Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hệ thống chính trị nước việt nam dân chủ cộng hòa giai đoạn 1954 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

NGUYỄN THỊ KIM HOA

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM

DÂN CHỦ CỘNG HÒA GIAI ĐOẠN 1954-1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGUYỄN THỊ KIM HOA

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA GIAI ĐOẠN 1954-1975

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Hoàng Công

Hà Nội – 2014




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong bản luận văn này là
kết quả thu thập tài liệu và nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa được công bố
trên các công trình khác. Tôi cũng xin khẳng định bài luận văn này đã được
trích dẫn đầy đủ, cụ thể, chính xác kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Và tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những thông tin, dữ liệu đã công bố
trong bản luận văn.

Hà Nội, ngày 13 tháng 12 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Kim Hoa


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn PGS,TS. Vũ Hoàng Công, với
tinh thần trách nhiệm và tấm lòng của một người thầy, thầy đã luôn tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ để tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô, anh chị, bạn bè đồng
nghiệp Khoa Khoa học Chính trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, nơi tôi đang công tác đã luôn giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình tôi thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi tới gia đinh, những người thân, người bạn lòng biết
ơn sâu sắc vì sự cảm thông, chia sẻ, động viên trong suốt thời gian tôi học tập
và nghiên cứu.
Cuối cùng, dù đã có nhiều cố gắng nhưng công trình nghiên cứu không
thể tránh khỏi những khuyết điểm, thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, tôi mong
nhận được sự đóng góp, chỉ bảo chân thành để công trình nghiên cứu được

sửa chữa, bổ sung và hoàn thiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Kim Hoa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................ 6
6. Đóng góp của đề tài .................................................................................. 8
7. Kết cấu của đề tài ..................................................................................... 8
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 9
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ............................................... 9
1.1. Một số vấn đề lý luận về hệ thống chính trị ....................................... 9
1.1.1. Quan niệm về hệ thống chính trị ........................................................ 9
1.1.2. Cấu trúc của hệ thống chính trị ....................................................... 12
1.2. Sự hình thành và quá trình phát triển của hệ thống chính trị nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945 - 1954 ........................................... 16
1.2.1. Sự hình thành các thành tố trong hệ thống chính trị nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà ...................................................................................... 16
1.2.2. Hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn
1945-1954 .................................................................................................... 26
Chƣơng 2. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HOÀ GIAI ĐOẠN 1954-1975 – CẤU TRÚC VÀ CƠ CHẾ VẬN

HÀNH ............................................................................................................ 32
2.1. Cấu trúc của hệ thống chính trị nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
giai đoạn 1954-1975 ................................................................................... 32
2.1.1. Hệ thống Đảng chính trị .................................................................. 32


2.1.2. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ......................................... 37
2.1.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội ....................... 57
2.2. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà giai đoạn 1954-1975 .................................................................. 62
2.2.1. Cơ chế lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam.............................. 62
2.2.2. Mối quan hệ của Nhà nước với các đảng và đoàn thể của hệ thống
chính trị ....................................................................................................... 68
Chƣơng 3. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HOÀ GIAI ĐOẠN 1954-1975 – ƢU ĐIỂM, NHƢỢC ĐIỂM
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ................................................................... 72
3.1. Ƣu điểm và nhƣợc điểm trong tổ chức và quá trình hoạt động ..... 72
3.1.1. Ưu điểm ............................................................................................. 72
3.1.2. Nhược điểm ....................................................................................... 74
3.2. Một số bài học kinh nghiệm ............................................................... 77
3.2.1. Về tổ chức .......................................................................................... 77
3.2.2. Về hoạt động ..................................................................................... 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác xem lịch sử là “bản thân hiện
thực khách quan, tồn tại và phát triển theo một logic, không phụ thuộc ý thức

của con người”. Nhưng những sự thật tồn tại độc lập đó lại là những gì đã qua
và với những mục đích khác nhau nên ngay từ khi chép sử đến sau này, khi
nghiên cứu, nhận thức lịch sử, người ta luôn để lại dấu ấn chủ quan trong đó.
Bởi vậy, việc tiếp cận lịch sử từ nhiều góc độ khác nhau góp phần nhìn nhận
lịch sử một cách toàn diện và chân thực. Giai đoạn 1954-1975 đã được nhiều
nhà nghiên cứu lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu từ nhiều giác độ khác
nhau như sử học, xã hội học, kinh tế học, luật học, hành chính học, văn
học,… Tuy nhiên lựa chọn đề tài này, tác giả mong muốn được tìm hiểu lịch
sử Việt Nam nói chung và hệ thống chính trị Việt Nam giai đoạn 1954-1975
nói riêng dưới góc nhìn chính trị học, để nhận thức những vấn đề mới. Thêm
một cách tiếp cận – cách tiếp cận chính trị học, quá trình nghiên cứu lịch sử
Việt Nam sẽ thêm phong phú, đa dạng, lịch sử chính trị Việt Nam cũng sẽ có
thêm nhiều cứ liệu mới.
Trong giai đoạn 1954-1975, trên đất nước ta tồn tại song song hai hệ
thống chính trị cách mạng. Đây là một sáng tạo độc đáo của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong bối cảnh quốc tế và trong nước đặc biệt phức tạp. Về bản
chất, hai hệ thống chính quyền cách mạng chỉ là hai bộ phận hữu cơ của một
nền chính trị thống nhất do một Đảng Cộng sản duy nhất lãnh đạo. Tính chất
sáng tạo là ở chỗ, hai bộ phận này tuy thống nhất về bản chất, song đã khéo
lựa chọn phương thức tổ chức và hoạt động phù hợp với hoàn cảnh chính trị ở
từng miền. Nếu như hệ thống chính trị cách mạng miền Nam là hệ thống
chính trị cách mạng ngay trên tiền tuyến lớn thì hệ thống chính trị cách mạng
miền Bắc, hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lại là hệ
thống chính trị vững mạnh ở hậu phương lớn. Đặc biệt, trong những thời điểm
gay go, ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ, thống nhất đất nước, hệ thống
1


chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải thực hiện cùng lúc hai nhiệm
vụ. Một câu hỏi được đặt ra: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tổ chức và hoạt

động như thế nào để khai thác, phát huy đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và
thời đại để đứng vững được ở tư thế chiến thắng trong một tình thế vô cùng
gian nan, sóng gió ấy. Và chính câu hỏi này là một trong những lý do thôi
thúc tôi nghiên cứu, tìm lời giải đáp cho vấn đề.
Bối cảnh đất nước và thế giới không ngừng biến động đã, đang và sẽ
tạo ra nhiều cơ hội, thách thức đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Để tranh thủ, nắm bắt kịp thời các cơ hội phát triển và vượt qua những thách
thức của thời đại, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới một cách toàn diện từ đổi mới kinh tế đến đổi mới văn hoá, xã
hội, trong đó, đổi mới hệ thống chính trị là một trong những nội dung, nhiệm
vụ quan trọng. Tuy nhiên, từ ngày đổi mới, có một số quan điểm nhìn nhận,
đánh giá các giai đoạn đã qua một cách quá nghiêm khắc: nhấn mạnh các sai
lầm, thiếu sót, phê phán một chiều những hạn chế, khuyết tật mà không chú ý
phân tích đầy đủ hoàn cảnh lịch sử cụ thể, không thấy những thành quả vốn
có và những yếu tố còn có thể kế thừa. Trong hoàn cảnh khó khăn và phức tạp
hiện nay, hệ thống chính trị nước ta cần phải đổi mới như thế nào, học hỏi
điều gì từ hệ thống chính trị cách mạng giai đoạn trước để đủ sức chèo lái đất
nước. Nghiên cứu, tìm hiểu cấu trúc, hoạt động, cách thức vận hành của hệ
thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975 sẽ rút
ra những bài học kinh nghiệm lịch sử và từ đó có những gợi mở góp phần
củng cố, hoàn thiện hệ thống chính trị Việt Nam.
Từ những lý do cơ bản nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Hệ thống
chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975” làm luận
văn thạc sĩ chính trị học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã
có những công trình với những cách tiếp cận khác nhau. Là một đề tài lịch sử2


chính trị, nên trước tiên, phải kể đến những nghiên cứu về lịch sử Việt Nam

trong suốt chiều dài lịch sử nói chung và trong giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ cứu nước nói riêng. Tiêu biểu là cuốn Tiến trình lịch sử Việt Nam do
Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam của Trương Hữu
Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn,…
Tiếp theo là nhóm những công trình nghiên cứu về từng thành tố cấu
thành của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Về đảng
chính trị, có thể kể đến các ấn phẩm như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(tập II, giai đoạn 1954-1975) do nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia phát
hành năm 1995, Đảng Cộng sản – Những vấn đề lý luận và mô hình tổ chức
bộ máy của Lưu Văn Sùng được Nxb. Chính trị - Hành chính xuất bản năm
2011, Thể chế đảng cầm quyền – một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Đặng
Đình Tân do Nxb. Chính trị quốc gia phát hành năm 2004, Đảng lãnh đạo
cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở
miền Bắc thời kỳ 1965-1972 của Ngô Đăng Tri, Đảng lãnh đạo quá trình
thống nhất nước nhà về mặt nhà nước của Nguyễn Quang Liệu,… Qua
nghiên cứu, nhận thấy các công trình trên đã khái lược được quá trình hình
thành, phát triển và những đặc điểm, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử, nhưng chưa thực sự nhấn mạnh và phân tích sâu
cấu trúc tổ chức, các nguyên tắc vận hành của Đảng trong giai đoạn 19541975.
Về Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, từng ngành lập pháp, hành
pháp, tư pháp cũng có những nghiên cứu chuyên khảo. Về Quốc hội có Lịch
sử Quốc hội (tập I, II) của Lê Mậu Hãn, Nguyễn Văn Thư, Một số nét về
Quốc hội Việt Nam của Vũ Như Giới, xuất bản năm 1976, Những điều cần
biết về Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của Đinh Gia Trinh (Nxb.
Phổ thông, 1961), 25 năm hoạt động của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà,….

