Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở xí nghiệp in hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.41 KB, 84 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Hiệu quả kinh doanh là vấn đề đặt ra cho mọi doanh nghiệp, đặc
biệt là trong nền kinh tế thị trường. Các nhà đầu tư, các chủ doanh
nghiệp trước khi ra quyết định bỏ vốn đầu tư vào một ngành, một
sản phẩm, dịch vụ nào đó ngoài việc trả lời các câu hỏi: Sản xuất cái
gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? còn phải biết chi phí
bỏ ra và lợi ích thu được. Dĩ nhiên rằng, lợi ích thu được phải lớn
hơn chi phí bỏ ra mới mong thu được lợi nhuận, hay nói cách khác
các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp bao giờ cũng mong muốn
được lợi nhuận tối đa với chi phí thấp nhất có thể. Sở dĩ như vậy vì
lợi nhuận mà nói rộng ra là hiệu quả kinh doanh vừa là động lực,
vừa là tiền đề để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được
trong điều kiện cạnh tranh vô cùng khắc nghiệt, mọi rỉu ro, bất trắc
có thể xảy ra, nguy cơ phá sản luôn luôn rình rập...
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay hiệu quả kinh doanh
đối với các doanh nghiệp được quan tâm hàng đầu. Đối với các
doanh nghiệp đây là vấn đề khó khăn chưa được giải quyết triệt để.
Để giải quyết nó không những phải có kiến thức năng lực mà cần
phải có năng lực thực tế, đó là kinh nghiệm, sự nhạy bén với thị
trường...
Với nhận thức đó và quá trình thực tập tại Xí nghiệp In Hà Tây,
em đã đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này và chọn đề tài “Một số biện
1


pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Xí nghiệp In Hà
Tây”.
Nội dung đề tài được trình bày theo kết cấu sau :
- Chương I: Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.


- Chương II: Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí
nghiệp In Hà Tây.
- Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh tại Xí nghiệp In Hà Tây.
Trong quá trình thực tập và hoàn thành bài viết này do còn hạn
chế về thời gian và kiến thức nên bài viết của em không tránh khỏi
sai sót rất mong được sự nhận xét, đánh giá của các thầy cô để bài
viết này của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công
nhân viên phòng tổ chức lao động, phòng kế toán- tài vụ và ban lãnh
đạo công ty đặc biệt là cô giáo Cao Mai Lan đã tận tình hướng dẫn
em hoàn thành bài viết này.

Hà Tây, tháng 8 năm
2006

2


CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại:
1.Những quan điểm về hiệu quả kinh doanh ở doanh
nghiệp:
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp đều có mục
tiêu bao trùm là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này mỗi
doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược kinh doanh trước mắt và lâu
dài phù hợp với sự biến động liên tục của cơ chế thị trường. Mặt
khác, trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động

sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn luôn kiểm tra đánh
3


giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt động
sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp cũng như toàn bộ
phận, từng lĩnh vực bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp không
thể không thực hiện các tính toán hiệu quả kinh tế của hoạt động sản
xuất kinh doanh .
Vậy hiệu quả kinh doanh là gì?
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nhằm thu được kết quả cao nhất với một chi phí
thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo trình độ tổ
chức quản lý kinh doanh mà hiệu quả kinh doanh là vấn đề sống còn
đối với mỗi doanh nghiệp.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh
doanh. Tuỳ theo từng lĩnh vực nghiên cứu mà người ta đưa ra các
quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh. Dưới đây là một số
quan điểm về hiệu quả kinh doanh :
Nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith chi rằng: "Hiệu quả
là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, doanh thu trên tiêu thụ
hàng hoá". Ở đây, hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có thể tăng do tăng chi phí,
mở rộng các nguồn sản xuất .
Quan điểm thứ hai cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là quan hệ
tỷ lệ giữa phần tăng thêm của phần kết quả và phần tăng thêm của
chi phí". Quan điểm này đã xác định hiệu quả trên cơ sở so sánh
thương đối giữa kết quả đạt được với phần chi phí bỏ ra để được kết
quả đó.Tuy nhiên quan điểm này chỉ đánh giá được hiệu quả của

phần kết quả sản xuất kinh doanh mà không đánh giá đưộctàn bộ
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quan điểm thứ ba cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh được đo
bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó".
4


Ưu điểm của quan niệm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất
của hiệu quả kinh tế. Nó gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi
hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử sụng các yếu tố. Tuy nhiên ,
quan điểm này chưa phản ánh được tương quan về lượng và chất,
giữa kết quả và chi phí.
Quan điểm thứ tư cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là múc độ
thoả mãn yêu cầu quy luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng
quỹ tiêu dùng với tư cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi
người trong doanh nghiệp". Quan điểm này đã bám sát mục tiêu cho
nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Song, đời sống nhân dân nói chung
và mức sống nói riêng rất đa dạng phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ.
Do đó, rất khó khăn trong việc xác định các mục tiêu do mức độ
thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống.
Quan điểm thứ năm cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu
kinh tế-xã hội tổng hợp để lựa chọn các phương án hoặc các quyết
định trong quá trình hoạt động thực tiễn ở mọi lĩnh vực và mọi thời
điểm". Bất kỳ các quyết định cần đạt được phương án tốt nhất trong
điều kiện cho phép, giải pháp thực hiện có tính cân nhắc, tính chính
xác phù hợp với sự tất yếu của quy luật khách quan trong từng điều
kiện cụ thể.
Nhìn chung, để làm sáng tỏ bản chất và đi đến một khái niệm
hiệu quả kinh doanh hoàn chỉnh thì chưa có cách giải quyết triệt

