Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Đề Án Quản Lý Chi Ngân Sách Nhà Nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.9 KB, 34 trang )

Lời nói đầu
Nớc Việt Nam ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nớc, để xây
dựng đất nớc ta ngày càng giàu đẹp hơn, to đẹp hơn, sánh vai với các nớc trong khu vực
và trên thế giới, xây dựng một đất nớc Việt Nam dân giàu nứơc mạnh xã hội công bằng
văn minh.
Để trở thành một nớc có nền kinh tế phát triển thì tất yếu bất kỳ nhà nớc nào cũng
phải có một sự quản lý tốt về nguồn lực, nhất là nguồn lực nhà nớc.Một trong những
nguồn lực đó là ngân sách nhà nớc (NSNN), nó giữ vai trò rất quan trọng, chi phối hầu
nh toàn bộ hoạt động của nhà nứơc. Có ngân sách thì nhà nớc mới hoạt động đợc, mới
thực hiện đợc các mục tiêu đề ra.Vì vậy mà quản lý tốt hơn NSNN, nhất là quản lý chi
ngân sách sao cho phù hợp, sao cho hợp lý có hiệu quả là một điều rất quan trọng,
không phải bất kỳ quốc gia nào cũng làm đợc. Nó là sự thách thức mà nớc Việt nam ta
phải vợt qua đợc để hoàn thành quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc không
chỉ ở hiện tại mà còn cả trong tơng lai. Trong khuôn khổ phạm vi một đề án, em chỉ đề
cập tới một số vấn đề về quản lý chi NSNN ở Việt Nam hiện nay nhằm mục đích nêu rõ
vai trò của việc quản lý sao cho tốt hơn, chi ngân sách sao cho có hiệu quả hơn.
Nh vậy tức là trả lời câu hỏi: NSNN là gì? nó quan trọng nh thế nào? nó tác đọng
nh thế nào tới nền kinh tế đất nớc? Cần có những biện pháp nào để quản lý tốt hơn chi
NSNN? ...
Em xin trình bày 3 phần chính của đề án:
Chơng I : Những vấn đề lý luận về quản lý chi NSNN
Chơng II : Quản lý chi NSNN hiện nay
Chơng III : Phơng hớng và kiến nghị

Chơng I: Những vấn đề lý luận về quản lý chi ngân sách nhà nớc

1


Lời nói đầu
Chơng I. Những vấn đề lý luận về quản lý chi ngân sách


nhà nớc
I. Ngân sách nhà nớc và chi ngân sách nhà nớc
1. Khái niệm ngân sách nhà nớc
2. Đặc điểm các quan hệ kinh tế thuộc nội dung ngân sách nhà nớc
3. Tính chất của ngân sách nhà nớc Việt Nam
4. Vai trò, chức năng của ngân sách nhà nớc
5. Chi ngân sách nhà nớc khái niệm và vai trò
II. Quản lý ngân sách nhà nớc
1. Khái niệm
2. Nội dung của quản lý ngân sách nhà nớc
Chơng II. Quản lý ngân sách nhà nớc hiện nay
I. Nội dung ngân sách nhà nớc
1. Nguồn thu của ngân sách nhà nớc
2. Nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nớc
3. Công cụ quản lý các khoản chi ngân sách nhà nớc
II. Thực trạng ngân sách nhà nớc và chi tiêu công cho các ngành ở Việt Nam
hiện nay
1. Thực trạng ngân sách nhà nớc
2. Phân bổ chi tiêu công cho các ngành
3. Những rủi ro tiềm tàng đối với sự bền vững của ngân sách
Chơng III. Phơng hớng và kiến nghị
I. Phơng hớng
1. Đảo ngợc sự giảm tỷ lệ động viên ngân sách trong GDP và xây dựng triển
vọng tài chính trung hạn
2. Cải thiện việc ghi chép, báo cáo số liệu và tăng cờng minh bạch tài chính
3. Tạo ra các quy trình sắp xếp thứ tự u tiên chi tiêu một cách có hiệu quả
4. Nâng cao định hớng thiên về ngời nghèo của chi tiêu công
5. Phân bổ lại chi tiêu trong nội bộ các ngành
6. Đánh giá khả năng chuyển dịch vụ cho khu vực t nhân cung cấp
II. Kiến nghị

1. Giải pháp tăng tỷ lệ động viên ngân sách
2. Giải pháp về thông tin tài chính
3. Sắp xếp thứ tự u tiên chi tiêu một cách có hiệu quả
4. Giải pháp cho định hớng thiên về ngời nghèo
5. Nâng cao kết quả hoạt động của các ngành
Kết luận
Tài liệu tham khảo

2

Trang
1
2
2
2
2
2
4
5
6
6
7
9
9
9
10
12
13
13
14

16
18
18
18
18
19
20
20
22
23
23
23
25
25
26
28
29


I. Ngân sách nhà nớc và chi ngân sách nhà nớc :
1. Khái niệm ngân sách nhà nớc :
Ngân sách nhà nớc xuất hiện sau khái niệm nhà nớc. Sự xuất hiện nhà nớc trong
lịch sử đòi hỏi nhà nớc cần phaỉ có nguồn tài lực để đáp ứng các khoản chi của mình.
Đây là điều kiện cần để cho khái niệm ngân sách nhà nớc xuất hiện.
Khái niệm ngân sách nhà nớc ra đời trong lịch sử chỉ khi quan hệ hàng hoá tiền tệ
phát triển mạnh. Nói cách khác, sự phát triển kinh tế hàng hoá tiền tệ là điều kiện đủ để
cho khái niệm ngân sách nhà nớc xuất hiện.
Cho đến nay danh từ ngân sách nhà nớc đợc dùng phổ biến trong đời sống kinh
tế xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nớc cha có sự thống nhất .
Quan niệm phổ biến hiện nay về ngân sách nhà nớc thờng coi ngân sách nhà nớc

là một phạm trù kinh tế xuất hiện trong quá trình phân phối của cải xã hội. Từ quan
niệm đó, ngời ta cho rằng : ngân sách nhà nớc là những quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình phân phối giá trị của cải xã hội gắn liền với việc thực hiện chức năng của nhà
nớc.
Nhận thức ngân sách nhà nớc là những quan hệ kinh tế giúp cho chúng ta có một
nhãn quang rộng về ngân sách, gắn sự hoạt động của ngân sách nhà nớc với môi tròng
ra đời, tồn tại và phát triển của nó.
2. Đặc điểm các quan hệ kinh tế thuộc nội dung ngân sách nhà nớc :
Các quan hệ kinh tế thuộc nội dung ngân sách nhà nớc chỉ nảy sinh trong quá trình
phân phối giá trị của cải xã hôị.
Các quan hệ kinh tế thuộc nội dung ngân sách nhà nớc luôn luôn nảy sinh trong
quá trình thực hiện các chức năng nhà nớc. Việc thực hiện các chức năng nhà nứơc đòi
hỏi quá trình động viên, tập trung, phân phối và sử dụng giá trị các nguồn của cải quốc
gia. Chính trong quá trình đó nảy sinh quan hệ kinh tế thuộc nội dung ngân sách nhà nớc.
Bằng quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị, nhà nớc tham gia vào quá trình phân
phối giá trị của cải xã hội. Do đó các quan hệ kinh tế thuộc nội dung ngân sách nhà nớc
chịu sự điêù chỉnh của nhà nớc theo những yêu cầu quản lý trong từng giai đoạn lịch sử.
3. Tính chất cuả ngân sách nhà nớc Việt nam :
a. Ngân sách nhà nớc ta là ngân sách sản xuất
Tính chất này bắt nguồn từ 2 tiền đề cơ bản sau:
_ Nhà nớc ta có chức năng tổ chức quản lý nền kinh tế .
_Cơ sở quyết định tài chính là sản xuất .
3


Tính chất sản xuất thể hiện qua hoạt động thu chi của nó.Đối với thu ngân sách
nhà nớc, tính chất sản xuất của ngân sách nhà nớc thể hiện thông qua việc động viên
nguồn thu, cũng nh sự tác động của quá trình đối với sản xuất kinh doanh theo phơng
châm : hớng dẫn, kích thích, điều tiết.
Đối với chi ngân sách nhà nớc, tính chất sản xuất của ngân sách nhà nớc tuỳ theo

từng giai đoạn lịch sử, tuỳ theo mức độ, phơng thức can thệp của nhà nớc vào quá trình
kinh tế mà có những biểu hiện khác nhau.
b. Ngân sách nhà nớc ta là ngân sách thống nhất
Tính thống nhất ở đây bắt nguồn từ sự thống nhất giữa các mặt lợi ích trong xă hội,
giữa kinh tế và chính trị, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa hiện vật và giá trị .
Tính thống nhất đợc thể hiện trong quá trình tổ chức hệ thống ngân sách nhà nớc
cũng nh trong quá trình tổ chức, điêù hành quản lý hoạt động của ngân sách các cấp.
c. Ngân sách nhà nớc ta là ngân sách quần chúng
Tính chất này bắt nguồn từ bản chất của nhà nớc ta và cơ sở kinh tế của ngân sách
nhà nớc ta. Nhà nớc ta là nhà nớc do dân và vì dân, vì vậy mọi hoạt động của nhà nớc
đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động và đợc đặt dới sự kiểm tra, kiểm soát của
nhân dân. Cơ sở kinh tế của ngân sách nhà nớc ta chính là do kết quả lao động sản xuất
của quảng đại quần chúng mang lại. Quần chúng lao động là ngời làm chủ ngân sách
nhà nớc thông qua đại diện của mình là quốc hội.
Do đó, tính chất quần chúng của ngân sách nhà nớc ta đợc thể hiện qua các nét
chủ yếu sau:
_ Quốc hội là cơ quan quỳên lực cao nhất của nhà nớc thể hiện ý chí, quyền lợi của
nhân dân lao động, quyết định các mặt thu chi của ngân sách nhà nớc.
_ Bằng kết quả lao động sản xuất của mình, nhân dân lao động có nghĩa vụ và
quyền lợi trong quá trình hoạt động của ngân sách nhà nớc.
d. Ngân sách nhà nớc ta là ngân sách mang tính kế hoạch
Tính kế hoạch bắt nguồn từ chức năng quản lý kinh tế của nhà nớc, từ đặc điểm
hoạt động thu chi của ngân sách nhà nớc. Tính kế hoạch đợc thể hiện ở chỗ :
_ Ngân sách nhà nớc ta đợc tổ chức quản lý trên cơ sở, đờng lối, chủ trơng chính
sách kinh tế xã hội của Đảng và nhà nớc.
_ Kế hoạch thu chi của ngân sách nhà nớc luôn luôn gắn chặt với kế hoạch kinh tế
xã hội của nhà nớc.

