Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty thương mại dịch vụ tràng thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.24 KB, 93 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Ở nước ta, sự lựa chọn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng XHCN đã đặt vấn đề kinh tế Nhà
nưóc phải giữ vai trò chủ đạo với các nội dung: Thành phần kinh
tế Nhà nước là nhân tố mở đường, tạo điều kiện cho sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất quan trọng
để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đổi mới
và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước có tầm quan trọng
quyết định nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế,
tạo điều kiện chủ động hội nhập; điều kiện tiền đề cho định hướng
xã hội chủ nghĩa .
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta đang trong thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩ xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Để
thực hiện giai đoạn quá độ thành công, phải có những bước đi
thích hợp, phải tiếp nhận được nền khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại mà nhân loại đã đạt được để vận dụng có hiệu qủa
vào việc phát triển nền kinh tế đất nước. Ngoài ra còn phải học
kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các nước khác, nhất là kinh
nghiệm của các nước tư bản chủ nghĩa. Muốn tồn tại, phát triển
trong cơ chế thị trường thì biện pháp duy nhất đúng đắn và cần
thiết là nghiên cứu, ứng dụng một cách khoa học biện chứng các
giải pháp vào thực trạng tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
dưới tác động của các nhân tố như: cơ cấu tổ chức quản lý; trình
độ của cán bộ quản lý; trình độ tay nghề của nhân viên; đầu tư cơ


sở vật chất; tiếp thu sự tác động của các thành tựu khoa học tiên
tiến...
Với tư cách là bộ phận cơ bản của thành phần kinh tế Nhà
nước, doanh nghiệp Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế, đi đầu trong việc ứng dụng các thành tựu khoa học công


nghệ nêu gương về hiệu quả kinh tế. Để đảm đương được vai trò
của mình, đáp ứng được tốt mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của
đất nước. Các doanh nghiệp Nhà nước phải tiến hành đổi mới,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu các giải
pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề sống còn
của mỗi doanh nghiệp.
Công ty Thương mại Dịch vụ Tràng Thi là một doanh nghiệp
Nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ cũng
nhận thức được việc nghiên cứu các giải pháp để nâng cao hiệu
quả kinh tế của mình là một vấn đề rất cần thiết và không thể
chậm trễ. Yếu tố cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh luôn luôn
đòi hỏi đơn vị phải có kế hoạch, hành động tương thích mới tồn
tại và phát triển được. Hàng hoá và dịch vụ chỉ được chấp nhận
khi và chỉ khi loại hàng hoá, dịch vụ đó đáp ứng được yêu cầu của
khách hàng về chất lượng, giá cả và thời gian.
Bằng kiến thức, cơ sở lý luận đã được trang bị trong thời gian
học ở nhà trường cùng với kinh nghiệm thực tế của mình, tôi
muốn nghiên cứu tìm ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả kinh doanh của Công ty Thương mại Dịch vụ Tràng Thi


trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng chính là nội dung báo cáo tốt
nghiệp mà tôi sẽ trình bày dưới đây.
Mặc dù đã có cố gắng nhưng bài viết không tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế. Với góc nhìn của mình, kính mong được sự chỉ
dẫn giúp đỡ của những người quan tâm đến đề tài để bản thân người
nghiên cứu được củng cố thêm nhận thức và vận dụng tốt hơn trong
quá trình thực tập.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp được xây dựng thành 3
chương:

Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty
thương mại dịch vụ Tràng Thi.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại
Công ty thương mại dịch vụ Tràng Thi.


CHƯƠNG I
VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Vốn của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm:
Vốn luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển của một doanh nghiệp. Để định nghĩa “vốn là gì?” các nhà
kinh tế đã tốn rất nhiều công sức và mỗi người đều có những định
nghĩa riêng, theo quan điểm riêng của mình.
Theo quan điểm của Marx, dưới giác độ các yếu tố sản xuất,
vốn đã được khái quát hóa thành phạm trù tư bản trong đó nó đem
lại giá trị thặng dư và là “một đầu vào của quá trình sản xuất”.
Định nghĩa về vốn của Marx có một tầm khái quát lớn vì nó bao
hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn
chính là giá trị cho dù nó có thể được biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau: nhà cửa, tiền của ... Vốn là giá trị đem lại giá trị
thặng dư vì nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ kinh
tế lúc bấy giờ, Marx đã chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong khu
vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có kinh doanh sản xuất vật
chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.

