Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận môn nghiệp vụ ngân hàng thương mại Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.22 KB, 16 trang )

VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------

BÁO CÁO ĐỀ TÀI 8
CẠNH TRANH
TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG

Nhóm thực hiện

: NHÓM 5

Lớp

: CHNHK24

Giáo viên hướng dẫn

: PGS.TS. Trầm Thị Xuân Hương

Hồ Chí Minh, tháng 04/2016
ĐỀ TÀI 8:
CẠNH TRANH
TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG


Nhóm thực hiện

: NHÓM 5

Lớp



: CHNHK24

Giáo viên hướng dẫn

: PGS.TS. Trầm Thị Xuân Hương

DANH SÁCH NHÓM 5
1. Phạm Thị Hiền
2. Trần Mỹ Hương Trà
3. Thái Thị Trang
4. Võ Thị Hiền
5. Nguyễn Hùng Cường

Câu 1: Lý thuyết về cạnh tranh:
• Cạnh tranh:
Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng
cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ, hoàn thiện tổ chức quản lý
để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu
hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển. Cạnh tranh của một doanh nghiệp là
chiến lược của một doanh nghiệp với các đối thủ trong cùng một ngành.


Theo Michael Porter thì: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là
tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh
nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành
theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi (1980). Và Michael
Porter cũng đã chỉ ra rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gồm bốn yếu tố:
a. Các yếu tố bản thân doanh nghiệp: Bao gồm các yếu tố về con người (chất

lượng, kỹ năng); các yếu tố về trình độ (khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm thị trường); các
yếu tố về vốn… các yếu tố này chia làm 2 loại:
* Loại 1: các yếu tố cơ bản như: môi trường tự nhiên, địa lý, lao động;
* Loại 2: các yếu tố nâng cao như: thông tin, lao động trình độ cao…
Trong đó, yếu tố thứ 2 có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chúng quyết định lợi thế cạnh tranh ở độ cao và những công nghệ có tính độc quyền.
Trong dài hạn thì đây là yếu tố có tính quyết định phải được đầu tư một cách đầy đủ và
đúng mức.
b. Nhu cầu của khách hàng: Đây là yếu tố có tác động rất lớn đến sự phát triển của
doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thõa mãn đầy
đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này
thì có hạn chế về mặt khác. Vấn đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều này
và cố gắng phát huy tốt nhất những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất
những đòi hỏi của khách hàng. Thông qua nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp có thể
tận dụng được lợi thế theo quy mô, từ đó cải thiện các hoạt động kinh doanh và dịch vụ
của mình. Nhu cầu khách hàng còn có thể gợi mở cho doanh nghiệp để phát triển các
loại hình sản phẩm và dịch vụ mời. Các loại hình này có thể được phát triển rộng rãi ra
thị trường bên ngoài và khi đó doanh nghiệp là người trước tiên có được lợi thế cạnh
tranh.
c. Các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ: Sự phát triển của doanh nghiệp không thể
tách rời sự phát triển các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ như: thị trường tài chính, sự
phát triển của công nghệ thông tin… Ngày nay, sự phát triển của công nghệ thông tin,
các ngân hàng có thể theo dõi và tham gia vào thị trường tài chính 24/24 giờ trong ngày.


d. Chiến lược của doanh nghiệp, cấu trúc ngành và đối thủ cạnh tranh: Sự phát
triển của hoạt động doanh nghiệp sẽ thành công nếu được quản lý và tổ chức trong một
môi trường phù hợp và kích thích được các lợi thế cạnh tranh của nó. Sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp sẽ là yếu tố thúc đẩy sự cải tiến và thay đổi nhằm hạ thấp chi phí, nâng
cao chất lượng dịch vụ.