để.Thật khó đánh giá mức độ đạt được hiệu quả kinh doanh của hoạt
động thương mại hay doanh nghiệp kinh doanh thương mại khi mà
bản thân phạm trù này chưa định rõ được bản chất và hiệu quả đó.
Tuy nhiên, thông qua những khái niệm trên ta có thể hiểu:
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế được hiểu ở mức độ
chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng, tạo đà tăng
trưởng kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, tài lực,
5


tiền vốn của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá
trình sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện được mục tiêu sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp đã xác định.
2. Bản chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp:
Là một chỉ tiêu phản ánh mặt chất lượng các hoạt động kinh
doanh và việc lợi dụng nguồn lực lao động, máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu, tiền vốn nhằm đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận.
Bản chất này được thể hiện rõ khi xác định hiệu quả kinh
doanh thì phải xây dựng được kết quả và chi phí mà doanh nghiệp
bỏ ra (trong một thời gian nào đó) nghĩa là phải tập hợp xác định
được hiệu quả mỗi hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, một
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả đồng nghĩa với doanh nghiệp đã
thực hiện tốt việc khai thác thị trường, nắm bắt nhu cầu của thị
trường làm cho sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp có khả năng
cạnh tranh cao, sử dụng máy móc với công suất cho phép, giảm chi
lao động phù hợp, giảm chi phí không cần thiết khác.
Mỗi doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh đóng
một vai trò nhất định trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy việc nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng

của các ngành trong nền kinh tế nói chung là một yêu cầu bức thiết
nhằm phát triển kinh tế xã hội Việt Nam hiện tại cũng như trong
tương lai.
Hiệu quả kinh doanh phải được xem xét dưới hai góc độ đó là
hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội
2.1/ Hiệu quả kinh tế:
Là một phạm trù phản ánh trình độ và chất lượng của quá trình
kinh doanh mà doanh nghiệp thực hiện, nó được xác định bằng
tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để thu được kết
6


quả đó. Hiệu quả kinh tế còn là thước đo trình độ quản lý của các
nhà quản lý kinh doanh trong từng giai đoạn xây dựng và phát triển
doanh nghiệp.
2.2/ Hiệu quả xã hội:
Là lợi ích về mặt xã hội mà doanh nghiệp, ngành đem lại cho
nền kinh tế quốc dân và xã hội. Hiệu quả về mặt xã hội được thể
hiện ở mức đóng góp của doanh nghiệp vào việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội như: tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước,
phát triển và đổi mới cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân...
hiệu quả xã hội có tính gián tiếp, lâu dài. Do đó rất khó định lượng
nhưng có thể xác định bằng định tính vai trò của nó đối với sự phát
triển nói chung.
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp được biểu hiện bằng mối
quan hệ giữa các chỉ tiêu kết quả thu được và chi phí bỏ ra để thu
được kết quả đó.
Giữa hiệu quả và kết quả của hoạt động kinh doanh không
đồng nhất với nhau. Đã có thời kỳ chúng ta quan niệm hiệu quả
kinh doanh chính là kết quả kinh doanh. Theo quan niệm này thì ở

hai mức chi phí khác nhau nhưng có cùng kết quả thì chúng có cùng
hiệu quả. Song thực sự không phải như vậy.
Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là những gì
doanh nghiệp đạt được sau một quá trình kinh doanh nhất định. Kết
quả hoạt động kinh doanh có thể là những đại lượng cân đo, đong
đếm được như số sản phẩm tiêu thụ được mỗi loại, doanh thu, lợi
nhuận, thị phần và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt
chất lượng hoàn toàn có tính như uy tín của doanh nghiệp, chất
lượng sản phẩm.
Như vậy kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp.
Đối với hiệu quả kinh doanh người ta sử dụng 2 chỉ tiêu là kết quả
và chi phí. Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả 2 chỉ
7


tiêu này đều có thể xác định bằng các đơn vị hiện vật và đơn vị giá
trị. Nếu sử dụng đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả kinh doanh sẽ
vấp phải khó khăn về sự không đồng nhất đơn vị đo lường giữa
"đầu vào" và "đầu ra" của quá trình kinh doanh.
Song nếu sử dụng đơn vị giá trị để các định hiệu quả kinh
doanh thì sự mất chính xác là rất cao vì phai đưa các đại lượng khác
nhau về cùng một đơn vị đo lường, đó là tiền tệ chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố. trong thực tế người ta sử dụng các chỉ tiêu hoạt động
như mục tiêu cần đạt tới của doanh nghiệp, song trong nhiều trường
hợp khác nhau người ta sủ dụng chúng như các công cụ để nhận biết
"khả năng" tiến tới mục tiêu cần đạt được là kết quả.
Trong qúa trình đào thải của cơ chế thị trường chỉ những
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả mới có thể tồn tại và phát triển.
Do vậy, mỗi doanh nghiệp khi kinh doanh phải co thu nhập để bù
đắp những chi phí, đồng thời đảm bảo quá trình tái đầu tư mở rộng