4



_ Quá trình lập kế hoạch ngân sáchlà quá trình đánh giá phân tích giữa khả năng
và nhu cầu, giữa hiện vật và giá trị, giữa kinh tế và tài chính nhằm đảm bảo nâng cao vai
trò của ngân sách đối với việc giữ vững các mặt cân đối trong nền kinh tế.
4. Vai trò chức năng của ngân sách nhà nớc :
a. Chức năng phân phối :
Khác với chức năng phân phối của các phạm trù giá trị khác, chức năng phân phối
của ngân sách nhà nớc mang những đặc trng riêng:
_ Phân phối của ngân sách nhà nớc luôn gắn chặt với chủ thể phân phối là nhà nớc. Nhà nớc sử dụng ngân sách nhà nớc làm công cụ phân phối giá trị tổng sản phẩm
xã hội, cùng các nguồn tài chính khác nhằm hình thành quỹ tích luỹ và tiêu dùng trong
phạm vi toàn xã hội.
_ Phân phối của ngân sách nhà nớc mang tính chất không hoàn trả trực tiếp và
dựa trên quyền lực kinh tế chính trị của nhà nớc.
_ Phân phối của ngân sách nhà nớc diễn ra trên phạm vi toàn xã hội và lấy lợi ích
toàn cục làm mục đích của phân phối.
_ Đối tợng phân phối của ngân sách nhà nớc không chỉ là giá trị tổng sản phẩm xã
hội mà toàn bộ giá trị tài sản quốc gia.
_ Phân phối cuả ngân sách nhà nớc vừa có thể gắn với việc sử dụng trực tiếp liền
ngay sau quá trình phân phối một bộ phận giá trị tài sản quốc gia vừa có thể hình thành
các quỹ tiền tệ với những mục đích sử dụng khác nhau trong nền kinh tế.
Xuất phát từ những đặc điểm đó, sự tham gia phân phối của ngân sách nhà nớc
vào giá trị tài sản quốc gia đợc thực hiện bằng nhiều phơng pháp khác nhau.Có thể
bằng phơng pháp cỡng chế cũng có thể bằng phơng pháp tự nguyện.Dù bằng phơng
pháp nào thì phân phối của ngân sách nhà nớc cũng có tác dụng to lớn đối với quá trình
phát triển kinh tế xã hội. Nếu phân phối đúng đắn phù hợp với quy luật sẽ thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, ngợc lại sự phân phối trái với quy luật phát triển tất yếu sẽ dẫn tới
những hậu quả to lớn đối với phát triển kinh tế xã hội, kìm hãm sự tăng tr ởng của nền
kinh tế, gây nên sự rối ren trong linh vực phân phối và lu thông, làm biến dạng sự vận
động đúng đắn các phạm trù giá trị tạo nên sự bất công trong xã hội.
Để phát huy mặt tích cực cuả chức năng phân phối của ngân sách nhà nớc thì

phải:
_ Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ.
_ Nâng cao vai trò điêù hành và quản lý kinh tế - xã hội cuả bộ máy nhà nớc .
b. Chức năng giám đốc :
5


Chức năng giám đốc là hệ quả cuả chức năng phân phối. Nói cách khác hiệu quả
vận dụng chức năng giám đốc trong thực tế tuỳ thuộc vào việc vận dụng đúng đắn chức
năng phân phối của ngân sách nhà nớc.
Cũng nh chức năng giám đốc của tài chính nói chung, chức năng giám đốc của
ngân sách nhà nớc cũng đợc tiến hành bằng đồng tiền. Song chức năng giám đốc của
ngân sách nhà nớc có những nét khác biệt:
_ Giám đốc của ngân sách nhà nớc đợc thực hiện trong quá trình tập trung, phân
phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nớc. Nói cách khác, ở đâu có sự vận động
cuả quỹ tiền tệ tập trung của nhà nớc thì ở đó phát sinh chức năng giám đốc của ngân
sách nhà nớc.
_ Giám đốc của ngân sách nhà nớc có phạm vi rộng lớn trên nhiều lĩnh vực và gắn
với tính hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Chức năng giám đốc của ngân sách nhà nớc khi vận dụng vào thực tiễn trở thành
quá trình kiểm tra ngân sách. Kiểm tra ngân sách đợc thực hiện bởi các cơ quan tài
chính. Mục đích của kiểm tra ngân sách là nhằm :
_ Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của ngân sách.
_ Phát huy vai trò tích cực của ngân sách nhà nớc đối với quá trình tổ chức quản lý
vĩ mô nền kinh tế .
_ Bổ xung hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách nhằm làm cho hoạt động của ngân
sách phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế, xã hội của nhà nớc.
c. Vai trò của ngân sách nhà nớc biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Ngân sách nhà nớc là công cụ quan trọng của nhà nớc đóng vai trò chủ
yếu trong việc hớng dẫn, điều tiết và kích thích sản xuất, tiêu dùng trong nớc.

Vai trò hớng dẫn, điêù tiết, kích thích sản xuất tiêu dùng của ngân sách nhà nớc đợc thực hiện thông qua chính sách thuế, chính sách đầu t của ngân sách.
Ngân sách nhà nớc là một trong những công cụ quan trọng góp phần vào
việc thực hiện chủ trơng bảo hộ nền sản xuất hàng hoá trong nớc.
Ngân sách nhà nớc là công cụ quan trọng góp phần giải quyết mối quan hệ
giữa tích tụ và tập trung.
Ngân sách nhà nớc - công cụ tài chính có ảnh hởng to lớn đến sự vận động
của các phạm trù giá trị.
5. Chi ngân sách nhà nớc khái niệm và vai trò :
a. Khái niệm ;
6


Chi ngân sách nhà nớc là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nớc
theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
xã hội do nhà nớc đảm nhận.
Có thể coi chi ngân sách nhà nớc đợc thể hiện trong hai quá trình phân phối và sử
dụng quỹ tiền tệ của ngân sách nhà nớc.
b. Vai trò của chi ngân sách nhà nớc :
Chi ngân sách nhà nớc là điều kiện quyết định đến việc thực hiện các
nhiệm vụ của nhà nớc. Sự tồn tại và phát triển của nhà nớc tất yếu sẽ phát
sinh các chi phí để duy trì bộ máy, để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ vốn
có của nhà nớc. Không có các khoản chi của ngân sách nhà nớc, nhà nớc
không thể tồn tại và phát triển với t cách là bộ máy quản lý mọi hoạt động
kinh tế, chính trị của xã hội .
Chi ngân sách nhà nớc là công cụ quan trọng thực hiện vai trò kinh tế của
nhà nớc. Trong nền kinh tế thị trờng, sự can thiệp của nhà nớc vào hoạt động
kinh tế là một đòi hỏi khách quan. Nền kinh tế thị trờng có những cơ chế tự
điều chỉnh tuyệt diệu, song bản thân những cơ chế đó không có khả năng
khắc phục những khuyết tật vốn có của nó nh vấn đề công bằng xã hội, vấn
đề ô nhiễm môi trờng, vấn đề ổn định chu kỳ kinh doanh. Để khắc phục

những vấn đề nh vậy, đòi hỏi có sự can thiệp của nhà nớc. Nhà nớc có thể
dùng nhiều công cụ, phơng pháp, hình thức khác nhau. Một trong số những
công cụ của nhà nớc đó là chi ngân sách nhà nớc nhằm :
Tạo nên môi trừơng kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp
bằng cách đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo nên thị trờng nhà nớc cần
thiết .
- Ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trờng, hạn chế tính độc quyền trong
kinh doanh .
- Đảm bảo những cân đối lớn trong nền kinh tế, tạo nên những van cần
thiết cho việc sử dụng tài nguyên quốc gia tiết kiệm và hiệu quả.
Với bàn tay vô hình việc phân phối hàng hoá của cải khó đạt đến yêu
cầu công bằng về mặt xã hội. Chính vì thế cần đến sự can thiệp của nhà nớc,
nhà nớc có thể thông qua chính sách phân phối lại để thực hiện ý tởng công
bằng của mình. Nhà nớc dùng nguồn vốn ngân sách để thúc đẩy sự tăng tr-

7


ởng nền kinh tế. Nhà nớc thực hiện việc trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho
các tầng lớp nghèo khổ thông qua các khoản cho tiêu dùng.
Để thực hiện vai trò kiểm soát thăng trầm của chu kỳ kinh doanh, tạo thế
ổn định cho nền kinh tế, nhà nớc thờng sử dụng một cách thận trọng quyền
lực về tiền tệ và tài chính của mình tác động đến sản lợng, việc làm và lạm
phát. Nhà nớc thờng sử dụng công cụ tài chính là chi ngân sách nhà nớc và
thuế.

