhỏ
Số liệu cụ thể về cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung
Quốc giai đoạn 1992 -1995 nh sau:

12


Đề tài nghiên cứu khoa học
Bảng 2: Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang
Trung Quốc giai đoạn 1992- 1995.
Đơn vị: nghìn USD
Tên hàng

1992

1993

Hạt điều

3.485

16.885

1.2

Hải sản


2.939

8.293

12

Cà phê hạt

1.2709

0.113

10

Chè

0.808

0.305

Dừa quả

1.647

1.151

Cao su

72.636


41.87
5

Gỗ xẻ

0.316

0.337

Quặng crôm

1.725

0.637

Than

0.998

0.873

Dầu dừa

7.954

2.097

Dầu thô

31.722


1994

10.75

1995

14.780

5.77

7.60

106.420

( Nguồn: Hải Quan Việt Nam )

Theo bảng 2, ta thấy nhìn chung các mặt hàng tăng trởng không đều:
dầu thô, cao su, hạt điều, hải sản là những mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu lớn trong giai đoạn này. Mặt hàng dầu thô có kim ngạch xuất khẩu
cao nhất, đạt 106,42 triệu USD, vào năm 1995, mặt hàng Hải sản cũng tăng
đều và đạt 12 nghìn USD vào năm 1995, mặt hàng cà phê hạt đạt đợc mức
tăng trởng ấn tợng từ 1,27 nghìn USD năm 1992 lên 10 USD năm 1995.
Tuy nhiên, mặt hàng cao su lại có xu hớng giảm dần từ 72,636 nghìn USD
năm 1992 xuống còn 10,75 nghìn USD năm 1994 và tăng trở lại 14,78
nghìn USD năm 1995. Nói chung các mặt hàng xuất khẩu giai đoạn này
chủ yếu dới dạng nguyên liệu thô, cha qua sơ chế, chất lợng hàng hoá
không cao, lên giá trị xuất khẩu cha cao, giá trị gia tăng còn thấp.
13



Đề tài nghiên cứu khoa học
Vì vậy, để nâng cao kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp phải kết
hợp nâng cao khối lợng hàng xuất khẩu và nâng cao hàm lợng kỹ thuật
trong hàng hoá, từ đó nâng cao chất lợng trong hàng hoá, tăng giá trị xuất
khẩu. Đây là một trong những khó khăn chung của ngành thơng mại Việt
Nam,đòi hỏi Việt Nam phải chuyển hớng giảm xuất khẩu nguyên liệu thô
tăng khối lợng hàng hoá qua thời kỳ. Hớng đi này cần phải nhanh đợc áp
dụng trong mọi quan hệ thơng mại giữa Việt Nam với các nớc trong đó có
Trung Quốc.
Trong giai đoạn 1996 - 2000 giá trị kim ngạch xuất khẩu sang Trung
Quốc tăng lên đáng kể so với giai đoạn trớc. Các sản phẩm cây công nghiệp
nh dầu thô, hải sản, cà phê, cao su, hạt điều vẫn chiếm một phần đáng kể
trong kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, một số mặt hàng khác nh hàng dệt
may, hải sản cũng đã bớc đầu thâm nhập thị trờng Trung Quốc
Bảng 3: Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Trung
Quốc giai đoạn 1996- 2000.
Đơn vị: USD
Tênhàng

1996

Càphê

1997

1998

1999


2000

3.552.836

2.028.000

3.7 000000

3.1000.000

Cao su

60.109.096

92.389.261

64.828.000

51.800.000

66.400.000

Dầu thô

16.671.913

87.770.939

86.719.000


331.700.000

749.000.000

Gạo

24.057.883

3.177.937

333.000

500.000

Hải sản

9.571.148

32.800.000

51.100.000

223.000.000

Hàng dệt may 126.160

2.600.000

600.000


Hàng rau quả

5.097.606

24.800.000

10.400.000

35.700.000

120.400.000

Hạt điều

1.134.323

87.216.486

58.607.000

54.500.000

53.300.000

28.693.603

19.115.110

5.227.000


3.600.000

7.900.000

Than đá

(Nguồn: Hải Quan Việt Nam )