Theo David Begg, tác giả cuốn “kinh tế học”, thì vốn bao
gồm: vốn hiện vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là
dự trữ hàng hóa đã sản xuất để sản xuất ra các hàng hóa khác,


vốn tài chính là các tiền và các giấy tờ có giá của doanh ngiệp.
Trong định nghĩa của mình, tác giả đã đồng nhất vốn với tài sản
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực chất vốn của doanh nghiệp là
biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản của doanh nghiệp dùng trong
sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong
bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào
cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện những
khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, mua
sắm nguyên vật liệu, trả lãi vay, nộp thuế... đảm bảo cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục, chi phí
mua công nghệ và máy móc thiết bị mới ... để tái sản xuất mở
rộng. Do vậy vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái
vật chất khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
tiêu thụ trên thị trường. Số tiền mà doanh nghiệp thu về sau quá
trình tiêu thụ phải bù đắp được chi phí đã bỏ ra và có lãi. Số tiền
ban đầu đã được tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quá trình này diễn ra liên tục bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
Còn trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng
hóa. Nó giống các hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực,
song nó có đặc điểm khác vì người sở hữu vốn có thể bán quyền sử
dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá của quyền sử dụng vốn
chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử
dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh và sinh lời.



Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều
kiện vật chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác
làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của
vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản xuất riêng biệt mà trong
toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục, suốt thời gian
tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất dầu
tiên đến chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Tóm lại, do có rất nhiều quan niệm về vốn nên rất khó đưa ra
được một định nghĩa chính xác và hoàn chỉnh về vốn. Tuy nhiên
có thể hiểu mọt cách khái quát về vốn như sau:
Vốn của doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu
(đây là các khoản được tích tụ bởi lao động trong quá khứ được
biểu hiện bằng tiền), tham gia liên tục vào quá trình sản xuất kinh
doanh với mục đích đem lại giá trị thặng dư cho chủ sở hữu.

1.1.1.2. Phân loại vốn:
Để có thể quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả bước đầu tiên
mà người quản lí doanh nghiệp phải thực hiện là phân loại vốn.
Đây là công việc được các doanh nghiệp ở các nước có nền kinh
tế phát triển rất quan tâm vì nó ảnh hưởng rất nhiều tới chi phí
vốn và cơ cấu huy động vốn. ở các nước đang phát triển, các
nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều nên
việc phân loại vốn chưa được mọi người quan tâm.


* Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh: phân thành
hai loại là Vốn sản xuất và vốn đầu tư.
- Vốn sản xuất: Là loại vốn sử dụng trong quá khứ và hiện
tại phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đó là số tiền, tài

sản hữu hình, vô hình... dùng trong việc hình thành công việc sản
xuất, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nhgiệp. Hiệu quả
của nó được đánh giá thông qua sự phát triển của doanh nghiệp và
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
- Vốn đầu tư: Là loại vốn phục cho mục đích sản xuát kinh
doanh trong tương lai. Số lượng vốn đầu tư phụ thuộc vào kế
hoạch, các dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn đầu
tư sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong
tương lai do sự cạnh tranh ngày càng khóc liệt của các đối thủ
cạnh tranh và do tính phức tạp của nhu cầu ngày càng tăng. Việc
huy động đủ số lượng, kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh
là một vấn đề mà mọi doanh nghiệp luôn luôn quan tâm và dốc
sức để hoàn thiện công việc đó.
* Căn cứ vào nguồn hình thành vốn
Căn cứ vào nguồn hình thành vốn thì toàn bộ vốn của doanh
nghiệp được chia thành nợ vay và vốn của chủ sở hữu. Đây là
cách phân loại cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Hai loại vốn này có mối quan hệ đặc biệt với nhau khi chúng ta
xem xét cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp.
- Vốn của chủ sở hữu: Là loại vốn do các chủ sở hữu của
doanh nghiệp tài trợ và giữ lại phần lợi nhuận chưa phân phối.


