Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU ĐÔNG VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.92 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI
KHOA MÔI TRƯỜNG
----------------

ĐỀ TÀI KHOA HỌC
Tên đề tài: TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU ĐÔNG VỚI CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

Giáo Viên Hướng Dẫn : Th.S Vũ Kiến Quốc
Nhóm Nghiên Cứ :

Mã SV:

1.Bùi Tuấn Anh

1451090875

2.Nguyễn Thị Hương

1451090669

3.Phạm Thùy Dung

1451090693

Hà nội,2016

1


Mục Lục



MỞ ĐẦU
1.Tính Cấp Thiết Của Đề Tài.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, được đế quốc Mỹ, Anh thỏa thuận chính
quyền Đờ Gôn quyết định gây chiến tranh, đặt lại ách thống trị ở Đông Dương.
Ngày 17-8-1945 Ủy ban Quốc phòng Pháp quyết định đưa 6 vạn quân sang Đông
Dương. Mặc dù mới có 1 bộ phận nhỏ quân Pháp theo gót chân Anh vào Miền Nam
nhưng dựa vào gần 2 vạn lính Pháp còn lại tại Đông Dương và sự tiếp tay của quân
Anh, ngày 23/9/1945, quân Pháp gây hấn đánh chiếm Nam Bộ, cuộc kháng chiến
chống Pháp của nhân dân ta bắt đầu. Từ ngày 23/9/1945 đến năm 1946, cuộc
kháng chiến diễn ra trên chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Mặc dù lực lượng
vũ trang của ta ở đây rất nhỏ và yếu nhưng có những đoàn quân Nam tiến từ miền
Bắc, miền Trung vào, những đoàn quân của Việt kiều từ Lào, từ Campuchia, từ Thái
Lan về, nhất là nhân dân đứng lên tổ chức đánh địch nên đã từng bước ngăn chặn
quân địch, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp.Trong đó
cuộc kháng chiến Việt Bắc Thu Đông năm 1947 là một cuộc kháng chiến lớn giữ vai
trò quan trọng không thể không nhắc đến trong việc hình thành nên các cuộc nổi
dậy lớn sau này.Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947, làm phá tan kế hoạch “tấn
công chớp nhoáng” để kết thúc chiến tranh của Pháp. Một lần nữa chứng minh
đường lối và sự chỉ đạo kháng chiến của Đảng là đúng đắn, đánh dấu bước trưởng
thành mới của quân đội ta, đưa kháng chiến dân tộc sang một giai đoạn mới, giai
đoạn chiến lược phòng ngự sang giai đoạn chiến lược cầm cự. Đây là một bước
ngoặt lớn để hình thành nên chiến dịch Biên Giới năm 1950 và một số các cuộc
chiến tranh lớn khác sau này.Cuộc chiến tranh gianh thắng lợi cho chúng ta những
bài học quý giá về chiến lược và chiến thuật.

2


Tóm lại chiến dịch Thu Đông năm 1947 đã ảnh hưởng rất lớn đến các phong

trào đấu tranh không chỉ ở Việt Nam mà cả các nước trên thế giới.Nó đã nêu cao
tinh thần tự lực tự cường của dân tộc chính vì thế nên nó có những tác động không
hề nhỏ không chỉ tại Việt Nam mà cả ở quân đội Pháp.Do đó nhóm chúng em chọn
đề tài “TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU ĐÔNG VỚI CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG PHÁP”.

2.Phương Pháp Nghiên Cứu Đề Tài.
Các phương pháp sử dụng:
+ Phương pháp tổng hợp.
+ Phương pháp thực nghiệm phân tích
+ Phương pháp liệt kê,
+ Phương pháp so sánh – đối chiếu,
+ Phương pháp thực nghiệm.

3.Ý Nghĩa Đề Tài.
Chiến dịch Việt Bắc-Đông 1947 là chiến dịch phản công lớn đầu tiên của quân
và dân ta trong kháng chiến chống Pháp,giành thắng lợi to lớn. Chiến dịch Việt Bắc
Thu Đông đã tác động đến nhiều mặt về kháng chiến chống Pháp của đảng ta.Chiến
dịch Việt Bắc Thu Đông đã đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của địch,giữ vững
căn cứ địa kháng chiến của cả nước.Đây là mốc khởi đầu sự thay đổi trong tương
quan lượng giữa ta và địch.Mặt khác,chiến thắng này còn làm phá sản hoàn toàn
chiến lược “đánh nhanh,giải quyết nhanh” của thức dân Pháp,buộc chúng ta phải
chuyển từ chính sách “đánh nhanh thắng nhanh” sang đánh lâu dài với chiến lược
“da vàng hóa chiến tranh”thành lập một chính phủ bù nhìn để dùng người Việt
đánh người Việt,lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.Cuộc kháng chiến chiến dịch Việt
Bắc Thu Đông của nhân dân ta bước sang giai đoạn mới.
Những tác động của chiến dịch Việt Bắc Thu Đông đã gây thêm tinh thần nỗ lực
phấn khởi trong toàn dân,tăng thêm tin tưởng ở tiền đồ kháng chiến vẻ vang của
dân tộc.Nó chứng tỏ Việt Nam nước nhỏ,không có căn cứ địa chắc chắn,biên giới có


3


thể bị bao vây,vũ khí kém,nhưng với sự lãnh đạo của Chính phủ Hồ CHÍ Minh và
Đảng Cộng sản Đông Dương vẫ có thể kháng chiến thắng lợi.