3



Về Chính phủ, không thể không nhắc đến một số công trình: Lịch sử
Chính phủ Việt Nam (bộ 3 tập) và Biên niên Lịch sử Chính phủ Việt Nam do
Ban chỉ đạo Biên soạn Lịch sử Chính phủ chỉ đạo biên soạn với sự tham gia
chủ biên của Lê Mậu Hãn, Trần Đức Cường, Nhà nước cách mạng kiểu mới ở
Việt Nam (1945-2005) của Nguyễn Trọng Phúc do Nxb. Chính trị quốc gia
xuất bản năm 2007, Chính phủ Việt Nam 1945-2000 (Nxb. Chính trị quốc gia,
2000), Chính phủ Việt Nam 1945-2003 của Dương Đức Quảng (Nxb. Chính
trị quốc gia, 2004), Chính phủ Việt Nam từ 1945 đến nhiệm kỳ Quốc hội khoá
XII (2007-2011) (Nxb. Thông tấn, 2008), Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây
dựng và tổ chức hoạt động của Chính phủ Việt Nam của Phan Hữu Tích, Trần
Đình Thắng, Khái quát quá trình phát triển của cơ cấu tổ chức Chính phủ
Việt Nam từ 1945 đến nay của Nguyễn Phước Thọ đăng trên Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 2/2007,…
Về các đoàn thể nhân dân, có các tác phẩm: Lược sử Mặt trận dân tộc
thống nhất trong cách mạng Việt Nam do Nxb. Chính trị quốc gia phát hành
năm 1995, Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam của Trần Hậu, Vũ
Đức Hoạt, Khổng Đức Thiêm, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: những chặng
đường lịch sử, của Nguyễn Văn Bình (chủ biên) (Nxb. Lao động), Mặt trận
dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam của Nguyễn Công Bình xuất
bản năm 1963 bởi Nxb. Khoa học, GS.Văn Tạo với bài viết Phát huy truyền
thống Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, trên Tạp
chí Mặt trận, Nxb. Quân đội nhân dân cũng đã phát hành ấn phẩm Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của Uỷ ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào năm 2004,… Các công trình trên
đã phân tích được những chặng đường hình thành và phát triển của Mặt trận
dân tộc thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, ở khía cạnh đặt Mặt trận dân tộc
trong tổng thể hệ thống chính trị, mối quan hệ tác động qua lại của các đoàn
thể với Nhà nước, với Đảng chưa thực sự được đề cập sâu sắc.

4



Ngoài những công trình nghiên cứu từng thành tố cấu thành của hệ
thống chính trị cũng có những cuốn sách, bài báo viết về hệ thống chính trị
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như cuốn sách Những đặc trưng cơ bản
của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước thời kỳ đổi
mới của Vũ Minh Giang, Nxb. Chính trị quốc gia, 2008, cuốn Thể chế chính
trị Việt Nam: Lịch sử hình thành và phát triển của Lưu Văn An, Nxb. Chính
trị - Hành chính, 2012, 2 bài viết “Hệ thống chính trị ở Việt Nam những năm
1954-1975- Một số vấn đề nhận thức lý luận lịch sử” và “Hệ thống chính trị
cách mạng Việt Nam trước đổi mới - Từ lịch sử suy ngẫm về hiện tại” của
GS,TS. Phùng Hữu Phú, đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội, Đại học Tổng
hợp Hà Nội, số 2/1993 và số 6/1993,…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra được những cái
nhìn rõ nét về sự hình thành của từng thành tố chính trị Việt Nam. Tuy nhiên,
nghiên cứu trong cả một chỉnh thế với những đặc điểm, cơ chế vận hành, mối
liên hệ giữa các thành tố, và đánh giá những ưu điểm, hạn chế của hệ
thống,… thì dường như chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu,
đầy đủ và thấu đáo. Chính vì thế, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu về cấu trúc và
mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà thời kỳ 1954-1975, qua đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về
thành tựu, hạn chế và một số bài học kinh nghiệm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Nghiên cứu chuyên sâu về cấu trúc, tổ chức của hệ thống
chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 1954-1975, thấy được
những đặc điểm, vai trò, đánh giá được thành tựu, hạn chế và rút ra bài học
kinh nghiệm, liên hệ với thực tiễn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ các vấn đề lý luận chung như khái niệm hệ thống chính trị,
quá trình hình thành và xác lập hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà.
5


- Mô tả được cấu trúc, tổ chức và cơ chế vận hành của các thành tố
trong hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giai đoạn 19541975, qua đó so sánh hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
giai đoạn 1945-1954 với hệ thống chính trị của một số nước theo mô hình xã
hội chủ nghĩa cùng thời.
- Đánh giá được những ưu điểm và nhược điểm trong hoạt động và
cách thức tổ chức của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
giai đoạn 1954-1975, từ đó, rút ra những bài học lý luận và thực tiễn, phục vụ
cho công cuộc xây dựng đất nước và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng:
Tác giả tập trung nghiên cứu hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà giai đoạn 1954-1975 gồm các thành tố Đảng Lao động Việt Nam,
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận và các tổ chức
chính trị.
4.2. Phạm vi:
- Về thời gian, đối tượng được nghiên cứu trong giới hạn thời gian từ
năm 1954 đến năm 1975, song có khái lược về giai đoạn 1945-1954.
- Về không gian, giới hạn phạm vi nghiên cứu trong luận văn là ở miền
Bắc Việt Nam với những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội,… cụ thể.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Dựa trên lý luận chính trị học của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn bản pháp lý, các văn kiện liên quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Các lý thuyết của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin: Lý
luận hình thái kinh tế xã hội, biện chứng giữa cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng

tầng, biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là những lý thuyết cơ bản
tác giả lựa chọn để làm cơ sở nền tảng triển khai những luận giải nghiên cứu.
6


Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh như: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước kiểu mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,… là những cơ sở lý luận không thể thiếu
khi tác giả thực hiện nghiên cứu này.
Các văn bản mang tính pháp lý như Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, các luật, các chính sách của Nhà nước, các văn kiện của Đảng được
ban hành trong giai đoạn 1954 – 1975,… cũng là cơ sở lý luận quan trọng để
tác giả có thể triển khai những ý tưởng, luận giải của mình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận Mácxít, chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể là phương pháp hệ thống: hệ thống
chính trị là một chỉnh thế, các thành tố cấu thành tác động, qua lại lẫn nhau
tạo nên cơ chế vận hành nhịp nhàng, thuận lợi. Phương pháp lịch sử cụ thể
xem xét, phân tích, đánh giá hệ thống chính trị trong những điều kiện nhất
định của tình hình thế giới và trong nước, trong những ảnh hưởng của những
nhân tố về chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hoá,… Phương pháp so
sánh, so sánh cách thức tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị giai đoạn
1954-1975 với giai đoạn 1945-1954, hệ thống chính trị Việt Nam với hệ
thống chính trị Liên Xô, Trung Quốc – các nước theo mô hình xã hội chủ
nghĩa cùng thời để thấy được đặc điểm riêng biệt, tiêu biểu và cơ bản của hệ
thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Phương pháp lôgic để nhìn
thấy được nguyên nhân, động lực, bản chất và xu hướng vận động của hệ

thống chính trị qua những cứ liệu, hiện tượng chính trị cụ thể. Ngoài ra, trong
luận văn cũng sử dụng phương pháp định lượng qua việc khảo sát và xử lý
các số liệu và các phương pháp nghiên cứu chung, cơ bản khác trong nghiên
cứu ngành xã hội như phương pháp phân tích – tổng hợp,…
7


Xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu lịch sử chính trị, tác giả đã sử dụng
linh hoạt phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử với phương pháp
nghiên cứu của khoa học chính trị cũng như phương pháp liên ngành chính trị
- lịch sử.
6. Đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống chính trị Việt
Nam trong một thời kỳ cách mạng cụ thể, thời kỳ 1954-1975, cụ thể là cấu
trúc, tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, mối quan hệ giữa các
thành tố trong hệ thống.
Bên cạnh đó, luận văn còn đánh giá những thành tựu, hạn chế của hệ
thống chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đánh giá những đóng góp của hệ
thống chính trị đối với những thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời
rút ra một số kinh nghiệm để tiếp tục xây dựng, đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay.
Là một công trình nghiên cứu về lịch sử chính trị, luận văn góp phần
vào việc phát triển hướng nghiên cứu “lịch sử chính trị Việt Nam”, một bộ
phận của ngành khoa học chính trị ở nước ta.
Với những đóng góp trên, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến lịch sử chính trị, con đường đấu tranh thống nhất đất
nước.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương 6 tiết.


8


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
NƢỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
1.1.

Một số vấn đề lý luận về hệ thống chính trị

1.1.1. Quan niệm về hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
như khoa học quản lý, triết học, xã hội học,… Trong khoa học chính trị, đây
là một khái niệm cơ bản của ngành, là phông kiến thức nền tảng để tiếp cận
đến những khái niệm khác của khoa học chính trị, đặc biệt nó có quan hệ chặt
chẽ với việc tổ chức và thực thi quyền lực chính trị. Vì vậy, hiểu được hệ
thống chính trị là gì có vai trò quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
1.1.1.1. Một số cách tiếp cận hệ thống chính trị
Khái niệm “hệ thống chính trị” rất rộng, gồm hệ thống chính trị quốc
gia, hệ thống chính trị quốc tế, hệ thống chính trị khu vực. Mỗi hệ thống có
cấu trúc, chức năng và nguyên tắc của mình. Tuy nhiên, trong luận văn, chúng
tôi sử dụng khái niệm hệ thống chính trị với hàm nghĩa là hệ thống chính trị
trong phạm vi quốc gia.
Lịch sử tư tưởng chính trị phương Đông và phương Tây trước Mác
chưa có khái niệm “hệ thống chính trị”. Thuật ngữ này chỉ xuất hiện trong nền
chính trị hiện đại. Các nhà kinh điển Mác, Ăngghen, Lênin cũng chưa bao giờ
sử dụng khái niệm này. Trong lĩnh vực chính trị, các ông có dùng thuật ngữ
“hệ thống” vào những trường hợp như “hệ thống hành chính quan liêu”, “hệ

thống cai trị”, “hệ thống đẳng cấp chính trị”, “hệ thống trật tự xã hội mới” và
một số khái niệm gần với thuật ngữ hệ thống chính trị như “hệ thống cai trị”,
“thiết chế chính trị”, “cơ cấu chính quyền”, “cơ cấu chính trị”. Trong các tác
phẩm của mình, Lênin cũng chỉ sử dụng khái niệm “cơ cấu chính trị” và đề
cập rằng “chính quyền Xôviết là một cơ cấu chính trị”.
9


