Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận môn nghiệp vụ ngân hàng thương mại hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.38 KB, 29 trang )

Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC - KHOA NGÂN HÀNG
--------------

ĐỀ TÀI 6: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Trầm Thị Xuân Hương
Nhóm thực hiện: Nhóm 3

Tháng 04 năm 2016

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 1


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

DANH SÁCH NHÓM 3:
TÊN THÀNH VIÊN NHÓM

PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

Lê Hoàng Long (NT)

Câu hỏi 2+ Dịch 2 paper

Lê Đại Thành



Câu hỏi 4+Dịch 1 paper+Tổng hợp

Phạm Triều Dung

Câu hỏi 1+Dịch 1 paper

Lê Thị Phương Tuyền

Câu hỏi 3+Dịch 2 paper

Nguyễn Tuấn Tú

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

CHỮ KÝ

Câu hỏi 5 + Làm slide +Dịch 1
paper

Trang 2


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

Câu hỏi 1: Những vấn đề cơ bản về NHTM và hệ thống pháp luật của NHTM Việt Nam
1. Những vấn đề cơ bản về NHTM
1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Theo nghiên cứu của Frederick A. Bradford năm 2014: NHTM được tóm tắt “là 1 tổ chức
nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, chính phủ, cá nhân..., và sau đó cho vay hoặc đầu tư để tạo thu

nhập”
Khi đề cập đến khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM), có rất nhiều phát biểu khác
nhau tuỳ vào từng quốc gia. Tuy nhiên, tựu trung lại các khái niệm đều có điểm chung là dựa
trên chức năng và phương thức hoạt động. Chẳng hạn:
Ở Mỹ khái niệm ngân hàng thương mại được định nghĩa “Ngân hàng thương mại là một
công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch
vụ tài chính”.
Trong khi đó ở Thổ Nhĩ Kỳ quy định “ngân hàng thương mại là công ty trách nhiệm hữu
hạn được thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ
chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác”.
Ở Pháp hệ thống ngân hàng thương mại được định nghĩa “ N g â n h à n g t h ư ơ n g m ạ i
là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghiệp vụ thường xuyên là nhận tiền gửi của công chúng
dưới hình thức ký thác hay dưới các hình thức khác và sử dụng số tiền đó cho chính họ trong các
nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và dịch vụ tài chính”.
Ngân hàng thương mại ở Ấn Độ định nghĩa “ Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các
khoản ký thác để cho vay hay tài trợ các khoản đầu tư”.
Đối với Việt Nam khái niệm NHTM trong Luật các TCTD số 47/2010/QH12 được Quốc
hội thông qua vào ngày 16/06/2010 được phát biểu như sau: “Ngân hàng thương mại là loại hình
tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có
liên quan nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Luật này còn định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là việc
kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau: nhận tiền gửi, cấp tín
dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
Như vậy qua các định nghĩa trên thì có thể khái quát lại khái niệm về ngân hàng thương mại
như sau: “Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian có khả năng thực hiện toàn
bộ các dịch vụ tài chính ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận”.
1.1.1 Phân loại ngân hàng thương mại:
Để phân loại các Ngân hàng thương mại ta có thể dựa trên các tiêu chí sau:
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 3



Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam



Căn cứ vào hình thức sở hữu:

- Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn của một cá nhân. Đây
là các ngân hàng nhỏ, thường chỉ hoạt động trong phạm vi một địa phương với đối tượng phục vụ
chủ yếu là những người trong địa phương.
- Ngân hàng sở hữu của các cổ đông: Là ngân hàng được hình thành từ nguồn vốn thông qua
tập trung phát hành cổ phiếu. Những người nắm giữ cổ phiếu này chính là những người chủ của
ngân hàng. Họ có quyền tham gia vào các hoạt động của ngân hàng và được chia lãi cổ tức. Do huy
động từ nhiều người nên các ngân hàng này có vốn chủ sở hữu lớn, có các hình thức kinh doanh đa
dạng.
- Ngân hàng sở hữu nhà nước: Là loại hình ngân hàng có vốn chủ sở hữu thuộc về Nhà
nước. Đây là loại hình ngân hàng có thể nói là an toàn nhất, rất ít khi bị phá sản. Tuy nhiên, các
ngân hàng này nhiều khi phải thực hiện những nhiệm vụ nhà nước giao, ảnh hưởng tới hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.



Căn cứ theo tính chất hoạt động:

- Ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng đa năng.
Ngân hàng chuyên doanh là ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh, thường chỉ
cung cấp một số dịch vụ ngân hàng nhất định.
Ngân hàng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng. Đây là xu hướng chủ yếu
hiện nay của các ngân hàng thương mại.

- Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ.
Ngân hàng bán buôn là loại hình ngân hàng mà hoạt động của nó chủ yếu thực hiện đối với
các khách hàng lớn. Số lượng các giao dịch của ngân hàng bán buôn nhỏ song về giá trị một dịch vụ
lại lớn.
Ngân hàng bán lẻ là loại hình ngân hàng mà hoạt động chủ yếu của nó thực hiện đối với các
khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân. Số lượng các giao dịch của ngân
hàng bán lẻ lớn song giá trị một giao dịch thường nhỏ.



Căn cứ theo cơ cấu tổ chức:

Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty. Sự phân chia này là do pháp
luật ở nhiều nước cấm không cho ngân hàng trực tiếp tham gia vào một số hoạt động kinh doanh
như: buôn bán chứng khoán, bất động sản... nên các ngân hàng tổ chức ra các công ty riêng, có tư
cách pháp nhân để kinh doanh.



Hiện nay, ở Việt Nam có các loại hình ngân hàng thương mại sau:

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 4


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

- Ngân hàng thương mại nhà nước: Đây là các ngân hàng giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống
ngân hàng ở nước ta. Các ngân hàng này được nhà nước cấp vốn và hoạt động chịu sự quản lý của

nhà nước. Ngoài việc tiến hành kinh doanh bình thường: huy động vốn, cho vay và các dịch vụ
khác, ngân hàng còn phải thực hiện các nhiệm vụ khi nhà nước giao cho.
- Ngân hàng thương mại cổ phần: Đây là các ngân hàng được thành lập và hoạt động theo
luật công ty cổ phần. Sở hữu ngân hàng là các cổ đông, họ cùng nhau góp vốn để hình thành và hoạt
động theo quy định của pháp luật.
- Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Vốn
điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài, có trụ sở chính tại
Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
- Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài: Là ngân hàng được lập theo pháp luật, được
phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
1.1.2 Chức năng của các ngân hàng thương mại



Chức năng thủ quỹ

Với chức năng thủ quỹ, ngân hàng thương mại nhận tiền gửi, giữ tiền, bảo quản tiền, thực
hiện yêu cầu rút tiền, chi tiền của khách hàng của mình là các chủ thể trong nền kinh tế, từ đó
mang lại những lợi ích khác nhau cho các chủ thể khác nhau. Thứ nhất, đối với khách hàng, chức
năng thủ quỹ giúp cho khách hàng ngoài việc đảm bảo an toàn tài sản của mình mà còn giúp sinh
lời được đồng vốn tạm thời thừa. Thứ hai, đối với ngân hàng, chức năng thủ quỹ giúp ngân hàng có
được nguồn vốn để ngân hàng thực hiện chức năng tín dụng và là cơ sở để ngân hàng thực hiện
được chức năng trung gian thanh toán. Thứ ba, đối với nền kinh tế, chức năng thủ quỹ khuyến
khích tích luỹ trong xã hội đồng thời tập trung nguồn vốn tạm thời thừa để phục vụ phát triển kinh
tế.