Đáng chú ý là dầu thô ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và tăng đều hơn
so với giai đoạn trớc. Nếu nh 1993 kim ngạch dầu thô là 31,722 triệu USD,
năm 1994 giảm xuống rất thấp còn 7.600.000 USD thì năm 1996 con số

14


Đề tài nghiên cứu khoa học
này đã là 16.671.913 USD và tăng lên 141.371.655 USD năm 1997 và đạt
749 triệu USD vào năm 2000. Mặt hàng hải sản cũng vậy, nếu nh năm 1996
mới đạt 9,6 triệu USD thì đến năm 2000 đã tăng lên 223 triệu USD. Năm
1996 mặt hàng rau quả đạt 5,1 triệu USD thì đến năm 2000 cũng tăng lên
đến 120,4 triệu USD. Trong khi đó kim ngạch xuất khẩu than đá dờng nh có
xu hớng giảm mạnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ 28.693.603 USD
(1996) xuống chỉ còn 5.227.000 USD (1997).
Qua đó, ta nhận thấy trong giai đoạn 1996 - 2000 hầu hết các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng cao, chất lợng hàng hoá đợc cải thiện
nhiều, sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với hàng hoá Trung quốc
và hàng hoá của các nớc khác nhập khẩu vào Trung Quốc cũng đợc tăng lên
rõ rệt. Đặc biệt thấy đợc sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, sản phẩm
đã đã qua sơ chế tăng lên đáng kể, giảm xuất khẩu hàng hoá dới dạng
nguyên liệu thô, trong thời gian tới, chúng ta nên đẩy mạnh kim ngạch xuất

khẩu các mặt hàng chủ yếu nh dầu thô, cà phê, hàng rau quả, hải sản, hạt
điều, cà phê hạt... Đây là một kết quả đáng mừng của sự thay đổi trong
chính sách xuất khẩu của Việt Nam
Đặc biệt năm 2000, Việt Nam đã xuất sang Trung Quốc một mặt
hàng mới mà trớc đây cha có, đó là linh kiện vi tính với kim ngạch đạt 3,5
triệu USD và Trung Quốc đang nhập khẩu 60% sản lợng cao su xuất khẩu
của Việt Nam (gần 80.000T).
Nhìn chung, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc có thể
chia thành 4 nhóm chính nh sau:
- Nhóm hàng nguyên liệu gồm than đá, dầu thô, quặng sắt, quặng
cromit, các loại dầu, cao su thiên nhiên...
- Nhóm hàng nông sản gồm lơng thực, chè, rau, gạo, hạt điều, các
loại hoa quả nhiệt đối nh chuối, xoài, thanh long, chôm chôm ..., các loại
gỗ...
- Nhóm hàng thuỷ sản tơi sống và đông lạnh, nh tôm, cá, cua..., động
vật nuôi nh rắn, ba ba...
15


Đề tài nghiên cứu khoa học
- Nhóm hàng tiêu dùng, khả năng thủ công mỹ nghệ, giày dép, đồ gia
dụng cao cấp...
Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng này khá phân tán, chỉ có một số
mặt hàng nh cao su thiên nhiên, dầu thô, là có mức xuất khẩu lớn và khá ổn
định. Qua bảng thống kê trên đây cho thấy, Trung Quốc là một thị trờng lớn
có nhu cầu nhập khẩu cao một số mặt hàng từ Việt Nam nh hạt điều, cao
su, hàng rau quả, than đá, dầu thô, hải sản...Đây cũng là một số gợi mở về
mặt hàng cho các doanh nghiệp Việt Nam nhằm tiếp cận và mở rộng thị
phần tại thị trờng này. Tuy nhiên, chúng ta không thể nâng cao kim ngạch
xuất khẩu chỉ bằng cách tăng khối lợng, nhất là đối với các mặt hàng dầu