Trong bốn yếu tố trên, yếu tố 1 và 4 được coi là yếu tố nội tại của doanh nghiệp, yếu
tố 2 và 3 là những yếu tố có tính chất tác động và thúc đẩy sự phát triển của chúng.
Ngoài ra, còn hai yếu tố mà doanh nghiệp cần tính đến là những cơ hội và vai trò của
Chính Phủ. Vai trò của Chính Phủ có tác động tương đối lớn đến khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp nhất là trong việc định ra các chính sách về công nghệ, đào tạo và trợ
cấp
(BỘ 3 CUỐN SÁCH: CHIẾN LƯỢC CẠNH TRANH, LỢI THẾ CẠNH TRANH &
LỢI THẾ CẠNH TRANH QUỐC GIA, Tác giả: Michael E. Porter, Nhà xuất bản: DT
Books & NXB Trẻ)
Theo lý thuyết cạnh tranh của Karl Marx đã phân tích cạnh tranh trên 3 khía cạnh:
cạnh tranh về giá trị thặng dư, cạnh tranh chất lượng, cạnh tranh giữa các ngành và đều
diễn ra xoay quanh giá trị và chỉ có lao động trừu tượng mới tạo ra giá trị mới. Marx đã
định nghĩa cạnh tranh có nghĩa là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng
cùng phẩm chất, cùng loại, đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế lợi ích, mục tiêu
xác định. Trong lĩnh vực kinh tế, cạnh tranh thể hiện sự đối địch giữa các hãng kinh
doanh trên cùng moot thị trường để giành được nhiều khách hàng hơn, thu hút được
nhiều lợi nhuận hơn cho bản thận, thường là bằng cách bán theo giá thấp hay cung cấp
một chất lượng hàng hóa cao hơn. Kết quả của cạnh tranh là thanh lọc, loại bỏ những
doanh nghiệp kinh doanh kém phát triển. Đó cũng chính là quy luật tất yếu của hoạt
động kinh tế.
• Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng
Trong cạnh tranh sẽ phát sinh ra người có khả năng cạnh tranh mạnh hay yếu, sản
phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh hay yếu. Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh thì
các chủ thể cần phải có khả năng cạnh tranh ( sức mạnh cạnh tranh hay năng lực cạnh
tranh). Để có khả năng cạnh tranh, các chủ thể phải không ngừng nâng cao năng lực


cạnh tranh. NHTM là một loại hình doanh nghịệp trong nền kinh tế thị trường do đó
không nằm ngoài những nội dung nói trên về cạnh tranh.
Các chủ thể tham gia trên thị trường cạnh tranh được chia ta làm 3 loại:

-

Cạnh tranh giữa ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng
Cạnh tranh giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài
Cạnh tranh giữa các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước và các ngân hàng thương
mai cổ phần
Đặc điểm của cạnh tranh ngân hàng:
a. Ngân hàng là ngành kinh doanh có điều kiện (đáp ứng một số điều kiện cao với

số lượng cấp phép hạn chế) do tác động to lớn của nó đến nền kinh tế, đặc biệt là tính hệ
thống cao và tương tác có tính dây chuyền. Các NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực đặc biệt, đó là kinh doanh tiền tệ. Đây là một lĩnh vực hoạt động đòi hỏi sự quản lý
chặt chẽ của cơ quan quản lý (NHTW, Chính phủ…) thông qua Luật, quy định và các
điều kiện ràng buộc khác nhau. Bởi lẽ NHTM huy đồng tiền nhàn rỗi chủ yếu từ dân cư,
thông qua hoạt động và chức năng của mình, NHTM sẽ thực hiện cho vay, thanh toán…
đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu không quản lý và kiểm tra giám sát chặt chẽ các
hoạt đông của NHTM sẽ dẫn đến tình trạng “phá rào” dẫn đến đổ vỡ hoặc phá sản ngân
hàng. Điều này khong chỉ hệ lụy với từng ngân hàng mà còn cả hệ thống thậm chí kéo
theo hệ lụy đến cả nền kinh tế. Mặc dù các NHTM luôn cạnh tranh gay gắt với nhau để
mở rộng thị phần, tranh thủ khách hàng, nhưng trong tác nghiệp chúng phải hợp tác với
nhau để thực thi các chức năng có tính hệ thống như thanh toán bù trừ, cung cấp thông
tin khách hàng cho nhau để giảm thiểu rủi ro khách hàng gian lận, ngăn chặn tác động
dây chuyền làm sụp đổ hệ thống…Để hỗ trợ nhau, đôi khi các NHTM phải cứu nguy
cho nhau chứ không phải tiêu diệt nhau.
b. Sản phẩm có rất ít sự khác biệt: Hàng hóa mà NHTM cung cấp cho khách hàng là
quyền sử dụng tiền theo thời gian. Phạm vi của sự khác biệt không nằm ở tiền mà ở quy
trình, tiêu chuẩn, thái độ và phương thức cung cấp, huy động tiền, ở khả năng đáp ứng
nhu cầu của khách hàng, không về chất lượng, mà thuần túy về số lượng và độ dài thời
gian sử dụng tiền. Nói cách khác, cạnh tranh ngân hàng vừa dựa vào chất lượng sản
phẩm dịch vụ tiện ích, an toàn…cung cấp cho khách hàng dựa vào phương thức, số