Chức năng trung gian tín dụng


Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM là cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu
vốn. Ngân hàng huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
để tạo lập nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn đó để cho vay đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh
và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế.
Thông qua thực hiện chức năng trung gian tín dụng của NHTM đem lại lợi ích cho các chủ
thể: Thứ nhất, đối với khách hàng là người gửi tiền, chức năng này thu lợi được nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi của mình dưới hình thức tiền lãi đồng thời đảm bảo an toàn tiền gửi và được hưởng
những tiện ích mà ngân hàng mang lại; còn đối với người đi vay, chức năng này giúp cho các
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 5


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

chủ thể trong nền kinh tế thoả mãn được nhu cầu vốn tạm thời thiếu trong quá trình sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng đồng thời tiết kiệm được chi phí, tiết kiệm thời gian tìm kiếm được nguồn vốn
tiện lợi, an toàn và hợp pháp. Thứ hai, đối với ngân hàng, chức năng này là cơ sở cho sự tồn tại
và phát triển ngân hàng thông qua lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi,
đồng thời nó là cơ sở để NHTM tạo bút tệ góp phần tăng qui mô tín dụng cho nền kinh tế. Thứ
ba, đối với nền kinh tế, chức năng này giúp điều hoà vốn tiền tệ từ nơi tạm thời dư thừa đến nơi
tạm thời thiếu hụt góp phần phát triển sản xuất kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.



Chức năng trung gian thanh toán

Ngân hàng thương mại thay mặt cho khách hàng trích tiền trên tài khoản trả cho người được
hưởng do mua hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác hoặc nhận tiền vào tài khoản từ bán hàng
hoá, dịch vụ và các khoản thu khác.

Thông qua chức năng trung gian thanh toán: chức năng này đem lại lợi ích cho các chủ thể:
Thứ nhất, đối với khách hàng, chức năng này giúp cho khách hàng thanh toán một cách nhanh
chóng, an toàn, hiệu quả. Bởi vì khi việc thanh toán trực tiếp giữa các chủ thể với nhau mà không
thông qua ngân hàng thì sẽ gặp nhiều rủi ro, chi phí thanh toán cao, không nhanh chóng, đặc biệt
là khi các chủ thể này cách xa nhau. Thứ hai, đối với ngân hàng, chức năng này tạo điều kiện thu
hút nguồn vốn tiền gửi thông qua cung ứng một dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt có chất
lượng cao đồng thời nó là cơ sở để NHTM tạo ra bút tệ góp phần tăng qui mô tín dụng cho nền
kinh tế. Thứ ba, đối với nền kinh tế, chức năng này giúp đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội, đồng thời nó
cũng giúp làm giảm khối lượng tiền mặt dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt
1.2 Pháp luật về ngân hàng thương mại Việt Nam
1.2.1 Khái niệm hệ thống pháp luật:
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục
đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân thành các chế định
pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước ban hành theo những hình thức, thủ tục nhất định. Gồm:
-

Về cấu trúc bên trong: hệ thống pháp luật được hợp thành từ các quy phạm pháp

luật, chế định pháp luật và ngành luật
-

Về hình thức: hệ thống pháp luật được cấu thành từ các văn bản quy phạm pháp luật

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 6



Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

1.2.2 Khái niệm hệ thống pháp luật của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Hệ thống pháp luật của NHTM là công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động vào các quan
hệ tiền tệ ngân hàng với mục đích làm cho các quan hệ này phát triển ổn định theo một hướng nhất
định có lợi cho nền kinh tế - xã hội. Theo đó, nội dung cơ bản của hệ thống pháp luật đối với hoạt
động của NHTM bao gồm tổng thể các mối quan hệ tiền tệ ngân hàng được điều chỉnh bằng pháp
luật, đặc biệt là đối tượng và phạm vi điều chỉnh với những chế định, nguyên tắc, quy phạm chứa
đựng trong luật và các văn bản dưới luật. Hoạt động của NHTM ở các nước khác nhau sẽ có nội
dung và phạm vi khác nhau tùy thuộc vào pháp luật và định hướng mô hình hoạt động của NHTM ở
các nước đó. Nhìn chung, theo pháp luật của Việt Nam, nội dung cơ bản của hệ thống pháp luật của
NHTM thường bao gồm:
- Các quy định về tạo vốn, bao gồm cả việc huy động vốn, như nhận tiền gửi của công
chúng dưới các hình thức khác nhau, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, vay vốn của các
TCTD và NHTW theo quy định.
- Các quy định về hoạt động tín dụng: cấp tín dụng cho các tổ chức và cá nhân dưới các hình
thức khác nhau như cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá, bảo lãnh, CTTC và các
hình thức khác theo quy định.
- Các quy định về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: bao gồm việc mở và sử dụng tài khoản
tại NHTW và các TCTD theo quy định để cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch
vụ thanh toán trong và ngoài nước cho khách hàng theo quy định.
- Các quy định về các dịch vụ khác: dùng vốn tự có để thực hiện các nghiệp vụ góp vốn, liên
doanh, mua cổ phần; kinh doanh ngoại hối; ủy thác và nhận ủy thác; làm đại lý trong các lĩnh vực
liên quan đến hoạt động ngân hàng (như quản lý tài sản, vốn đầu tư của khách hàng, tư vấn tiền tệ,
tài chính, bảo quản hiện vật quý và giấy tờ có giá, cho thuê két sắt và các dịch vụ khác; cung ứng dịch
vụ bảo hiểm, chứng khoán theo quy định của pháp luật).
- Địa vị pháp lý của NHTM (quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm phát sinh của các chủ thể theo
pháp luật và phù hợp với pháp luật).
- Cơ chế bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng (quy định về giới hạn cho vay, bảo
lãnh; BHTG; cấm cạnh tranh bất hợp pháp; tỷ lệ DTBB; dự phòng rủi ro; tỷ lệ bảo đảm an toàn; bảo

đảm tiền vay...).
- Chế độ thanh tra, giám sát; quy chế kiểm soát đặc biệt; giải thể, thanh lý, phá sản...
Nguồn luật điều chỉnh hoạt động của NHTM ở nước ta trước hết chủ yếu bao gồm Luật
NHNN, Luật các TCTD và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật. Do vậy, về tổng thể,
nguồn luật điều chỉnh hoạt động của NHTM không chỉ bao gồm pháp luật trong nước (thể hiện dưới
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 7


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

các hình thức như: Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định...) mà còn cả các điều ước và tập quán
quốc tế liên quan đến hoạt động ngân hàng. Hiện nay, các nước ngày càng tham gia, ký kết các hiệp
định hai bên hay nhiều bên về thương mại (bao gồm thương mại dịch vụ theo nghĩa rộng) làm phát
sinh các cam kết về dịch vụ tài chính ngân hàng. Mặt khác, các nước còn ký kết với nhau các hiệp
định (hai bên hay nhiều bên) hoặc thiết lập các quy tắc, Thỏa ước để điều chỉnh các mối quan hệ về
thanh toán quốc tế. Ngoài ra, do tính chất quốc tế hóa các hoạt động ngân hàng nên nhiều tập quán
quốc tế cũng được các nước coi là nguồn luật không thể thiếu để điều chỉnh hoạt động của NHTM.
Trong số các tập quán này, trước hết phải kể đến:
- Các quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP 600) do Phòng Thương mại
Quốc tế ban hành, sửa đổi năm 2007.
- Quy tắc thống nhất về nghiệp vụ nhờ thu, số xuất bản 522 do Phòng Thương mại quốc tế ban
hành, 1995.
- Quy tắc thống nhất về Bảo lãnh theo yêu cầu, số xuất bản 758, do Phòng Thương mại
Quốc tế ban hành, năm 2009 v.v...
Việc áp dụng các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế trong hoạt động ngân hàng với nước
ngoài đã được pháp luật nước ta đề cập và quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau, như
Luật các TCTD 2010 (Điều 3), Nghị định 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt
động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (Điều 4).