Sau Mác, vào đầu những năm 50 của thế kỷ XX, ở các nước tư bản chủ
nghĩa phương Tây mới xuất hiện khái niệm “hệ thống chính trị”. Còn ở Liên
Xô, khái niệm này chỉ được các nhà luật học sử dụng phổ biến từ những năm
80 của thế kỷ XX. Hiện nay, quan niệm về hệ thống chính trị cũng còn rất
khác nhau, phụ thuộc vào cách tiếp cận, khuynh hướng, trường phái chính trị.
Ở phương Tây, hệ thống chính trị có hai cách tiếp cận cơ bản: (1) Cách
tiếp cận thể chế, coi hệ thống chính trị là tập hợp các thể chế chính trị (gồm
các tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội) và những mối quan hệ
giữa chúng; (2) Cách tiếp cận hệ thống, coi hệ thống chính trị không chỉ bao
gồm cấu trúc thể chế và các quan hệ giữa chúng, mà còn là những chuẩn mực
chính trị, vai trò chính trị, hành vi chính trị.
Ở nhiều nước trên thế giới, trong lý luận về chính trị học, hệ thống
chính trị thường có 2 cách tiếp cận: (1) Cách tiếp cận hệ thống các đảng phái
chính trị hợp pháp. Bàn đến hệ thống chính trị, các nhà chính trị học thường
bàn đến hệ thống các đảng phái chính trị, đến các quan hệ chính trị giữa các
đảng chính trị trong cuộc đấu tranh giành quyền lực nhà nước hoặc tham gia
và chính quyền để trở thành đảng chấp chính (đảng cầm quyền); đảng tham
chính hoặc đảng đối lập. Nhà nước được nghiên cứu như là đối tượng tác
động của các đảng chính trị; (2) Cách tiếp cận lấy nhà nước như là biểu hiện
tập trung của quyền lực chính trị. Do vậy, bàn về hệ thống chính trị thực chất
là bàn đến chính thể nhà nước theo các mô hình quân chủ, chính thể quân chủ
lập hiến, cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thống, cộng hòa lưỡng tính…

Trong cách tiếp cận này, mối quan hệ giữa nhà nước với các đảng chính trị
được xác lập thông qua các hình thức tổ chức chính thể, dựa trên mức độ và
tính chất của phân quyền quyền lực chính trị và cấu trúc chính trị của chế độ
đa dảng (phân quyền cứng hay phân quyền mềm, chế độ nhiều đảng hay chế
độ hai đảng (lưỡng đảng)).
1.1.1.2. Khái niệm hệ thống chính trị

10


Trong Từ điển bách khoa Xôviết, hệ thống chính trị được định nghĩa là:
một hệ thống các nhân tố bao gồm Nhà nước, các đảng phái chính trị, công
đoàn, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức và phong trào theo đuổi mục đích
chính trị, các chuẩn mực, truyền thống chính trị và các chế định.
Ở Việt Nam, thuật ngữ hệ thống chính trị được Đảng ta chính thức sử
dụng trong Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá VI (3 – 1989)
để thay thế cho thuật ngữ “hệ thống chuyên chính vô sản” vẫn được dùng
trước đây. Sau đó, Đại hội VII, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), thuật ngữ hệ thống chính trị được
diễn đạt khá đầy đủ ở các điều 9, 10, 11 và 12. Từ đó trở đi, thuật ngữ này
được sử dụng rộng rãi không chỉ trong nghị quyết, các văn kiện của Đảng và
Nhà nước, trong các công trình nghiên cứu khoa học mà cả trong sách báo và
sinh hoạt chính trị thường nhật. Việc sử dụng khái niệm hệ thống chính trị
đưa lại những nhận thức mới: nhận rõ và nhấn mạnh tính hệ thống, tính chỉnh
thể và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống – điều mà trước Đại
hội VI “chưa được cụ thể hoá thành thể chế”[37, tr.110], có sự tách biệt tương
đối giữa hệ thống tổ chức bộ máy với các yếu tố khác của nền chính trị; định
hình rõ các tổ chức quần chúng, trong đó xác định Mặt trận Tổ quốc và 5
đoàn thể chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị. Điều này không chỉ khắc
phục tính chất chung chung, nặng nề về bản chất giai cấp và mặt chuyên

chính của khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”, mà còn thoát khỏi sự
lúng túng trong việc cụ thể hoá cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân lao động làm chủ tập thể” được xác định từ Đại hội IV của
Đảng.
“Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thiết chế chính trị (các
cơ quan quyền lực Nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức và các phong
trào xã hội,…) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân
bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ
chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị”[42, tr.262].
11


Như vậy, hệ thống chính trị của một quốc gia là cơ cấu chính trị phức tạp
bao gồm các tổ chức, thiết chế với tư cách là chủ thể của các quyết định chính
trị, cụ thể ở đây là bao gồm đảng chính trị, Nhà nước, các đoàn thể và các tổ
chức chính trị xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống chính trị và các tổ chức, thiết chế
của nó mang tính hợp pháp, tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ luật pháp
hiện hành cùng với quan hệ giữa chúng với nhau và với môi trường chính trị
của xã hội. Một điểm đặc biệt nữa là các tổ chức, thiết chế của hệ thống chính
trị có mục đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính
trị, nghĩa là tham gia vào các quyết định chính trị, vào việc hoạch định các
chính sách quốc gia. Đây là tiêu chuẩn để phân biệt các tổ chức, thiết chế của
hệ thống chính trị với các tổ chức thiết chế có mục đích hoặc chức năng kinh
tế - xã hội rất đa dạng khác.
1.1.2. Cấu trúc của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị được cấu thành rất đa dạng và phức tạp. Do đó, các
bộ phận cấu thành hệ thống chính trị có thể rất đa dạng về tính chất. Có những
thành phần thông thường, phổ biến mà bất cứ hệ thống chính trị nào cũng có
như cơ cấu nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các
nhóm lợi ích. Nhưng cũng có thành phần đặc biệt, không phổ biến, đó là