thô, than đá mà phải nâng cao chất lợng, tăng tỷ lệ hàng xuất đã qua chế
biến nhằm hạn chế việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, có
nh vậy mới đảm bảo cho sự phát triển bền vững của haọt động xuất khẩu
nói chung.
3. Phơng thức buôn bán:
Hoạt động ngoại thơng giữa hai nớc đợc thực hiện thông qua nhiều
phơng thức khác nhau nh buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch, tạm
nhập tái xuất. Nhng trong đó buôn bán chính ngạch và tiểu ngạch là phơng
thức chính. Hoạt động chính ngạch và tiểu ngạch đã phát triển do đợc sự
chú trọng của cả hai phía, nhất là sau Hiệp định thơng mại đợc ký kết vào
năm 1991 đã góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày
càng tăng lên. Bên cạnh đó, trao đổi thơng mại của dân c khu vực biên giới
cũng đợc mở rộng và phát triển. Đến nay, trên biên giới phía Bắc đã mở 25
cặp cửa khẩu trên bộ, trong đó có 18 cặp theo Hiệp định tạm thời (gồm 4
cửa khẩu quốc tế, 7 cửa khẩu quốc gia, 7 cửa khẩu địa phơng), 7 cặp cửa
khẩu mở ngoài Hiệp định do sự thoả thuận của địa phơng hai bên, trong số
này 2 cửa khẩu Ka Long( Móng Cái) và Tân Khanh (Lạng Sơn) hoạt động
nhôn nhịp hơn các cửa khẩu chính. Ngoài ra còn hàng trăm đờng mòn, hàng
chục chợ đờng biên qua lại cho dân c hai bên vùng miền biên giới qua lại
giao lu.
16


Đề tài nghiên cứu khoa học
*Đối với hoạt động chính ngạch:
Giai đoạn đầu(1991- 1993) mậu dịch chính ngạch chỉ chiếm một
phần nhỏ so với mậu dịch tiểu ngạch. Từ năm 1994- 1998 hoạt động buôn
bán chính ngạch đã vơn lên giữ vị trí áp đảo trong tổng kim ngạch xuất
khẩu với Trung Quốc ( chiếm 70 -75% tổng kim ngạch xuất khẩu). Do đặc
thù là Việt Nam và Trung Quốc có chung đờng biên giới trên bộ khá dài

(1350 km) nên trao đổi qua các cửa khẩu ở khu vực biên giới trên bộ diễn ra
hết sức mạnh mẽ và chiếm phần lớn lợng hàng hoá trao đổi của hai phía.
Các chủ thể tham gia xuất khẩu chính ngạch chủ yếu là Doanh nghiệp Nhà
nớc ở các tỉnh biên giới có liên doanh với các Tổng công ty ở sâu trong nội
địa, sau đó hình thành mạng lới kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp Nhà
nớc trong cả nớc cùng tham gia. Các hình thức giao dịch trong buôn bán
chính ngạch cũng rất đa dạng và đã áp dụng các phơng thức buôn bán thông
dụng trong thơng mại quốc tế nh Hợp đồng mua bán.Bên cạnh đó, các hình
thức gia công, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu cũng bớc đầu đợc thực hiện
và có xu hớng gia tăng. Có thể thấy rằng hoạt động xuất khẩu chính ngạch
giữa Việt Nam vào Trung Quốc trong giai đoạn vừa qua đã đạt đợc những
kết quả đáng ghi nhận, song chính sự nhộn nhịp này cũng đã gây nên những
khó khăn nhất định cho hoạt động quản lý của phía Việt Nam. Đó chính là
sự hỗn loạn, tranh mua tranh bán làm cho việc quản lý hoạt động thơng
mại, nhất là khu vực biên giới trở nên khó khăn và phức tạp hơn.
*Đối với hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch:
Cùng với sự phát triển khá nhanh của hoạt động xuất nhập khẩu
chính ngạch, hoạt động xuất nhập tiểu ngạch cũng diễn ra rất sôi động.
Trong giai đoạn 1991- 1996, tiểu ngạch tăng bình quân 56%/ năm. Hoạt
động xuất nhập khẩu tiểu ngạch thờng chiếm khoảng 25- 30% tổng kim
ngạch xuất khẩu với Trung Quốc. Theo thống kê của Tổng cục Hải Quan
thì năm 1997, con số này là 31,25% trong tổng kim ngạch buôn bán hai
chiều, năm 1998 là 41,76%.