II. Quản lý ngân sách nhà nớc :
1. Khái niệm :
Quản lý ngân sách đợc coi là công cụ để thực hiện chính sách ngân sách trong đời
sống kinh tế xã hội. Cũng nh chính sách ngân sách, cơ chế quản lý ngân sách là sản

phẩm chủ quan nhng mang tính cụ thể hơn. Cơ chế quản lý ngân sách đợc coi là tổng
thể các hình thức, phơng pháp hình thành tập trung, phân phối và sử dụng các nguồn tài
chính thuộc quỹ ngân sách.
Theo nghĩa hẹp, quản lý ngân sách là tổng hợp các hình thức, phơng pháp điều
hành quỹ ngân sách trong hệ thống ngân sách. Theo cách hiểu này, cơ chế quản lý
ngân sách đợc nhìn nhận từ góc độ bên trong của hệ thống ngân sách và gồm các bộ
phận chủ yếu sau:
_ Kế hoạch hoá ngân sách.
_ Các kế hoạch về ranh giới thu, chi giữa các cấp ngân sách.
_ Các hình thức tổ chức bộ máy điêù hành ngân sách .
_ Luật ngân sách và hệ thống văn bản pháp quy về điêù hành ngân sách .
Theo nghía rộng, cơ chế quản lý ngân sách đợc coi là tổng thể các hình thức và phơng pháp hình thành, tập trung, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách. Với quan niệm
naỳ, rõ ràng cơ chế quản lý ngân sách không chỉ bao gồm các yếu tố các yếu tố bên
trong của hệ thống ngân sách, mà còn các yếu tố liên hệ chặt chẽ với các yêú tố bên
ngoài của hệ thống ngân sách. Đó là các hình thức và phơng pháp thu, chi ngân sách.
Hình thức và phơng pháp thu, chi ngân sách là cầu nối liền cơ chế quản lý ngân sách với
các bộ phận cơ chế quản lý tài chính, chịu sự tác động của các bộ phận trong chính
sách kinh tế, tài chính .
2. Nội dung của quản lý ngân sách nhà nớc :
a. Phân bổ dự toán ngân sách nhà nớc :
Một điêù kiện quan trọng để kiểm soát chi ngân sách nhà nớc là : phân bổ ngân
sách của cơ quan tài chính phải đợc chi tiết theo từng đơn vị sử dụng ngân sách và từng
8


khoản chi, đồng thời phải có đầy đủ các định mức, tiêu chuẩn để làm cơ sở cho việc lập
dự toán, thông báo hạn mức cũng nh thực hiện chi tiêu.
b. Tập trung nguồn thu :
Điểm 3 Điêù 60 luật ngân sách nhà nớc quy định : Toàn bộ các khoản thu ngân
sách phải đợc nộp trực tiếp vào kho bạc nhà nớc. Trong trừơng hợp đặc biệt cơ quan thu

đợc đợc phép tổ chức thu trực tiếp nhng phải nộp đầy đủ, đúng thời hạn vào kho bạc nhà
nớc theo quy định của bộ trởng bộ tài chính.
Vấn đề quan trọng ở đây là: phân định các khoản thu nào, các đối tợng thu nào sẽ
phải nộp trực tiếp vào kho bạc nhà nớc, khoản thu nào, đối tợng nào do cơ quan thu thu
trực tiếp, sau đó nộp vào kho bạc. Trên cơ sở đó phải xác định rõ mối quan hệ giữa kho
bạc nhà nớc với cơ quan thu ngân sách nhà nớc trong quá trình thu nộp để bảo đảm tập
trung đầy đủ các khoản thu ngân sách nhà nớc vào kho bạc nhà nớc, tránh các hiện tợng xâm phạm tiền, tài sản của nhà nớc.
c. Cấp phát thanh toán:
Kho bạc nhà nớc cần phải kiểm tra, kiểm soát mọi khoản chi để bảo đảm cho các
khoản chi đó phải : có trong dự toán ngân sách đợc duyệt, đợc cơ quan tài chính thông
báo hạn mức kinh phí ( quý, tháng ); đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà
nớc có thẩm quyền quy định; đợc chủ trơng đơn vị sử dụng ngân sách ( hoặc ngời đợc
uỷ quyền ) chuẩn chi; có đầy đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp, hợp lệ.
Trách nhiệm này của kho bạc nhà nớc là rất lớn, vì vậy cần phải xác định rõ quy
trình kiểm soát từ khâu đầu đến khâu cuối quy trình chi và khẳng định rõ vị trí, vai trò của
các cơ quan, các kế toán viên, thủ trởng kho bạc nhà nớc các cấp trong việc kiểm soát
chi tiêu ngân sách nhà nớc .
Nguyên lý chung của việc cấp phát, thanh toán là: những khoản chi nào có đủ điêù
kiện thì kho bạc nhà nớc cấp phát thanh toán, những khoản chi nào cha có đủ điêù kiện
thanh toán hoặc một số khoản chi thờng xuyên có giá trị nhỏ, kho bạc nhà nớc có thể
tạm ứng cho đơn vị, sau đó đơn vị có trách nhiệm báo cáo lại cho kho bạc nhà nớc để
chuyển từ tạm ứng sang thực chi.
Đối với việc cấp phát, thanh toán chi đầu t xây dựng cơ bản, khi thực hiện cơ chế
cấp trực tiếp từ kho bạc nhà nớc thì các chủ đầu t phải mở tài khoản tại kho bạc nhà nớc,
cơ quan tài chính thông báo hạn mức cho cơ quan đầu t phát triển để phân bổ trực tiếp
cho chủ công trình, không chuyển vốn từ tài khoản ngân sách nhà nớc sang tài khoản
tiền gửi của cơ quan đầu t phát triển nh hiện nay; cơ quan đầu t phát triển thực hiện kiểm
9



tra, thẩm định, ra lệnh cấp tạm ứng hoặc thanh toán chuyển cho kho bạc nhà nớc để
cấp phát, thanh toán trực tiếp cho đơn vị nhận thầu hoặc cấp qua chủ đầu t.
d. Hạch toán kế toán và quyết toán ngân sách nhà n ớc :
Việc hạch toán kế toán thu chi ngân sách nhà nớc đợc thực hiện theo chế độ kế
toán ngân sách nhà nớc .
Chế độ kế toán nhà nớc phải đợc bảo đảm thống nhất cả về sổ sách, chứng từ kế
toán, hệ thống tài khoản và phơng pháp hạch toán để tất cả các đơn vị kho bạc nhà nớc,
cơ quan tài chính các đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện.

10


Chơng II : Quản lý ngân sách nhà nớc
hiện nay

I. Nội dung ngân sách nhà nớc :
1. Nguồn thu của ngân sách nhà nớc :
Một trong những vấn đề quan trọng khi bàn đến vấn đề thu ngân sách nhà nớc là
xác định đúng đắn nguồn thu. Xác định đúng đắn nguồn thu của ngân sách nhà nớc mới
xây dựng đợc chế độ động viên thích hợp, tránh bỏ sót nguồn thu, hạn chế đợc tác dụng
tiêu cực của thu ngân sách đối với hoạt động sản xuất kinh doanh ở từng cơ sở.
Có thể coi nguồn thu của ngân sách nhà nớc là tất cả các nguồn tài chính hình
thành trong quá trình tái sản xuất mở rộng có khả năng động viên vào quỹ tiền tệ tập
trung của nhà nớc. Nguồn tài chính ở đây đợc quan niệm là tất cả các nguồn tiền tệ đợc
hình thành trong sản xuất, lu thông, phân phối và tiêu dùng ở trong và ngoài nớc mà
thông qua phân phối có khả năng hình thành các quỹ tiền tệ trong xã hội.
Không phải tất cả các nguồn tài chính đều là nguồn thu của ngân sách nhà nớc.
Chỉ những nguồn tài chính thông qua phân phối có khả năng động viên vào quỹ ngân
sách nhà nớc mới đợc coi là nguồn thu của ngân sách nhà nớc. Nguồn thu của ngân
sách nhà nớc là một đại lợng không ổn định. Nó luôn luôn chịu ảnh hởng của cơ cấu sản

xuất kinh doanh, kết quả của sản xuất kinh doanh và cơ chế động viên phân phối.
Tuỳ theo nhu cầu của việc phân tích, đánh giá phục vụ cho công tác quản lý, cũng
nh phục vụ cho việc điêù chỉnh các chính sách động viên, ngời ta có thể phân nguồn thu
của ngân sách nhà nớc thành hai nhóm cơ bản.
a. Nhóm nguồn thu từ hoạt động sản xuất trong n ớc
Nguồn thu từ hoạt dộng sản xuất trong nớc là các nguồn tài chính có khả năng tạo
lập nên quỹ ngân sách nhà nớc do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nớc
mang lại.
Tuỳ theo đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh mà nguồn thi trong n ớc có
thể bao gồm :
_ Nguồn thu hình thành và thực hiện trong khâu sản xuất. Xét trên nhiều góc độ
đây là nguồn thu quan trọng nhất. Về mặt tỉ trọng đây là nguồn thu lớn của ngân sách
11