kinh doanh. Sự phát triển các yếu tố đó đòi hỏi các doanh nghiệp
phải phấn đấu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện cả
về không gian và thời gian trong mối quan hệ chung của nền kinh tế
quốc dân. Hiệu quả đó bao gồm cả 2 mặt của nền kinh tế và xã hội,
điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp không thể vì lợi ích trược mắt
mà quên đi lợi ích lâu dài, vì lợi ích kinh tế của doanh nghiệp mà
quên đi lợi ích của toàn xã hội.
Trong thực tế kinh doanh điều này rất dễ xảy ra. Ví dụ: Để đạt
được hiệu quả kinh tế cao và lợi nhuận nhiều có nhưng doanh
nghiệp đã luồn lách qua những kẽ hở của pháp luật để trốn thuế, lậu
thuế, ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước. Cũng không
thể nói kinh doanh là có hiệu quả khi doanh nghiệp giảm các chi phí
cho cải tạo môi trường tự nhiên, đổi mới kỹ thuật công nghệ, nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động...

8


Do yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân đòi hỏi các
doanh nghiệp các tổ chức kinh tế phải luôn luôn coi trọng hieuụ quả
về mặt kinh tế cũng như xã hội, là hai mặt có quan hệ mật thiết với
nhau. Do đó trên thực tế đã phát sinh nhiều mặt tiêu cực trong kinh
doanh làm ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của toàn xã hội. Chính vì
vậy, để đảm bảo yêu cầu phát triển nền kinh tế một cách lành mạnh
và toàn diện, nhà nước cần phải củng cố hành lang pháp luật chặt
chẽ hơn, phải thể hiện vai trò quản lý vĩ mô trong việc định hướng
chiến lược phát triển nền kinh tế.
3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh:
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được trong điều

kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì điều cần thiết là phải đánh
giá được hiệu quả kinh doanh và kinh doanh có hiệu quả. Việc
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh không chỉ là mối quan
tâm hàng đầu xã hội mà còn là mối quan tâm của bất kỳ doanh
nghiệp nào nhất là trong cơ chế thị trường. Đó là vấn đề xuyên suốt
thể hiện chất lượng của toàn bộ công tác quản lý kinh tế, đảm bảo
tạo ra kết quả và hiệu quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế mở như hiện nay, doanh nghiệp
phải luôn gắn mình với thị trường để giải quyết 3 vấn đề cơ bản:
Sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? trên cơ
sở xem xét cung cầu và giá cả thị trường. Không còn là nền kinh tế
kế hoạch hoá, nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải
tự các quyết định kinh doanh, tự hoạch toán lỗ lãi theo kết quả kinh
doanh của mình.
Đối với doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
không chỉ là thước đo chất lượng tổ chức quản lý kinh doanh mà
còn là cơ sở để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.Sự phát triển của doanh nghiệp là nhân tố trực tiếp đảm bảo
9


sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường với mục tiêu là luôn tồn
tại và phát triển vững chắc. Muốn vậy lợi nhuận của doanh nghiệp
cũng không ngừng tăng lên và trở thành mục tiêu quan trọng nhất.
Vậy để tăng lợi nhuận thì các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Nhưng nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách nào
mới là vấn đề đặt ra mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể
làm được. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn vận động và
lựa chọn cơ cấu sản xuất kinh doanh tối ưu nhất. Sự lựa chọn đúng

đắn sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. Kết quả đó sẽ tạo đà
phát triển cho sự phát triển kinh doanh theo chiều sâu nhờ việc nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố
thúc đẩy sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp
luôn phải canh tranh để tồn tại và phát triển. Sự cạnh tranh đó không
chỉ về các mặt hàng thông thường mà cả uy tín, chất lượng, giá
cả...Trong hoàn cảnh đó nếu doanh nghiệp không chiến thắng trong
cạnh tranh tất yếu sẽ bị loại bỏ khỏi thị trường. Bởi vậy, để tồn tại
và phát triển, doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ, giá cả hợp lý, mẫu mã đẹp, phù hợp thị hiếu của
người tiêu dùng. Từ đó, nâng cao được uy tín và hình ảnh của doanh
nghiệp trên thị trường. Muốn thực hiện được điều đó thì việc giảm
chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố cơ bản dẫn đến
thắng lợi trong cạnh tranh. Như vậy đối với mọi doanh nghiệp việc
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện cần thiết để
doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt
của nền kinh tế thị trường như hiện nay.
Còn đối với người lao động, nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ
đảm bảo cho họ có một công việc ổn định, tăng mức thu nhập, cải
thiện đời sốngvà tinh thần cho người lao động.
Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả sản xuất kinh
doanh được xem là một phạm trù kinh tế quan trọng, phản ánh trình
10


độ sử dụng các nguồn lực, trình độ của các lực lượng sản xuất, là
động lực thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Với ý nghĩa quan trọng như vậy việc nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh ở các doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau:

* Thứ nhất: Hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời
kỳ kinh doanh không làm giảm sút, ảnh hưởng tới hiệu quả các thời
kỳ sau. Ngoài ra các doanh nghiệp không thể quan niệm một cách
cứng nhắc cứ tăng thu giảm chi là đạt hiệu quả mà phải biết tăng thu
giảm chi một cách toàn diện, khái quát nghĩa là có thể tăng thu giảm
chi một cách đồng thời nhưng tốc độ tăng của thu phải cao hơn tốc
độ tăng của chi phí. Có như vậy mới đem lại hiệu quả cao trong
kinh doanh.
* Thứ hai: Hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ có thể đạt được một
cách toàn diện khi toàn bộ hoạt động của các bộ phận, các khâu
mang lại hiệu quả mà không làm giảm hiệu quả chung.