lượng cung cấp nhiều hơn và thái độ phục vụ gần gũi, thân thiện, tin tưởng, phong cách
giao dịch chuyên nghiệp và thân thiện
c. Cạnh tranh giá trong hoạt động ngân hàng cũng khá hạn chế. Bởi vì, lãi suất đầu
vào và đầu ra của các ngân hàng dễ bị san phẳng, thậm chí còn chịu sự điều tiết của
chính phủ. Chính vì vậy, các ngân hàng thường cạnh tranh về quy mô cung ứng và chi
phí cung ứng hơn là giá bán hàng hóa, cạnh tranh dựa vào uy tín, thương hiệu hơn là sự
khác biệt sản phẩm.
d. Cạnh tranh của NHTM chịu sự ảnh hưởng nhạy cảm của thị trường tài chính quốc
tế. Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế dòng vốn luân chuyển giữa các
quốc gia ngày càng mạnh mẽ, các NHTM của bất kỳ quốc gia nào cũng phải liên kết với
các NHTM ngoài nước để thực hiện trọn vẹn các giao dịch dịch vụ của mình. Khi liên
kết NHTM quốc gia phải tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn quốc tế
e. Cạnh tranh ngân hàng dựa rất lớn vào yếu tố tâm lý như sự tín nhiệm, kỳ vọng
của người gửi tiền: Kinh doanh ngân hàng có tính rủi ro rất cao. Những yếu tố ngoài
ngân hàng như khó khăn của khách hàng, thiên tai, bất ổn trên thị trường, các yếu tố của
bản thân ngân hàng như lòng tham lam, quá mạo hiểm của nhân viên kinh doanh… đều
khiến ngân hàng đi đến chỗ phá sản, làm mất niềm tin của người gửi. Do tình trạng
thông tin bất đối xứng giữa ngân hàng và khách hàng khiến khách hàng không thể kiểm
soát được tình hình kinhh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy, bất cứ tin đồn nào khiến
người gửi tiền mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng nói chung, NHTM cụ thể nói riêng,
họ liền ồ ạt rút tiền khỏi ngân hàng khiến ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
Hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong số các loại hình kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, đó là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài
chính có liên quan. Do đó, cạnh tranh ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong sự
phát triển của nền kinh tế.

Câu 2: Các chỉ số đo lường mức độ cạnh tranh:
Đo lường tính cạnh tranh của ngân hàng đã được phát triển bởi các mô hình của

Iwata (1974), Bresnahan (1982) và Panzar and Rosse (1987). Trong đó công cụ được sử
dụng phổ biến và rộng rãi nhất là chỉ số Lerner. Nguyên nhân cho sự phổ biến của nó
chính là do sự đơn giản của nó và không đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về mặt dữ liệu, theo


Sofronis Clerides (2013). Chỉ số Lerner cho thấy khả năng tính mức chi phí biên của một
ngân hàng cụ thể.
Được xác định theo công thức sau:

Lerner =

Trong đó:
Pi: giá trung bình đầu ra của ngân hàng i; là tỉ số tổng doanh thu/ tổng tài
sản;
MCi: Chi phí biên;
Nếu Lerner = 0: Cạnh tranh hoàn hảo
Nếu Lerner = 1: Độc quyền tồn tại
Theo Phan Thị Thơm – Thân Thị Thu Thủy (2015), ưu điểm nổi bật của chỉ số
Lerner là không những có thể đo lường sức mạnh thị trường của ngành ngân hàng cho cả
năm mà còn dễ dàng phân tích được sức mạnh thị trường theo từng nhóm ngân hàng
(NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần), theo quy mô ngân hàng (lớn, nhỏ, trung bình)…
Koetter, Kolari and Spierdijk (2012) đã chỉ ra rằng cách tiếp cận thông thường
của chỉ số Lerner bao gồm giả định cả hiệu quả về lợi nhuận (lựa chon tối ưu về giá cả)
và hiệu quả về chi phí (sự lựa chọn tối ưu các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp), vì vậy
ước lượng chi phí biên không đo lường chính xác được sức mạnh thị trường. Koetter,
Kolari and Spierdijk (2012) đã đưa ra chỉ số Lerner hiệu chỉnh, được xác định như sau:

Lerner hiệu chỉnh =

Trong đó:

là lợi nhuận của ngân hàng i


TC là tổng chi phí của ngân hàng i
MC là chi phí biên
Q là tổng sản lượng đầu ra
Tương tự như chỉ số Lerner, chỉ số Lerner hiệu chỉnh cũng nhận giá trị từ (0,1),
giá trị càng cao thì mức độ độc quyền của doanh nghiệp càng lớn.
Công cụ tiếp theo để đo lường mức độ cạnh tranh là chỉ số profit-elasticity, nó
ước tính phần trăm lợi nhuận giảm khi chi phí biên tăng lên 1%.
profit-elasticity =

Câu 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng:
Theo một nghiên cứu của Joaquín Maudosa và các cộng sự, năm 2005, cạnh tranh trong
lĩnh vực ngân hàng ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
+Đặc điểm của từng ngân hàng,
+Các quy định,
+Thể chế chính trị,
+Nền kinh tế vĩ mô,
+Cấu trúc tài chính.
Theo đó:
+ Yếu tố đặc điểm riêng của mỗi ngân hàng được thể hiện qua quy mô, thị phần và hiệu
quả (chi phí chung/ thu nhập ròng), rủi ro (thể hiện thông qua ROA, vì NH có xu hướng
bù đắp rủi ro bằng lợi nhuận), thu nhập ngoài lãi, tổng giá trị tài sản của ngân hàng đó.
Kết quả cho thấy biến này là biến đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giải thích sự
khác biệt năng lực thị trường giữa các ngân hàng.
+ Yếu tố cấu trúc thị trường được thể hiện qua sự tập trung ngân hàng, sở hữu nhà nước,
sở hữu nước ngoài. Kết quả cho thấy biến này cũng là sự giải thích quan trọng trong
cạnh tranh. Vì vậy, sự cạnh tranh sẽ giảm sút nếu thiếu phần sở hữu nước ngoài trong cơ
cấu vốn của NH



+ Yếu tố các quy định, luật lệ NH được thể hiện qua quy định về sự gia nhập của các NH
nước ngoài vào thị trường nội địa, quy định ngăn cấm 1 số các hoạt động (như bất động
sản, việc sở hữu NH của các công ty phi tài chình), sự tự do trong hoạt động ngân hàng.
Sức mạnh thị trường sẽ được tăng cường với việc từ chối việc có thêm sự gia nhập hoặc
khi quốc gia đó có ít sự tư do trong hoạt động kinh doanh NH. ..
Các bằng chứng thực nghiệm của nghiên cứu này cho thấy rằng, năng lực cạnh tranh
càng mạnh ở những quốc gia có thị trường NH kém phát triển và thấp ở những quốc gia
phát triển thị trường chứng khoán.
Câu 4. Tác động của cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động ngân hàng
Cạnh tranh trong thị trường tài chính sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các tổ
chức cung cấp dịch vụ tài chính cũng như mức độ phát triển của các dich vụ tài chính
đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Các tác động của cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động
ngân hàng bao gồm:
-