17


Đề tài nghiên cứu khoa học
Với thực trạng nh vậy, trong tơng lai Nhà nớc cần có những biện
pháp để hớng tới tăng hoạt động xuất khẩu chính ngạch, hạn chế xuất khẩu

tiểu ngạch và dần dần xoá bỏ hoàn toàn. Do hoạt động xuất khẩu tiểu ngạch
tồn tại những nhợc điểm không nhỏ. Đó là, Nhà nớc không kiểm soát đợc
số lợng hàng hoá xuất khẩu gây thất thu thuế lớn ( do tính thuế gộp) cho
ngân sách Nhà nớc, làm gia tăng hoạt động buôn lậu biên giới Việt Trung.
Mặt khác Nhà nớc không thể đánh giá thực chất về tình hình xuất khẩu, sản
xuất của các doanh nghiệp ( Nếu chỉ thông qua số liệu xuất khẩu chính
ngạch) từ đó có cái nhìn "méo mó" về hoạt động sản xuất, xuất khẩu của
các doanh nghiệp, đa ra các chính sách không phù hợp, sát thực với thực tế.
Đối với tiểu ngạch chỉ có các doanh nghiệp, nhân dân ở vùng ven biên giới
buôn bán với nhau nên nó chỉ là giải pháp trong giai đoạn đầu khi sự phát
triển kinh tế cha cao ( vì nó giúp cải thiện đời sống nhân dân hai nớc vùng
giáp biên giới).
Trong khi đó, với hoạt động xuất khẩu chính ngạch thì nó tạo điều
kiện cho hệ thống các doanh nghiệp sâu trong nội địa phát triển hoạt động
xuất khẩu hoạt động sang Trung Quốc, giúp Nhà nớc kiểm soát đợc số lợng
hàng hoá xuất khẩu qua biên giới Việt Trung, ngăn chặn đợc phần lớn hoạt
động qua biên giới, có cái nhìn sát thực hơn với thực tế tình hình xuất khẩu.
II. Đáng giá thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trờng Trung Quốc:

1. Đặc điểm của quan hệ thơng mại Việt Nam- Trung Quốc:
Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng, nên trong quan
hệ, đặc biệt là quan hệ thơng giữa hai nớc có những đặc điểm riêng biệt.
Đặc điểm đầu tiên phải kể đến đó là Việt Nam và Trung Quốc có hoàn cảnh
địa lý gần gũi, có truyền thống văn hoá tơng đồng, gắn bó lẫn nhau, hệ
thống chính trị. Do có chung biên giới cả đờng bộ và đờng biển nên quan hệ
thơng mại qua biên giới rất phát triển, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu
tiểu ngạch. Sự gần gũi, tơng đồng về văn hoá này góp phần quan trọng vào

18



Đề tài nghiên cứu khoa học
việc tăng cờng sự hiểu biết và giao lu giữa nhân dân hai nớc chẳng những
trong thế kỷ XXI mà còn mãi mãi về sau.
Tiếp theo phải kể đến là mối quan hệ Việt- Trung đợc dựa trên cơ sở
mối quan hệ ngoại giao giữa chính phủ hai nớc, đặc biệt mối quan hệ này
mới chuyển từ bạn sang thù nên còn rất nhiều cơ hội cho cả hai bên. Một
đặc biểm khá quan trọng nữa là hiện nay Trung Quốc đang xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp với Hiệp hội các nớc Đông Nam á(ASEAN) mà Việt Nam
là một thành viên. Trong thời gian qua, ASEAN + 3(các nớc ASEAN và
Trung Quốc,Hàn Quốc, Nhật Bản), ASEAN +1( Các nớc ASEAN và Trung
Quốc), quan hệ trong tổ chức hợp tác Châu á- Thái Bình Dơng (APEC) và
các kế hoạch hợp tác phát triển kinh tế nh việc xây dựng con đờng xuyên á,
đờng sắt ASEAN nối Trung Quốc với các quốc gia khác đã, đang và sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho quan hệ thơng mại Việt- Trung phát triển. Các đặc
điểm nêu trên tạo ra nhiều điệu thuận lợi nhng cũng không ít khó khăn cho
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc ở cả tầm vỹ mô và vi
mô.
2.Thuận lợi:
Thứ nhất, Việt Nam và Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông, có
đờng biên giới chung trên đất liền dài khoảng 1350 km chạy qua sáu tỉnh
( 31 huyện) của Việt Nam và hai tỉnh gồm sáu thành phố, địa khu, châu(14
huyện) của Trung Quốc. Trên biên giới chung của có 18 cặp cặp cửa khẩu
bao gồm cả cửa khẩu quốc gia và cửa khẩu cấp tỉnh. Số km biên giới chung
của cả hai nớc, cũng nh số cửa khẩu các cấp đều nhiều hơn so với các nớc
Đông Nam á khác. Gần đây nhiều cửa khẩu nh Đông Hng- Móng Cái,
Bang Tờng- Đồng Đăng, Pò Chài- Tân Khanh, Hà Khẩu- Lào Cai đã có ý tởng xây dựng thành những khu buôn bán tự do,là điều kiện hết sức thuận
lợi cho điều kiện buôn bán của nhân đân và thơng nhân hai nớc. Còn giúp
cắt giảm đợc nhiều khoản chi phí, đặc biệt là chi phí vận chuyển, lu kho, lu