11


4. Vai trò của hiệu quả kinh doanh:
Trong tình hình thực tế hiện nay, sản xuất và kinh doanh theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước để có thể tồn tại và
phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải có lãi để đứng vững trên thị
trường. Do đó hiệu quả kinh doanh có vai trò rất quan trọng trong
mỗi doanh nghiệp, là kết quả cuối cùng của quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh bằng nguồn vốn kinh doanh dồi dào, đầu tư mua
sắm thiết bị mới, mở rộng quy mô kinh doanh. Hiệu quả càng cao
doanh nghiệp càng có thêm nguồn vốn kinh doanh dồi dào, đầu tư
mua sắm thiết bị mới, mở rộng quy mô kinh doanh bằng nguồn vốn
kinh doanh của mình, thực hiện văn minh thương nghiệp đối với
người lao động và toàn xã hội. Ngược lại, nếu hiệu quả kinh doanh
không cao, làm ăn thua lỗ thì doanh nghiệp nhất định sẽ bị đào thải
trước quy luật cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường. Vì vậy
trong quá trình kinh doanh doanh nghiệp cần phải phương hướng

mục tiêu đầu tư và biện pháp sử dụng các điều kiện sẵn có để đạt
hiệu quả cao nhất.
Qua đó, chúng ta thấy hiệu quả kinh doanh là tác nhân thúc
đẩy bên trong, là tiền đề quyết định các phương hướng, mục tiêu
trong những năm tiếp theo của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh
sẽ làm cho hoạt động kinh doanh mạnh mẽ hơn, sôi động hơn. Vì
vậy phải đánh giá đúng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp từ đó
tìm ra biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
5.Yêu cầu của hiệu quả kinh doanh:
Để có được hiệu quả đúng đắn và khách quan trong hoạt động
sản xuất kinh doanh phải cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích
lâu dài. Về mặt thời gian, hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp đạt
được trong từng giai đoạn sản xuất kinh doanh không được làm
giảm sút hiệu quả của các giai đoạn tiếp theo. Điều đó đòi hỏi các
doanh nghiệp không vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài.
12


Chẳng hạn như không thể coi hiệu quả khi xoá bỏ hợp đồng khác
mang lại nhiều lợi nhuận hơn nhưng lại không ổn định.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một
cách toàn diện cùng với việc xem xét hiệu quả chung của nền kinh
tế quốc dân bởi vì mỗi doanh nghiệp là một tế bào, một bộ phận tạo
nên nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được phải
gắn chặt với hiệu quả của toàn xã hội.
Do vậy, muốn đánh giá một cách chính xác hiệu quả kinh
doanh phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh phải tiến hành trên
cơ sở phân tích lý luận kinh tế. Từ đó giúp chúng ta hiểu được tính
chất xu hướng của hiện tượng. Trên cơ sở này dùng số liệu và

phương pháp phân tích và khẳng định tính chất cụ thể của nó.
+ Phải lựa chọn nội dung, sưu tầm và kiểm tra tài liệu theo nội
dung ấn định, xây dựng hệ thống chỉ tiêu lựa chọn phương pháp
phân tích thích ứng.
+ Căn cứ vào tính thống nhất của đối tượng và đặt các chỉ
tiêu trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Phải sử dụng nhiều chỉ
tiêu, một chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của một doanh nghiệp.
Nếu tách rời chỉ tiêu này với chỉ tiêu khác ta sẽ không thấy được
thực chất hoạt động của doanh nghiệp, vì sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp không phải là phép cộng đơn giản mà các mặt của
chúng liên kết với nhau, mặt này làm cơ sở cho mặt kia, chịu sự tác
động lẫn nhau.
+ Vận dụng tổng hợp các phương pháp để thấy được tình hình
kinh doanh của doanh nghiệp, vạch ra những tiềm năng có thể khai
thác trong kỳ kinh doanh tới và chỉ rõ những sai lầm, tìm biện pháp
sửa chữa thiếu sót trong kinh doanh.
III/. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh:
13


Các doanh nghiệp không tồn tại độc lập đơn lẻ mà chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố thuộc môi trường xung quanh và ngay trong
bản thân mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh thể hiện ở việc
tận dụng tiết kiệm các nguồn lực có trong mối quan hệ đầu ra của
doanh nghiệp. Kết quả đạt được và chi phí bỏ ra cũng như trình độ
lợi dụng các nguồn lực chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của
nhiều nhân tố khác nhau ở các mức độ khác nhau. Do đó nó ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp.