Tác động tích cực và đáng kể đến sự đa dạng hóa , tính ổn định và rủi ro cho
vay trong lĩnh vực ngân hàng (M. Amidu và S. Wolfe, năm 2013)
+Môi trường cạnh tranh làm cho các ngân hàng có khuynh hướng gia tăng vốn
chủ sở hữu, gia tăng tính ổn định
+Cạnh tranh kết hợp với đa dạng hóa hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro danh
mục cho vay
+Cạnh tranh làm các ngân hàng tích cực đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh,
gia tăng thu nhập từ lãi và ngoài lãi

-

Tác động tích cực đến rủi ro của các ngân hàng bởi các quy định hoạt động chặt
chẽ hơn, sự đổ vỡ hệ thống thấp hơn, thị trường chứng khoán phát triển tốt hơn,

bảo hiểm tiền gửi rộng rãi hơn và hệ thống chia sẻ thông tin tín dụng sẽ hiệu quả
hơn (Thorsten Beck, năm 2012)
+Các ngân hàng tăng vốn chủ sở hữu cho mục đích đầu tư tăng năng lực hạ tầng
(đầu tư xây dựng trụ sở, đầu tư cho công nghệ, mở rộng mạng lưới hoạt động…)
và tăng vốn để tăng năng lực tài chính nhằm nâng cao cạnh tranh và đảm bảo các
hệ số an toàn vốn (hệ số CAR) đáp ứng cho việc ngân hàng tăng trưởng nóng tín
dụng và tài sản có rủi ro khác trong tổng tài sản. Điều này làm giảm thiểu rủi ro
hoạt động của các ngân hàng.


+Khuyến khích các ngân hàng đa dạng hóa hoạt động, giảm thiểu rủi ro hệ thống,
làm cho hệ thống ngân hàng ít đổ vỡ trước những cú sốc.
Khuyến khích nâng cao hiệu quả trong sản xuất dịch vụ tài chính, các sản phẩm tài chính
chất lượng cao hơn và đổi mới nhiều hơn. Khi các hệ thống tài chính mở cửa hơn nhiều
hơn tạo nên sự khác biệt sản phẩm lớn hơn, hạ thấp các chi phí của các trung gian tài
chính và tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ tài chính (Deniz Anginer,
Câu 5: Vấn đề cạnh tranh và khả năng của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Tính đến cuối tháng 12/2015 , hệ thống ngân hàng việt nam bao gốm 2 ngân hàng
chính sách nhà nước, 4 ngân hàng thương mại do nhà nước năm 100% vốn, 31 ngân
hàng thương mại cổ phần và 61 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
1. Khả năng huy động
Khả năng huy động và cơ cấu nguồn vốn là một trong những tiêu chí đánh giá năng
lực hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) ở khía cạnh huy động
vốn và uy tín trên thương trường. Huy động nguồn vốn tốt chính là khả năng chiếm lĩnh
và mở rộng thị phần của các NHTM thông qua các loại hình sản phẩm thu hút tiền gửi từ
các đối tượng khách hàng. Hơn nữa, khi quy mô nguồn vốn lớn và cơ cấu hợp lý sẽ cho
phép NHTM phát triển các hoạt động kinh doanh như cho vay, đầu tư và cung cấp dịch
vụ tài chính khác. Khả năng huy động vốn được xác định bởi quy mô và tốc độ tăng
trưởng của nguồn vốn cùng với thời gian.