Nội Dung
I. Tình hình cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam trước năm
1947
1.Âm mưu và hành động chiến tranh của Pháp
– Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3 và Tạm ước ngày 14/9/1946, thực dân
Pháp vẫn đẩy mạnh việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược.
+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công.
+ Ở Bắc Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, quân Pháp tiến công ở Hải Phòng, Lạng Sơn,
cho quân đổ bộ lên Đà Nẵng, sau đó chiếm đóng Hải Phòng.
+ Tháng 12 – 1946, Pháp gây hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài chính, gây ra vụ
thảm sát ở phố Hàng Bún (Khu phố Yên Ninh)…
+ Ngày 18/12/1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi giải tán lực lượng tự vệ chiến
đấu, để cho Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không chúng sẽ giành
toàn quyền hành động vào sáng ngày 20/12/1946.
– Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng và Chính phủ phải có quyết định kịp thời. Ngày
18 – 12 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định
phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.
– Tối ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”, phát động nhân dân cả nước kháng chiến chống Pháp, bảo vệ nền độc lập
dân tộc.
b. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
– Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta thể hiện trong Chỉ thị
Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946) và được giải thích cụ thể trong tác

phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh (tháng 9/1947):
– Nội dung của đường lối kháng chiến:
+ Xác định mục đích kháng chiến là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc
lập tự do: “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”.
+ Kháng chiến toàn dân: xuất phát từ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc,
từ tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của Hồ Chí Minh, thực hiện toàn dân đánh giặc
và đánh gặc bằng mọi vũ khi có trong tay.… Có lực lượng toàn dân mới thực hiện
được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh;

4


+ Kháng chiến toàn diện: kháng chiến trên trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội và ngoại giao, nhằm làm thất bại mọi thủ đoạn của thực
dân Pháp. Mặt khác phải xây dựng hậu phương kháng chiến toàn diện;
+ Kháng chiến lâu dài: vì so sánh lực lượng lúc đầu chưa có lợi cho cuộc kháng
chiến; cần có thời gian để vừa kháng chiến vừa kiến quốc; chống lại chiến lược
“đánh nhanh, thắng nhanh” của địch; từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng,
tiến lên giành thắng lợi quyết định.
+ Tự lực cánh sinh: nhằm phát huy mọi nỗ lực chủ quan, tránh tư tưởng bị động
trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài; mặt khác vẫn coi trọng sự ủng hộ quốc tế.
Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối chiến tranh nhân dân, là ngọn cờ cổ
vũ, dẫn dắt cả dân tộc Việt Nam đứng lên kháng chiến, là xuất phát điểm cho mọi
thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Bộ chỉ huy Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947 báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh kế
hoạch tác chiến, bố trí lực lượng chiến dịch. Ảnh tư liệu
2. Những thắng lợi trên mặt trận quân sự trước năm 1947
Cuộc chiến đấu ở ở Hà Nội và các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16.

– Ở Hà Nội, khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, sau tín hiệu tắt điện toàn thành
phố, cuộc chiến đấu bắt đầu.
+ Vệ quốc quân, tự vệ chiến đấu… tiến công các vị trí quân Pháp. Nhân dân khiêng
bàn ghế, tủ… làm chướng ngại vật trên đường phố. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt,
hai bên giành nhau từng khu nhà, góc phố như ở Bắc Bộ Phủ, Bưu điện Bờ Hồ, ga
Hàng Cỏ, phố Khâm Thiên….
+ Trung đoàn thủ đô được thành lập, đánh địch quyết liệt ở Bắc Bộ Phủ, Chợ Đồng
Xuân. Sau hai tháng chiến đầu, ngày 17/2/1947, Trung đoàn rút về hậu phương để
chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

5


– Quân dân các đô thị ở Bắc vĩ tuyến 16 kiên cường chiến đấu, gây nhiều khó khăn
cho địch: vây hãm địch trong thành phố Nan Đinh từ tháng 12/1946 đến tháng
3/1947; buộc địch ở Vinh phải đầu hàng…
+ Kết quả và ý nghĩa:
Trong 60 ngày đêm, Hà Nội chiến đấu gần 200 trận, giết và làm bị thương
hàng ngàn địch, phá hủy nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh.
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố một thời gian
dài để hậu phương huy động kháng chiến, bảo vệ Trung ương Đảng về căn cứ
Việt Bắc an toàn.
Ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng …quân ta bao vây, tiến
công tiêu diệt địch.
Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16 tạo điều kiện cho cả nước đi
vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Quân dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, chặn đánh
địch trên các tuyến giao thông, phá cơ sở hậu cần của chúng.
-Tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, giam chân chúng trong thành phố, làm thất
bại một bước kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng, tạo điều kiện cho cả