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chỉ thực sự thành
công nếu doanh nghiệp nắm rõ sự ảnh hưởng của các nhân tố tới
hoạt động kinh doanh và biết kết hợp hài hoà các nhân tố bên trong
và nhân tố bên ngoài.
1.Các nhân tố khách quan:
Môi trường kinh doanh:
Môi trường là một tập hợp những lực lượng "ở bên ngoài" mà
doanh nghiệp đều phải chú ý đến khi xây dựng chiến lược kinh
doanh của mình.
Công nghệ sẵn có ở bên ngoài có tác động đến các mặt hoạt
động của doanh nghiệp. Máy móc thiết bị mới có ảnh hưởng đến
phương thức cũng như sự thành công của phương thức mà doanh
nghiệp tiếp thị và bán sản phẩm của mình.
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp rất sinh động và
hoàn toàn bất định. Những biến đổi của môi trường có thể gây ra
những bất ngờ lớn và những hậu qủa nặng nề. Doanh nghiệp không
thể là một thực thể cô lập và đóng kín mà nó phải hoạt động trong
môi trường đầy những mâu thuẫn. Môi trường kinh doanh bao gồm
có môi trường vĩ vô và môi trường vi mô. Môi trường vi mô gồm có
những lực lơựng bình diện xã hội rộng lớn hơn có ảnh hưởng đến
14


môi trường vi mô như các yếu tố kinh tế, tự nhiên, kỹ thuật...
Tập quán lối sống thu nhập điều kiện xã hội quyết định mức
độ chất lượng chủng loại, gam hàng sự ưa thích của khách hàng đối
với sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải
nghiên cứu và nắm bắt để lựa chọn các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ
kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu và thói quen tiêu dùng của
khách hàng. Điều này phụ thuộc vào công tác nghiên cứu thị trường

các hoạt động marketing phải bám sát khách hàng, nắm bắt nhanh
chóng nhu cầu sở thích của khách để đưa ra chiến lược kinh doanh
phù hợp để đem lại hiệu quả tích cực trong hoạt động kinh doanh.
Vì vậy, doanh nghiệp cần phải phân tích môi trường để có thể
dự đoán những khả năng có thể xảy ra để có biện pháp ứng phó kịp
thời.
Môi trường chính trị pháp luật:
Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị pháp luật chi phối mạnh
mẽ sự hình thành cơ hội thương mại và khả năng thực hiện mục
tiêu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Sự ổn định của môi trường chính
trị đã được xác định là một trong những tiền đề quan trọng cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Để thành công tronh kinh
doanh, các doanh nghiệp phải nắm rõ tình hình chính trị pháp luật,
phải luôn theo sát sự phân tích, dự đoán về chính trị pháp luật cùng
xu hướng vận động của nó. Sự thay đổi điều kiện chính trị có thể
ảnh hưởng có lợi cho nhóm doanh nghiệp này, kìm hãm sự phát
triển của doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. hệ thống pháp luật
hoàn thiện, không thiên vị là một trong những điều kiện tiền đề
ngoài kinh tế của kinh doanh. Mức độ hoàn thiện, sự thay đổi và
thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến việc
hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp. Từ đó tác động đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh
nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
15


Môi trường kinh tế:
Ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Các yếu tố thuộc môi
trường này quy định cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế

trong việc sử dụng tiềm năng của mình. Qua đó tạo ra cơ hội kinh
doanh cho từng doanh nghiệp. Xu hướng vận động và bất cứ thay
đổi nào của các yếu tố môi trường này đều tạo ra hoặc thu hẹp điều
kiện kinh doanh, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp ở mức độ
khác nhau, thậm chí dẫn đến yêu cầu thay đổi mục tiêu và chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Trạng thái của nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng, tình hình
lạm phát, tỷ giá hối đoái, xu hướng mở cửa... luôn tác động mạnh
đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng mở rộng hoặc thu hẹp
quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, cơ hội phát triển cũng như
điều kiện cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Các yếu tố đó luôn ở
trạng thái động đòi hỏi mỗi doanhnghiệp phải có chiến lược kinh
doanh linh hoạt phải luôn thay đổi để phù hợp với sự biến đổi liên
tục cuả môi trường kinh doanh.
1.4 Môi trường địa lý sinh thái:
Các yếu tố thuộc môi trường địa lý sinh thái không chỉ liên
quan đến vấn đề phát triển bền vữngcủa một quốc gia mà còn liên
quan tới khả năng phát triển bền vững của từng doanh nghiệp. Các
yếu ttố địa lý này đẫ được nghiên cứu và xem xét để có thể kết luận
về cách thức và hiệu quả kinh doanh. Ngày nay các yếu tố này được
xem trọng và ảnh hưởng rất lớn đến khả năng kinh doanh của doanh
nghiệp.
Nhân tố tài nguyên thiên nhiên: Nhân tố này chủ yếu tác động
tới việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp và có ảnh
hưởng lớn đen quy trình tiên bộ thực hiện các hoạt động kinh doanh
của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt
16


động trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Nguồn tài

nguyên dồi dào phong phú sẽ có ảnh hưởng tích cực đến việc kinh
doanh của doanh nghiệp, tạo hiệu quả cao trong quá trình kinh
doanh và ngược lại nếu nguồn tài nguyên cạn kiệt sẽ gây khó khăn
cho doanh nghiệp trong quá trình khai thác cản trở hoạt động kinh
doanh.
Nhân tố khí hậu, thời tiết, mùa vụ: Nhân tố này có ảnh hưởng
trực tiếp đến các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có tính chất
thời vụ. Với mỗi điều kiệ thời tiết, khí hậu ổn định, doanh nghiệp có
chính sách cụ thể, phù hợp với điều kiện đó. Do đó, khi các yếu tố
này thay đổi thất thường sẽ làm cho hoạt đọng kinh doanh của
doanh nghiệp không ổn định, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh
doanh.
Nhân tố vị trí địa lý: Đây là nhân tố không chỉ tác động đến
chi phí sản xuất, chi phí vận chuyển, giao dịch mà còn tác động đến
các mặt văn hoá- xã hội, ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng gần nơi tiêu thụ sản phẩm,
gần đầu mối cung cấp hàng hoá đầu vào sẽ giảm được chi phí kinh
doanh và sẽ giảm được chi phí kinh doanh và do đó góp phàn quan
trọng vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.Nhân tố chủ quan:
Chiến lược kinh doanh và hiệu quả của chiến lược đó không chỉ
bị ảnh hưởng của các yếu tố khách quan thuộc môi trường kinh
doanh mà còn phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố phản ánh tiềm lực
của doanh nghiệp cụ thể. Mỗi doanh nghiệp cần có sự đánh giá
đúng tiềm lực thực tại và có chiến lược xây dựng và phát triển tiềm
lực của mình để mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
2.1

Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp:


Khi bước vào kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều phải có
vốn, vốn quy định đến thành quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối
17


với một doanh nghiệp nhà nước, ngoài việc được nhà nước cấp vốn,
doanh nghiệp còn phải tự bổ sung, bảo toàn và phát triển nguồn vốn
bằng cách vay ngân hàng, liên doanh...
Một yếu tố cơ bản để đánh giá doanh nghiệp có sử dụng hiệu
qủa nguồn vốn hay không là khả năng quay vòng vốn của doanh
nghiệp đó. Khả năng quay vòng vốn càng nhiều thì càng có nhiều
cơ hội kinh doanh.
2.2

Kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp:

Trong nền kinh tế thị trường, việc đổi mới công nghệ, nâng
cao khả năng ứng dụng khoa học- kỹ thuật là vấn đề sống còn đối
với mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhiều thành phần khác
nhau đang cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Trong cuộc cạnh tranh
đó tất yếu sẽ không có chỗ cho các doanh nghiệp nào mà hàng hoá
không có sức cạnh tranh kém phẩm chất, mẫu mã không phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng. Vì thế việc đổi mới máy móc thiết bị,
cải tiến quy trình công nghệ ứng dụng những thành tựu tiên tiến của
khoa học- kỹ thuật là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Nhân tố này
tác động vào hiệu quả kinh doanh theo các hướng sau:
- Sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật tạo ra cơ hội để nắm
bắt, để nắm thông tin trong quá trình hoạch định kinh doanh cũng
như trong quá trình điều chỉnh, định hướng lại hoặc chuyển hướng
kinh doanh.

- Kỹ thuật và công nghệ sẽ tác động đến việc tiết kiệm chi phí
vật chất trong quá trình kinh doanh làm cho chúng ta sử dụng một
cách hợp lý, tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình kinh doanh.
- Cơ sở vật chất và ứng dụng: Cơ sở vật chất và ứng dụng của
nó sẽ tạo ra đa ngành nghề kinh doanh.
Do đó các doanh nghiệp đạt được hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao đòi hỏi phải luôn chú tâm phát triển cơ sở vật chất kỹ
18


thuật, ứng dụng tiến bộ vào sản xuất, đổi mới trang thiết bị tân tiến
đồng bộ. Đó là cơ sở để giảm chi phí kinh doanh, giảm mức sử dụng
lao động sống và các chi phí khác từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3

Lực lượng lao động:

Trong kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực thương mại dịch vụ,
con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công.
Chính con người với năng lực thực chất của họ mới lựa chọn đúng
được cơ hội và sử dụng các sức mạnh khác nhau như vốn, cơ sở vật
chất kỹ thuật... một cách có hiệu quả để khai thác các cơ hội kinh
doanh.
Một doanh nghiệp có sức mạnh về con người là doanh nghiệp
có khả năng lựa chọn đúng và đủ số lượng lao động cho từng vị trí
công tác và sản xuất trong một hệ thống thống nhất theo nhu cầu
của công việc. Bên cạnh đố, mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược
con người và phát triển nguồn nhân lực, cho thấy khả năng chủ
động phát triển sức mạnh con người của doanh nghiệp nhằm đáp