những tổ chức của giới quân sự, tổ chức tôn giáo. Những thành phần này
không phải hệ thống chính trị của nước nào cũng có.
Ngoài ra cũng cần tính tới báo chí, hệ thống thông tin đại chúng như là
một thành phần đặc biệt, bởi lẽ chức năng cơ bản của chúng là thông tin, song
không thể phủ nhận được tính chính trị của nó trên thực tế. Trong xã hội hiện
nay, ảnh hưởng của báo chí, truyền thông ngày càng lớn. Do vậy cả nhà nước,
các đảng chính trị, các nhóm lợi ích đều sử dụng báo chí như công cụ chính trị
của mình.
Như vậy, các bộ phận của hệ thống chính trị rất đa dạng, nhưng thuộc
về 3 tiểu hệ thống cơ bản: hệ thống đảng chính trị, hệ thống nhà nước và hệ
thống các đoàn thể chính trị - xã hội.
12


1.1.2.1. Hệ thống đảng chính trị
Trong xã hội hiện đại, quyền lực chính trị thường được đại diện bởi một
lực lượng tiên phong, đó chính là các đảng chính trị. Đảng chính trị là một bộ
phận quan trọng trong hệ thống chính trị. Tuỳ thuộc vào cách tiếp cận khác
nhau, người ta có thể đưa ra những định nghĩa khác nhau về đảng chính trị.
Ở Mỹ, ở phương Tây và các nước có chế độ đại nghị, đảng chính trị được
hiểu phổ biến là một nhóm cá nhân, được tổ chức lại nhằm giành chiến thắng
trong các cuộc bầu cử, để điều hành chính phủ và quyết định chính sách công
cộng. Trong Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Jay M. Shafrits cho
rằng, đảng chính trị là “một tổ chức tìm cách nắm quyền lực chính trị bằng
cách bầu thành viên của mình vào các cơ quan nhà nước, nhờ đó tư tưởng
chính trị của họ có thể được phản ánh trong các chính sách công cộng”[63,
tr.701].
Khác với quan niệm của các học giả phương Tây, quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ bản chất giai cấp của các đảng chính trị, với tư cách
là tổ chức chính trị đại diện lợi ích giai cấp, thể hiện lợi ích cơ bản của giai

cấp trong cương lĩnh cũng như trong hoạt động của mình. Tiêu biểu cho quan
niệm này, là định nghĩa về đảng chính trị trong Từ điển Bách khoa triết học
(Liên Xô): Đảng chính trị là tổ chức chính trị thể hiện những lợi ích của một
giai cấp hay của một tầng lớp xã hội, liên kết những đại diện ưu tú nhất của
giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới những mục đích hay lý tưởng nhất định.
Dù tiếp cận theo góc độ nào thì vị trí và quyền lực của các đảng rất
khác nhau trong các hệ thống chính trị khác nhau. Trong hệ thống chính trị
một đảng thì đảng cầm quyền có quyền lực lớn hơn rất nhiều so với đảng cầm
quyền trong hệ thống chính trị đa đảng.
1.1.2.2. Hệ thống nhà nước
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt

13


nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp
thống trị.
Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước xét về bản
chất là một hệ thống kiến trúc thượng tầng, tồn tại trên một cơ sở kinh tế nhất
định, là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác,
là tổ chức quyền lực đặc biệt có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực
hiện các chức năng quản lý nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị trong xã hội
có đối kháng giai cấp. Lênin nhấn mạnh rằng nhà nước là bộ máy đặc biệt,
phục vụ cho giai cấp này đàn áp giai cấp khác.
Trong hệ thống nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi chức danh nhà
nước lại có quyền lực khác nhau và tính chất khác nhau, tùy thuộc vào cách
thức tổ chức nhà nước khác nhau ở mỗi quốc gia. Nếu như trong các nhà nước
đại nghị, quyền lực của nghị viện và thủ tướng về mặt pháp lý rất lớn so với
tổng thống thì trong nhà nước cộng hòa tổng thống lại có quyền lực rất lớn so

với nghị viện.
1.1.2.3.Hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội
Hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội ở các nền chính trị khác nhau có
thể gọi tên rất khác nhau: ở các nước tư bản chủ nghĩa gọi là các nhóm lợi ích,
ở các nước xã hội chủ nghĩa thường gọi là các đoàn thể quần chúng. Nhưng
nhìn chung, các tổ chức chính trị - xã hội là một thuật ngữ để chỉ một bộ phận
cấu thành cơ bản trong mỗi hệ thống chính trị “các tổ chức chính trị - xã hội
bao gồm các tổ chức mà hoạt động của chúng vừa mang tính chất chính trị
vừa mang tính chất xã hội”[40, tr.31].
Xét về cấu trúc thành phần, có thể hiểu tổ chức chính trị - xã hội ở Việt
Nam theo hai nghĩa rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng, tổ chức chính trị - xã hội bao gồm cả các tổ chức chính
trị, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội, trong đó Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhất. Trong điều 9 Hiến
pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi
14