nước đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Cách mạng Tháng Tám là một trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất
của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Bằng thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan ách phát-xít Nhật, lật đổ ách thống trị của thực
dân Pháp gần 100 năm, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đưa dân tộc
Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước,
làm chủ vận mệnh của mình. Ðảng ta từ khi ra đời bị khủng bố dã man, đã trở
thành đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, nhân dân ta đã tiến hành các cao trào cách mạng,
vượt qua bao hy sinh, tổn thất để giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám,
đem lại cuộc biến đổi xã hội chưa từng có và tạo ra bước ngoặt vĩ đại của lịch sử
dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám đã để lại cho chúng ta những kinh nghiệm lịch sử quý
báu, mãi mãi soi sáng các chặng đường cách mạng Việt Nam. Ðó là bài học giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; xác định và kết hợp
đúng đắn các nhiệm vụ chiến lược
trong từng thời kỳ cách mạng; bài
học về phát động sức mạnh toàn
dân tộc, lấy sức mạnh của đội quân
chủ lực công - nông làm nòng cốt;
bài học thực hiện triệt để phương
châm "thêm bạn bớt thù"; bài học về
nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật
tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ; bài
học về xây dựng một đảng Mác - Lê6


nin có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ sáng suốt, thường xuyên vững mạnh

về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó mật thiết với nhân dân, có đội ngũ cán bộ,
đảng viên tiên phong, gương mẫu, chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì hạnh phúc của nhân dân, cùng nhiều bài học khác.
II.Diễn Biến Chiến Dịch Việt Bắc Thu Đông Năm 1947
1.Hoàn cản lịch sử
Sau thất bại trong âm mưu đánh nhanh thắng nhanh thực dân Pháp bắt đầu gặp
khó khăn về mọi mặt kinh tế,tài chính, tập trung và phân tán lực lượng.Vì vậy
chúng muốn nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
2.Âm mưu của Pháp
- Phá cơ quan đầu não kháng chiến của ta,tiêu diệt chủ lực của ta.
- Chuẩn bị lập chính quyền bù nhìn Bảo Đại
- Khóa chặt biên gới Việt-Trung,ngăn chặn đường liên lạc giữa ta với quốc tế.
3.Diễn biến
Lược Đồ Chiến Dịch Việt Bắc Thu Đông Năm 1947

Giai

đoạn 1.

Pháp
15.000
cùng với
máy bay
Dương.
dịch này
ngày 7
năm

huy động
quân

hầu hết
ở Đông
Chiến
bắt đầu
tháng 10
1947 với
7


một binh đoàn quân dù gồm 800 lính đổ bộ lên Bắc Cạn dưới quyền chỉ huy của đại
tá Sauvagnac, chiếm đóng các công sở, nhà thương, kho bạc, nhà máy đèn...
Va-luy đã lầm lẫn lớn khi cho rằng thị xã Bắc Kạn là "Thủ đô mới" của Việt Minh.
Va-luy không hề biết rằng, trong suốt chiến tranh, không khi nào có cơ quan Trung
ương Việt Minh nào ở tại một thị xã, thị trấn, mà tất cả đã chia thành những bộ
phận nhỏ, thường xuyên di chuyển, được sự che chở của nhân dân, nếu 1 bộ phận bị
phá thì vẫn có những bộ phận khác thay thế.
Khi quân Pháp nhảy dù tập hậu, lực lượng Việt Minh ở thị xã Bắc Cạn chỉ có một
bộ phận của tiểu đoàn 49, Trường võ bị Trần Quốc Tuấn lúc này cũng chỉ có một
tiểu đoàn tân binh. Hai đơn vị nhỏ này chủ yếu nổ súng để bảo vệ cho nhân dân và
một số cơ quan đóng ở đây tản cư rút vào rừng núi an toàn. Pháp phá được xưởng
in tiền và công binh xưởng, một số kho tàng và thu được 10 triệu bạc Việt Nam của
Ty Ngân khố, nhưng còn quá xa so với mục tiêu "phá huỷ tiềm năng chiến tranh
của Việt Minh" mà Pháp đề ra.
Raoul Salan coi cuộc hành binh Lê-a ngày 7-10-1947 là một đòn quyết
định "đánh thẳng vào tim kẻ thù". Ông ta ngồi trên máy bay trực tiếp thị sát cuộc
nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn. Lúc 11 giờ 35 phút, Sauvagnac từ mặt đất báo cáo
qua vô tuyến điện: "Ông Hồ Chí Minh bị bắt đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh".
Salan vội bay về Hà Nội báo tin mừng với Sài Gòn. Cao uỷ Bollaert và quyền tổng
chỉ huy Battet bay ngay ra Hà Nội. Nhưng ít giờ sau, Salan đã biết mình lầm, đành
phải xin lỗi. Hai quan chức trên quay về Sài Gòn sau khi đã trách mắng Salan nặng