bãi..từ đó giảm đợc giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh cho hàng hoá.

19


Đề tài nghiên cứu khoa học
Thứ hai, phát triển buôn bán qua biên giới Việt Nam- Trung Quốc
không thể tách rời trong bối cảnh chung về quan hệ hai nớc. Tháng 2 năm
1999 Tổng Bí th hai nớc, đã xác lập khuôn khổ mới cho Việt Nam và Trung
Quốc theo phơng châm 16 chữ Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hớng tới tơng lai. Phơng châm này sẽ tạo điều kiện thuận cho
xuất khẩu Việt Nam cả chính ngạch và tiểu ngạch.
Thứ ba, Trung Quốc với diện tích 9,6 triệu km2( rông thứ ba thế
giới), dân số là 1,3 tỷ ngời(1/5 dân số thế giới), đây là thị trờng có tiềm
năng mà cha đợc khai thác xứng với tiềm năng vốn có. Đòi hỏi các doanh
nghiệp Việt Nam cần có những chính sách, kế hoạch trong ngắn, trung và
dài hạn để thâm nhập và khai thác thị trờng này.
Thứ t, cả hai đều chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng vùng biên giới
chung, chú trọng xây dựng môi trờng phần cứng( đờng, điện, nớc..), xây
dựng các thành phố cửa khẩu biên giới. Đồng thời, chú trong xây dựng môi
trờng pháp lý, hai nớc đã ký kết đợc 19 Hiệp định hợp tác kinh tế thơng mại
( trong tổng số 30 Hiệp định và thoả thuận đã đợc ký kết, đáng lu ý là Hiệp
định kinh tế buôn bán, Hiệp định tạm thời về việc xử lý đờng biên giới hai
nớc, Hiệp định hợp tác và bảo đảm và chứng nhận lẫn nhau về hàng hoá
xuất nhập khẩu, Ghi nhận hội đàm chống buôn lậu, Hiệp định về mua bán
hàng hoá vùng biên giới giữa Chính phủ nớc CHXHCN Việt Nam và nớc
CHND Trung Hoa (năm 1998), Hiệp ớc biên giới trên đất liền giữa hai nớc
(ký ngày 30/12/1999). Qua đó Chính phủ hai nớc khuyến khích các doanh
nghiệp của nhau tiến hàng hoạt động kinh doanh nh Chính phủ Trung Quốc
khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam cùng tham gia vào chiến dịch

Đại khai phá Miền Tây, phát triển thị trờng tỉnh Vân Nam- Trung
Quốc ...nhằm thúc đẩy hoạt động hợp tác kinh tế đầu t, thơng mại. Tỉnh
Vân Nam là tỉnh ở vùng tây nam Trung Quốc với diện tích 380.000 km2,
dân số 42 triệu ngời, là thị trờng còn thiếu hụt nhiều hàng hoá mà các
doanh nghiệp Việt Nam cha khai thác. Hơn nữa, hai tỉnh Vân Nam và
Quảng Tây ngày càng coi trọng phát triển quan hệ giữa các nớc láng giềng,
20