nhà nớc. Về ý nghĩa kinh tế nguồn thu trong khâu sản xuất là chỉ tiêu quan trọng đánh
giá sự tăng trởng của nền kinh tế, về qui mô và hiệu quả. Mặt khác sự tăng tr ởng của
nguồn thu này còn có ảnh hởng to lớn đến nguồn thu của các khâu khác. Nguồn thu
trong khâu sản xuất bao gồm nguồn thu từ sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản,
nông nghiệp.
_ Nguồn thu thực hiện trong khâu lu thông và phân phối. Nguồn thu này đợc thực
hiện do hoạt động giao lu hàng hoá trong và ngoài nớc, do việc mở rộng kinh doanh tiền
tệ mang lại. Nguồn thu này tăng hay giảm phản ánh thực trạng hoạt động giao lu hàng
hoá trong và ngoài nớc, phản ánh thực trạng của các ngành sản xuất, phản ánh tình
hình biến động của thị trờng tiền tệ.
_ Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ mang lại. Xã hội càng văn minh, sản xuất lu
thông càng phát triển thì các hoạt động dịch vụ càng trở nên phong phú và đa dạng.
Hoạt động dịch vụ ở nớc ta ngày càng có vị trí cực kì quan trọng đối với sản xuất và đời
sống. Đặc điểm của hoạt động dịch vụ so với sản xuất là hao phí xã hội thấp, song
doanh lợi thu đợc thờng cao. Vì vậy nguồn thu của ngân sách cũng thờng rất lớn.Trong

chính sách động viên, cũng nh trong chỉ đạo thực tiễn cần có biện pháp bồi dỡng, khai
thác nguồn thu này.
b. Nguồn thu ngoài nớc
Nguồn thu ngoài nớc là các nguồn tài chính do kết quả hoạt động kinh tế của nớc
ngoài tạo nên, chi viện cho chúng ta theo tính chất không hoàn trả.
Đặc điểm nguồn thu này gắn chặt với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao
của đất nớc. Đó là nguồn thu không ổn định, có tính chất bù đắp một phần trong quá
trình cân đối ngân sách.
Theo điều 28 của luật ngân sách thì nguồn thu của ngân sách nhà nớc bao gồm :
_ Các khoản thu 100%
+ Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt .
+ Thuế lợi tức của các đơn vị hạch toán toàn ngành.
+ Các khoản thuế và thu khác từ dầu khí phải nộp ngân sách trung ơng
theo quy định của chính phủ .
+ Lợi tức từ vốn góp của nhà nớc, tiền thu hồi vốn của nhà nớc tại các cơ sở kinh
tế, thu hồi tiền cho vay cuả nhà nớc (cả gốc và lãi), thu từ quỹ dự trữ nhà nớc.
+ Các khoản do chính phủ vay, viện trợ không hoàn lại của chính phủ các n ớc,
các tổ chức, cá nhân ở nớc ngoài cho chính phủ theo qui định của pháp luật
12


+ Các khoản phí, lệ phí và các khoản thu khác nộp vào ngân sách trung ơng theo
qui định của chính phủ.
+ Thu kết d ngân sách trung ơng.
+ Các khoản thu khác theo qui định của pháp luật.
_ Các khoản thu đợc phân chia theo tỉ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ơng
và ngân sách cấp tỉnh
+ Thuế doanh thu.
+ Thuế lợi tức, không kể thuế lợi tức của các đơn vị hạch toán toàn ngành.

+ Thuế thu nhập đối với ngời có thu nhập cao.
+ Thuế chuyển lợi nhuận ra nớc ngoài.
+ Thuế tài nguyên .
+ Thu sử dụng vốn ngân sách.
2. Nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nớc :
Có thể khẳng định rằng nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nớc là sự phản ánh
những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Nội dung cơ cấu
chi ngân sách nhà nớc của mỗi quốc gia thờng chịu sự chi phối của nhiều nhân tố.
Nhân tố trớc tiên phải kể đến là chế độ chính trị mà mỗi một quốc gia theo đuổi.
Chế độ chính trị của mỗi quốc gia quyết định những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội
của nhà nớc, do đó nó quyết định đến nội dung cơ cấu của chi ngân sách nhà nớc.
Nhân tố thứ hai có tính chất quyết định đến nội dung, cơ cấu của chi ngân sách
nhà nớc là mức độ phát triển của lực lợng sản xuất. Nó vừa tạo ra tiền đề khả năng cho
việc hình thành nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nớc, vừa đặt ra những yêu cầu đối
với nội dung cơ cấu chi ngân sách của mỗi quốc gia.
Ngoài hai nhân tố trên là hai nhân tố có tính chất bao trùm ảnh hởng đến nội dung,
cơ cấu chi ngân sách nhà nớc, cần phải kể đến nhân tố về mức độ tích luỹ của nền kinh
tế. Mức độ tích luỹ ảnh hởng chủ yếu đến phần chi của ngân sách nhà nớc cho việc cấp
phát phát triển kinh tế. Mức độ tích luỹ càng lớn thì trong những điều kiện nh nhau, khả
năng chi ngân sách nhà nớc cho phát triển kinh tế càng lớn.
Nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nớc còn phụ thuộc yếu tố sở hữu trong nên
kinh tế. Ngoài ra cũng có thể coi các nhân tố sau đây có tác động mạnh mẽ đến nội
dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nớc nh mức độ tồn tại các quỹ tiền tệ trong nên kinh tế,
sự biến động giá cả, cách thức tổ chức hệ thống ngân sách mỗi quốc gia.
Để xác lập đợc nội dung và cơ cấu ngân sách hợp lí của mỗi quốc gia không thể
vay mợn từ bên ngoài, mà phải dựa vào những điều kiện cụ thể với việc phân tích chinh
13


xác các nhân tố ảnh hởng ở mỗi quốc gia và ở mỗi giai đoạn lịch sử mà quốc gia đó trải

qua.
Nội dung chi của ngân sách nhà nớc đợc phân thành hai loại:
a. Chi thờng xuyên: Đặc điểm chủ yếu của các khoản chi này là mang tính chất tiêu
dùng và phản ánh những đặc điểm chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Chi thờng xuyên
thờng bao gồm các khoản chi chủ yếu sau đây : chi quản lý, chi an ninh, quốc phòng, chi
trả nợ, chi bảo đảm xã hội, chi trợ cấp trong hệ thống ngân sách.
Đối với nớc ta, các khoản chi này chỉ đợc bù đắp bằng ngồn thu trong nội bộ nền
kinh tế. Vì vậy các khoản chi này chịu ảnh hởng quyết định bởi sự tăng trởng của tổng
sản phẩm của quốc gia.
b. Chi thúc đẩy sự tăng trởng trực tiếp của nền kinh tế: Đặc điểm chủ yếu của các
khoản chi này mang tính chất đầu t, tích luỹ, thực hiện vai trò can thiệp của nhà nớc
trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Các khoản chi này, trong điều kiện ngân sách của
chúng ta hiện nay thờng đợc bù đắp bằng nguồn vốn đi vay trong và ngoài nớc. Nội
dung các khoản chi này bao gồm : chi trực tiếp cho các doanh nghiệp, chi xây dựng kết
cấu hạ tầng, phát triển kinh tế và nghiên cứu khoa học theo các chơng trình, chi trả các
hợp đồng mua hàng hoá và dịch vụ cho các doanh nghiệp...
Ngoài ra còn có thể phân nội dung chi ngân sách nhà nớc thành 4 nhóm :
_ Chi kiến thiết kinh tế;
_ Chi văn xã;
_ Chi hành chính;
_ Chi quốc phòng, an ninh và các khoản chi khác.
Cách phân chia nay chúng ta thờng gặp trong ngân sách của các nớc xã hội chủ
nghĩa.
Tóm lại tùy theo yêu cầu phân tích, đánh giá, quản lý mà ngời ta có thể phân chia
các khoản chi của ngân sách nhà nớc theo nhng tiêu thức khác nhau.
3. Công cụ quản lý các khoản chi ngân sách nhà nớc:
Nhằm thực hiện tốt các nguyên tắc và phát huy vai trò tích cực của chi ngân sách,
trong thực tiễn quản lý ngời ta thờng sử dụng các công cụ chủ yếu sau đây:
a. Định mức chi:
Định mức chi trình bày các tổ chức cần bao nhiêu phơng tiện tài chính bỏ vào để

thực hiện một đơn vị công suất, hoặc chỉ tiêu.