và bổ sung năm 2001) ghi rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội”[60, tr.16].
Theo nghĩa hẹp, tổ chức chính trị - xã hội không bao gồm tổ chức chính
trị (Đảng Cộng sản cầm quyền), không bao gồm các tổ chức xã hội, xã hội
nghề nghiệp. Nghĩa là, các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
Việt Nam hiện nay gồm có sáu tổ chức chủ yếu: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(cơ quan chấp hành là Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam); Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh; Hội Nông dân Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Trong sáu tổ chức chính trị - xã hội chủ yếu nêu trên, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là tổ chức rộng lớn nhất. Mọi tổ chức chính trị - xã hội khác đều là thành

viên của Mặt trận. Hiện nay, các văn bản của Đảng và Nhà nước thường diễn
đạt khái niệm các tổ chức chính trị - xã hội với cụm từ “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội” hay “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân”. Nếu như khái niệm “đoàn thể nhân dân chỉ tất cả các tổ chức quần
chúng có cùng một đặc điểm hoặc một số đặc điểm nhất định, hoạt động tự
nguyện, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của mình và theo đúng
pháp luật” thì cách diễn đạt “Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội” sẽ vừa phân biệt rõ các tổ chức này với Nhà nước, Đảng Cộng sản và các
tổ chức xã hội, thể hiện rõ nét đặc thù của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt
Nam.
Tóm lại, cấu trúc của hệ thống chính trị gồm có 3 thành tố là đảng
chính trị, nhà nước và Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Các
thành tố này không hoàn toàn hoạt động độc lập, riêng lẻ mà có sự tác động
qua lại, phối hợp chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống vững chắc, hoàn
chỉnh. Nghiên cứu hệ thống chính trị thường dựa trên các mối quan hệ của các
thành tố theo chiều thẳng là các quan hệ nhà nước, ngành dọc và hệ thống dọc
của các tổ chức khác hoặc theo chiều ngang là cấu trúc chính trị ở Trung
15


ương, cấu trúc chính trị ở tầng trung gian (tỉnh, huyện), cấu trúc chính trị ở
tầng cơ sở.
1.2.

Sự hình thành và quá trình phát triển của hệ thống chính trị nƣớc

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945 - 1954
1.2.1. Sự hình thành các thành tố trong hệ thống chính trị nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà
1.2.1.1. Sự hình thành thể chế đảng chính trị:

Thực dân Pháp nắm quyền thống trị nước ta, chúng chia Việt Nam
thành ba kỳ nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và dễ bề cai trị. Triều đình
nhà Nguyễn mất hết thực quyền, chỉ là công cụ, tay sai cho Pháp. Ở Việt
Nam, lúc này tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc – giữa nhân
dân Việt Nam với đế quốc Pháp, mâu thuẫn giai cấp – giữa nông dân với địa
chủ, giữa công nhân với tư sản (chủ yếu là tư sản Pháp). Bởi vậy, vấn đề đặt
ra là làm thế nào để giải quyết đồng thời cả hai mâu thuẫn trên, nghĩa là vừa
đánh đuổi quân xâm lược, giành độc lập dân tộc, vừa mang lại tự do, hạnh
phúc cho nhân dân.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các cuộc đấu tranh, phong trào yêu
nước đã xuất hiện. Phong trào yêu nước thời kỳ này đều hướng vào mục đích
đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, nhưng lại khác nhau ở
phương pháp và đường lối cách mạng, mà quan trọng nhất là xác định một mô
hình nhà nước, mô hình phát triển cho nước Việt Nam sau khi đánh đổ chính
quyền thực dân phong kiến.
Đầu tiên, tiêu biểu nhất là phong trào Cần vương nằm trong hệ tư tưởng
phong kiến. Phong trào mượn danh nghĩa của nhà vua để dấy lên các làn sóng
đấu tranh, nhằm lật đổ sự thống trị của thực dân Pháp rồi trở lại củng cố chế
độ phong kiến, khôi phục chế độ quân chủ phong kiến độc lập. Tuy nhiên, mô
hình chính trị phong kiến đã trở nên lỗi thời, lạc hậu với sự phát triển chung
của thế giới. Triều Nguyễn lúc bấy giờ cũng không thể tranh thủ được sự ủng
hộ rộng rãi của nhân dân lao động. Và sau 10 năm tồn tại, phát triển, phong
16


trào Cần vương đã bị đàn áp và thất bại, báo hiệu kiểu nhà nước phong kiến
đã hết vai trò lịch sử ở Việt Nam.
Sau đó, ảnh hưởng của phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở châu
Âu, nhiều trào lưu tư tưởng mới đã nảy sinh, kéo theo sự xuất hiện của những
phong trào yêu nước, phong trào cách mạng mang màu sắc mới. Những