Đối với các loại vốn này doanh nghiệp không phải hoàn trả những
khoản tiền đã huy động được trừ khi doanh nghiệp đóng cửa. Tuy
nhiên các chủ sở hữu có thể giảm vốn bằng cách giảm vốn ngân
sách nhà nước hay mua lại cổ phiêú... Chi phí vốn chủ sở hữu là
chi phí cơ hội cho việc sử dụng vốn. Trong trường hơp huy động
vốn cổ phần, chi phí vốn là lợi tức yêu cầu của các cỏ đông. Do
tính dài hạn và gần như không hoàn trả, vốn chủ sở hữu có độ an

toàn rất cao.
- Vốn vay: Những tài trợ cho doanh nghiệp loại vốn này
không phải là chủ sở hữu doanh nghiệp. Đặc trưng của loại vốn
này là doanh nghiệp phải tiến hành hoàn trả vốn vay trong một
thời gian nhất định. Chi phí vốn là lãi phải trả cho các khoản nợ
vay. Mức lãi xuất hay chi phí phải trả cho nợ vay thường ổn định
và được thoả thuận trước khi vay. Huy động nợ vay rủi ro hơn
huy động vốn chủ sờ hữu song đôi khi các doanh nghiệp lại thích
sử dụng nợ vay do một đặc điểm hết sức quan trọng. Chi phí nợ
vay được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ không phải chịu thuế thu
nhập doanh nghiệp. Trong khi, lợi tức dành cho chủ sở hữu được
trả từ lợi nhuận sau thuế không được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ
như nợ vay. Đăc điểm này hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc
hình thành cơ cấu vốn tối ưu với mục đích tối đa hoá giá trị vốn
chủ sở hữu.
Nhìn chung đây là hai cách phân loại rất cơ bản và phổ biến
trong nền kinh tế thị trường. Nó giúp cho người sử dụng có thể
thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp khi xem xét về


măt kinh tế. Về mặt pháp lí, người sử dụng có thể thấy được trách
nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng kí kinh doanh với
nhà nước, về số tài sản đã hình thành từ vốn vay ngân hàng... Còn
nhiều cách phân loại vốn khác như thành vốn cố định và vốn lưu
động, phân chia theo khoản mục. Mỗi cách phân loại sẽ phục vụ
những mục đích nhất định.
* Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu trình giá trị của vốn
khi tham gia vào quá trình kinh doanh
Khi căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu trình giá trị của vốn
khi tham gia vào quá trình kinh doanh có thể chia vốn sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp thành 2 bộ phận: vốn cố định và vốn
lưu động.
- Vốn cố định của doanh nghiệp.
Vốn cố định của doanh nghiệp là giá trị ứng trước về tài sản
cố định (bao gồm cả tài sản cố định vô hình và tài sản cố định hữu
hình). Hay nói cách khác vốn cố định của doanh nghiệp là biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp.
Đặc điểm của vốn cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất sản phẩm, giá trị được luân chuyển dần dần từng phần trong
các chu kỳ sản xuất, hoàn thành vòng luân chuyển khi tài sản cố
định hết thời gian sử dụng. Vốn cố định là một thành phần quan
trọng của vốn kinh doanh. Để quản lý vốn cố định cần phải hiểu
những đặc điểm về hiện vật của vốn cố định và các tài sản cố định
của doanh nghiệp.


Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị
lớn (từ 10 triệu đồng trở lên), thời gian sử dụng dài (có thời gian sử
dụng tối thiểu là 1 năm), có chức năng là tư liệu lao động. Trong
khi tham gia vào quá trình sản xuất tài sản cố định được cụ thể hoá
như sau:
Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều
lần vào quá trình sản xuất nhưng giá trị thì giảm dần cho đến khi
hư hỏng hoàn toàn phải loại khỏi quá trình sản xuất.
Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái:
+ Một bộ phận tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật là tài
sản cố định.
+ Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà tài sản cố
định sản xuất ra và bộ phận này sẽ chuyển hoá khi bán được sản
phẩm.

Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng
tăng cho đến khi bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì kết
thúc quá trình vận động. Như vậy khi tham gia vào quá trình sản
xuất nói chung tài sản cố định không bị thay đổi hình thái hiện vật
nhưng tính năng công suất thì bị giảm dần, tức là bị hao mòn và
cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng
giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản
phẩm sản xuất ra và được tính vào chi phí khấu hao. Quỹ khấu
hao dùng để tái sản xuất tài sản cố định khi chúng bị hư hỏng
hoàn toàn phải loại ra khỏi quá trình sản xuất đó nhằm duy trì
năng lực sản xuất bình thường của doanh nghiệp.


Chính đặc điểm vận động về hiện vật và giá trị tài sản cố định
đã quyết định đặc điểm lưu thông và chu chuyển của vốn cố định,
đó là khi tham gia vào quá trình sản xuất, vốn cố định đã bao gồm
hai bộ phận.
+ Một bộ phận tương ứng với giá trị hao mòn sẽ gia nhập vào
giá thành sản phẩm và được tích luỹ lại khi sản phẩm được tiêu
thụ.
+ Bộ phận thứ hai là phần giá trị còn lại của tài sản cố định
chính từ đặc điểm này của vốn cố định cũng như tài sản cố định
mà khi đánh giá tài sản cố định cần có các đại lượng như giá trị
ban đầu (nguyên giá), giá trị còn lại của tài sản cố định.
Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả cần nghiên
cứu các phương pháp phân loại và kết cấu tài sản cố định. Thông
thường có các cách phân loại sau:
- Phân loại tài sản cố định theo hình thức thái biểu hiện, theo
phương pháp này toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được chia
thành hai loại:

+ Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh cơ bản: Là
những tài sản cố định vô hình và hữu hình trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất và kinh doanh cơ bản cuả doanh nghiệp như, nhà
xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc...
+ Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản: Là
các tài sản dùng cho sản xuất kinh doanh phụ trợ, nhà cửa máy
móc thiết bị phục vụ sản xuất phụ trợ và tài sản cố định cho thuê.


Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng: Theo phương
pháp này, căn cứ vào tình hình sử dụng của từng thời kỳ, tài sản cố
định phân thành các loại:
+ Tài sản cố định đang dùng
+ Tài sản cố định chưa cần dùng
+ Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh toán
Tuỳ theo từng yêu cầu quản lý mà sử dụng từng phân cách
phân loại tài sản cố định cho phù hợp, từ đó có các biện pháp
quản lý và bảo toàn vốn cố định hiệu quả.
- Vốn lưu động của doanh nghiệp: là số vốn được ứng ra để
hình thành các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu
thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp
được diễn ra liên tục thường xuyên. Vốn lưu động luân chuyển
toàn bộ giá trị ngay trong một lần tuần hoàn liên tục và hoàn
thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Vốn lưu động
là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản
xuất kinh doanh.
Vốn lưu động của doanh nghiệp dựa theo vai trò của nó
trong quá trình tái sản xuất được chia làm ba loại:
+ Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất, bao
gồm, vốn nguyên vật liệu chính vật liệu phụ, phụ tùng thay thế

công cụ nhỏ...
+ Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất, bao
gồm: vốn sản phẩm đang chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế.


+ Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông, bao gồm:
Vốn tiền tệ vốn trong thanh toán...
Dựa vào hình thái biểu hiện và theo chức năng của các
thành phần vốn lưu động có thể chia thành:
+ Vốn vật tư hàng hoá, vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu
phụ
+ Vốn tiền tệ: Gồm vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
* Căn cứ vào thời gian hoạt động và sử dụng vốn có thể chia
nguồn vốn của doanh nghiệp thành hai loại:
- Nguồn vốn thường xuyên: là tổng thể các nguồn vốn có tính
chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn
vốn này được dành cho việc hình thành các tài sản cố định và một
bộ phận tài sản lưu động tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh
doanh. Nguồn vốn thường xuyên bao gồm chủ sở hữu và các
khoản vay dài hạn.
- Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn
(dưới 1 năm) doanh nghiệp có thể sử dụng nhằm đáp ứng các nhu
cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay
ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Các khoản nợ ngắn
hạn.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động
các nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng của các yếu tố trong
quá trình kinh doanh.
* Căn cứ vào phạm vi hoạt động có thể chia làm hai nguồn:



- Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể
huy động từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm tiền
khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại và các khoản dự trữ dự
phòng, các khoản thu từ nhượng bán thanh lý tài sản cố định.
- Nguồn vốn bên ngoài: là nguồn vốn có thể huy động như
vay vốn của ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái
phiếu nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. Cách phân loại
này chủ yếu giúp cho sự xem xét huy động nguồn vốn của doanh
nghiệp đang hoạt động.
* Căn cứ vào nguồn tài trợ
Căn cứ vào nguồn tài trợ nguồn vốn của doanh nghiệp có thể
được chia thành hai loại
- Nguồn vốn ngắn hạn: Đây là các khoản huy động được từ
những người cho vay, có thời hạn ngắn và không phải là lá chắn
chống lại sự phá sản của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn dài hạn: Đây là các khoản huy động được từ
người cho vay và người chủ hữu, có thời hạn dài, là lá chắn chống
lại sự phá sản của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp đưa ra được những
quyết định như khi nào thì sử dụng nguồn nợ vay, khi nào thì sử
dụng vốn chủ sở hữu

1.1.1.3. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của
DN


Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi
phải có một lượng vốn nhất định đủ lớn như là một tiền đề quyết

định, không có vốn sẽ không có bất cứ hoạt động sản xuất kinh
doanh nào. Sẽ là không tưởng nếu nghĩ rằng có thể tiến hành bất
cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà không có vốn hoặc
không đủ vốn. Nói một cách khác vốn có vai trò đặc biệt quan
trọng để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động của doanh
nghiệp.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh
nghiệp. Để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, trước hết doanh
nghiệp cần mua sắm máy móc, trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng hay
thuê công sở, mướn nhân công... Vì vậy trong giai đoạn này, doanh
nghiệp cần tới một lượng vốn rất lớn và phải huy động vốn. Vốn là
điều kiện cần thiết để doanh nghiệp chủ động thực hiện các dự án
mang lại lợi nhuận. Không có vốn thì các dự án sản xuất kinh
doanh, các cơ hội kinh doanh mang nhiều lợi nhuận sẽ bị bỏ lỡ và
sẽ chỉ là dự định, kế hoạch. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược
duy trì và phát triển trên thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Vốn vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp có khả
năng đầu tư, đổi mới công nghệ, đầu tư cho quảng cáo..., nhằm tăng
cường cạnh tranh trước các đối thủ.
Trong cơ chế bao cấp, mọi nhu cầu về vốn sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp Nhà nước đều được bao cấp qua nguồn
cấp phát của ngân sách Nhà nước và qua nguồn tín dụng lãi suất
thấp của ngân hàng. Có thể nói trong thời bao cấp vốn của doanh


nghiệp Nhà nước hầu như được bao cấp “cho không”. Khi sử
dụng đồng vốn doanh nghiệp chỉ lo sao cho làm được kế hoạch
Nhà nước giao còn thực tế lãi lỗ không cần quan tâm, nếu thiếu
Nhà nước sẽ bù lỗ. Chính vì vậy vấn đề khai thác thu hút vốn
không được đặt ra như một yêu cầu cấp bách, có tính sống còn