Tăng trưởng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng ở VN
(Nguồn: Báo cáo hàng năm của NHNN)
Huy động vốn của các NHTM có tăng trưởng khá qua các năm (trừ năm 2008, có
giảm sút, do tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) do việc đa dạng hóa sản
phẩm huy động và phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch. Măc dù có mạng
lưới rộng và thương hiệu mạnh, được người dân biết đến, nhưng tốc độ tăng trưởng về


huy động vốn của các NHTM CP có sự bứt phá mạnh, thị phần đã tăng lên 31,23% so
với 21,3% năm 2006, khiến cho thị phần của các NHTM NN giảm. Hoạt động cho vay
cũng có tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí còn tăng nóng trong năm 2007 và năm 2008,
một số NHTM CP có tốc độ tăng từ 60% trở lên
2. Cơ cấu tài sản
Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng. Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên chất lượng quản lý, khả năng
thanh toán, khả năng sinh lời và triển vọng bền vững của một ngân hàng

Nhìn chung thị trường ngân hàng Việt Nam tách tốp rõ rệt với các đại gia ngành ngân
hàng và phần còn lại. Theo số liệu thống kê tổng hợp từ báo cáo tài chính 6 tháng đầu
năm 2015 của các ngân hàng thương mại, dẫn đầu về quy mô tài sản là ông lớn BIDV
với 724.814 tỷ đồng, tiếp theo sau là VietinBank và VietcomBank
3. Cơ cấu vốn
Vốn là điều kiện tiên quyết để cấp phép cho một ngân hàng đi vào hoạt động, đảm
bảo khả năng tồn tại và phát triển của ngân hàng đó. Các ngân hàng cạng tranh trong
lĩnh vực cho vay, đẩy tỷ lệ an toàn vốn cho vay/huy động lên cao. Đơn cử như Ngân
hàng BIDV năm 2013 huy động được 100 đồng thì cho vay tới 77 đồng. Việc duy trì tỷ
lệ này ở mức cao đòi hỏi nhà quản trị cần có những biện pháp phòng chống rủi ro tín
dụng hiệu quả để đảm bảo an toàn cho ngân hàng…



Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của hệ thống ngân hàng cũng ghi nhận mức tăng từ 13.28%
trong tháng 6 lên 13.51% trong tháng 7. Theo đó, CAR của khối NHTM Nhà nước tăng
từ 9,38% trong tháng 6 lên 9,6% khối NHTM cổ phần tăng từ 13,1% lên 13,22%.
Theo ghi chú của NHNN, kết quả có được của vốn tự có và CAR của toàn hệ thống
đã loại bỏ các TCTD có vốn tự có âm.
4. Khả năng thanh toán
Là một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng và sự an toàn trong quá trình hoạt
động của một ngân hàng.
Từ tháng 2/2015, các ngân hàng thương mại dường như đang mạo hiểm hơn với vấn
đề thanh khoản, khi đẩy mạnh sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Cụ thể, cập
nhật gần nhất từ báo cáo của Ngân Hàng Nhà Nước cho thấy, tính đến 31/7/2015, khối
ngân hàng thương mại nhà nước đã nâng cao tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn,
lên tới 31,95%, trong khi cùng kỳ 2014 chỉ ở mức 24,26%. Trước đó, xu hướng này
cũng đã thể hiện ở khối ngân hàng thương mại cổ phần, đến tháng 7/2015 đã lên
33,08%, cùng kỳ 2014 chỉ 20,78%. Trước đây, Ngân hàng Nhà nước xác định tỷ lệ sử
dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn đến 30% là đánh động tới vấn đề thanh khoản.
Tuy nhiên, với Thông tư 36 có hiệu lực từ tháng 2/2015, giới hạn về tỷ lệ vốn ngắn hạn
cho vay trung dài hạn bất ngờ được nới mạnh từ 30% lên tới 60%. Điều này gián tiếp
cho thấy khẩu vị rủi ro của nhà điều hành đã thay đổi; các ngân hàng thương mại cũng
lập tức đẩy mạnh sử dụng vốn theo giới hạn mới như diễn biến ở trên.
5. Khả năng sinh lời
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả kinh doanh cũng như để đánh giá sự
phát triển bền vững của một ngân hàng. Hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của
ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi xét đến chỉ tiêu lợi nhuận, cần phân
tích lợi nhuận trong mối quan hệ với các chỉ tiêu quản lý khác, chẳng hạn như mức độ