14


Định mức chi đợc sử dụng trong các trờng hợp khi mà tính chất tiết kiệm trong các
khoản chi không đặt ra một cách cần thiết và xã hội không có đủ nguồn tài chính hoặc
không cần thiết trang trải đối với việc vợt qua giới hạn các khoản chi.
Định mức chi có thể hoặc là định mức bộ phận hoặc định mức chung (tổng hợp).
Định mức bộ phận đợc thiết lập cho loại nhu cầu riêng của các tổ chức sử dụng nguồn
vốn ngân sách nhà nớc.
Định mức tổng hợp thể hiện khối lợng các khoản chi cho một đơn vị chi tiêu đặc trng cho hoạt động của các tổ chức sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nớc
b. Tiêu chuẩn tài chính:
Tiêu chuẩn tài chính thể hiện mức chi tối thiểu. Nhu cầu tài chính không đợc phép
giảm xuống dới mức độ. Nhu cầu thực tế bao giờ cũng cao hơn tiêu chuẩn tài chính.
Tiêu chuẩn tài chính đợc sử trong trờng hợp khi yêu cầu tiết kiệm không cần thiết
đặt ra. Do đó cơ quan cấp trên qui định mức chi mà với mức độ đảm bảo việc tiêu dùng
tối thiểu cho phép.
c. Giới hạn tài chính:
Giới hạn tài chính trình bày chi tiết tối đa mà với mức chi đó tiêu dùng tài chính đợc
phép đạt tới. Thực tế tiêu dùng thờng thấp hơn giới hạn tài chính trong trờng hợp khi vấn
đề tiết kiệm các khoản chi đợc đặt ra một cách hết sức cần thiết.
d. Chỉ tiêu tài chính:
Chỉ tiêu tài chính thể hiện mức trung bình mà với mức đó, nhu cầu tài chính đợc
phép đạt tới. Thực tế tiêu dùng bao giờ cũng quay quanh các chỉ tiêu tài chính. Chỉ tiêu
tài chính đợc sử dụng trong trờng hợp ở nơi nào tiêu dùng không thể định mức chinh xác.
Trong điều kiện tình hình kinh té, tài chính còn nhiều biến động, việc vận dụng công
cụ phân phối, sử dụng và quản lí nguồn vốn của ngân sách nhà nớc kể trên cần có quan
điểm linh hoạt, uyển chuyển nhằm làm cho các khoản chi của ngân sách đạt đợc hai yêu
cầu cơ bản : tiết kiệm và hiệu quả.

II. Thực trạng ngân sách nhà nớc và chi tiêu công cho các ngành ở Việt Nam hiện nay :
1. Thực trạng ngân sách nhà nớc :
Trong những năm vừa qua việc phát triển hệ thống quản lý chi tiêu nhà nớc và lập
ngân sách ở Việt Nam đã đạt đợc những thành tựu đáng kể. Việc thông qua Luật Ngân
sách năm 1996 với sửa đổi luật tiếp theo trong năm 1998 để tạo ra sự phân công trách
nhiệm rõ ràng hơn giữa trung ơng và các tỉnh đã đa đợc một khuôn khổ quan trọng cho
một hệ thống ngân sách có kỷ luật. Tuy nhiên điêù quan trọng là khuôn khổ này có khả
15


năng dễ dàng bổ sung những thay đổi cần thiết chứ không phải là một rào cản cho
những thay đổi đó.
Việc chuẩn bị một chơng trình đầu t công cộng đầu tiên cho giai đoạn 1996 - 2000
đã làm cho các quy trình xác định chi đầu t có kỷ luật và hiện thực hơn. Nó gắn chi tiêu
dự kiến với các giả định về nguồn vốn có đợc, đồng thời đóng vai trò là phơng tiện để
huy động vốn. Nhng cũng có những vấn đề liên quan đến lạc quan quá về năng lực thực
hiện và khả năng hấp thụ, bao gồm có quá nhiều dự án đa vào trong chơng trình đầu t
công cộng và thiếu các tiêu chí đầy đủ để thẩm định và xếp hạng các dự án. Những vấn
đề này đang đợc giải quyết trong những cơ chế mới cho việc chuẩn bị chơng trình đầu t
công cộng 2001 - 2006.
Nhìn chung, hệ thống lập ngân sách và quản lý chi tiêu của nhà nớc có khả năng
kiểm soát tổng chi tiêu trong phạm vi một sỗ năm. Không có chi vợt mức đáng kể, việc
giải ngân đợc kiểm soát chặt chẽ và không có vấn đề nợ chi ngân sách.
Nhìn chung, do tính khá phức tạp của hệ thống ngân sách nên ngời ngoài còn có
khó khăn trong việc xác định đựơc cách thức thực hiện quy trình lập ngân sách trong
thực tế - về phơng thức đa ra các quyết định và sử dụng những thông tin gì. Tuy nhiên có
những bằng chứng đây đó cho thấy mức độ phối hợp và trao đổi còn cha đủ để cho hệ
thống hoạt động có hiệu quả. Cụ thể là vai trò của các bộ chuyên ngành còn cha rõ,
thiếu một mạng máy tính để tất cả các bên có liên quan có thể tiếp cận đợc với cùng một
nguồn thông tin ngân sách càng làm hạn chế sự phối hợp, tham vấn và thảo luận.

Việt Nam có truyền thống ngân sách thận trọng với thâm hụt ngân sách tơng đối
thấp ( thông thờng dới 1% GDP, không kể cho vay lại ) và tỷ lệ nợ ( cả nợ trong và ngoài
nớc ) trên GDP thấp. Điêù này đợc phản ánh trong chi và trả nợ lãi trong ngân sách vào
khoảng 3% tổng chi tiêu. Tuy nhiên, cân đối ngân sách cha bao phủ toàn bộ chi tiêu của
chính phủ nghĩa là hoạt động tổng thể của chính phủ. Ngân sách loại trừ một số đáng kể
các quỹ bên cạnh ngân sách. Nó cũng không bao gồm một họat động tơng tự ngân sách
đáng kể là tín dụng của hệ thống ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp nhà nớc .
Đã có một số nới lỏng trong quan điểm ngân sách cuả chính phủ trong năm 2000
trong đó thâm hụt ngân sách tổng thể, không kể các khoản cho vay lại, tăng lên đến
2,8% GDP (theo ớc tính mới đây của IMF là 2,2%). Tăng thâm hụt ngân sách chủ yếu là
do tăng lơng cho công chức (0,8% GDP), chuyển chi xây dựng cơ bản dới chỉ tiêu phân
bổ cho năm 1999 sang để kích thích chi ngân sách một chút. Quan điểm ngân sách
trung hạn dự tính thâm hụt tổng thể hàng năm khoảng 2% GDP (không kể chi trả nợ
gốc) cho giai đoạn 2001-2003. Mức thâm hụt này tạo sức ép lên việc cần phải tăng thu
16


và hạn chế tốc độ tăng lơng. Tuy nhiên, mức độ thâm hụt thực tế cũng sẽ phụ thuộc vào
tốc độ và phạm vi của các cuộc cải cách cơ cấu và chi phí cho các cải cách này.
2. Phân bổ chi tiêu công cho các ngành:
a. Chi của nhà nớc trong ngành nông nghiệp:
Chi của nhà nớc cho nông nghiệp, nếu đợc phân bổ và quản lý đúng đắn
có thể cải thiện năng suất nông nghiệp và có tác dụng lan toả có lợi, kích thích đầu t của
t nhân vào ngành này. Các nghiên cứu cho thấy rằng chi của nhà nớc cho đờng nông
thôn, cho nghiên cứu trong nông nghiệp và khuyến nông tỷ lệ thuận với tỷ lệ tăng năng
suất nông nghiệp và giảm nghèo. Tuy nhiên, nếu chi của nhà nớc cho nông nghiệp lại
định hớng không đúng, nó có thể cản trở đầu t của t nhân và dẫn đến kém hiệu quả. Ví
dụ nh việc bao cấp cho những loại cây trồng kém hiệu quả hoăc đầu t vào những ngành
mà t nhân quản lý có hiệu quả hơn.
Mặc dù có tăng trong những năm gần đây, nhng chi tiêu công cho nông nghiệp vẫn

còn tơng đối thấp và chỉ chiếm 5-6% ngân sách nhà nớc(6,3% năm 1998).Mức này thấp
hơn so với một số nớc châu á nh Trung Quốc, ấn Độ và Thái Lan, nơi tỷ trọng ngân sách
cho nông nghiệp là khoảng 8 đến 16% trong gian đoạn 1990-1993. Tính theo tỷ lệ trong
GDP, chi của nhà nớc cho nông nghiệp chiếm 1,35% GDP năm 1998.
Tuy vậy, so sánh này không nhất thiết trở thành một lập luận là phải nâng mức chi
của nhà nớc cho nông nghiệp. Hoạt động của ngành nông nghiệp không chỉ liên quan
đến chi của nhà nớc cho ngành, mà còn liên quan đến những biện pháp bổ sung có tác
động đến kinh tế nông thôn, nh chi tiêu cho giao thông vận tải, giáo dục và y tế. Mặc dù
mức chi của nhà nớc cho nông nghiệp hiện nay còn thấp, ngành nông nghiệp vẫn tiến
triển tốt so với các nớc trong khu vực. Trừ Trung Quốc ra, còn tăng trởng nông nghiệp
của Việt Nam là mạnh nhất trong số nhiều nớc đang phát triển và các nớc phát triển. Trớc khi nghĩ đến mức chi tiêu cao hơn nữa cho nông nghiệp, có lẽ nên xem cơ cấu chi
đầu t và chi thờng xuyên có phản ánh các u tiên chung của chính phủ hay không.
b. Chi của nhà nớc cho y tế :
Tổng chi tiêu cho y tế - cả chi tiêu công và chi tiêu của hộ gia đình và cá nhân - đợc ớc tính là 28.773 tỷ đồng, tức là 383.226 đồng một đầu ngời vào năm 1998 ( theo
điều tra mức sống dân c, bao gồm chi phí đi lại, ăn ở của ngời bệnh và ngời nhà đi
theo ). Mức này tơng đơng 27,41 tỷ USD một đầu ngời hay 8% GDP và đặt Việt Nam
trong số những nớc ở châu á chi nhiêù nhất cho y tế . Chỉ có Malaysia, Thái Lan, Hàn
Quốc chi nhiều hơn Việt Nam cho y tế tính theo đầu ngời.
17