nề... Thực chất hôm ấy, lính dù bắt được một cụ già chững chạc, nói tiếng Pháp yêu
cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược nên tưởng lầm. Đó là cụNguyễn Văn Tố,
Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Lúc biết không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
quân Pháp đã bắn chết cụ Tố khi cụ tìm cách chạy trốn.
Ngày 8-10-1947, 200 quân Pháp nhảy dù chiếm Chợ Đồn. Cùng lúc các lực
lượng khác theo hai đường thủy-bộ. Một đạo thuỷ quân dưới quyền chỉ huy của đại
tá Communal theo đường thủy ngược sông Đà, sông Gầm tiến chiếm Phủ
Đoan ngày 12, chiếm Tuyên Quang ngày 13 và Chiêm Hoá ngày 17 tháng 10, cánh
bộ binh do đại tá Beaufre chỉ huy, tiến từ Lạng Sơn dọc theo đường thuộc địa số 4
tiến qua Đồng Đăng, Na Chàm, Thất Khê, Đông Khê tới Cao Bằng ngày 12 tháng 10,
rồi từ Cao Bằng dọc theo đường thuộc địa số 3bis xuống Bắc Kạn để bao vây Chiến
khu Việt Bắc từ hướng Đông.
Từ ngày 8 tháng 10, các đại đội độc lập cùng quân dân du kích liên tiếp tập kích,
quấy rối các vị trí: Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, diệt hai trung đội Pháp. Đại đội bảo
vệ 15 (đơn vị tiền thân của Bộ tư lệnh Cảnh vệ - Bộ Nội vụ và Lữ đoàn cận vệ 144 Bộ Quốc phòng sau này) bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan trung
ương khẩn trương sơ tán đến nơi an toàn.
Ngày 9 tháng 10, khẩu đội 12,7 mm của đại đội 675 trung đoàn 74 bố trí ở đồi
Thiên Văn, thị xã Cao Bằng bắn rơi chiếc máy bay vận tải Junker Ju 52 chở sĩ quan
8


tham mưu chiến dịch Pháp đi thị sát chiến trường, 12 sĩ quan tham mưu, trong đó
có Lambert, đại tá, phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Đông Dương thiệt mạng.
Việt Minh thu được bản kế hoạch tiến công Việt Bắc. Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Danh
Lộc của trung đoàn đã chạy bộ, vượt rừng, mang "bản kế hoạch tiến công Việt Bắc"
về cho Bộ Tổng chỉ huy.[8]
Ngày 13 tháng 10, Bộ Tổng chỉ huy đã khẩn trương điều chỉnh, tổ chức lại lực
lượng. Lực lượng gồm các tiểu đoàn chủ lực của Bộ và khu. Cụ thể:

Mặt trận Sông Lô - Đường số 2 do các Trần Tử Bình và Tạ Xuân Thu chỉ đạo.

Nhiệm vụ đánh quân thủy, bộ vận động, ngăn chặn tăng viện tiếp tế, tiến tới bẻ
gãy gọng kìm phía tây.

Mặt trận Bắc Cạn - Đường số 3 do Hoàng Văn Thái phụ trách. Nhiệm vụ tiêu
diệt địch cơ động trên đường Bắc Cạn - Cao Bằng và nống ra xung quanh thị xã
Bắc Cạn; bảo vệ cơ quan Trung ương.

Mặt trận đường số 4 do Võ Nguyên Giáp trực tiếp theo dõi, chỉ đạo.
Chiều ngày 14 – 10, Thường vụ Trung ương Đảng họp thông qua Chỉ thị: "Phải
phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp." Hội nghị nhận định: nếu biết lợi
dụng khai thác những chỗ yếu của Pháp thì nhất định cuộc tiến công sẽ thất bại.
Thường vụ nhất trí thực hiện ngay công thức "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung",
nhất trí tổ chức ba mặt trận như báo cáo của Tổng chỉ huy Võ
Nguyên Giáp. Kết
thúc cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Tình hình cực kỳ rối ren về chính trị ở
Pháp và phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa đã dẫn Pháp đến chỗ muốn
sớm kết thúc chiến tranh Đông Dương. Chúng chỉ tiến công ồ ạt lúc đầu. Nếu ta
thực hiện được đánh địch khắp nơi, buộc chúng dàn mỏng lực lượng đối phó,
chúng sẽ thất bại. Ta giữ gìn được chủ lực qua mùa đông này là coi như thắng lợi.
Nếu chuyến này không thắng nhanh để kết thúc chiến tranh thì cục diện sẽ đổi mới
có lợi cho ta"
Trên khắp các mặt trận, quân Việt Minh chiến đấu anh dũng, ngăn chặn và đẩy
lui bước tiến của quân Pháp, đặc biệt là thủy binh [9]. Ngày 15 tháng 10, hai tiểu
đoàn chủ lực của Bộ có một khẩu đội pháo phối hợp, tiến công vào 200 quân Pháp
đóng tại Chợ Mới. Ngày 21, một tiểu đoàn của Trung đoàn Thủ đô tiến công một đại
đội Pháp đóng trong Chợ Đồn. Ngày 22, tự vệ thị xã Tuyên Quang dùng địa lôi đánh
phục kích ở ki-lô-mét số 7 trên quốc lộ 2, diệt và làm bị thương gần 100 tên địch.
Cùng với đó là 17 trận phục kích nhỏ trên đường Phủ Thông - Bắc Cạn, Chợ Mới Bắc Cạn, đã làm cho quân Pháp nhụt chí, không dám sục sạo rộng ra ngoài vị trí
đóng quân.
Nhận rõ chỗ yếu chí mạng của Pháp là vấn đề bảo đảm hậu cần, Bộ Tổng chỉ huy

chủ trương "Đánh mạnh ở Mặt trận Sông Lô và đường 4, phá giao thông vận tải
tiếp tế của địch, kết hợp chặt việc phát động nhân dân làm vườn không nhà trống,
triệt nguồn tiếp tế tại chỗ của địch".