Đề tài nghiên cứu khoa học
trong đó Việt Nam đợc xem là đối tợng hết sức quan trọng. Mới đây, hai
tỉnh này đã có một số chính sách, biện pháp tăng cờng mở cửa, trao đổi
kinh tế đối ngoại, trong đó Việt Nam là trọng điểm. Đây có thể đợc xem là
điều kiện thuận lợi cho hàng hoá của ta thâm nhập thị trờng này, tiêu biểu
nh mặt hàng thuỷ sản đợc tiêu thụ mạnhở các tỉnh Tây nam.
Thứ năm, Việt Nam sẽ trở thành thành viên của khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (APTA), Hội nghị hợp tác kinh tế ASEAN +1(bao gồm các nớc
ASEAN và Trung Quốc),Trung Quốc vừa trở thành thành viên của Tổ chức
Thơng Mại thế giới- WTO... ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho thơng
mại hai nớc, đặc biệt có lợi cho Việt Nam nh đợc hởng quy chế tối huệ
quốc...
Thứ sáu, Việc phát triển thơng mại không ngừng giữa hai bên trong
suốt thời gian qua sẽ là cơ sở cho sự phát triển hơn nữa trong tơng lai với dự
kiến buôn bán hai chiều Việt Nam- Trung Quốc từ năm 2000 đến 2010 đạt
mức tăng trởng là 8- 15%.
Tóm lại, những điều kiện thuận lợi cơ bản này sẽ kết hợp với sự cố
gắng của cả hai bên thì tin rằng trong thế kỷ mới tiềm năng xuất khẩu Việt
Nam- Trung Quốc không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận
lợi còn có nhiều khó khăn, tồn tại mà cần đợc giải quyết, khắc phục trong
cả ngắn và dài hạn.

3.Khó khăn và tồn tại:
Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu Việt Nam vào Trung Quốc cha tơng
xứng với tiềm năng của mỗi nớc. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1,5 tỷ USD năm 2000, nhng con số này
còn quá nhỏ bé so với trên 150 tỷ USD tổng giá trị nhập khẩu vào thị trờng
này hàng năm. Việt Nam với chủ là nớc xuất khẩu thứ 29 trên 220 nớc xuất
khẩu vào Trung Quốc. Cho nên con đờng hàng hoá Việt Nam sang Trung
Quốc có thể nói vẫn cha đợc khai thông.
Thứ hai, quan hệ Việt Nam giữa hai nớc trong 10 năm qua phát triển
dựa trên sự chênh lệch rõ về trình độ, đó là trình độ phát triển Khoa học kỹ
21


Đề tài nghiên cứu khoa học
thuật và kinh tế của Trung Quốc cao hơn Việt Nam. Điều này đợc thể hiện
rõ ở cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Việt Nam vào Trung Quốc và nhập khẩu từ
thị trờng này. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu, qua sơ chế,
hàm lợng kỹ thuật cha cao, tỷ lệ hàng tiêu dùng, qua chế biến thấp. Cơ cấu
hàng xuất khẩu của Việt Nam không đa dạng, giá trị thấp, mẫu mã đơn điệu
và thờng bị tác động của giá cả trên thị trờng thế giới theo xu hớng bất lợi
cho Việt Nam.
Thứ ba, trong phơng thức buôn bán, tỷ lệ xuất khẩu tiểu ngạch còn
cao ( từ 25 -30%) nên cha tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt
Nam thâm nhập sâu vào thị trờng nội địa, mới chỉ dừng lại ở một số tình
giáp biên giới nh Quảng Tây, Vân Nam, chỉ có một số doanh nghiệp vơn
sâu vào các tỉnh ven biển nh Phúc Kiến, Hải Nam, Các đặc khu kinh tế nh
Thâm Quyến, Triết Giang... Nh vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cha thể
khai thác đợc tiềm năng của thị trờng Trung Quốc với các khách hàng có
mức thu nhập cao, tập trung ở các thành phố có trình độ phát triển kinh tế
cao nên lợi nhuận đem lại cho doanh nghiệp cha nhiều.