Các số liệu về chi của nhà nớc cho thấy có sự gia tăng đầy ấn tợng trong chi tiêu
công cho y tế trong giai đoạn 1991 - 1998. Chi của nhà nớc tính theo cả tổng số và theo
đầu ngời cho y tế tăng hơn 2 lần về số tuyệt đối - tức là tỷ lệ tăng hàng năm bằng 1214%, và chi tiêu này theo tỷ lệ trong GDP và trong tổng chi tiêu của chính phủ cũng
tăng, mặc dù ở mức khiêm tốn hơn. Tỷ lệ tăng nh vậy trong chi tiêu cho y tế phản ánh
cam kết cao của chính phủ Việt Nam đối với ngành y tế.
Nhng ngay sau cả khi đã tăng nh vậy, chi tiêu công cho y tế trên đầu ngời của Việt
Nam năm 1989 mới chỉ là 80.844 đồng ( 5,78 USD ), tức là 1,7% GDP và 8,5% tổng chi
tiêu của chính phủ năm 1998 hay 1,4% GDP và 7% tổng chi tiêu ngân sách nếu không
kể viện phí và bảo hiểm y tế. Tính theo số tuyệt đối, chi tiêu công cho y tế của Việt Nam

ở mức 5,78 USD chỉ cha bằng một nửa mức 12 USD mà báo cáo phát triển thế giới năm
1993 khuyến nghị là cần thiết để tài trợ cho một gói dịch vụ thiết yếu, bao gồm sức khoẻ
cộng đồng, đối với một nớc có thu nhập thấp. Để đạt mức chi tiêu này, Việt Nam cần chi
thêm 468 triệu USD mỗi năm .
c. Chi tiêu công cho giáo dục :
Trong thập kỷ vừa qua, chi cho giáo dục đã tăng đáng kể. Số giáo viên đã tăng
nhiều và mức đầu t cũng tăng. Tổng chi tiêu cho giáo dục đào tạo (thờng xuyên và đầu
t) hiện chiếm tới 17% tổng chi tiêu công (cha kể chi trả nợ gốc). Chi thờng xuyên cho
giáo dục là khoảng 19% chi thờng xuyên tuỳ dụng (bằng tổng chi thờng xuyên trừ chi trả
lãi vay). Chính phủ đã đặt mục tiêu là đến năm 2000 sẽ chi 15% ngân sách (bao gồm
cả chi trả nợ gốc) cho ngành giáo dục. Tuy nhiên, dự thảo tuyên bố chính sách do Bộ
giáo dục và Đào tạo chuẩn bị trình quốc hội đa ra nhu cầu tiếp tục tăng lên 20% vào
năm 2010.
Tỷ trọng chi cho giáo dục trong GDP đã tăng nhiều từ năm 1992 đến 1994, từ
2,3% lên 3,5%. Việt Nam đang chi ít hơn mức trung bình của các nớc đang phát triển,
nhng cũng có khả năng là thời gian học trung bình ở Việt Nam cũng ngắn hơn. Tuy nhiên
có nhiều yếu tố ảnh hởng đến tỷ trọng sản phẩm quốc gia phân bổ cho giáo dục.
Một tỷ số nữa để so sánh quốc tế là chi trung bình cho một học sinh so với GDP
đầu ngời. Năm 1998, chi trung bình cho một học sinh tiểu học, trung học cơ sở và phổ
thông trung học trên GDP đầu ngời ở Việt Nam theo thứ tự là 6,8,8 và 15%. Tại Đông
Nam á năm 1990, mức chi trung bình cho một học sinh tiểu học là 8%, Hàn Quốc 12%
và Malaysia là 15%.
d. Chi tiêu công cho giao thông vận tải :
18


Tầm quan trọng mà chính phủ Việt Nam đặt ra cho việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng
giao thông của quốc gia đợc phản ánh trong các cơ cấu chi tiêu tổng thể của nhà nớc
cho ngành giao thông.
Đã có sự chuyển dịch đáng kể trong nguồn vốn nhà nớc cả trên danh nghĩa và

thực tế cho ngành giao thông kể từ đầu những năm 90 và cả chi đầu t và chi thờng
xuyên cho giao thông đã tăng nhanh hơn so với các ngành khác. Việc tăng đầu t năm
1994 so với năm 1993 phản ánh sự tăng luồng đầu t ODA vào Việt Nam và u tiên mà cả
các nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam dành cho việc phục hồi cơ sở hạ tầng giao thông
cơ bản.
Việc chia sẻ giữa trung ơng và địa phơng trong chi cho gia thông cũng chuyển dịch
theo hớng có lợi cho địa phơng. Khoảng 85% tổng chi tiêu cho giao thông là chi đầu t.
Hơn một nửa chi đầu t trong năm 1997 và 1998 là do trung ơng chi và dùng tài trợ ODA,
còn chi của địa phơng chủ yếu lấy từ nguồn từ nhà nớc và đóng góp của dân.
3. Những rủi ro tiềm tàng đối với sự bền vững của ngân sách:
Những yếu tố rủi ro ngân sách mà Việt Nam phải đối mặt có thể kiểm soát đợc
trong ngắn hạn. Sự giảm sút thu ngân sách và các áp lực mới về tăng chi cho thấy cần
phải đánh giá chính xác các xu thế này và thực hiện một số hành động để hạn chế tác
động của các rủi ro này. Tỷ lệ động viên ngân sách trên GDP đã giảm hơn 4% GDP
trong giai đoạn 1995 - 1999. Việc giảm thu ngân sách này phản ánh một loạt các yếu tố,
bao gồm tăng trởng kinh tế giảm, nhập khẩu giảm, hoạt động kém hiệu quả của các
doanh nghiệp nhà nớc ( doanh nghiệp nhà nớc chiếm một tỷ trọng đáng kể trong thu
ngân sách ) và một số yếu kém trong quản lý thuế.
Cần có những nỗ lực mạnh mẽ để tăng tỷ lệ động viên ngân sách lên khoảng 1920% GDP trong trung hạn, nếu không tính bền vững ngân sách trung hạn sẽ bị đe doạ.
Điều này có thể đạt đựơc bằng cách mở rộng diện thu thuế, xóa bỏ những trờng hợp
miễn thuế và tiếp tục củng cố công tác quản lý thuế. Tăng cờng khả năng sinh lời của
các doanh nghiệp nhà nớc cũng cần phải là một bộ phận của chiến lợc cải thiện thu
ngân sách. Bất cứ một cải cách thơng mại nào trong tơng lai cũng sẽ có những tác động
đáng kể đến nguồn thu ngân sách và điều này cũng phải đợc tính đến trong chiến lợc
ngân sách của chính phủ.
Sức ép về chi ít nhất sẽ phát sinh từ bốn nguồn khác nhau. Thứ nhất, chính phủ
hiện đang giải quyết vấn đề lơng công chức còn thấp. Sau khi nâng lên 25% trong năm
2000 lơng công chức dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong các năm tới. Nếu không thực hiện kế
hoạch của chính phủ giảm 15% biên chế bộ máy quản lý nhà nớc, việc tăng lơng này sẽ
19



làm giảm các khoản chi phí khác. Chính phủ cần ớc tính đầy đủ chi phí cho lần tăng lơng
vừa rồi và các lần tăng lơng dự kiến trong tơng lai cùng với các phơng án giảm biên chế
để xác định ảnh hởng của chúng lên ngân sách trung hạn. Thứ hai, chi phí dự tính cho
cải cách ngân hàng và doanh nghiệp nhà nớc sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách cao hơn,
tuy nhiên chi phí này có thể dễ dàng đợc tài trợ bởi sự hỗ trợ của các nhà tài trợ nớc
ngoài. Mặc dù chi phí về vốn cho cải cách là khá đáng kể nhng chi phí thờng xuyên,
khoản hàng năm ngân sách phải chi, sẽ không vợt quá 1-2% GDP một năm. Tuy nhiên
cần phải tính toán thêm để xác định chính xác các ớc tính này. Do cha có các thông tin
tài chính cần thiết để đánh giá đầy đủ hoàn toàn về mức độ của các khoản vay không
sinh lời và các ngân hàng còn cha áp dụng đầy đủ cách phân loại mới các khoản vay và
quy định trích lập quỹ dự phòng nên các ớc tính hiện nay có thể cha đầy đủ. Thứ ba, thu
ngân sách giảm và việc tăng lơng sẽ làm giảm chi các khoản chi ngoài lơng. Điêù này
có thể thấy rõ từ việc tổng chi ngân sách nhà nớc trên GDP giảm, nhng chi đầu t lại
không giảm. Do đó dẫn đến nhiều nhu cầu chi cho vận hành và bảo trì không có kinh
phí. Thứ t, các chính sách chính phủ công bố trong một số lĩnh vực cũng cho thấy nhu
cầu chi tiêu thêm cả về chi thờng xuyên lẫn chi đầu t.