9


Pháo binh thực hiện nghi binh, cơ động linh hoạt, bố trí sát bờ sông, đã đánh hai
trận phục kích vào trưa 24 tháng 10: một đoàn tàu Pháp năm chiếc từ Tuyên
Quang xuống đến Đoan Hùng lọt vào trận địa phục kích của Trung đội pháo binh
Xuân Canh (Trung đội Pháo đài Xuân Canh - Hà Nội 12-1946) và Trung đội Lục tỉnh.
Khi tàu chiến Pháp đổ bộ lên bờ sông thì bị bộ đội Việt Minh phục kích bằng vũ khí
hạng nặng (như sơn pháo, Bazoka... [10]), bị bắn chìm tại chỗ hai chiếc, toàn bộ quân
Pháp trên tàu chết đuối; bắn hỏng nặng hai chiếc khác. Chiếc còn lại quay đầu về
Tuyên Quang. Sau trận này, tuyến đường sông Lô bị cắt 10 ngày, Pháp phải thả dù
tiếp tế cho Tuyên Quang và Chiêm Hoá. Báo chí Pháp gọi đây là "Thảm hoạ Đoan
Hùng".
Ngày 29 tháng 10, tiểu đoàn 374 trung đoàn 11 tổ chức trận địa phục kích đoạn
đường Bản Sao - đèo Bông Lau. Tại đèo Bông Lau, đoàn xe 30 chiếc của quân Pháp
lọt vào ổ phục kích của bộ đội và chịu thương vong khá lớn. Cả đoàn xe, có cả xe bọc
thép hộ tống, với khoảng 250 binh lính bị diệt và bị bắt (một số ít bỏ chạy vào rừng
sâu). Bộ đội thu chiến lợi phẩm rồi đốt xe, Việt Minh chỉ mất một chiến sĩ, bị thương
năm người.
Kinh nghiệm đánh hai trận Sông Lô và Bông Lau nhanh chóng được phổ biến trên
toàn chiến trường Việt Bắc, mở đầu cho hàng loạt trận phục kích lớn sau này. Bộ
Tổng chỉ huy quyết định tặng danh hiệu "Tiểu đoàn Bông Lau" cho tiểu đoàn 374.
Do sự chống trả quyết liệt của Việt Minh mà cuộc tiến công diễn ra không thuận
lợi, hai mũi tiến công đã không hợp vây được với quân nhảy dù.Việt Minh liên tiếp
tấn công trên Mặt trận Đường số 3, Mặt trận Đường số 4, Mặt trận Sông Lô. Quân
đội Việt Minh đã chủ động bao vây và tiến công quân Pháp ở Chợ Mới, Chợ Đồn,

Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông (nay thuộc Bắc Kạn)... Quân Pháp buộc phải rút lui
cục bộ: ngày 28-10 rời bỏ Bản Thi, Yên Thịnh. Ngày 13-11 rút khỏi Chợ Đồn, ngày
16 rút khỏi Chợ Rã, Ngân Sơn. Kế hoạch Lê-a bị phá sản.

Giai đoạn 2.
Ngày 20-11, Pháp mở đợt tấn công mới Xanh-tuya. Từ ngày 19-11 đến ngày 1412-1947 quân Pháp hành quân càn quét vùng tứ giác Tuyên Quang - Thái
Nguyên - Phủ Lạng Thương - Việt Trì, nơi trú đóng của các cơ quan chính phủ Việt
minh, phá vỡ đài phát thanh, bắt được máy in giấy bạc, nhiều dụng cụ khí giới đủ
loại, súng cá nhân, súng tự động và đại bác, bắt giữ hơn 1.000 người Việt, giải
thoát các con tin người Pháp, chiếm lại được mỏ kẽm Tĩnh Túc (Cao bằng) và mỏ
chì (Tuyên Quang) và có tin đồn là họ đã suýt bắt được cơ quan đầu não của Việt
minh. Về sau có một giai thoại nói rằng: "Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nấp sau
một bụi cây khi quân Pháp đi tới, Giáp tưởng sẽ bị bắt, nhưng rồi quân Pháp đi qua
không trông thấy nên hai người thoát được."