thanh khoản, mức chấp nhận rủi ro, cơ cấu tài sản cũng như triển vọng phát triển lâu dài
của ngân hàng. Trong phân tích đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, có thể đo

lường bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau như: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA), lợi
nhuận trên vốn tự có (ROE), lợi nhuận trên tổng doanh thu, lợi nhuận trên mỗi cổ phần.
Những chỉ số này phản ánh khả năng sinh lời ròng tài sản. Nói cách khác, mỗi đồng tài
sản bình quân sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.

Chẳng hạn thu nhập lãi thuần hợp nhất sau 9 tháng của VietinBank đạt hơn 14.500 tỷ
đồng, trong khi thu từ hoạt động kinh doanh dịch vụ chỉ mang lại khoản lãi hơn 1.000 tỷ
đồng, ngoại hối 95 tỷ và hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư lỗ 180 tỷ đồng.
Tại BIDV, thu nhập từ lãi thuần sau 3 quý đầu năm cũng lên tới 13.719 tỷ đồng.
Nguồn thu từ hoạt động kinh doanh dịch vụ chỉ mang lại khoản lãi hơn 1.600 tỷ đồng, lỗ
từ hoạt động ngoại hối 16 tỷ, mua bán chứng khoán kinh doanh và đầu tư lỗ lần lượt 128
tỷ và 314 tỷ đồng,…
Theo số liệu tổng hợp từ 16 báo cáo tài chính hợp nhất sau 9 tháng đầu năm nay, thu
nhập lãi thuần của các ngân hàng có dấu hiệu tăng đột biến. So với cùng năm trước, thu
nhập lãi thuần của 16 ngân hàng tăng trưởng gần 19%.
Hầu hết đều có thu nhập từ lãi thuần tăng khá mạnh so với cùng kỳ, bởi hoạt động tín
dụng của những ngân hàng này cũng mở rộng khá mạnh so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trong 9 tháng của nhiều ngân hàng tăng mạnh nhất so với
đầu năm có thể nhắc đến như VPBank tăng trưởng 36%, LienVietPostBank tăng 32,2%,
BIDV tăng 23,4%, SHB tăng 17,7%, Techcombank, VIB và NCB cùng tăng trưởng trên
16%,...


6. Nguồn nhân lực:
Kết quả khảo sát của Viện Nhân lực ngân hàng - tài chính (BTCI) cho thấy trong 2
năm 2012 và 2013 có khoảng 30.000 - 32.000 sinh viên tài chính ngân hàng ra trường
nhưng chỉ có khoảng một nửa trong số đó được nhận vào làm việc trong các ngân hàng.
Đại đa số sinh viên sau khi tốt nghiệp đi làm tại các ngân hàng còn “hổng” cả về kỹ năng
(thái độ làm việc, kỹ năng làm việc nhóm, trình độ tiếng Anh, khả năng giao tiếp) và
kiến thức (các kiến thức về lĩnh vực tài chính, ngân hàng nói chung). Do đó, hầu như các