đối với doanh nghiệp. Việc khai thác đảm bảo vốn kinh doanh của
doanh nghiệp trở lên hết sức thụ động. Điều này đã một mặt thủ
tiêu tính chủ động của một doanh nghiệp, mặt khác tạo ra sự cân
đối giả tạo về cung cầu vốn trong nền kinh tế. Đây là lý do chủ
yếu để giải thích tại sao trong thời kỳ bao cấp lại vắng mặt và
không cần thiết có thị trường vốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các khoản bao cấp về
vốn qua cấp phát của ngân sách Nhà nước không còn nữa, doanh
nghiệp Nhà nước phải tự trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh
doanh có lãi, phải tổ chức và sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Mặt
khác doanh nghiệp phải bảo toàn số vốn được giao kể cả khi có
trượt giá, phải chủ động tìm kiếm bạn hàng, đầu tư đổi mới trong
hoạt động kinh doanh. Nếu không làm cho vốn sinh sôi nảy nở,
không bảo toàn và phát triển vốn tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp, nguy cơ phá sản là khó tránh
khỏi.
Với vai trò quan trọng to lớn như vậy nên việc bảo tồn và
tăng trưởng vốn là một nguyên lí, là điều kiện đảm bảo cho sự phát
triển lành mạnh của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà một trong những
vấn đề mà các doanh nghiệp luôn trăn trở là: Doanh nghiệp nên tạo


vốn bằng cách nào? Làm thế nào doanh nghiệp có thể huy động vốn
tối đa từ mọi nguồn với một chi phí thấp nhất và một cơ cấu tối ưu?.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền KTTT
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn
Mục tiêu chủ yếu của hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường là tối đa hóa giá trị tài sản chủ sở
hữu. Vì vậy, sử dụng vốn một cách có hiệu quả có nghĩa là kinh
doanh có hiệu quả, đạt lợi nhuận cao.

Hiệu quả sử dụng vốn được hiểu như sau:
Với một số vốn nhất định, doanh nghiệp phải đạt được lợi
nhuận.
- Ngoài khả năng của mình, doanh nghiệp phải năng động
tìm nguồn tài trợ để tăng số vốn hiện có nhằm mở rộng sản xuất
kinh doanh, gia tăng mức lợi nhuận so với khả năng ban đầu.
Ngoài ra hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp còn thể hiện ở
các chỉ tiêu về hiệu quả theo thu nhập, khả năng thanh toán, chỉ tiêu
về sử dụng và phân bổ vốn.
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp là một
phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng
vốn, tài sản của doanh nghiệp vào trong hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu và tối
thiểu hóa chi phí. Tuy nhiên, để sử dụng vốn một cách có hiệu
quả không phải doanh nghiệp nào cũng làm được, đặc biệt khi mà


ở Việt Nam các doanh nghiệp vẫn còn coi nhẹ vấn đề này. Khi
bàn về vấn đề làm thế nào để sử dụng vốn sao cho có hiệu quả rất
nhiều doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) cho
rằng bây giờ là chưa thích hợp hoặc không mấy quan tâm tới vấn
đề này. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp hoạt động có lãi nhưng không
hề biết doanh nghiệp mình sử dụng vốn có hiệu quả không? Song
khi mà nền kinh tế thị trường ngày càng sôi động nhưng cũng
không kém phần khắc nghiệt thì các doanh nghiệp cần phải quan
tâm tới vấn đề này nhiều hơn. Khi đó doanh nghiệp không chỉ
quan tâm làm sao có thể sử dụng vốn có hiệu quả mà còn phải tìm
cách làm thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp mình.

Mặt khác, để tiến hành hoạt động kinh doanh các doanh
nghiệp cần phải có các yếu tố lao động, vốn và công nghệ trong
đó vốn đóng vai trò quan trọng nhất và là yếu tố quyết định các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là cơ sở phân chia các
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Còn tài sản chính là các
hình thái biểu hiện của vốn hay nói cách khác tài sản biểu hiện
việc các doanh nghiệp quản lý và sử dụng vốn như thế nào trong
hoạt động kinh doanh của mình “bất kỳ một sự gia tăng nào bên
tài sản của doanh nghiệp cũng phải được tăng ít nhất một khoản
mục bên nguồn vốn”. Do đó quản lý sử dụng vốn và tài sản là nội
dung quan trọng không thể tách rời trong quản trị tài chính. Mục
tiêu quan trọng nhất của quản lý của sử dụng vốn và tài sản là
đảm bảo sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn.