ứng yêu cầu tăng trưởng và đổi mới thường xuyên, khả năng cạnh
tranh và thích nghi của kinh tế thị trường. Chiến lược này không chỉ
liên quan đến những vấn đề về đội ngũ lao động hiện tại mà còn tạo
khả năng thu hút nguồn lao động xã hội nhằm kiến tạo cho doanh
nghiệp một đội ngũ lao động trung thành, có trình độ chuyên môn
lao động giỏi tạo ra năng suất và sáng tạo mang lại hiệu quả cao
trong kinh doanh.
Doanh nghiệp phải tổ chức lao động hợp lý, phân công quyền lợi
rõ ràng, lao động có kỷ luật, chấp hành đúng quy định của công ty.
Đồng thời để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp phải sử
dụng đúng người, đúng việc sao cho người lao động phát huy được
đúng năng lực sở trường của mình. Bởi vậy vấn đề đặt ra cho mỗi
doanh nghiệp là cùng với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật,
19


người lao động trong doanh nghiệp cần có ý thức kỷ luật, có tinh
thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo trong cơ chế thị trường.
2.4
Trình độ quản lý của doanh nghiệp và kinh
nghiệm kinh doanh:
Kinh nghiệm và quản lý kinh doanh được coi là yếu tố quyết
định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Nguồn lực của doanh
nghiệp dù có dồi dào đến đâu nhưng doanh nghiệp không có cách
quản lý đúng đắn, không có kinh nghiệm trong kinh doanh thì cuối
cùng những nguồn lực kia cũng mất dần. Nhà quản trị doanh nghiệp
đặc biệt nhà lãnh đạo doanh nghiệp bằng phẩm chất và tài năng của
mình có vai trò quan trọng bậc nhất trong việc định hướng cho
doanh nghiệp một hướng đi đúng trong hoạt động kinh doanh, xác
định chiến lược kinh doanh, phát triển doanh nghiệp. Chiến lược

kinh doanh và phát triển doanh nghiêp là cơ sở để đạt hiệu quả
hoặc thất bại phi hiệu quả của doanh nghiêp trong kinh tế thị trường.
Do vậy, doanh nghiệp phải biết áp dụng những biện pháp quản lý
thích hợp cho từng tình huống kinh doanh cụ thể để mang lại hiệu
quả kinh doanh tốt nhất cho doanh nghiệp.
2.5

Uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.

Uy tín của doanh nghiệp là nhân tố cơ bản tác động không
nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhất là trong cơ chế
thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp. Hỗu hết
các doanh nghiệp đều coi uy tín doanh nghiệp là sức mạnh, sinh
mệnh, chiến lược phát triển trong cơ chế mới. Đó là tài sản vô hình
mà không phải doanh nghiệp nào cũng có được.Giá trị nguồn tài sản
này cao sẽ giúp doanh nghiệp tăng khả năng thâm nhập vào thị
trường trong và ngoài nước, mở rộng thị phần, tăng khối lượng sản
phẩm tiêu thụ, tăng doanh thu dẫn tới hiệu quả kinh doanh được
nâng cao và ngược lại. Uy tín của doanh nghiệp cao sẽ đảm bảo cho
doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trên thị trường có sự cạnh tranh
đầy khốc liệt. Mặt khác nó cũng góp phần thuận lợi trong hoạt động
kinh doanh và được ưu đãi trong quan hệ với bạn hàng. Do đó, các
doanh nghịêp phải quan tâm chú trọng đến hình ảnh của công ty để
20


không ngừng nâng cao uy tín của mình nhằm đạt được mục tiêu
hiệu quả kinh doanh cao ở tất cả các lĩnh vực.
Uy tín của doanh nghiệp được thể hiện thông qua thương hiệu.
Mỗi một doanh nghiệp sẽ tạo cho mình một thương hiệu. Thương

hiệu của doanh nghiệp càng được nhiều người biết đến thì uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường càng cao. Doanh nghiệp muốn khẳng
định và bảo vệ uy tín của mình thì doanh nghiệp phải đăng kí
thương hiệu với các cơ quan có thẩm quyền lúc đó thương hiệu của
doanh nghiệp sẽ được luật pháp và nhà nước bảo vệ. Trong điều
kiện hiện nay khi mà hàng giả, hàng nhái ngày càng gia tăng thì việc
đăng kí thương hiệu của các doanh nghiệp càng trở nên bức thiết và
việc doanh nghiệp khẳng định chỗ đứng và vị trí của mình trên thị
trường là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu.
Trên đây là một số phân tích về các yếu tố nguồn lực kinh
doanh cơ bản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, muốn có hiệu quả tốt
thì doanh nghiệp phải biết kết hợp những yếu tố trên một cách hợp
lý nhất
III. HỆ THỐNG CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
KINH DOANH CỦA XÍ NGHIỆP IN HÀ TÂY:
Như đã trình bày ở trên, hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ sử
dụng nguồn nhân tài vật lực của doanh nghiệp. Để đạt được hiệu
quả cao trong kinh doanh của một doanh nghịêp là một đòi hỏi bức
thiết đối với nhà quản trị doanh nghiệp nhằm hướng doanh nghịêp
khai thác hết tiềm năng của mình để nâng cao hiệu qủa kinh doanh,
tăng cường tích lũy để có thể đầu tư tái mở rộng về chiều sâu cũng
như chiều rộng.
Trong hoạt động kinh doanh hiệu quả kinh tế là mối quan tâm
lớn nhất của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh thể hiện ở mức lợi
nhuận trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Để đánh giá
một cách chính xác, khoa học về hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp
cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp. Bao gồm các chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả kinh doanh tổng hợp và các chỉ tiêu bộ phận.
1. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của quá
trình hoạt động doanh nghiệp.