Pháp luật về NHTM với hai bộ phận cấu thành là các quy định về tổ chức và các quy định
điều chỉnh hoạt động (hành vi) đã từng bước được đề cập đến trong các văn bản pháp luật. Với tư
cách là một bộ phận chủ yếu của pháp luật về NHTM, pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM ở
Việt Nam bao gồm tổng thể các chế định, nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh phạm vi hoạt động
của NHTM phát sinh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán và các hoạt động kinh doanh ngân
hàng khác có liên quan.

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 8


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

Câu hỏi 2: Các quy định pháp luật ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của ngân hàng
thương mại?
Nghiên cứu liên quan: “Các quy định tài chính có ảnh hưởng đến lợi nhuận và rủi ro của các ngân
hàng hay không? Bằng chứng từ các ngân hàng thương mại của Trung Quốc” (Tung-Hao Lee, ShuHwa Chih năm 2013).
Bài nghiên cứu tìm hiểu ảnh hưởng mà các quy định tài chính của CBRC (China Banking
Regulatory Commission – Uỷ ban Giám sát Ngân hàng Trung Quốc) tác động đến hiệu quả và rủi
ro của ngân hàng thương mại tại Trung Quốc.
Trong bài nghiên cứu, các ngân hàng thương mại được phân loại thành ngân hàng lớn (giá trị tài sản
lớn hơn 1 nghìn tỷ NDT) và ngân hàng nhỏ (các trường hợp còn lại). Dữ liệu được lấy từ
Bankscope, CBRC và báo cáo tài chính được công bố của các ngân hàng.
Các biến nghiên cứu:
Biến phụ thuộc: hiệu quả lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng.
Biến độc lập: các quy định về tài chính của ngân hàng. Gồm 4 nhóm:
-

Chất lượng tài sản: gồm 2 biến tỷ lệ nợ xấu (RES_NPL), tỷ lệ dự phòng rủi ro (RES_Loan)

Lợi nhuận và hiệu suất: biến tỷ số chi phí trên doanh thu (CIR)
Thanh khoản: gồm 2 biến tỷ số thanh toán hiện hành (LIQ), tỷ số nợ vay trên tiền gửi (LDR)
An toàn vốn: gồm 2 biến tỷ lệ an toàn vốn (CAR), tỷ số đòn bẩy (Leverage)

Biến kiểm soát: thời gian.
Mô hình nghiên cứu:
Mối liên hệ giữa các quy định về tài chính và hiệu quả lợi nhuậncủa ngân hàng:
- Y (profit efficiency) = a0 + b1× RES_NPL + b2× CIR + b3× LIQ + b4× CAR +b5× Time + εt
- Y (profit efficiency) = a0 + b1× RES_Loan + b2× CIR + b3× LDR+ b4× Leverage + b5× Time +
εt
Mối liên hệ giữa các quy định về tài chính và rủi ro của ngân hàng:
- Y (Z-score) = a0 + b1× RES_NPL + b2× CIR + b3× LIQ + b4× CAR + b5× Time + εt
- Y (Z-score) = a0+ b1× RES_Loan + b2× CIR + b3× LDR + b4× Leverage + b5× Time + εt
Kết quả nghiên cứu:
- Tỷ số thanh toán hiện hành không ảnh hưởng đến rủi ro nhưng có tác động nghịch biến đến hiệu
quả của ngân hàng lớn và đồng biến với hiệu quả của ngân hàng nhỏ.
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 9


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

- Tăng quy định về tỷ lệ nợ xấu làm giảm rủi ro, còn tăng tỷ số chi phí trên doanh thu làm giảm
hiệu quả và tăng rủi ro cho các ngân hàng lớn. Hai tỷ số này không tác động đến rủi ro của ngân
hàng nhỏ.
- Ngân hàng nhỏ có tỷ lệ an toàn vốn cao và đòn bẩy cao thì có hiệu quả tốt hơn và rủi ro thấp
hơn, tỷ số nợ vay trên tiền gửi tăng làm tăng rủi ro và giảm hiệu quả. Ba tỷ số này không tác
động đến các ngân hàng lớn.


Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 10


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

Câu hỏi 3: Những văn bản, quy định pháp luật nào đang áp dụng tại các NHTM Việt Nam?
3.1 Quy chế về hoạt động của ngân hàng thương mại
3.1.1 Hoạt động cấp tín dụng và nhận tiền gửi
Theo Luật các TCTD 2010 số 47/2010/QH12 do Quốc Hội thông qua ngày 16/06/2010, hoạt
động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số
nghiệp vụ: nhận tiền gửi; cấp tín dụng; và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Theo đó, tùy
theo loại hình hoạt động, TCTD có thể thực hiện một hoặc một số hoặc cả ba hoạt động ngân hàng
nêu trên khi được NHNN cấp Giấy phép thành lập và hoat động. Theo quy định hoạt động ngân
hàng của ngân hàng thương mại:
− Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác.
− Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và

+
+
+
+
+

nước ngoài.
Cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây:
Cho vay;
Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác;
Bảo lãnh ngân hàng;

Phát hành thẻ tín dụng;
Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng được phép thực

+



+

hiện thanh toán quốc tế;
Các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
Cung ứng các phương tiện thanh toán.
Cung ứng các dịch vụ thanh toán sau đây:
Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy

nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ;
+ Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác sau khi được Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận.
Sau khi Quốc hội thông qua Luật các TCTD 1997, Thống đốc NHNN đã lần lượt ban hành
Quy chế cho vay vốn của các TCTD đối với khách hàng kèm theo Quyết định số 324/1998/QĐNHNN1 ngày 30/9/1998; Quyết định số 284/2001/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2001 và gần đây là Quyết
định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế
và yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luật các TCTD năm 1997 đã bộc lộ nhiều hạn
chế, bất cập, cản trở sự phát triển của hệ thống các TCTD, cần phải được sửa đổi, hoàn thiện.
Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03 tháng 02 năm 2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 11



Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, có hiệu lực kể từ ngày 7 tháng 03 năm 2005;
Luật các TCTD năm 2010 ra đời đã được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2010 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2011. Và Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 02 năm 2002. Các quy định về cho vay
(thông qua Quy chế cho vay mới) đã phản ánh những nội dung cơ bản nhất về quan hệ tín dụng giữa
TCTD đối với khách hàng, cụ thể: Tổ chức tín dụng tự chịu trách nhiệm về quyết định trong cho
vay của mình. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong
quá trình cho vay và thu hồi nợ của tổ chức tín dụng.Pháp luật tín dụng ngân hàng đặc biệt chú trọng
đến các nguyên tắc và điều kiện vay vốn như: sử dụng vốn vay đúng mục đích; hoàn trả nợ gốc và
lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.Đây là các nguyên tắc cơ bản, xuất
phát từ đặc điểm của giao dịch tín dụng là việc cho vay (sử dụng vốn) của TCTD bắt nguồn từ việc
đi vay (huy động vốn từ các từng lớp dân cư). Do vậy, việc sử dụng đúng mục đích đã cam kết theo
hợp đồng là điều kiện cần thiết để khách hàng có thể hoàn trả được nợ gốc và lãi vốn vay. Quy chế
cho vay hiện hành của NHNN phản ánh phương châm tiếp tục đổi mới cơ chế cho vay phù hợp với
các quan hệ kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 CPvề bảo đảm tiền vay và nghị định số
85/2002/NĐ-CPcho vay có bảo đảm bằng tài sản cầm cố của khách hàng (bao gồm cả cầm cố giấy
tờ có giá, không phân biệt ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn) là biện pháp bảo đảm tiền vay, do vậy
việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ phải thực hiện theo Nghị định 178. Theo quan điểm này,
việc cho vay trên cơ sở có bảo đảm bằng tài sản cầm cố (bao gồm cả việc cầm cố giấy tờ có giá), là
một biện pháp phòng ngừa rủi ro, tạo ra các cơ sở pháp lý cần thiết giúp ngân hàng thu hồi nợ vay
trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ đến hạn. Trên thực tế, việc cấp tín dụng của
NHTM trên cơ sở này đang gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp do nhiều thủ tục phiền hà của cơ chế
cho vay. Trong khi đó, một khách hàng đang nắm giữ giấy tờ có giá và có nguyên vọng vay vốn để

đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng lại rất muốn được cấp tín dụng với thủ tục thuận
tiện và nhanh chóng. Đây là một bất cập cần được tháo gỡ trong hoạt động cho vay.
Quyết định 356/1999/QĐ-NHNN14 về nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu của NHNN
đối với các NNTM về đối tượng chiết khấu tại NHNN, cần mở rộng thêm các hình thức chiết khấu
(như khế ước cho vay). Ngoài ra, cần sớm cải tiến các điều kiện chiết khấu, thủ tục và thời gian
thực hiện chiết khấu.

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 12


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

Ở Việt Nam hiện nay, theo quy định về bảo lãnh ngân hàng (ban hành kèm theo Thông tư
số 07/2015/TT-NHNN ngày 25/06/2015 thì "bảo lãnh ngân hàng" là hình thức cấp tín dụng, theo đó
bên bảo lãnh cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên
được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã
cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh. So
với quy chế trước đây, quy chế bảo lãnh ngân hàng hiện nay đã khắc phục được một số điểm bất
cập, chứa đựng nhiều nội dung mới, cụ thể như sau:
Thứ nhất, quy chế đã mở rộng các đối tượng được TCTD bảo lãnh đó là tất cả các doanh
nghiệp và cá nhân đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (Điều 6 Chương II Quyết định 196 quy
chế trước đây chỉ giới hạn đối tượng hoạt động là các tổ chức có tư cách pháp nhân).
Thứ hai, các điều kiện bảo lãnh theo quy chế trước đây không phù hợp với thực tiễn (như
điều kiện nợ quá hạn, điều kiện có đủ tài sản thế chấp...) đã được hủy bỏ và thay thế bằng các điều
kiện mang tính khả thi hơn đối với khách hàng.
Thứ ba, phạm vi bảo lãnh được mở rộng hơn không chỉ các vấn đề trong nước mà còn cả
các nghiệp vụ bảo lãnh quốc tế. Các loại bảo lãnh cũng được mở rộng hơn nhằm đáp ứng được các
nhu cầu đa dạng về bảo lãnh của khách hàng trong nền kinh tế thị trường.

Thứ tư, thẩm quyền những người được ký bảo lãnh cũng được mở rộng hơn: Ngoài Tổng
giám đốc (hoặc Giám đốc), Phó tổng giám đốc, Giám đốc chi nhánh của TCTD, là những đối tượng
trước đây, Quy chế mới đã mở rộng thêm thẩm quyền ký bảo lãnh cho Phó giám đốc Chi nhánh của
TCTD trên cơ sở ủy quyền của người đại diện theo pháp luật của TCTD. Quy định này đã thực sự
tháo gỡ nhiều khó khăn, ách tắc trong hoạt động kinh doanh hàng ngày của TCTD.
Thứ năm, mức phí bảo lãnh tối đa là 1% năm theo quy chế trước đây đã được thay đổi và
điều chỉnh là 2% cho phù hợp với thực tiễn hơn. Cả về mặt lý luật và thực tiễn hoạt động cho thấy
nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng có tính rủi ro cao. Do vậy, phí bảo lãnh 2%/năm là hợp lý.
Thông tư số: 05/2006/TT-NHNN ngày 25/07/2006 Hướng dẫn một số nội dung về hoạt
động cho thuê tài chính và dịch vụ ủy thác cho thuê tài chính theo quy định tại Nghịđịnh số
16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 tại Điều 1 đã cụ thể hóa định nghĩa trên như sau:
− Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc,
thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho
thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 13


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê.
Bên thuê nắm giữ tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa
thuận.
− Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục
thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng CTTC.
Nhìn chung, các văn bản pháp lý trên đây đã thực sự tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho
hoạt động của các công ty CTTC ở Việt Nam. So với quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của
công ty CTTC ban hành kèm theo Nghị định 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ, Nghị định 16
đã có nhiều nội dung mới, khắc phục được một số quy định hạn chế trước đây

Ngày 29/12/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo
đảm nhằm tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm và bảo đảm tiền vay
của các TCTD. Nghị định số 163/2006/NĐ-CP có những quy định mới về một số vấn đề cơ bản như
sau:
Về bên bảo đảm: Nghị định 165/1999/NĐ-CP quy định bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ
dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; người thứ ba dùng tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình cam kết bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thay cho bên có nghĩa
vụ, thì phải áp dụng biện pháp bảo lãnh bằng tài sản. Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định bên
bảo đảm không chỉ là bên có nghĩa vụ trong quan hệ dân sự mà có thể là ngừơi thứ ba cam kết bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thay cho bên có nghĩa vụ.
Hiệu lực của giao dịch bảo đảm: Giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể
từ thời điểm giao kết. Tháo gỡ khó khăn cho bên nhận bảo đảm trong việc làm thủ tục chuyển
quyền sở hữu tài sản khi xử lý tài sản bảo đảm
3.1.2 Hoạt động thanh toán qua ngân hàng
Thanh toán không dùng tiền mặt được phát triển và ngày càng hoàn thiện trong nền kinh tế
hàng hóa, đặc biệt là khi hình thức của tiền tệ có sự thay đổi lớn, đó là sự ra đời của đồng tiền ghi sổ
(hay còn gọi là bút tệ), được thể hiện dưới hình thức số liệu, sổ sách kế toán ghi nhận một số tiền cụ
thể nhất định của một chủ tài khoản (người sở hữu). Các hoạt động thanh toán ở Việt Nam hiện nay
được quy định tại Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNNvề việc ban hành Quy chế Hoạt động thanh
toán qua cáctổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và Nghị định 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của
Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Theo nghị định
này, "hoạt động thanh toán" là việc mở tài khoản, thực hiện dịch vụ thanh toán, tổ chức và tham gia
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 14


