Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Phân tích đường lối đối ngoại của đảng trong quá trình hội nhập (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.13 KB, 10 trang )

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM

Danh sách thành viên
Nhóm 1:
1. Trần Viết Chung
2. Nguyễn Ngọc Thúy Hạnh
3. Thái Kiều My
4. Lê Khánh Tâm
5. Bùi Minh Tân
6. Đặng Thị Hồng Uyên
7. Nguyễn Thị Lê Vân
8. Trần Thị Hải Yến

I:Phân tích đường lối đối ngoại của Đảng trong quá trình hội nhập:
1. Các giai đoạn hình thành và phát triển đường lối đối ngoại trong thời kỳ đổi mới

(những năm 1980 đến nay)


Giai đoạn 1986-1996:xác lập đường lối đối ngoại độc lập , tự chủ, mở rộng hóa quan hệ
quốc tế:










Đại hội đại biểu lần thứ VI , đảng ta đã nhận định :xu thế mở rộng, phân công ,
hợp tác giữa các nước , kể cả các nước có chế độ kinh tế- xã hội khác nhau, cũng
là điều kiện quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Do đó , ta cần :
 Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
 Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ
nghĩa, các nước công nghiệp phát triển, tổ chức quốc tế và tư nhân nước
ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
12- 1987: luật đầu tư nước ngoài được ban hành tại việt nam tạo cơ sở pháp lý
cho việc thu hút vốn, trang thiết bị, kinh nghiệm vào sản xuất…
5- 1988 : bô chính trị ra ngị quyết số 13 về nhiệm vụ và chínnh sách đối ngoại
trong thời kỳ đổi mới. đánh dấu sự đổi mới tư duy ở nhiều vấn đề: quan hệ chính
trị quốc tế, mục tiêu đối ngoại, an ninh và phát triển …. Đồng thời dã chuyển
hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của nước ta.
6-1961 : tại Đại hội Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển trong đó đổi mời chính sách đối
ngoại với Lào và Campuchia. Bình thuơng hóa quan hệ với Trung Quốc , Hoa Kỳ,
phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á.
Đồng thời các hội nghị trung ương khóa VII, cũng tiếp tục cụ thể hóa các quan
điểm của đại hội VI về đường lối đối ngoại…
 Các quan điểm, chủ trương của đảng qua các đại hội , hội nghị đã dần hình
thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế…

Giai đoạn 1996 -2011:bổ sung và phát triển đường lối theo phương châm chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế:
6-1996: đại hội lần thứ VIII của Đảng: khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc
tế , hợp tác về nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực
quốc tế đồng thời chủ trương ; xây dựng nền kinh tế mở và đẩy nhanh khu vực và
thế giới

 Nhằm Cụ thể hóa quan điểm đại hội lần thứ VIII, ,tại hội nghị lần thứ 4 ban chấp
hành trung ương khóa VIII, Nghị quyết đã đưa ra chủ trương : tiến hành khẩn
trương, vững chắc việc đàm Phán Hiệp Định Thương Mại với Mĩ, gia nhập APEC,
và tổ chức thương mại quốc tế WTO…
 Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ IX : Đảng đề ra chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy nội lực tối đa; phát triển phương châm








2.

3.

thành “ Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình , độc lập và phát triển”.
11- 2001 ; Nghị quyết số 07 về hội nhập kinh tế quốc tế: đã đề ra 9 nhiệm vụ và 6
biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội đại biểu lần X, đã để ra quan điểm : thực hiên nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại mở rộng, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, “ chủ động và hội nhập kinh tế
quốc tế “.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI , đã đề ra chủ trương ; triển khai đồng bộ,
toàn diện và hiệu quả các hoạt động đối ngoại , tích cực và chủ động hội nhập
quốc tế.
 Như vậy đường lối đối ngoại độc lập tự chủ mở rộng, đa dạng hóa quan hệ

quốc tế (1986-1996). Đến đại hội XI (2011) đã được bổ sung và phát triển theo
phương châm chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hình thành đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển, đa phương hóa , đa dạng
hóa các quan hệ,là bạn. là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiêm trong
cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh.
Mục tiêu, nhiệm vụ:
- Mục tiêu đối ngoại: tạo môi trường hòa bình, ổn định và phát triển kinh tế xã
hội là lợi ích cao nhất của Tổ Quốc
- Nhiệm vụ đối ngoại: giữ vững môi trường hòa bình, mở rộng đối ngoại và hội
nhập kinh tế quốc tế, phát huy vai trò nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan
hệ quốc tế.
Tư tưởng chỉ đạo:
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính: xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc XHCN.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa
dạng hóa.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
- Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ, không phân biệt chế độ
chính trị xã hội.
- Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân
- Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo
vệ môi trường sinh thái.
- Phát huy tối đa nội lực cùng với việc thu hút sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
- Cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương của Đảng
và nhà nước.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng , phát huy vai trò của Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.



4. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế

quốc tế:
- Đưa các quan hệ đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững để nâng
địa vị của nước ta lên bình đẳng với các thành viên khác trong việc hoạch định
chính sách thương mại toàn cầu và bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt
Nam trong những tranh chấp thương mại quốc tế.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: tận dụng
các ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ
động và tích cực nhưng phải hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường.
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các
nguyên tắc, quy định của WTO.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà
nước
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội
nhập kinh tế quốc tế
- Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội
nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, tăng cường quản lý sự
xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa không lành mạnh.
- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo
hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xòa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường
- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối
ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với
các hoạt động đối ngoại.
5. Thành tựu và ý nghĩa:
- Phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trương quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

- Giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên
quan
- Mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa: Lần đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước lớn trên thế giới và
các nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á.
- Đã tham gia các tổ chức kinh tế lớn: IMF, WB, ADB, AFTA, SEM, APEC,
WTO.
- Thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và
kỹ năng quản lý
- Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi
trường canh tranh
*Hạn chế:


+ Còn lúng túng trong quan hệ với các nước lớn
+ Còn chậm đổi mới một số chủ trương, cơ chế, chính sách.
+ Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế
quốc tế
+ Doanh nghiệp trong nước còn yếu kém về quản lý và công nghệ.
+ Đội ngũ cán bộ đối ngoại còn chưa đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng.
II. Thời cơ, thách thức và những yêu cầu đối với hoạt động đối ngoại của Việt Nam
hiện nay.
2.1. Thời cơ, thuận lợi
Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế thời kỳ đổi
mới, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất
quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa với
chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với khu vực
và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước
trên đường hội nhập, tận dụng tốt nhất những cơ hội mới đang mở ra.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá mở ra

khả năng cho nước ta, nhất là khi đã là thành viên chính thức WTO, tham gia
nhanh và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn
lực phục vụ mục tiêu phát triển. Do vậy, chúng ta có cơ hội thuận lợi đẩy nhanh
quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời
gian vật chất của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố như nguồn vốn, công nghệ sản xuất
tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại có sự lưu chuyển tự do nhanh chóng, cho
nên các nước đều có khả năng tiếp cận, sử dụng với mức độ khác nhau. Cùng
với dòng chảy khổng lồ về vốn, hàng loạt các hoạt động chuyển giao công
nghệ sản xuất và khoa học quản lý tiên tiến được thực hiện, góp phần hữu hiệu
vào sự lan toả rộng rãi của các làn sóng tăng trưởng hiện đại. Việc Việt Nam
gia nhập các định chế, tổ chức kinh tế, tài chính khu vực cũng như toàn cầu,
nhất là WTO tạo cơ hội tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước
thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các
nước mở cửa theo quy định. Nước ta có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu,
từng bước mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền
kinh tế có độ mở lớn, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này
càng có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng của nước ta.


Trên lĩnh vực kinh tế, tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng
đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện
công khai, minh bạch các thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của
nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để phát huy tiềm
năng của mọi thành phần kinh tế trong nước, là cơ hội để tăng cường thu hút đầu
tư nước ngoài, bảo đảm tốc độ tăng trưởng bền vững hơn và rút ngắn khoảng cách
phát triển. Mặt khác, gia nhập WTO đánh dấu bước phát triển về chất của tiến
trình hội nhập, giúp nước ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác
trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, tiếng nói được tôn trọng
hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn đối với các tranh chấp

thương mại trong khuôn khổ WTO, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước,
của doanh nghiệp. Đồng thời, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến
trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ
hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh.
Về khách quan, xu thế toàn cầu hoá tạo điều kiện cho tất cả các nước tham gia
vào đời sống quốc tế, bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp lực lượng... nhằm
thực hiện mục tiêu chiến lược của mình. Quá trình hội nhập quốc tế làm cho các
nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Đây là cơ hội tích cực để có thể loại bỏ các
biểu hiện của ý đồ thiết lập mối quan hệ một chiều chứa đựng sự áp đặt, chi phối
của các cường quốc đối với đông đảo các quốc gia dân tộc khác trên thế giới, thúc
đẩy sự hình thành một trật tự thế giới mới với cơ chế sinh hoạt quốc tế dân chủ,
công bằng, bình đẳng hơn.
Hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế, cũng thúc đẩy mạnh mẽ
các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy
lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh hưởng đó, tri thức loài
người, kết tinh cô đọng ở các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật, công nghệ...
được phổ biến rộng rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại.
Cũng như nhiều nước khác, tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta tạo ra cơ hội
thuận lợi để chúng ta chia sẻ lợi ích do toàn cầu hoá đưa lại, đồng thời đóng góp
thiết thực vào tiến trình phát triển hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, dân chủ hoá
các sinh hoạt quốc tế, tham gia đấu tranh thiết lập trật tự kinh tế quốc tế công bằng
hơn, hợp lý hơn.
2.2. Thách thức, khó khăn


Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay cũng như những năm tới không
chỉ có thời cơ và thuận lợi, mà còn phải đối diện với nhiều thách thức lớn. Do đó,
chúng ta cũng cần luôn nhận thức rõ những thách thức mà nước ta phải đối mặt để
từ đó tìm ra biện pháp khắc phục hữu hiệu.