10


Quân Pháp thiệt hại khá nhiều, nhất là bộ binh của đại tá Beaufre. Qua cơn bất
ngờ lúc đầu, bộ đội Việt minh tổ chức các ổ phục kích trên đường thuộc địa số 4
(RC4) Lạng Sơn - Cao Bằng, đánh các đoàn công-voa và các đồn bót do Pháp đặt rải
rác để giữ trục giao thông đó. Trong Đợt 2, Quân Việt Minh đánh trên sông
Gâm đoạn từ Chiêm Hóa vềTuyên Quang, phủ Lạng Thương, Km 6 Đường Tuyên
Quang – Hà Giang. Pháp phải rút khỏi thị xã Tuyên Quang, Chợ Chu.
Nhiều chiến trường khác có những hoạt động chiến đấu phối hợp với chiến
trường Việt Bắc. Ở Hà Nội, biệt động hoạt động mạnh trong nội thành, diệt
trừ Trương Đình Tri, thủ hiến Bắc kì Việt Nam. Du kích quấy rối ở Chèm, Cầu
Giấy, Văn Điển, Vĩnh Tuy. Đại đội độc lập phối hợp với du kích tập kích ở Đan
Phượng, Hoài Đức và Cần Kiệm (Thạch Thất). Cuộc tổng phá tề ở ngoại thành Hà
Nội đã bắt giữ gần 300 tề. Ở nam phần Bắc Ninh, toàn bộ tề bị phá. Khu 14, bộ đội

Tây tiến giải phóng Chiềng Sai. Ở Nam Bộ, bộ đội Gia Định phục kích tại Gò Nổi.
Nửa đêm 14 tháng 11 năm 1947, tất cả các vị trí Pháp ở ven Sài Gòn: Thị Nghè, Gia
Định, Gò Vấp, Bến Cát, Bà Quẹo, Bà Điểm, Phú Lộc, Phú Thọ, Ngã Năm v.v... đều bị
tập kích. Bộ đội Thủ Dầu Một đánh phục kích ở Phú Văn Hưng. Trận phục kích trên
đường Thủ Dầu Một - Phú Riềng phá 10 xe, diệt 60 lính Pháp. Ở Biên Hoà, Lộc Ninh,
Tây Ninh, Tân An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, nhiều vị trí bị tập kích.
Đêm 30 tháng 11, tiểu đoàn 160 cùng với một đại đội thuộc trung đoàn 72 và du
kích thị xã Bắc Cạn tập kích đồn Phủ Thông, diệt 50 lính. Đây là trận đầu tiên quân
Pháp bị diệt trong công sự.
Sau khi không thể hợp vây, các chỉ huy Pháp quyết định rút lui khỏi Việt Bắc
trong tháng 12. Ngày 6 tháng 12 rút khỏi Định Hoá; 7 tháng 12, rút Võ Nhai. Nắm
chắc thời cơ, ngày 15 tháng 12, bộ đội trung đoàn 165 đánh trận phục kích xuất sắc
tại đèo Giàng, phá huỷ 17 xe, diệt 60 lính, thu hai triệu tiền Đông Dương và nhiều
vũ khí, quân dụng. Các cánh quân Pháp trên đường rút chạy đều bị đánh thiệt hại.
Ngày 19 tháng 12, đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc. Cuộc hành quân kết
thúc.

Bộ đội pháo binh Sông Lô trong chiến dịch Việt Bắc.ảnh tư liệu

11


III.Tác Động Của Chiến Dịch Việt Bắc Thi Đông Của Thực Dân Pháp Ở Việt
Nam
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), là một
trong những sự kiện mang tầm chiến lược tác động đến tiến trình cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam. Trong khi đối với thực dân
Pháp, đó là thất bại nặng nề về cả quân sự lẫn chính trị, là sự sụp đổ không gì cứu
vãn nổi của chiến lược “ đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp.
1.Tình hình của Việt Nam trước chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947.

Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân
phong kiến, thiết lập nên nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ
nguyên mới trong lịch sử của dân của dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên Độc lập – Tự do.
Nhưng ngay sau khi vừa mới ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ Việt Nam đã
phải đối phó với một tình thế hết sức hiểm nghèo, hàng loạt nguy cơ, thách thức
tưởng chừng khó có thể vượt qua. Đó là nguy cơ của giặc đói, giặc dốt và đặc biệt
là giặc ngoại xâm. Chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật
những năm trước đó đã để lại những hậu quả rất nặng nề. Mọi ngành sản xuất đều
bị sa sút ngưng trệ, hàng hóa khan hiếm, thị trường đình đốn tiêu điều. Cuộc sống
của nhân dân đã rớt xuống mức cùng cực khôn tả.
Như vậy chỉ sau ba tuần sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng
non trẻ của chúng ta đã phải lâm vào cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược
với tương quan lực lượng còn quá chênh lệch so với kẻ thù.
Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, thực dân Pháp kiểm soát các
thành phố lớn, nhiều thị xã, miền biển và biên giới, những đường giao thông chính
ở nội địa và với nước ngoài, một số vùng ở đồng bằng. Chúng lại hay lấn ra vùng tự
do để thu hẹp dần địa bàn của ta. Khi chưa giải phóng biên giới, vùng tự do hầu
như nằm trong vòng vây của địch.
Đất nước tạm thời chia làm 2
vùng: vùng tự do kháng chiến và
vùng tạm bị chiếm (ở Nam Bộ từ
23/9/1945).
Tình hình kinh tế lâm vào hoàn
cảnh khó khăn, sức sản xuất và
điều hòa cung cầu giữa các địa
phương bị ảnh hưởng.
Có thể nói tại thời điểm này
Việt Nam gặp muôn ngàn khó
khăn thử thách trên vai chính
quyền cách mạng non trẻ của Việt