phong trào theo hệ tư tưởng tư sản phát triển mạnh mẽ với hai đại diện tiêu
biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ,
nhưng các phong trào theo xu hướng bạo động vũ trang của Phan Bội Châu
hay những phong trào có tính chất ôn hoà, “bất bạo động, bạo động tắc tử”
của Phan Châu Trinh chưa phù hợp với thực tiễn lịch sử Việt Nam và đều bị
thực dân Pháp đàn áp dã man.
Trên nền tảng phong trào dân tộc, dân chủ phát triển sôi nôi, các tư tưởng
mới càng có điều kiện thâm nhập trong các tầng lớp nhân dân, dẫn tới sự hình
thành các nhóm chính trị và các tổ chức yêu nước và cách mạng như: Việt Nam
nghĩa đoàn, hội Phục Việt, hội Hưng Nam, đảng Thanh niên, nhưng tiêu biểu và
điển hình nhất là ba tổ chức cách mạng: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
(6/1925), Việt Nam Quốc dân đảng (12/1927), và Tân Việt Cách mạng đảng
(1928). Mặc dù được hình thành trong cùng một thời gian, trên các tiền đề và
điều kiện kinh tế - xã hội tương tự, nhưng ba tổ chức trên lại có đường lối và
khuynh hướng chính trị khác nhau. Nếu Việt Nam Cách mạng Thanh niên và
Tân Việt Cách mạng đảng cuối cùng đều đi theo khuynh hướng cách mạng xã
hội chủ nghĩa thì Việt Nam Quốc dân đảng dù đã nhiều lần thay đổi Điều lệ,
Cương lĩnh vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp tư sản. “Đứng
về đường lối thì Việt Nam Quốc dân đảng có chủ trương tương đối rõ ràng hơn
là những tổ chức cách mạng của thời kỳ trước chiến tranh… Nó đại diện cho xu
hướng và lợi ích của bộ phận cấp tiến của giai cấp tư sản dân tộc”[50, tr.140141]. Nhưng do giai cấp tư sản Việt Nam còn nhỏ yếu, không có cơ sở trong
quần chúng nhân dân, thiếu tổ chức chặt chẽ nên cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm do Việt Nam Quốc dân đảng phát động đều bị thất bại. Điều đó cho thấy,
17


nhà nước tư sản và nền dân chủ tư sản không phải là mục tiêu của cách mạng
Việt Nam. Nhân dân Việt Nam muốn một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đại
đa số nhân dân lao động, không phải là chế độ bóc lột, bất công, chỉ phục vụ cho
lợi ích một nhóm người như chủ nghĩa tư bản.

Đánh giá về các con đường cứu nước thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh cho rằng: “Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện
cải lương [...] điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ
Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm,
chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám còn
thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì Cụ
còn nặng cốt cách phong kiến”[51, tr.12-13].
Bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, nhận thức được sự khủng hoảng trong
đường lối cứu nước của các vị tiền bối, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con
đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản. Cũng từ đó, Người tiến
hành một quá trình hoạt động kiên trì, bền bỉ, vượt qua nhiều trở ngại, xây
dựng và truyền bá lý luận cách mạng vào Việt Nam, chuẩn bị những điều kiện
về tư tưởng chính trị, tổ chức, cán bộ cho sự ra đời của một chính đảng cách
mạng ở Việt Nam. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), để mở lớp huấn luyện cấp
tốc những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lênin, về đường lối cách
mạng và phương pháp tổ chức cách mạng. Từ cuối năm 1928, phong trào đấu
tranh trong nước phát triển mạnh mẽ, Hội không thể đáp ứng được yêu cầu
mới, nặng nề hơn của sự nghiệp cách mạng, và trong 4 tháng (từ tháng 3 đến
tháng 7 năm 1929), ở Việt Nam đã ra đời 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương
Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Việc ra đời 3 tổ chức cộng sản đã phản ánh sự lớn mạnh vượt bậc của phong
trào cách mạng đồng thời vấn đề đặt ra là phải có sự chỉ đạo thống nhất, lựa
chọn người đủ uy tín để hợp nhất hoá các tổ chức trên thành một Đảng duy

18


nhất, khắc phục tình trạng chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ phong trào cộng
sản.

Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết đó, ngày 6-1-1930, Hội nghị hợp nhất
Đảng diễn ra tại Cửu Long, gần Hương Cảng (Trung Quốc) do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì. Hội nghị quyết định thống nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và
An Nam Cộng sản Đảng thành đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam (đến ngày 24-2-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được tiếp nhận
vào Đảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và các điều lệ vắn tắt của các
tổ chức quần chúng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, cử Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời gồm 7 uỷ viên.
Nếu như sự hình thành Đảng Xã hội dân chủ Nga (sau này đổi tên là
Đảng Cộng sản Bônsovich) được Lênin khái quát là “sự kết hợp giữa chủ
nghĩa xã hội với phong trào công nhân”[44, tr.471], nói cách khác là sự kết
hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân, thì Đảng Cộng sản Việt
Nam là sản phẩm của “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước”[47, tr.8]. Nguồn gốc hình thành này xuất phát
từ tình hình kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù của Việt Nam. “Con đường của
cách mạng Việt Nam là đi từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa, phong trào yêu nước giải phóng dân tộc thì rộng rãi, sôi nổi,
còn giai cấp công nhân mới hình thành, phong trào công nhân còn non yếu;
do vậy, quá trình thành lập Đảng không thể chỉ dựa vào phong trào công nhân
mà còn phải dựa cả vào phong trào yêu nước”[52, tr.167-168].
Trong quá trình tồn tại, hoạt động của Đảng và trong những điều kiện
cụ thể khác nhau của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta đã lấy nhiều
tên khác nhau. Trong cuốn Đường Cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc gọi là “đảng
cách mệnh”; khi thành lập Đảng, Người đề nghị lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam, sau theo Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đổi thành Đảng Cộng sản
Đông Dương; sau Cách mạng Tháng Tám, trước tình hình khó khăn của đất
19



×