21


1.1. Các chỉ tiêu tổng hợp.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của quá trình hoạt
động doanh nghiệp vừa phản ánh kết quả kinh doanh vừa phản ánh
chi phí.
* Doanh thu: là chỉ tiêu phản ánh các khoản tiền thu được do hoạt
động kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường của
doanh nghịêp sau một thời gian kinh doanh nhất định trong đó chủ
yếu là doanh thu từ họat động kinh doanh.
* Lợi nhuận: Là chỉ tiêu phản ánh khoản tiền chênh lệch giữa
doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu
đó từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại sau một thời gian nhất
định.
* Chi phí: Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí
về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất
định.
* Tỷ suất lợi nhuận: Chỉ tiêu này phản ánh kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao thì
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
* Nộp ngân sách nhà nước: Là chỉ tiêu thể hiện nghĩa vụ của
doanh nghiệp đối với ngân sách nhà nước như: Thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu...Đây là chỉ tỉêu quan
trọng để xây dựng đất nước, vì vậy các doanh nghiệp cần đẩy mạnh
hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, góp phần tích lũy và
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước.
* Thu nhập bình quân một lao động/ 1năm: Là tỷ số giữa tổng số

tiền mà người lao động thu được và số lao động được sử dụng trong
một năm.
1.2. Các chỉ tiêu về lợi nhuận.
Lợi nhuận
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu =

* 100%
Doanh thu

Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng doanh thu từ hoạt động kinh
22


doanh của doanh nghiệp sau một năm thì thu được bao nhiêu đồng
lợi nhuận.
Lợi nhuận
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh =
100%

*

Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn kinh doanh sau một năm
thì tạo ra bao nhiêu đồng lơi nhuận.
Lợi nhuận
-

Chỉ

tiêu


lợi

nhuận

trên

tổng

chi

phí

=

* 100%
(Hay tổng vốn)

Tổng chi phí (hay tổng

vốn)
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng lợi nhuận thu được sau một
năm thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí để có được số lợi nhuận
đó.
2. Các chỉ tiêu đánh giá phân tích hiệu quả kinh doanh ở doanh
nghiệp.
2.1. Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn.
2.1.1/ Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn cố định (VCĐ).
Tổng doanh thu thuần
- Sức sản xuất của VCĐ =

Nguyên giá bình quân tài sản cố định
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng nguyên giá bình quân tài sản
cố định sử dụng trong một năm tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu
thuần.
Lợi nhuận trước thuế (hay LN sau thuế)
-

Sức

sinh

lời

của

VCĐ

* 100%
(tỷ suất lợi nhuận VCĐ)

Số VCĐ bình quân trong kỳ

23

=


Lợi nhuận trước thuế = kết quả hoạt + kết quả hoạt +
kết quả hoạt
động SXKD


động tài chính

động khác
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế (1- % thuế suất
thuế
thu nhập doanh nghiệp)
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định sử dụng trong
kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hay lợi nhuận
sau thuế).
Số tiền khấu hao lũy kế
- Tỷ suất hao phí tài sản cố định =
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm
đánh giá
Trong đó:
+ TSCĐ: Là tài sản cố định
+ Nguyên giá bình quân tài sản cố định = VCĐ bình quân trong
kỳ.
+ Số tiền khấu hao lũy kế = số tiền khấu + số tiền khấu hao - số
tiền khấu hao
hao đầu kỳ
tăng trong
kỳ
giảm trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của tài sản cố định trong
doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu.
Doanh thu ( hay doanh thu
thuần)
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Nguyên giá bình quân TSCĐ

trong kỳ
Chỉ tiêu này phán ánh cứ một đồng nguyên giá bình quân tài sản
cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu (hay doanh thu thuần)
trong kỳ.
2.1.2/ Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn lưu động (VLĐ).
24


VLĐ bình quân trong kỳ
- Sức sản xuất của VLĐ =
Doanh thu (hay doanh thu thuần)
Chỉ tiêu này phản ánh số VLĐ cần có để đạt được một đồng
doanh thu (hay doanh thu thuần).
Lợi nhuận trước thuế (hay LN sau thuế
thu nhập)
- Sức sinh lời của VLĐ =
VLĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng VLĐ sử dụng trong một năm
thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hay lợi nhuận
sau thuế thu nhập).
Ngoài ra, sức sản xuất của VLĐ còn được phản ánh thông qua
tốc độ luân chuyển của VLĐ.
* Tốc độ luân chuyển của VLĐ.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, VLĐ luân chuyển không
ngừng qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất. Vì vậy đẩy
nhanh tốc độ luân chuyển của VLĐ sẽ góp phần giải quyết nhu cầu
về vốn cho doanh nghiệp đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
Tốc độ luân chuyển của VLĐ được xác định bằng các chỉ tiêu:
Số vòng quay của VLĐ và kỳ luân cuyển của VLĐ.

Doanh thu thuần trong kỳ
- Số vòng quay của VLĐ =
VLĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết VLĐ quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số
vòng quay tăng chứng tỏ Hiệu quả sử dụng VLĐ tăng và ngược lại
nếu số vòng quay giảm chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh
nghiệp kém đi.
Thời gian của kỳ phân tích (360
25


×