Nam có gánh nặng hết sức nặng
nề. Nhưng mặc dù gặp những khó
khăn như vậy chúng ta vẫn kiên
12


cường chống giặc ngoại xâm bằng mọi biện pháp, mang lại độc lập thống nhất toàn
lãnh thổ Việt Nam.
2. Tình hình của Pháp.
+.Tại chiến trường Đông Dương.
Mặc dù sau gần một năm thì thực dân Pháp đã chiếm được một số thành phố, một
số những thị xã hết sức quan trọng và một số đường giao thông mang tính chiến
lược nhưng thực dân Pháp vẫn chưa hoàn thành được việc xâm lược Việt Nam. Mà
chúng gặp phải những khó khăn, khó khăn lớn nhất là ở chiến trường Đông
Dương. Đó là một mâu thuẫn không gì giải quyết được: khi chúng càng mở rộng
phạm vi chiếm đóng thì buộc chúng phải dàn mỏng lực lượng, mà khi chúng dàn
mỏng lực lượng thì lại tạo điều kiện cho ta tiêu diệt lực lượng của chúng. Trong khi
đó chiến tranh du kích của chúng ta phát triển rất mạnh mẽ trong lòng địch làm
cho chúng ăn không ngon ngủ không yên. Chính vì lẽ đó làm cho thực dân Pháp
càng gặp khó khăn hơn.
+.Tại Pháp.
Sau khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai với tư cách là người chiến thắng
nhưng nền kinh tế của Pháp bị tàn phá một cách nặng nề. Không những Pháp phải
dựa vào Mĩ để phục hồi và phát triển nền sản xuất nên Pháp muốn kết thúc chiến
tranh càng nhanh càng tốt để nhanh chóng khai thác lại thuộc địa, vì nếu Pháp
chiến lại các thuộc địa cũ và khai thác nhanh chóng thì sẽ giảm thiểu sự can thiệp
vào chính trị của Mỹ vào nước Pháp. Nhưng trong lúc này Pháp phải bỏ ra chi phí
để duy trì cuộc chiến tranh ở Việt Nam vậy nên làm cho nền kinh tế và tài chính của
Pháp lúc này càng gặp khó khăn hơn. Khó khăn thứ hai là về mặt kinh tế – xã hội.
Do gặp khó khăn về kinh tế nên đời sống của nhân dân Pháp không được cải thiện

dẫn đến việc nhân dân phản đối cuộc chiến tranh mà Pháp đang tiến hành tại Việt
Nam. Dẫn đến sự lục đục về đời sống xã hội trong nội bộ của Pháp.
Để giải quyết những khó khăn ở Đông Dương Pháp buộc phải tìm giải pháp mới để
nhanh chóng kết thúc chiến tranh tại Đông Dương. Chính vì thế quân Pháp đã mở
một cuộc hành quân với quy mô lớn vào vùng Việt Bắc, theo chiến lược “đánh
nhanh thắng nhanh”. Với mục đích phá cơ quan đầu não kháng chiến tiêu diệt chủ
lực của ta, chuẩn bị thành lập chính quyền bù nhìn bảo đại, khóa chặt biên giới Việt
– Trung ngăn chặn đường liên lạc của ta với quốc tế.
+.Tuy nhiên Pháp đã thất bại nặng nề:
- Sau toàn chiến dịch, Việt Minh đã tuyên bố loại khỏi vòng chiến đấu trên 6.000
tên lính Pháp và lính Việt phục vụ cho Pháp, bắt sống hơn 270 lính. 18 máy bay bị
bắn hạ, 16 tàu chiến-38 ca nô bị đáng chìm và 255 xe các loại bị phá hủy. Việt Minh
thu 2 pháo 105 mm, 7 pháo 75 mm, 16 khẩu pháo 20 mm, 337 súng các cỡ, 45
bazooka, 1600 súng trường.

13


- Tàu chiến của dịch bị bắn chìm trên sông Lô, ở Đoan Hùng, Phú Thọ, trong chiến
dịch Việt Bắc thu đông năm 1947.
3. Tác động của chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947.
Việt Minh đã hoàn thành nhiệm vụ đề ra: phá tan cuộc tấn công mùa đông của
Pháp năm 1947, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến của ta, bảo toàn và nâng cao
sức chiến đấu của bộ đội chủ lực, bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc an toàn.
Sau thất bại này, Pháp không thể tiêu diệt đầu não kháng chiến của ta để kết thúc
sớm cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Các đơn vị tinh nhuệ của Việt Nam đươc giữ
vững. Buộc Pháp phái chuyển từ chính sách “đánh nhanh thắng nhanh” sang đánh
lâu dài với chiến lược da vàng hóa chiến tranh - thành lập một chính phủ bù nhìn
để “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh để nuôi chiến tranh”. Trong
khi đó quân đội ta không những không bị tiêu diệt mà dã trưởng thành và được