ngân hàng đều phải mất thời gian đào tạo lại mới có thể đáp ứng được yêu cầu công
việc.
Hiện cả nước có khoảng 40 cơ sở đào tạo ngành tài chính - ngân hàng, trong đó có 24
trường Đại học, mỗi năm có khoảng 11.000 cử nhân ra trường và 16 trường Cao đẳng,
mỗi năm có khoảng 7.000 sinh viên ra trường. Nhưng trong số này, rất ít người được các
ngân hàng tuyển dụng.
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh quý I/2014 của Vụ Dự báo thống kê tiền tệ
Ngân hàng Nhà nước vừa qua cho thấy những tín hiệu tích cực trong lĩnh vực nhân sự
ngân hàng. Theo đó, 40% ngân hàng cho rằng họ vẫn đang thiếu người và chắc chắn sẽ
tuyển thêm trong tương lai.
7. Hoạt động cạnh tranh không lành mạnh
Các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh rất đa dạng đã xuất hiện khá phổ biến.
Điển hình như các hình thức: Quảng cáo đưa ra không đúng hoặc gây hiểu lầm về nguồn
lực tài chính của TCTD này so với TCTD đối thủ khác, đưa ra những báo cáo kiểm toán
gây hiểu lầm để thu hút người gửi tiền từ đối thủ cạnh tranh; Cung cấp các thông tin về
vấn đề khó khăn của TCTD khác, đóng giả khách hàng đến gièm pha hoặc gây rối đối
thủ cạnh tranh; Khoán lương, thưởng và thù lao đặc biệt cho cá nhân không dựa vào
doanh thu chung, mà căn bản chỉ dựa trên mức huy động vốn...
Ngoài ra, nhìn vào “thực lực” năng lực của TCTD, có thể thấy: Năng lực tiếp cận
nguồn tái cấp vốn hay thị trường mở (OMO) tại NHNN của các TCTD còn rất chênh
lệch và không bị điều chỉnh bởi quy định bắt buộc nào về đặt cọc công cụ nợ; Hoạt động
kiểm soát nội bộ yếu, thiếu tính độc lập; Các TCTD ra sức áp dụng công nghệ hiện đại,
nhưng không đồng bộ trong hệ thống, gây trở ngại lớn cho quản lý và sử dụng các
nghiệp vụ ngân hàng hiện đại; Mô hình tập đoàn tài chính và/hoặc mô hình NHTM nhỏ
và vừa làm vệ tinh xung quanh NHTM trung tâm đã khá thành công ở các nước, nhưng
vẫn chưa có ở Việt Nam
II. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam



Để nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam và
thúc đẩy sự phát triển lành mạnh, bền vững của ngành Ngân hàng trong giai đoạn tới,
nhóm đưa ra một số khuyến nghị
+ Đối với ngân hàng thương mại nhà nước:
Thứ nhất, tăng quy mô vốn điều lệ
Là yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo hệ số an toàn vốn tối thiểu theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước và cũng đảm bảo an toàn cho hoạt động của chính bản thân ngân
hàng trong quá trình hoạt động tín dụng. Vốn tăng sẽ cho phép ngân hàng đầu tư phát
triển công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và mở rộng được kênh phân phối. Đây cũng là
những yếu tố không thể thiếu nếu muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
Việt Nam.
Thứ hai, đầu tư phát triển công nghệ
Trong môi trường cạnh tranh hiện đại, công nghệ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới
sự thành công của các ngân hàng. Cùng với việc tăng vốn chủ sở hữu, các NHTM cần
nâng cấp đầu tư phát triển công nghệ hiện đại có khả năng liên kết trong hệ thống, để
nâng cao nặng lực cạnh tranh trước xu thế các NHTM cạnh tranh ngày càng gay gắt…
Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Tuyển dụng: Tiếp tục duy trì chính sách tuyển dụng trọng dụng nhân tài để tuyển
dụng được những người có đủ đức đủ tài, để đảm nhiệm công việc đòi hỏi ngày càng cao
của hệ thống ngân hàng hiện nay.
- Đào tạo: Có các chính sách khuyến khích cán bộ, nhân viên trong ngân hàng tự học
để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; cử những người có năng lực quản trị giỏi đi
đào tạo học tập phương thức làm việc, cách tổ chức, quản lý tại các nước phát triển trên
thế giới.
Thứ tư, tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, NHTM Việt Nam cần đẩy mạnh
hợp tác với các ngân hàng nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm quản lý, điều hành và
những phần mềm ứng dụng công nghệ. Điều này sẽ giúp các NHTM kiểm soát tốt giao
dịch đảm bảo an toàn, ổn định.
+ Đối với ngân hàng nhà nước

Hoàn thiện môi trường pháp lý và các chính sách có liên quan đến cạnh tranh của
ngân hàng thương mại
Đầy nhanh tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại
Hoàn thiện chiến lược phát triển ngân hàng




×