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

các hệ thống thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và việc mở tài khoản, sử dụng

dịch vụ thanh toán của người sử dụng dịch vụ thanh toán (Điều 3 khoản 1 Nghị định 64). Nghị định
64 đã thực sự tạo ra được cơ sở pháp lý mới trong hoạt động thanh toán của các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán với những quy định bao quát được các quan hệ thanh toán và hoạt động thanh
toán phát sinh trong thực tiễn.
Bên cạnh việc tạo ra một quy chế mới về cung ứng dịch vụ thanh toán, pháp luật hiện hành
về thanh toán và hoạt động thanh toán qua ngân hàng còn chứa đựng một số hạn chế và bất cập như
sau:
− Pháp luật thanh toán, bao gồm cả thanh toán điện tử còn thiếu tính hệ thống, thiếu đồng bộ
và nhất quán.
− Các quy tắc và tập quán quốc tế về thanh toán chậm được luật pháp hóa, thiếu cụ thể, gây
trở ngại và ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động thanh toán quốc tế của hệ thống ngân hàng
Việt Nam.
− Các công cụ thanh toán phổ biến trên thế giới, như séc, lại chưa được áp dụng rộng rãi do
các quy định pháp luật còn nhiều hạn chế về đối tượng, phạm vi sử dụng; thủ tục thanh toán
rườm rà, phức tạp.
− Các phương tiện thanh toán sử dụng công nghệ hiện đại, như thẻ thanh toán, chưa được sử
dụng phổ biến, hệ thống cơ sở hạ tầng viễn thông, trang thiết bị máy móc phục vụ thanh
toán còn nghèo nàn, sơ sài.
Về việc ngân hàng thương mại thành lập Công ty chứng khoán trực thuộc để kinh doanh
trên thị trường chứng khoán. Theo quy định tại Nghị định 48 (Điều 29 khoản 1), các TCTD muốn
tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập Công ty chứng khoán độc lập. Thủ tục và trình tự
thành lập Công ty chứng khoán của NHTM được quy định theo Quyết định 172/1999/QĐ-TTg ngày
19/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 04/1999/TT-NHNN5 ngày 2/11/1999 của NHNN
Việt Nam.
Tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán nói chung và của công ty chứng khoán
trực thuộc ngân hàng thương mại nói riêng được quy định trong các văn bản: Quyết định 04 ngày
13/10/1998 của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Quyết định 78 ngày 29/12/2000 bổ sung một số
điều trong Quyết định 04 nói trên.

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24


Trang 15


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

Nội dung hoạt động của công ty chứng khoán: Theo Nghị định 48 (Điều 29 khoản 2), cũng
như các công ty chứng khoán nói chung, công ty chứng khoán trực thuộc NHTM được thực hiện
một hoặc một số loại hình kinh doanh sau đây: a) Môi giới; b) Tự doanh; c) Quản lý danh mục đầu
tư; d) Bảo lãnh phát hành; e) Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Cho đến nay, các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK vẫn chưa có những quy định
cụ thể về các loại hình kinh doanh nói trên mà chỉ mới chủ yếu đề cập đến tổ chức và hoạt động của
công ty chứng khoán.
Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc ngân hàng nhà nước ngày 13/09/2014
về việc Ban hành quy chế Tiền gửi tiết kiệm. Theo quy định Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá
nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi
theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật
Quyết định 496/QĐ-NHNN cua Thống đốc NHNN ngày 17/03/2014 về lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay
bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đối với các ngân
hàng
Ngày 28/10/2014, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ký ban hành
Quyết định số 2172/QĐ-NHNN về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức,
cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định tại Thông tư số
06/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014 kèm theo Quyết định số 1938/QĐ-NHNN ngày 25/09/2015 về
mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài; Quyết định số 2173/QĐ-NHNN về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi
bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014 quy định lãi suất đối với tiền gửi
bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụngvà Quyết định số 2174/QĐ-NHNN về

mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành
kinh tế theo quy định tại Thông tư số 08/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014.
Để đảm bảo tuân thủ các quy định của NHNN, an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng và ổn
định thị trường tiền tệ,Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng tự kiểm tra, phát hiện những vi
phạm về mức lãi suất huy động, chỉ đạo chấn chỉnh và xử lý nghiêm người đứng đầu các chi nhánh,
đơn vị của tổ chức tín dụng để xảy ra vi phạm, không chấp hành các quy định của NHNN, chủ động
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 16


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

phát hiện và báo cáo về NHNN những tổ chức tín dụng cạnh tranh không lành mạnh vi phạm quy
định về mức lãi suất huy động.
3.2 Quy chế về đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại
Đảm bảo an toàn hoạt động của NHTM nói riêng và của cả hệ thống các TCTD nói chung
luôn luôn là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng trong tổ chức và hoạt động kinh doanh tiền
tệ. Do vậy, hai trong bốn mục tiêu quan trọng của Luật các TCTD là bảo vệ lợi ích của người gửi
tiền và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng để từ đó đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD. Thông
tư 13/2010/TT-NHNN thay thế Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Một trong những thay đổi đáng chú ý trong Thông tư 13
là tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ 8% lên 9 %. Cụ thể, Điều 4 của Thông tư quy định: Tổ chức tín
dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có
so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ). Việc tăng tỷ lệ an
toàn vốn là cần thiết, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm khuyến khích các ngân hàng tái cơ cấu và
nâng cao tiềm lực tài chính và tăng cường khả năng và quản lý thanh khoản
3.3 Quy chế kiểm soát đặc biệt; thanh tra, kiểm tra, giám sát ngân hàng thương mại
Các đặc thù dẫn đến rủi ro trong hoạt động ngân hàng là lý do khách quan để Nhà nước tăng

cường điều chỉnh hoạt động ngân hàng thông qua các chế định đặc trưng như kiểm soát đặc biệt.
Ngày 7 tháng 4 năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt
động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01
tháng 6 năm 2014 và thay thế Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 04 tháng 9 năm 1999 của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngân hàng. Kiểm soát đặc biệtlà việc một TCTD được
đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của NHNN do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh
toán. NHNN có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện kịp thời những trường hợp có nguy cơ mất khả
năng chi trả, mất khả năng thanh toán.
Khác với tính chất nhất thời và bất thường của hoạt động kiểm soát đặc biệt đối với một
NHTM cụ thể, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát ngân hànglại là công việc được tiến hành
thường xuyên, định kỳ. Tính chất thường xuyên của hoạt động thanh tra bắt nguồn từ tính chất và
đặc thù của kinh doanh tiền tệ là tính rủi ro cao như đã phân tích ở các phần trước. Ở Việt Nam, các
TCTD có hoạt động ngân hàng phải chịu sự thanh tra ngân hàng theo quy định của pháp luật. Mục
đích của hoạt động thanh tra ngân hàng là nhằm góp phần bảo đảm an toàn, lành mạnh và có hiệu
quả hệ thống các TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 17