Chơng III: phơng hớng và kiến nghị

I. Phơng hớng:
1. Đảo ngợc sự giảm tỷ lệ động viên ngân sách trong GDP và xây dựng triển
vọng tài chính trung hạn
Thu ngân sách giảm .. Tỷ lệ thu trong GDP đã giảm từ 3% đến 4%. Phần lớn
những giảm sút về thu xảy ra trong các năm 1998 và 1999 và chủ yếu do thuế lợi tức
doanh nghiệp giảm. Nguyên nhân là do kinh tế tăng trởng chậm lại, kết quả hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nớc yếu kém đi và một số yếu kém trong quản lý thuế. Trên
cơ sở các chính sách hiện tại, giảm sút nguồn thu dự kiến còn tiếp tục trong các năm tới.
.. và tổng chi cũng giảm. Tổng chi tiêu công trên GDP cũng giảm đi khoảng 4% từ

năm 1998. Tuy sự kiềm chế chi tiêu này đáng hoan nghênh, nếu giảm chi sẽ có thể tác
động không tốt tới các nỗ lực xóa đói giảm nghèo của chính phủ. Phần lớn giảm chi vừa
qua là giảm chi ngoài lơng cho sự nghiệp kinh tế và chi quản lý hành chính cũng nh chi
đảm bảo xã hội .

20


Nhng áp lực chi tiêu đang tăng lên. Có hai loại chi có thể sẽ tăng lên trong tơng lai.
Thứ nhất, việc thực hiện các cải cách dự kiến trong lĩnh vực ngân hàng và doanh nghiệp
nhà nớc chắc sẽ đòi hỏi phải chi từ ngân sách theo tính toán của IMF khoảng từ 1-2%
GDP một năm để thanh toán chi phí an sinh xã hội cho các công dân dôi d và cho trả
lãi suất trái phiếu chính phủ phát hành để cơ cấu lại nợ của các doanh nghiệp nhà n ớc
và tái cấp vốn theo từng giai đoạn cho các ngân hàng trong thời kỳ trung hạn. Thứ hai,
chính phủ đã quyết định tăng lơng cơ bản cho công chức với tỷ lệ ban đầu là 25% (dự
kiến tăng tiếp trong tơng lai ) với một phần chi phí này có thể đợc trang trải thông qua cắt
giảm biên chế hành chính nhà nớc. Lơng công chức nhà nớc thấp kéo dài do vậy rõ ràng
sẽ cần phải tăng lơng. Nhng nếu biên chế không giảm thì chi lơng sẽ chiếm mất phần
ngân sách có thể chi cho các mục đích khác .
Đảo ngợc sự giảm tỷ lệ động viên ngân sách trong GDP là hết sức cần thiết để duy
trì các mức chi tiêu công thực tế trong trung hạn. Trong quá khứ, Việt Nam đã duy trì
một chính sách chi tiêu ngân sách thận trọng với thâm hụt ngân sách tơng đối thấp ( thơng khoảng 1% GDP, không bao gồm chi cho vay lại ) và mức độ nợ trên GDP thấp. Nhng tình hình tài chính hiện tại đang chịu sức ép bởi tỷ lệ động viên ngân sách trong GDP
giảm và áp lực chi tiêu gia tăng. Nếu không có các biện pháp và hành động giải quyết
vấn đề nguồn thu giảm và đánh gía chính xác triển vọng tài chính trung hạn và các rủi ro
tài chính đang xuất hiện thì khó có thể duy trì trong trung hạn mức độ chi tiêu chấp nhận
đợc trong các lĩnh vực chủ chốt.
2. Cải thiện việc ghi chép, báo cáo số liệu và tăng cờng minh bạch tài chính
Muốn thu đợc kết quả tốt nhất từ chi tiêu công cần phải có các thông tin đầy đủ và
đáng tin cậy về các chi tiêu này cũng nh khả năng tiếp cận chúng. Chi tiêu công cần
phải đợc ghi chép và báo cáo một cách chính xác bởi các đơn vị hởng thụ ngân sách.

Cần phải chuẩn bị kịp thời và chính xác các báo cáo chi tiêu và để cho đơn vị hởng thụ
ngân sách, các cơ quan và bộ ngành của chính phủ tiếp cận đợc. Các thông tin đầy đủ
về ngân sách đầy đủ cũng cần phải công bố để cho phép giới kinh doanh và các công
dân Việt Nam hiểu xem các nguồn lực công cộng đợc sử dụng nh thế nào. Để Việt Nam
có thể sánh vai với các nớc trong khu vực, cần phải tiếp tục cải thiện thêm việc báo cáo
số liệu ngân sách và tạo khả năng cho các cơ quan chính phủ và công chúng tiếp cận đợc các số liệu này.
Việc ghi chép và báo cáo số liệu không thống nhất giữa các bộ còn nhiều khiếm
khuyết. Khi các bộ chuyên ngành ghi chép giải ngân vốn ODA, các số liệu này cha đợc
phân loại theo mục lục ngân sách. Các khác biệt về ớc tính chi đầu t giữa bộ tài chính,
21


bộ kế hoạch và đầu t và các bộ chuyên ngành một phần là do vấn đề này, và một lý do
khác là do khác biệt trong phân loại chi đầu t và chi thờng xuyên. Có một số vấn đề
trong phân loại ngân sách, ví dụ giữa chi thờng xuyên và chi đầu t trong ngành giao
thông, giữa chữa bệnh và phòng bệnh trong ngành y tế, chi lơng và chi ngoài lơng trong
ngành giáo dục. Khó có thể so sánh giữa thực chi và dự toán bởi vì bởi vì phân bổ ngân
sách và chi từ kho bạc chỉ dùng 11 hạng mục ngân sách, trong khi đó các đơn vị hởng
thụ ngân sách và bộ tài chính sử dụng toàn bộ mục lục ngân sách để báo cáo quyết
toán. Các doanh nghiệp nhà nớc cũng báo cáo không đều, không phải tất cả các doanh
nghiệp lớn trình báo cáo tài chính đã đợc kiểm toán và nhiều doanh nghiệp nhà nớc nhỏ
không báo cáo thờng kỳ cho bộ tài chính, do đó làm cho việc cung cấp một bức tranh
ngân sách về sự phụ thuộc của các doanh nghiệp nhà nớc vào ngân sách khó khăn. Cha có chi tiết về chi thực tế cho an sinh xã hội theo cách để có thể phân tích tác động
của các chi tiêu này.
3. Tạo ra các quy trình sắp xếp thứ tự u tiên chi tiêu một cách có hiệu quả :
Chính phủ đã thành công trong việc thúc đẩy tăng trởng kinh tế và giảm đói
nghèo, bao gồm cải thiện sự công bằng trong chi tiêu y tế và giáo dục. Nhng vẫn còn
nhiều khả năng để nâng cao hơn nữa hiệu quả chi tiêu công. Cần phải có các quy trình
tốt hơn để lập thứ tự u tiên chi thờng xuyên và chi đầu t, chi thờng xuyên cần chiếm tỷ lệ
cao hơn nữa trong tổng chi tiêu để có thể sử dụng có hiệu quả hơn các tài sản cố định

đã đầu t, các bộ chuyên ngành cần đóng vai trò lớn hơn trong việc lập thứ tự u tiên chi
tiêu trong ngành của mình, hệ thống định mức chi thờng xuyên cần đợc đơn giản hoá,
các chính quyền địa phơng cần có quyền chủ động hơn nữa để phân bổ chi tiêu theo
các u tiên của mình và cần có một quá trình ngân sách chính thức để kết hợp tốt hơn chi
thờng xuyên và chi đầu t.
Quá trình lập thứ tự u tiên chung cho chi đầu t và chi thờng xuyên đợc tiến hành
riêng rẽ bởi hai bộ chủ chốt là bộ kế hoạch & đầu t (chịu trách nhiệm về chi đầu t) và bộ
tài chính (chịu trách nhiệm về chi thờng xuyên). Có sự phối hợp cha đầy đủ để đảm bảo
rằng nhu cầu chi thờng xuyên trong tơng lai của chi đầu t dự kiến đợc phân tích đầy đủ
hay đảm bảo có sự cân đối thích hợp giữa hai loại chi này. Có sự không cân đối giữa chi
đầu t và chi thờng xuyên, chính phủ có chính sách là chi thờng xuyên không đợc tăng
nhanh hơn chi đầu t. Do đó chi thờng xuyên còn thấp và có nghĩa là sự phân bổ chi tiêu
cha có hiệu quả và còn cha sử dụng đầy đủ tài sản công cộng đã đầu t.
Hệ thống định mức chi thờng xuyên hiện tại hớng dẫn việc phân bổ các nguồn lực
này cho các ngành và trong nội bộ các ngành khá phức tạp và một số định mức mâu
22


thuẫn với nhau. Chi thực tế và các tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ ở các tỉnh và các xã đôi
khi còn cha nhất quán với các u tiên mà chính phủ đề ra. Các chính quyền địa phơng
cũng bị thiếu sự linh hoạt trong lập thứ tự u tiên cho các chi tiêu của mình, đặc biệt là
các cấp thấp nhất. Các tỉnh nghèo phụ thuộc vào trợ cấp ngân sách để đáp ứng nhu cầu
tối thiểu về cung cấp dịch vụ tiêu chuẩn và hệ thống trợ cấp hiện tại cha đủ đáp ứng nhu
cầu của họ. Các huyện và xã nhận một phần của các khoản trợ cấp đó nh ng các khoản
trợ cấp này cũng thờng cha đủ để đáp ứng nhu cầu chi ngoài lơng cho cung ứng dịch vụ.
Điều này hạn chế khả năng của họ đáp ứng các nhu cầu tại chỗ, trừ trờng hợp họ thu vợt dự toán hay có khả năng huy động đợc phí và các khoản đóng góp tự nguyện để có
đợc một nguồn thu đáng kể phân bổ cho các u tiên của địa phơng. Có thể cân nhắc trao
thêm nguồn thu cho các chính quyền địa phơng.
4. Nâng cao định hớng thiên về ngời nghèo của chi tiêu công:
Có các bằng chứng cho thấy rằng các chơng trình hiện tại của chính phủ đóng vai