Thứ t, Mặc dù ngày 26- 5- 1993 Ngân hàng Trung ơng của Việt Nam
và Trung Quốc đã ký hiệp định hợp tác thanh toán, theo đó mọi khoản
thanh toán phải thông qua Ngân hàng thơng mại hai nớc theo hệ thống quốc
tế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Nhng thực tế từ 10 năm nay buôn bán
qua biên giới Việt- Trung, tuy đã có sự chuyển đổi từ chỗ hoàn toàn tự phát
qua phơng thức Hàng đổi hàng, buôn bán trao ta, tiến tới ký kết hợp
đồng, thanh toán qua ngân hàng nhng đến nay lợng thanh toán qua Ngân
hàng còn rất nhỏ (dới 10%) tổng kim ngạch hàng hoá. Ngân hàng cha làm
đợc chức năng kiểm soát và kinh doanh tiền tệ. Thị trờng chợ đen buôn bán
tiền công khai ở các cửa khẩu biên giới hai nớc vẫn hoành hành, hiện tợng
lừa đảo, chiếm dụng vốn, lu hành tiền giả ở các tỉnh biên giới diễn ra thờng
xuyên. Điều này ảnh hởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu Việt Nam sang
Trung Quốc.

22


Đề tài nghiên cứu khoa học
Thứ năm, Quản lý hoạt động xuất khẩu và hỗ trợ xúc tiến thơng mại
của Việt Nam còn nhiều yếu kém. Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt
ngoại thơng giữa Việt Nam và Trung Quốc cha đầy đủ, phù hợp. Hoạt động
quản lý cửa khẩu, hải quan ở biên giới còn nhiều khó khăn và tiêu cực. Tuy
hai bên đã có "Ghi nhận hội đàm" chống buôn lậu, hay Hiệp định hợp tác
đảm bảo và chứng nhận lẫn nhau về hàng hoá xuất nhập khẩu nhng vẫn
không ngăn chặn đợc làn sóng hàng giả, hàng kém phẩm chất và buôn lậu
qua biên giới. Các hoạt động hỗ trợ, xúc tiến thơng mại của Việt Nam sang
thị trờng Trung Quốc còn yếu kém, làm cho các doanh nghiệp Việt Nam
còn thiếu thông tin về thị trờng, dẫn đến nhiều doanh nghiệp thiếu hiểu biết
cụ thể về thị hiếu ngời tiêu dùng, về thị trờng, về các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu của Trung Quốc. Điều này ảnh hởng lớn đến khả năng thâm

nhập sâu hơn vào thị trờng đầy tiềm năng này của các doanh nghiệp Việt
Nam.
Thứ sáu, các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam cha thực
sự phát huy đợc hết vai trò của mình trong hoạt động thúc đẩy xuất khẩu
sang Trung Quốc. Nên đã gây ra những tổn thất và khó khăn cho doanh
nghiệp thành viên khi kinh doanh trên thị trờng Trung Quốc nh việc mất
thơng hiệu của kẹo dừa Bến Tre, ứ đọng hàng hoa quả ở cửa khẩu biên
giới...
Trên đây là những thuận lợi và khó khăn, tồn tại. Chúng ta chủ trơng
giữ vững đờng lối phát triển kinh tế của đất nớc là phát huy nội lực, đẩy
mạnh CNH- HĐH đất nớc vì chỉ nh vậy chúng ta mới tăng cờng hợp tác
kinh tế quốc tế nói chung và phát triển quan hệ kinh tế thơng mại với Trung
Quốc nói riêng. Những khó khăn, tồn tại trên sẽ đợc chính phủ hai nớc giải
quyết bằng hệ thống chính sách đổi mới, phù hợp với điều kiện của từng nớc và thiện chí hợp tác của phía bạn.
III. Triển vọng quan hệ thơng mại Việt Nam- Trung Quốc
trong thời gian tới:

23


Đề tài nghiên cứu khoa học
Qua phân tích thực trạng xuất khẩu của Việt Nam vàoTrung Quốc
trong 10 năm qua có thể khẳng định rằng: Mặc dù còn nhiều tồn tại nhng
hoạt động xuất khẩu giữa hai nớc đã đạt đợc nhiều thành tựu đáng khích lệ.
Đặc biệt trong cuộc cạnh tranh với hàng Trung Quốc, nhiều sản phẩm của
Việt Nam đã nâng cao về chất lợng, đã cải tiến về mẫu mã nh sản phẩm
ngành may mặc, hàng tiêu dùng, đồ điện tử...và đã có những thị phần nhất
định ở Trung Quốc. Nhiều hàng hoá trớc đây cha có thị trờng xuất khẩu thì
nay đã xuất đợc sang thị trờng Trung Quốc. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam đã trởng thành qua 10 năm buôn bán với các doanh nghiệp

Trung Quốc. Tình hình này cho thấy triển vọng quan hệ ngoại thơng giữa
hai nớc trong thời gian tới có nhiều hứa hẹn, triển vọng phát triển theo hớng
tích cực hơn.Dự báo rằng, từ này đến năm 2010, kim ngạch xuất nhập khẩu
Việt Nam- Trung Quốc sẽ tăng ở mức từ 8- 15%/ năm.
Sở dĩ có thể đa ra triển vọng lạc quan về sự phát triển quan hệ thơng
mại hai nớc những năm tới nh vậy là do một số lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, bớc vào thế kỷ XXI- thế kỷ của nền kinh tế tri thức, của xu
thế hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới sẽ mở
ra nhiều cơ hội cho quan hệ kinh tế thơng mại hai nớc, trong đó có xuất
khẩu của Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Tuyên bố chung về hợp
tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nớc CHXHCN Việt Nam và nớc CHND
Trung Hoa ngày 29-12-2000 và nhiều văn kiện khác nhằm tạo cơ sở vững
chắc cho quan hệ ngoại thơng hai nớc phát triển trong thế kỷ XXI theo phơng châm láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hớng
tới tơng lai. Đồng thời cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên của
tổ chức kinh tế Châu á- Thái Bình Dơng (APEC) và khi hội nghị hợp tác
kinh tế ASEAN +1, ASEAN +3 vừa diễn ra giữa các nớc ASEAN, trong đó
có Việt Nam, và Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản sẽ mở ra một trang mới
trong quan hệ kinh tế nói chung, quan hệ thơng mại nói riêng giữa các nớc
phát triển. Điều này tạo điều kiện cho chính phủ hai nớc, các doanh nghiệp
24


Đề tài nghiên cứu khoa học
Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trờng Trung Quốc qua các hình thức
liên doanh, liên kết hai bên cùng có lợi.
Thứ ba, đối với Việt Nam, trong thời gian tới, Trung Quốc là thị trờng đầy tiềm năng, do:
- Khi Trung Quốc đã là thành viên chính thức của tổ chức thơng mại
thế giới WTO thì thị trờng xuất khẩu Trung Quốc đợc mở rộng, vốn nớc
ngoài đầu t đổ vào càng nhiều, có thể du nhập chuyển giao công nghệ kỹ

thuật và thiết bị máy móc tơng đối tốt, sẽ dành đợc các mặt hàng nhập khẩu
chất lợng tốt, giá rẻ. Từ đó thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc, tăng cờng
nhu cầu tiêu dùng trong nớc cả về tiêu dùng cho sản xuất (các nguyên
nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất mà hiện nay Việt Nam đang xuất khẩu
sang Trung Quốc) và cả tiêu dung cá nhân.
- Trung Quốc là thị trờng có sức mua đa dạng, dễ tính với 1,3 tỷ dân,
có nơi mức thu nhập rất cao từ 18.000- 20.000 USD/ 1 ngời/ năm, có nơi
chỉ từ 250- 300 USD/ 1 ngời/ năm. Đây là thuận lợi rất cơ bản cho hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt Nam vì hàng ở mọi mức chất lợng cũng có
thể xuất khẩu sang Trung Quốc.
- Trung Quốc có thị trờng nội tệ ổn định trong 10 năm qua.
Thứ t, xu hớng tích cực hợp tác đi đôi với cạnh tranh mạnh mẽ là
động lực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc phát
triển theo hớng lâu dài, bền vững , toàn diện và sâu sắc hơn.

25


×