Trước hết, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là
một nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu
kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh
của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều
hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh... Cho nên,
nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc
tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu
hơn, rộng hơn. Do thực hiện những cam kết của một thành viên WTO, nhất là việc
phải cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó có việc
phải mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng hoá và dịch vụ nhạy cảm cao như:
ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng, vận tải, chuyển phát nhanh, nông
nghiệp... bởi vậy nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn hiện
hữu và trở nên rất tiềm tàng. Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ
phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về
nhận thức, cơ chế, chính sách,... Về cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta
còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế
công nghiệp và người dân chưa có thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác,
nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền
tệ, đầu tư... chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất
bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Dựa
vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài chính,
tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại
của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO... Tự do hoá thương mại và tự do hoá
kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát
điểm, như điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội
nhập quốc tế. Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc
tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô nền
kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên phần
bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước ta.

Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá


đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng
trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Sở dĩ vậy là vì lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng
đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm
vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí
còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu
nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta thực hiện các cam kết
với WTO sẽ đè nặng lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70% dân số và lực
lượng lao động xã hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh tranh
của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều chính sách... Trong tình hình như đã
nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng,
phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của
đất nước.
Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trên lĩnh vực an
ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các
hiểm hoạ mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an
ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố...); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ,
biện pháp, hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường
xuyên. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối
ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập
quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc giữa các nước sẽ tăng lên.
Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính chính trị khu vực và thế
giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị trong nước. Điều đó đòi
hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và
phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế
có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến

động trên thị trường thế giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính trị- xã hội.
Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị
các giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất
là các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá
dân tộc. Chưa bao giờ văn hoá nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp
như trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay: vừa có khả năng giao lưu rộng
mở, vừa có nguy cơ bị nghèo văn hoá rất nghiêm trọng.
Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang
đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền


quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà
nước... Đã xuất hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ
thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất
khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô
hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ và
nhân quyền phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết "nhân quyền cao
hơn chủ quyền"... Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời
cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" của các thế lực chống đối trên nhiều
lĩnh vực.
Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách thức
đan xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và
thách thức chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò
của nhân tố chủ quan có tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động
lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự
cường, đoàn kết của toàn dân tộc. Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong
bối cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được

trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để
đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và phát triển, sớm ra khỏi tình trạng kém
phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, hướng tới mục tiêu chiến lược
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
III. Quan hệ ngoại giao của nước ta hiện nay.
Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), Bộ Thương mại đã thông báo danh sách các nước và vùng lãnh thổ đã
có thỏa thuận tối huệ quốc và ưu đãi đặc biệt trong quan hệ thương mại với Việt
Nam. Văn bản cập nhật nhất là Công văn 0622/BTM–PC (ngày 26.1.2007).
Theo đó, hiện nay Việt Nam đã có thỏa thuận tối huệ quốc với 164 nước và vùng
lãnh thổ, bao gồm: 122 nước và vùng lãnh thổ là thành viên của WTO; 27 nước
thuộc liên minh châu Âu; 15 nước và vùng lãnh thổ chưa là thành viên WTO.
Việt Nam hiện nay dưới chính thể Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình
thường với tất cả các nước lớn, các Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.


Hội nhập quốc tế
Với việc rút hoàn toàn quân đội khỏi Campuchia, vấn đề Campuchia được giải
quyết, Việt Nam đã phá được bao vây, cấm vận và không ngừng mở rộng quan hệ
quốc tế theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá; bình thường hoá và từng bước
xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài với tất cả các nước lớn, các nước công
nghiệp phát triển. Cho đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 nước,
trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 220 thị trường nước
ngoài và là thành viên của nhiều tổ chúc và diễn đàn quốc tế như:
• Cộng đồng Pháp ngữ (1970)
• Liên hợp quốc (1977),
• Phong trào Không liên kết (1976)

• ASEAN (1995).
• Diễn đàn hợp tác Á-Âu ASEM (1996)
• Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực châu Á- Thái Bình Dương APEC (1998)
• Tổ chức thương mại thế giới WTO (2006)
Việt Nam đã giải quyết ổn thoả nhiều tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo,
giữ vững môi trường hoà bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực,
tranh thủ nhiều ODA, FDI, mở rộng thị trường ngoài nước; tăng cường ngoại giao
đa phương. Các sự kiện lớn của ngoại giao Việt Nam trong những năm gần đây là :
Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao VII tổ chức Pháp ngữ (1997),
Hội nghị cấp cao ASEAN VII (1998), Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Á-ÂU V
( 2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC 14 (2006). Hoa Kỳ dành cho Việt Nam quy
chế thương mại bình thường vĩnh viễn (11/2006). Vào ngày 16 tháng 10 năm 2007
Việt Nam đã được bầu làm một trong các thành viên không thường trực của Hội
đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ 2008-2009.
Năm 2010 Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đối ngoại nổi bật: Việt Nam đảm nhận
thành công vai trò Chủ tịch ASEAN: Với chủ đề Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm
nhìn tới hành động, Chủ trì thành công Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Đông Á, tổ chức
thành công Hội thảo quốc tế Việt Nam – châu Phi lần thứ hai. Năm 2012, Việt Nam tổ
chức thành công Diễn đàn Việt Nam – Mỹ Latin về Thương mại và Đầu tư.



×