trò phân phối laị quan trọng và giúp đỡ ngời nghèo. Trong khi các chơng trình an sinh
xã hội còn hiệu quả cha cao trong việc này, thì chi cho y tế, giáo dục và trợ cấp ngân
sách cho các tỉnh nghèo đang đóng góp vào việc này. Tuy nhiên còn nhiều khả năng
đáng kể để cải thiện thêm tác động có lợi của chi tiêu công cho giảm đói nghèo, đặc biệt
bằng cách định hớng tốt hơn các chi tiêu xã hội và xây dựng các cơ chế khác nhau để
tăng trợ cấp thu nhập cho những ngời nghèo nhất.
Định hớng chi tiêu công cho y tế và giáo dục, đặc biệt là cho giáo dục, đã đợc cải
thiện trong thời gian qua và hiện tại tổng chi tiêu công cho lĩnh vực xã hội đợc phân bổ
đồng đều hơn là chi tiêu của hộ gia đình.
Trợ cấp ngân sách cho các tỉnh nghèo đang thực hiện một chức năng phân phối lại
quan trọng cho phép các tỉnh có đợc một cung cấp dịch vụ cao hơn. Có ít nhất 46 trong
số 61 tỉnh nhận đợc trợ cấp (năm 1998). Mặc dù các tỉnh giàu hơn vẫn còn chi một mức
cao hơn các tỉnh nghèo, chi của địa phơng theo đầu ngời đợc phân bố đồng đều hơn so
với thu theo đầu ngời và chúng cũng đợc phân bổ đồng đều hơn theo thời gian. Tuy
nhiên, quy mô của các trợ cấp này còn liên quan cha nhiều đến mức độ và tỷ lệ đói
nghèo nên còn có khả năng để cải thiện thêm về mặt này .
5. Phân bổ lại chi tiêu trong nội bộ các ngành:
Ba trong số bốn ngành (loại trừ ngành giáo dục) đều nêu sự cần thiết phải phân bố
lại việc chi tiêu hiện tại trong nội bộ ngành nhằm nâng cao hiệu quả. Vì khả năng tăng
tổng chi là hạn chế, việc phân bổ lại nh vậy có lẽ sẽ là nguồn chính để cải thiện chi tiêu
công trong trung hạn.
23


* Về nông nghiệp
Chi tiêu công cho nông nghiệp chiếm vào khoảng 6% ngân sách nhà nớc và 1,3%
GDP. Mặc dù đây là mức chi tiêu nhỏ hơn so với Trung Quốc, ấn Độ hay Thái Lan(là các
nớc chi 8-16% ngân sách cho nông nghiệp), ngành nông nghiệp Việt Nam có tốc độ
phát triển nhanh nhất trong số các nớc đang phát triển.
Vì phần lớn tăng trởng nông nghiệp sẽ do tăng năng suất và đa dạng hóa cây trồng

nên việc đảm baỏ tốt hơn công tác thuỷ lợi, khuyến nông và nghiên cứu khoa học sẽ rất
quan trọng. Hiện nay thuỷ lợi chiếm một nửa chi tiêu cho nông nghiệp, nhng việc mất
cân đối giữa chi đầu t và chi thờng xuyên làm cho một phần đáng kể các cơ sở thuỷ lợi
còn cha đợc sử dụng vì không có đủ ngân sách cho vận hành và bảo trì. Chi cho nghiên
cứu khoa học còn rất thấp và tăng các khoản chi tiêu này (là các khoản chi có tỷ suất lợi
nhuận cao theo kinh nghiệm thế giới) có thể tăng năng suất nông nghiệp và nâng cao
khả năng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam .
* Về y tế
Chi tiêu công cho y tế, tuy còn thấp so với mức quốc tế, nhng đã tăng mạnh trong
5 năm vừa qua và đạt 7% tổng chi ngân sách năm 1998 (khoảng 1,4% GDP). Gần 2/3
chi tiêu này do các tỉnh, huyện và xã chi. Chữa bệnh chiếm một tỷ lệ lớn không cân đối
trong ngân sách y tế là 70%, trong khi chi cho phòng bệnh chỉ chiếm 15% và khoảng
7% khác chi cho kế hoạch hoá gia đình .
Mặc dù chi tiêu công cho y tế đã tăng lên nhanh chóng trong những năm 90, các
hộ gia đình vẵn còn phải trả gần 80% tổng chi phí cho y tế. Chi trả từ tiền túi cá nhân
các hộ gia đình nghèo còn rất lớn so với thu nhập của họ. Có một cơ chế miễn giảm viện
phí cho các bệnh nhân nghèo, nhng dờng nh cơ chế này hoạt động cha tốt. Sự tăng chi
tiêu công đã kéo theo những kết quả đầy ấn tợng về tình hình sức khoẻ của nhân dân,
Việt Nam vẫn còn cần cải thiện việc cung cấp các dịch vụ y tế thông qua phân bổ lại các
chi tiêu.
* Về giáo dục
Tổng chi tiêu công cho giáo dục và đào tạo đã tăng mạnh trong những năm vừa
qua và đạt 17% tổng chi ngân sách (không kể các chi trả nợ gốc) (khoảng 3,5% GDP)
năm 1998. Nhờ đó, số lợng giáo viên và thời gian học trung bình đã tăng lên, tuy từ một
xuất phát đIểm khá thấp. Sẽ có nhu cầu thêm về chi công cho giáo dục do tỷ lệ nhập
học ở cấp trugn học cơ sở chắc sẽ tăng lên. Tăng tỷ lệ học sinh trên giáo viên chỉ hạn
ché một phần nhng không thể giảI quyết đợc toàn bộ nhu cầu tăng chi.
24



Chi tiêu cho giáo dục đợc phân cấp rất cao với hơn 73% tổng chi tiêu do các tỉnh,
huyện và xã tiến hành. Giáo dục phổ thông chiếm 62% tổng chi tiêu cho giáo dục, với
36% chi cho giáo dục tiểu học, 18% chi cho phổ thông cơ sở. Cơ cấu giữa chi lơng và
chi ngoaì lơng tỏ ra cũng hợp lý, tuy nhiên có một sỗ bằng chứng về việc phân bổ không
đúng các khoản chi ngoài lơng. Gần một nửa chi phí cho giáo dục tiểu học là do các hộ
gia đình chi trả, đây là một gánh nặng khá lớn lên các hộ gia đình nghèo.
Có ít khả năng để phân bố lại chi tiêu công cho giữa tiểu học, trung học và đại học
mà không tác động đến việc cung cấp dịch vụ. Nhng cần phải giảm sự mất cân đối hiện
nay giữa các vùng về chi tiêu và về chất lợng thông qua xem xét lại các hệ thống định
mức phân bổ trợ cấp ngân sách hiện nay cho các tỉnh.
* Về giao thông
Chi tiêu công cho giao thông tăng mạnh trong vòng một thập kỷ qua, nhng hiệu
quả của ngành còn thấp. Theo ớc tính của ngân hàng thế giới, tình trạng xấu của hệ
thống đờng bộ quốc gia gây ra chi phí kinh tế khoảng 160 triệu đô la hàng năm. Cũng có
các vấn đề trong ngành đờng sắt và cảng. Các u tiên chi tiêu trong ngành giao thông đợc tập trung vào việc khôi phục và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng giao thông, đặc biệt là đờng bộ.
Gần 11% tổng chi tiêu công (khoảng 2,2% GDP) dành cho giao thông, một mức tơng đơng với các nớc khác, với 90% chi cho đờng bộ. Gần 1/3 chi cho đờng bộ, tập
trung cho các hành lang tăng trởng kinh tế TP Hồ Chí Minh- Bà Rịa Vũng Tàu và Hà
Nội-Hải Phòng. Nhng chi thờng xuyên chỉ chiếm 12% tổng chi cho đờng bộ và chi cho
bảo trì đờng bộ thấp hơn nhiều so với chi đầu t. Các tiến bộ trong việc cải thiện đờng
nông thôn còn chậm.
6. Đánh giá khả năng chuyển dịch vụ cho khu vực t nhân cung cấp:
Với sức ép hiện tại lên ngân sách, cần phải đánh giá lại khả năng khu vực t nhân
cung cấp các dịch vụ trong giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng. Đây có thể là cách giảm nhu
cầu đối với ngân sách, mà không ảnh hởng đến khả năng sẵn có các dịch vụ cần thiết
cho tăng trởng và giảm đói nghèo. Các nỗ lực theo hớng này đã đang đợc tiến hành,
thể hiện trong việc ban hành các quy định nhằm cho phép t nhân tham gia vào các lĩnh
vực này.Đã có sự phát triển của khu vực t nhân trong y tế và giáo dục, mặc dù chỉ ở
thành thị, nhng t nhân tham gia còn ít trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, trừ trờng hợp dịch vụ
cung cấp nớc sạch. Nhng cần phải có sự tham gia nhiều hơn nữa của khu vực t nhân
nếu không muốn khả năng có hạn của các nguồn lực công cộng trở thành một trở ngại

để khai thác các tiềm năng của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam có thể cân nhắc tiến
25


×