Vì những lý do cơ bản trên có thể thấy việc sử dụng vốn có
hiệu quả và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp là
điều tất yếu phải làm của mỗi doanh nghiệp nhằm ổn định và phát
triển doanh nghiệp đồng thời tiết kiêm được những chi phí không
cần thiết trong hoạt động.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc đối với
các doanh nghiệp. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp cần
phải có một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, đảm
bảo phản ánh và đánh giá được hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Cơ cấu vốn:
Vốn của doanh nghiệp được đầu tư chủ yếu vào TSCĐ và
TSLĐ. Với một lượng vốn nhất định doanh nghiệp muốn thu

được kết quả cao thì cần phải có một cơ cấu vốn hợp lý. Vì vậy, ta
phải xem xét đến vốn đầu tư vào tài sản ra sao, hợp lý hay chưa
hợp lý, ta có:
Tài sản cố định và đầu tư dài
hạn
Tỷ trọng tài sản cố định = -------------------------------------Tổng tài sản
Tỷ trọng tài sản lưu động = 1 – tỷ trọng tài sản cố định
Công thức trên cho biết một đồng vốn mà doanh nghiệp đang
sử dụng có bao nhiêu đầu tư vào TSCĐ, có bao nhiêu đầu tư vào
TSLĐ. Tuỳ theo từng loại hình sản xuất mà tỷ số này ở mức độ
cao thấp khác nhau, nhưng bố trí cơ cấu vốn càng hợp lý bao


nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao bấy nhiêu. Nếu bố trí cơ
cấu vốn làm mất cân đối giữa TSCĐ và TSLĐ dẫn đến thừa hoặc
thiếu một loại tài sản nào đó sẽ có ảnh hưởng không tốt tới doanh
nghiệp.
- Vòng quay toàn bộ vốn:
Đây là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, nó phản
ánh một đồng vốn doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh
mang lại mấy đồng doanh thu.
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ vốn = ---------------------------------Tổng số vốn
- Kỳ thu tiền bình quân.
Trong quá trình hoạt động, việc phát sinh ra các khoản phải
thu, phải trả là tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ
vốn của doanh nghiệp bị ứng đọng trong khâu thanh toán càng
nhiều, có ảnh hưởng không tốt tới doanh nghiệp. Vì vậy, các nhà
phân tích tài chính rất quan tâm tới thới gian thu hồi và chỉ tiêu kỳ
thu tiền bình quân với mục đích thông tin về khả năng thu hồi vốn

trong thanh toán. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân = -----------------------------------Doanh thu bình quân ngày
Các hoản phải thu x 360
Hoặc = ------------------------------Doanh thu
- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Lợi nhuận sau thuế


+
Mức
doanh
lợi
---------------------------------

của

vốn

cố

định

=

Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định đem lại mấy đồng
lợi nhuận.
Trong đó vốn cố định được tính như sau:
Giá trị còn lại đầu kỳ + giá trị còn

lại cuối kỳ
+
VCĐ
bình
quân
------------------------------------------------

trong

kỳ

=

2
Vốn cố định bình quân
+ Hàm lượng vốn cố định = -----------------------------------Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu thuần cần có bao
nhiêu đồng vốn cố định.

+
Hiệu
suất
sử
---------------------------------

dụng

Doanh thu thuần
vốn
cố

định

=

Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo được mấy đồng
doanh thu thuần.
+
Hệ
số
sử
dụng
----------------------------------

Công suất thực tế
công
suất
TSCĐ
=
Công suất thiết kế


Sau khi tính được các chỉ tiêu trên, người ta thường so sánh
giữa các năm, các kỳ với nhau để xem sự biến động đó là tốt hay
xấu. Người ta cũng có thể so sánh giữa các doanh nghiệp trong
cùng ngành, cùng lĩnh vực để xét khả năng cạnh tranh, tình trạng
quản lý, kinh doanh có hiệu quả hay không, từ đó rút ra những ưu
điểm, khuyết điểm và kịp thời đưa ra các biện pháp hợp lý.
- Các chỉ tiêu đánh giá sử dụng vốn lưu động
+