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 18


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam


Câu hỏi 4: Đánh giá vai trò và hạn chế của hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam?
Những quy định của pháp luật là cơ sở để các NHTM tuân thủ trong quá trình thực hiện các hoạt
động của mình. Thông qua những quy định đó, nhà nước còn thực hiện việc kiểm tra, giám sát đối
với các NHTM. Bên cạnh đó, pháp luật còn tạo cơ sở để phát huy trách nhiệm của NHNN trong
phòng ngừa rủi ro hoạt động cấp tín dụng của NHTM thông qua chức năng quản lý nhà nước về tiền
tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng ngân hàng trung ương.
4.1 Vai trò của pháp luật ngân hàng
Một là, pháp luật đưa ra những quy định mang tính chất bắt buộc cho các NHTM thực hiện
hoạt động cấp tín dụng an toàn, hiệu quả. Thông qua các quy định của pháp luật, các NHTM biết rõ
những hoạt động nào không được thực hiện, những hoạt động nào bị hạn chế thực hiện, những hoạt
động nào được khuyến khích thực hiện nhằm bảo đảm an toàn. Như vậy, pháp luật đã tạo lập một
“khung” hướng dẫn các NHTM trong hoạt động. Thực vậy, khi các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khác cho khách hàng, họ phải tiến hành các
công việc đó trong một khung pháp lý được xây dựng một cách cẩn trọng để bảo vệ lợi ích của toàn
xã hội. Nhìn chung, những hoạt động có tính chất rủi ro rất cao, gây thiệt hại lớn cho các NHTM
hoặc có xung đột lợi ích trong NHTM thì pháp luật quy định theo chiều hướng cấm đoán. Chẳng
hạn, NHTM không được cấp tín dụng cho thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng thành
viên… của chính NHTM đó. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định NHTM bị hạn chế thực hiện một
số hoạt động có nguy cơ xảy ra rủi ro, muốn bảo đảm an toàn thì cần phải tuân thủ một số quy định
ràng buộc. Ví dụ, NHTM không được cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho kế toán trưởng, kiểm
toán viên, thanh tra viên đang làm nhiệm vụ kiểm toán và thanh tra tại NHTM đó…. Ngoài ra,
những hoạt động của NHTM có tính an toàn, hiệu quả sẽ được pháp luật khuyến khích thực hiện.
Hai là, pháp luật là công cụ rất hữu hiệu nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của các NHTM
trong phòng ngừa rủi ro. Mặc dù đã có những bước phát triển vượt bậc về quy mô, loại hình và hiệu
quả hoạt động nhưng hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều rủi ro. Các NHTM
Việt Nam có năng lực tài chính còn non kém, trình độ kinh doanh còn non yếu, công tác quản lý rủi
ro ngân hàng còn lỏng lẻo, chưa thực sự được chú trọng và mang tính chuyên nghiệp. Vì vậy, một
yêu cầu mang tính khách quan là các NHTM cần nắm bắt kịp thời những thách thức, rủi ro để tìm ra
những giải pháp, công cụ thích hợp nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động. Thế nhưng, thực tế
không phải tất cả các NHTM đều có sự quan tâm đến vấn đề này. Chính vì vậy, pháp luật, với

những thuộc tính của mình, có vai trò rất quan trọng trong việc tác động, nâng cao vai trò và trách
nhiệm của các NHTM trong phòng ngừa rủi ro. Chẳng hạn, việc quy định trách nhiệm của Hội đồng
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 19


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, Kiểm toán nội bộ… nhằm duy trì và
thực hiện những quy định của pháp luật và chính sách của NHTM về bảo đảm an toàn…
Ba là, pháp luật ghi nhận, phản ánh và thể chế hóa những kinh nghiệm, phương pháp phòng
ngừa rủi ro phù hợp và có hiệu quả để áp dụng cho hệ thống NHTM ở Việt Nam.Trong thời gian
vừa qua, pháp luật ngân hàng ở nước ta đã có một số quy định phù hợp với thông lệ chung của quốc
tế về bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng như quy định của Ủy ban Basel về tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu của NHTM; phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, kiểm soát và kiểm toán nội bộ; tiếp thu
những kinh nghiệm hay của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) về quản trị ngân hàng
hiệu quả…. Việc tiếp thu những kinh nghiệm như vậy là việc làm thiết thực và có ý nghĩa rất lớn
trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Bốn là, pháp luật là phương tiện để nhà nước thực hiện kiểm tra, giám sát an toàn đối với các
NHTM, đồng thời phát huy trách nhiệm của NHNN trong phòng ngừa rủi ro hoạt động cấp tín dụng
của NHTM.
4.2 Những bất cập trong hệ thống pháp luật ngân hàng hiện nay
Một là, môi trường pháp lý hiện còn nhiều chồng chéo, bất cập luôn có khả năng gây ra
những rủi ro khó lường cho các tổ chức tín dụng. Ban hành nhiều văn bản hướng dẫn nhưng vẫn
thiếu. Hiện nay, hoạt động của các tổ chức tín dụng phải tuân thủ quá nhiều quy định của pháp luật
của các ngành khác, bởi nghiệp vụ ngân hàng liên quan đến hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề.
Trong khi đó, hệ thống pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, chậm được hướng dẫn cụ thể… Do
đó, các ngân hàng cần hiểu rõ những vướng mắc pháp lý trong thực tiễn triển khai, từ đó có thể
phòng tránh rủi ro và tìm giải pháp khắc phục, bởi việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật tốn rất nhiều

thời gian, trong khi hoạt động kinh doanh phát sinh hàng ngày. Trong đó có những nội dung nảy
sinh nhiều vướng mắc như giấy phép hoạt động, lãi suất huy động, việc đảo nợ, vấn đề bảo lãnh,
giới hạn dư nợ cấp tín dụng, mua cổ phần của ngân hàng khác… Khó khăn, bất cập về pháp lý có
rất nhiều,. Nhưng về cơ bản thì vướng mắc nhất là giao dịch bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm và vấn
đề tố tụng., các quy định về tài sản bảo đảm, giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm liên quan
đến nhiều ngành, nhưng quy định của ngành này lại bị quy định của ngành khác, cơ quan khác hạn
chế.Về tài sản bảo đảm là nhà ở hình thành trong tương lai, Nghị định 71/2010/NĐ-CP quy định,
vấn đề này giao Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện, nhưng đến nay, Ngân hàng Nhà nước
vẫn chưa cho ra đời văn bản hướng dẫn. Các ngân hàng không biết thực hiện theo quy định nào và

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 20


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

vướng mắc đối với cả trường hợp nhà ở hình thành trong tương lai riêng lẻ và dự án, tức là vướng
mắc cả với chủ nhà và chủ đầu tư dự án.
Hai là, giữa quy định pháp luật và thực thi trên thực tế còn có khoảng cách khá xa, ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động ngân hàng.Chẳng hạn, hợp đồng thế chấp có quy định rõ quyền của
ngân hàng (bên nhận thế chấp) được thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ, nhưng lại chưa có biện
pháp bảo đảm thực thi, dẫn đến khó khăn/hạn chế thực hiện trên thực tế. Không ít trường hợp, ngân
hàng đã không thể thực hiện được quyền này khi bên thế chấp (chủ tài sản) chống đối/ không bàn
giao tài sản…, bởi lẽ chưa có quy định rõ ràng về nghĩa vụ của cơ quan chức năng như UBND,
công an tại địa phương nơi có tài sản, hỗ trợ ngân hàng thu giữ tài sản bảo đảm. Trong khi đó, việc
khởi kiện khách hàng để thu hồi nợ cũng không phải dễ dàng khi vướng mắc về các thủ tục tố tụng.
Nhiều trường hợp khách hàng vay bỏ trốn, doanh nghiệp chuyển trụ sở mà không thông báo cho
ngân hàng…, thì việc khởi kiện là vô cùng khó khăn. Thời gian từ lúc nộp đơn đến khi tòa thụ lý rất
mất thời gian do không thể xác minh được địa điểm cư trú của bị đơn. Ngân hàng đã phải “bôn ba”

để xin xác nhận của công an địa phương, nhưng xin không được nên đành chuyển sang xin xác
nhận của tổ trưởng tổ dân phố rồi ra phường xác nhận lại. Tuy nhiên, tòa án chỉ chấp nhận xác nhận
của cơ quan công an, khiến vụ việc bế tắc kéo dài.
Ba là, việc xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách quản lý đối với hoạt
động tiền tệ, ngân hàng còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, công nghệ thông tin ngày càng hiện đại, hoạt động ngân hàng ngày
càng phát triển nhanh, đa dạng, phức tạp và tình hình tham nhũng, tội phạm cũng ngày càng tinh vi.