trang bị thêm nhiều vũ khí.
Sau chiến thắng của chiến dịch Việt Bắc thu đông năm (1947), so sánh tương
quan lực lượng giữa ta và địch bắt đầu thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta.
Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhận xét: Cuộc tiến công chiến lược lên
căn cứ địa Việt Bắc “là cuộc tiến công mang nhiều tham vọng nhất của Pháp trong
suốt quá trình chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, ngoài kế hoạch Na-va sau này,
nhằm kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
Tuy nhiên, sức mạnh quân sự và tham vọng của thực dân Pháp không thể chiến
thắng được bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam. Chiến thắng này còn là minh chứng hùng
hồn về sự lãnh đạo, chỉ đạo sắc bén, tài thao lược của Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Qua chiến dịch, Quân đội nhân dân Việt Nam có bước phát triển về
14


hình thức chiến thuật và phương thức tổ chức lực lượng, tích lũy kinh nghiệm về
“du kích chiến”, “vận động chiến”, đặc biệt là phương châm tác chiến “đại đội độc
lập, tiểu đoàn tập trung”. Đặc biệt, chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 cũng là
chiến dịch phản công đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam đã vận dụng thành
công nghệ thuật chiến dịch “Tiến công trong phản công trên địa bàn rừng núi”, góp
phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang giải đoạn mới.
Như vậy chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 đã tác động đến tiến trình của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Viêt Nam nhanh chóng giành
được thắng lợi.
Nguyên nhân thắng lợi.
Có sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính
trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo.
Toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, dũng cảm trong chiến đấucần cù trong lao
động sản xuất.
Có chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất
được củng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, hậu phương

rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.
Được tiến hành trong liên minh chiến đấu của nhân dân 3 nước Đông Dương,
được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dânchủ
nhân dân, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ.

15


Kết Luận
1.Ý nghĩa tác động đến Việt Nam
Sau thất bại chiến dịch việt bắc thu đông năm 1947 người pháp không thể tiêu
diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh để kết thúc sớm cuộc chiến ở Đông
DươngCác đơn vị tinh nhuệ của Việt Minh vẫn được giữ vững. Họ phải chuyển từ
chính sách đánh nhanh thắng nhanh sang đánh lâu dài với chiến lược Da vàng hóa
chiến tranh thành lập một chính phủ bù nhìn để "dùng người Việt đánh người Việt,
lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Trong khi đó lực lượng Việt Minh mạnh lên vì thu
giữ được một số lượng lớn trang bị của Pháp.
Chiến dịch Việt Bắc được xem là thắng lợi lớn đầu tiên của Việt Minh trong cuộc
chiến, đánh đổ kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của Pháp. Nhưng dù sao Pháp
đã thành công trong việc chiếm giữ Đường số 4 và kiểm soát biên giới Việt-Trung.
Việt Minh sẽ phải đổ nhiều máu để chiếm giữ lại con đường này trong năm 1950.
Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông 1947, làm phá tan kế hoạch “tấn công chớp
nhoáng” để kết thúc chiến tranh của Pháp. Một lần nữa chứng minh đường lối và
sự chỉ đạo kháng chiến của Đảng là đúng đắn, đánh dấu bước trưởng thành mới
của quân đội ta, đưa kháng chiến dân tộc sang một giai đoạn mới, giai đoạn chiến
lược phòng ngự sang giai đoạn chiến lược cầm cự.

2. Ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ý nghĩa thứ nhất là: Chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 có thể nói là chiến
thắng lớn nhất kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai xâm

16


lược nổ ra, và nó làm cho uy tín của chính phủ kháng chiến được nâng cao. Thông
qua đó khẳng định đường lối kháng chiến của chúng ta là toàn dân, toàn diện,
trường kì và tự lực cánh sinh là hoàn toàn đúng đắn.
Ý nghĩa thứ hai là: Chiến thắng của chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 đã
chứng tỏ sự trưởng thành của quân đội nhân dân ta và khẳng định đường lối của
chúng ta là đúng đắn cũng như khả năng của nhân dân ta có thể đẩy lùi các cuộc
tấn công có quy mô lớn của thực dân Pháp.
Ý nghĩa thứ ba là: Bị thất bại ở chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 thì thực
dân Pháp đã hoàn toàn bị thất bại trong âm mưu đánh nhanh thắng nhanh chính vì
vậy chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta.

Tài Liệu Tham Khảo
1. />%E1%BB%87t+b%E1%BA%AFc+thu+%C4%91%C3%B4ng+n
%C4%83m+1947&num=20&newwindow=1&sa=X&biw=1366&bih=597&tbm=isch
&tbo=u&source=univ&ved=0ahUKEwjx3oqglZPLAhWC4qYKHZ6wDosQsAQIHA#im
grc=peZo1319hqM37M%3A
2. />3. />%87t_B%E1%BA%Afc
4. />5. />%87t_B%E1%BA%AFc#Di.E1.BB.85n_bi.E1.BA.BFn

17



×