Mức
doanh
lợi
-------------------------------------

của

Lợi nhuận sau thuế
vốn
lưu
động
=
Vốn lưu động bình

quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra mấy đồng lợi
nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu
động càng tốt. Trong đó vốn lưu động được tính như sau:
VLĐ đầu tháng + VLĐ cuối tháng
VLĐ
bình
quân
tháng
=
------------------------------------------------2
Tổng VLĐ sử dụng bình quân 3
tháng
VLĐ
bình
quân

-------------------------------------------------

quý

=

3
Tổng VLĐ sử dụng bình quân 4
quý
VLĐ
bình
quân
-------------------------------------------------

năm
4

=


V1/2 + V2 + V3 +…..+Vn/2
=
----------------------------------------------n–1

( V1, V2, V3…là vốn lưu động hiện có vào đầu các tháng)

+
Số
vòng
quay

---------------------------------

của

Doanh thu thuần
vốn
lưu
động
=
Vốn lưu động bình

quân
Chỉ tiêu này đánh giá tốc độ luân chuyển vốn lưu động và cho
biết trong một năm vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng. Nếu số
vòng quay càng nhiều chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của
doanh nghiệp càng tăng và ngược lại.
360
chuyển

+
Thời
gian
một
vòng
luân
=
---------------------------------------Số vòng luân chuyển vốn
lưu động
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để vốn lưu động quay
được một vòng. Thời gian luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân

chuyển vốn càng lớn, đảm bảo nguồn vốn lưu động tránh bị hao
hụt, mất mát trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động bình quân


+
Hệ
số
đảm
----------------------------------

nhiệm

vốn

lưu

động

=

Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần
bao nhiêu đồng vốn lưu động.
Ngoài việc xem xét hiệu quả kinh doanh dưới góc độ TSCĐ
và TSLĐ thì khi phân tích cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới
góc độ sinh lời. Đây là một trong những nội dung phân tích được
các nhà đầu tư, tín dụng đặc biệt quan tâm. Để đánh giá khả năng
sinh lời của vốn, người phân tích thường tính và so sánh các chỉ
tiêu sau:

Lợi nhuận
+ Hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh = ---------------------Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận, phản ánh trình độ sử dụng vốn của người
quản lý doanh nghiệp.
+
Hiệu
suất
sử
------------------------------------

dụng

Doanh thu thuần
tổng
tài
sản
=
Tổng tài sản

Chỉ tiêu này cho biết một đồng đầu tư vào tài sản đem lại bao
nhiêu đồng doanh thu, phản ánh khả năng sử dụng tài sản của
doanh nghiệp là tốt hay còn yếu kém.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của DN
1.3.1. Những nhân tố khách quan


+ Môi trường kinh doanh:
Doanh nghiệp là một cơ thể sống, tồn tại và phát triển trong
mối quan hệ qua lại với môi trường xung quanh. Thị trường là

nhân tố quan trọng quyết định tới hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong đó, thị trường vôn quyết định đến việc huy
động vốn của doanh nghiệp, thị trường hàng hoá quyết định đến
việc sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do đó, yếu tố kinh doanh
quyết định rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
+ Môi trường tự nhiên:
Là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp
như khí hậu, thời tiết, môi trường. Khoa học càng phát triển thì
con người càng nhận thức được rằng họ là một bộ phận không thể
tách rời của tự nhiên. Các điều kiện làm việc trong môi trường tự
nhiên thích hợp sẽ tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả công
việc. Tính thời vụ, thiên tai, lũ lụt… gây khó khăn rất lớn cho
nhiều doanh nghiệp.
+ Môi trường kinh tế:
Là tác động của các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, thu nhập
quốc dân, lạm phát, thất nghiệp, lãi suất, tỷ giá hối đoái…. đến
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn do nền
kinh tế có lạm phát, sức mua của đồng tiền giảm sút dẫn tới sự
tăng giá các loại vật tư hàng hóa…Vì vậy, nếu doanh nghiệp
không kịp thời điều chỉnh giá trị của các loại tài sản đó thì sẽ làm
cho vốn của doanh nghiệp bị mât dần theo tốc độ trượt giá của
tiền tệ


×