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 21


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

Câu hỏi 5: Gợi ý giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật cho NHTM VN
Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Hiện nay,
chúng ta đang thực hiện song song cả hai mô hình xử lý nợ xấu phổ biến trên thế giới là mô hình tập
trung và mô hình phi tập trung. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy mô hình phi tập trung ở nước ta đang
thể hiện sự yếu kém và thiếu hiệu quả khi các công ty quản lý tài sản của các ngân hàng thương mại
chưa thể thực hiện tốt được vai trò, chức năng của mình. Đối với VAMC, bản thân công ty này
cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc bán nợ vì thiếu một thị trường mua bán nợ cùng
các tiêu chuẩn đồng bộ.
Dựa trên kinh nghiệm của cả những quốc gia thành công và quốc gia thất bại trong quá trình
xử lý nợ xấu, có thể giải quyết vướng mắc pháp lý trong xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương
mại như sau:Một là, xây dựng lộ trình phù hợp đối với từng nhóm ngân hàng cho việc áp dụng phân
loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro với lộ trình cụ thể cho từng nhóm ngân hàng lành mạnh
và yếu kém. Hai là, xây dựng quy trình đánh giá toàn diện thực trạng của từng doanh nghiệp đối với
từng khoản vay, từng dự án đầu tư trước khi xác định nhóm nợ của doanh nghiệp trên CIC (Cảnh
báo tín dụng), tránh gây khó khăn cho những doanh nghiệp gặp rủi ro tạm thời đối với những dự án

nhất định. Ba là, phát triển đồng bộ mô hình xử lý nợ xấu phi tập trung cùng với mô hình tập trung.
Mô hình tập trung là mô hình xử lý nợ xấu ngắn hạn trong 5 năm, trong khi đó mô hình phi tập
trung là mô hình hoạt động dài hạn cả trong và sau tái cơ cấu. Vì vậy việc phát triển đồng bộ cả hai
mô hình sẽ giúp kết quả quá trình xử lý nợ xấu được duy trì và phát huy, ngay cả khi giai đoạn tái
cơ cấu 2011 - 2015 đã kết thúc. Bốn là, có cơ chế đặc biệt cho VAMC, trao cho VAMC một số
quyền hạn đặc biệt để giảm thiểu các vướng mắc trong việc xử lý nợ xấu và đẩy nhanh tốc độ mua
bán nợ. Năm là, hướng dẫn cụ thể về việc xử lý các khoản nợ xấu đối với ngân hàng thương
mại. Sáu là, xây dựng chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.Bảy là, xây dựng thị trường
mua bán nợ. Một thị trường mua bán nợ thật sự bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
sẽ giúp huy động đa dạng các nguồn lực trong và ngoài nước tham gia xử lý nợ xấu. Tám là, phát
triển thị trường trái phiếu và tạo hành lang pháp lý cho việc chứng khoán hóa các khoản nợ xấu.
Xây dựng một thị trường vốn sâu rộng với nhiều công cụ khác nhau, đặc biệt là việc thiết lập thị
trường trái phiếu giúp tạo ra một kênh huy động vốn thay thế cho ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phối hợp với các bộ, ban, ngành liên quan sớm xây
dựng các văn bản pháp quy và các tổ chức trong điều hành các thị trường phái sinh (cụ thể là thị
trường hoán đổi tín dụng) cũng như các thị trường liên quan đến chứng khoán hóa (thị trường
chứng khoán, thị trường bất động sản và thị trường bảo hiểm). Theo đó, các văn bản pháp lý và các

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 22


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

tổ chức được xây dựng theo hướng hạn chế tối đa sự nguy hiểm bắt nguồn từ tính liên thông giữa
các thị trường trên khi kinh tế vĩ mô trở nên bất ổn.
Thứ hai, khuôn khổ pháp lý về mua bán, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tín dụng. Các
văn bản pháp luật cần thống nhất khái niệm mua lại tổ chức tín dụng. Theo đó, mua lại tổ chức tín
dụng cần được hiểu là mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng

bị mua lại. Sau khi mua lại, tổ chức tín dụng bị mua lại trở thành công ty trực thuộc của tổ chức tín
dụng mua lại. Cần có thêm quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số và bổ sung các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể gián tiếp tham gia vào hoạt động mua bán, sáp nhập các tổ chức tín dụng. Các văn
bản pháp luật cần nghiên cứu và xây dựng quy định định giá tài sản khi thực hiện mua lại và sáp
nhập các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, các văn bản này cần phản ánh được đầy đủ giá trị hữu hình và
vô hình của tổ chức tín dụng. Quy định cụ thể thời điểm cung cấp thông tin khi mua bán, sáp nhập
các tổ chức tín dụng; ban hành các chính sách đặc biệt ưu đãi về thuế cho các tổ chức tín dụng mua
lại hoặc sáp nhập các tổ chức tín dụng yếu kém trong thời gian 2 năm.
Thứ ba, khuôn khổ pháp lý về sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng. Một trong những
nguyên nhân chủ quan tạo kẽ hở cho tình trạng sở hữu chéo phát triển tràn lan là hệ thống các quy
định pháp luật về quản lý và hạn chế sở hữu chéo chưa chặt chẽ hoặc chưa đồng bộ với các văn bản
khác. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm kiểm soát sở hữu chéo là vô cùng cần thiết. Theo
đó, để phát hiện được các mối quan hệ sở hữu chéo, cần mở rộng đối tượng công bố thông tin, đặc
biệt là nhóm đối tượng là người có liên quan; đồng thời cần hạ tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu ngân hàng mà
ở đó chủ sở hữu phải công bố thông tin; bổ sung phạm vi quy định người có liên quan, người sở
hữu cuối cùng và mở rộng đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu. Để khắc phục khó khăn
trong quản lý, giám sát sở hữu, đầu tư chéo, cần hoàn thiện quy định hiện hành, xác định rõ người
liên quan, bổ sung quy định về người sở hữu cuối cùng và trao cho Cơ quan thanh tra, giám sát
ngân hàng quyền xác định người sở hữu cuối cùng dựa trên nguyên tắc theo luật định. Cụ thể, đối
với quy định về người có liên quan, trước mắt, đối với trường hợp, cổ đông cá nhân tuy chỉ sở hữu
một lượng cổ phần tuân thủ Điều 55 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 nhưng nếu tính cả các bên
liên quan của họ như vợ/chồng, gia đình của vợ/chồng có thể sẽ làm cho tỷ lệ sở hữu cao hơn mức
quy định. Trong Luật hiện nay chỉ quy định cổ đông và các bên liên quan bao gồm gia quyến của
chính cổ đông đó mà chưa bao gồm gia quyến của gia đình vợ/chồng của cổ đông đó. Do đó, Ngân
hàng Nhà nước cần mở rộng đối tượng về các bên liên quan trong Luật Các tổ chức tín dụng năm
2010. Mặt khác, cần tách bạch chức năng ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại; có biện pháp
chế tài hạn chế các ngân hàng thương mại thực hiện các nghiệp vụ như ủy thác đầu tư chứng khoán.

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24


Trang 23


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

Hiện nay, Luật Các tổ chức tín dụng cũng đã có quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của
các cá nhân cũng như các tổ chức trong ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, cần quy định cụ thể rõ
ràng hơn về mức sở hữu cổ phần tối đa với từng loại cổ đông. Với cổ đông cá nhân có thể phân chi
tiết hơn như: cá nhân tham gia quản lý, cá nhân không tham gia quản lý... Với cổ đông là tổ chức có
thể phân thành các nhóm: tổ chức tài chính, tổ chức phi tài chính, tổ chức là cơ quan, doanh nghiệp
nhà nước... Bên cạnh đó, cần nghiêm cấm các hành vi lợi dụng sở hữu chéo để vượt qua các quy
định về tỷ lệ sở hữu, giới hạn góp vốn, mua cổ phần; các quy định về hạn chế cho vay, giới hạn tín
dụng cũng như phân loại, trích lập dự phòng rủi ro. Với những sai phạm bị phát hiện, cần có cơ chế
xử phạt thật nghiêm bao gồm nâng các mức phạt hành chính nhằm gia tăng kỷ luật đối với các ngân
hàng thương mại khác.
Thứ tư, khuôn khổ pháp lý về quản trị rủi ro và bảo đảm an toàn hoạt động của các
ngân hàng thương mại. Việc tuân thủ các quy định an toàn hoạt động ngân hàng và chuẩn mực an
toàn vốn là những giải pháp quan trọng trong cơ cấu lại tài chính của hệ thống ngân hàng thương
mại theo Đề án 254. Để bảo đảm an toàn hoạt động toàn bộ hệ thống ngân hàng đặc biệt trong giai
đoạn tái cấu trúc, NHNN cần có các giải pháp toàn diện đối với vấn đề này.
Thứ năm, khuôn khổ pháp lý về cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng
thực hiện tái cơ cấu. Cần có các chính sách, quy định về miễn, giảm thuế, phí hợp lý liên quan đến
mua bán nợ xấu và các tài sản bảo đảm tiền vay (đặc biệt là thuế VAT); miễn, giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp trong vòng 2 năm đối với các tổ chức tín dụng sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập,
hợp nhất; miễn, giảm thuế, phí hợp lý đối với quỹ tín dụng nhân dân nhằm khuyến khích các tổ
chức tín dụng tham gia tích cực vào quá trình xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, hỗ trợ các tổ
chức tín dụng giảm gánh nặng về tài chính trong quá trình cơ cấu lại và xử lý nợ xấu. Thực hiện cho
vay, hỗ trợ nguồn vốn với mức lãi suất hợp lý dưới hình thức tái cấp vốn đối với các tổ chức tín
dụng tham gia tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém từ nguồn tiền cung ứng của Ngân hàng Nhà
nước để bảo đảm khả năng chi trả và tạo nguồn vốn cho mở rộng hoạt động. Cho phép tổ chức tín

dụng yếu kém, các tổ chức tín dụng tham gia xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém thực hiện có lộ
trình việc trích lập dự phòng rủi ro theo quy định nhằm hỗ trợ về thời gian cho tổ chức tín dụng
khắc phục tồn tại tài chính cũng như hỗ trợ các tổ chức tín dụng tái cơ cấu, sáp nhập, hợp nhất giảm
bớt áp lực về thời gian xử lý tổn thất; được duy trì và có lộ trình xử lý một số vi phạm phát sinh do
việc sáp nhập, hợp nhất, cơ cấu lại như sở hữu cổ phần, cấp tín dụng... vượt giới hạn, chưa đáp ứng
đầy đủ các tỷ lệ an toàn hoạt động.
Thứ sáu, khuôn khổ pháp lý cho sự can thiệp của Nhà nước trong xử lý các tổ chức tín
dụng yếu kém. Cần xác lập cơ chế cho phép Ngân hàng Nhà nước mua lại cổ phần tại một số ngân
Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 24


Đề tài nghiên cứu: Hệ thống pháp luật ngân hàng thương mại Việt Nam

hàng thương mại cổ phần để góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhà
nước trong việc thoái vốn khỏi lĩnh vực ngân hàng, của các cổ đông hiện đang sở hữu cổ phần vượt
tỷ lệ, cũng như sự ổn định của hệ thống ngân hàng sau khi các cổ đông thoái vốn, tăng tính hiệu quả
và đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng. Áp dụng biện pháp phá sản một số tổ chức tín
dụng, trước hết là đối với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng như công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính và Quỹ tín dụng nhân dân, sau đó là các ngân hàng thương mại yếu kém theo quy
định của pháp luật sau khi đã áp dụng các giải pháp xử lý khác nhưng không thành công hoặc
không có hiệu quả kinh tế - xã hội trên cơ sở không gây các tác động lớn về mặt xã hội cũng như hệ
thống. Đối với một số ngân hàng thương mại yếu kém, biện pháp cần làm ngay là công khai các
thông tin liên quan đến các ngân hàng này để sau đó có thể xem xét cho phá sản.
Một số giải pháp chung:
Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực
quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ – ngân hàng. Xây dựng môi trường pháp luật trong lĩnh vực
tiền tệ, hoạt động ngân hàng minh bạch và công bằng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và bảo đảm an toàn
hệ thống tiền tệ, ngân hàng. Các chính sách và quy định pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng

góp phần tạo môi trường lành mạnh và động lực cho các ngân hàng, doanh nghiệp phát triển
sản xuất kinh doanh. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi trong lĩnh vực ngân hàng và
phân biệt đối xử giữa các TCTD.
Luật NHNN và luật các TCTD hướng tới điều chỉnh mọi hoạt động tiền tệ, ngân hàng,
không phân biệt đối tượng tiến hành hoạt động ngân hàng. Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật
trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tăng cường hiệu lực chế tài pháp lý, kinh tế và hành
chính bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền lợi chính đáng
của các ngân hàng. Hạn chế và tiến tới xoá bỏ việc hình sự hóa các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực
ngân hàng.
Ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện các chuẩn mực của Ủy ban Basel trên cơ sở lựa chọn
những chuẩn mực thích hợp, phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Trong đó chú trọng đến
các văn bản quy định về việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ của mỗi NHTM.
Đối với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập, NHNN tư vấn cho chính phủ và bộ tài
chính ra văn bản hướng dẫn cụ thể trên cơ sở quy định trong phương pháp chuẩn của hiệp ước Basel
II. Đồng thời bổ sung định hướng thực hiện hiệp ước Basel trong chính sách phát triển hệ thống
ngân hàng giai đoạn 2010-2020, trong đó nêu cụ thể và chi tiết về lộ trình áp dụng cũng như các
điều kiện áp dụng.

Nhóm 6 – Lớp NHTM Chủ Nhật - K24

Trang 25


×