Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Thực trạng đảng viên vi phạm kỷ luật đảng trên địa bàn hà nội hiện nay luận văn ths xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.61 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====================

NGUYỄN VIỆT PHƢƠNG

THỰC TRẠNG ĐẢNG VIÊN VI PHẠM KỶ LUẬT ĐẢNG
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: xã hội học

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====================

NGUYỄN VIỆT PHƢƠNG

THỰC TRẠNG ĐẢNG VIÊN VI PHẠM KỶ LUẬT
ĐẢNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: xã hội học
Mã số: 60 31 03 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Bá Thịnh

Hà Nội - 2014



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 5
2. Ý nghĩa nghiên cứu ....................................................................................... 7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu......................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 9
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ............................................. 10
7. Khung lý thuyết ........................................................................................... 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........... 12
1.1. Khái niệm công cụ .............................................................................. 12
1.1.1. Khái niệm đảng viên ...................................................................... 12
1.1.2. Khái niệm kỷ luật Đảng ................................................................. 12
1.1.3. Khái niệm Ủy ban Kiểm tra........................................................... 13
1.2. Lý thuyết áp dụng ............................................................................... 14
1.2.1. Lý thuyết Hành động xã hội .......................................................... 14
1.2.2. Lý thuyết Sai lệch xã hội ............................................................... 17
1.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................... 20
1.3.1. Quan điểm của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật trong Đảng ........................................................................................ 20
1.3.2. Về nhiệm vụ của Ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp (đối với đảng viên) 26
1.3.3. Một số tài liệu về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ............... 29
1.3.4. Vài nét về tình hình đảng viên ở Hà Nội hiện nay ......................... 32
CHƢƠNG 2: CƠ CẤU ĐẢNG VIÊN VI PHẠM KỶ LUẬT ĐẢNG ....... 34
2.1. Quy mô đảng viên vi phạm ................................................................ 34
2.2. Giới tính và độ tuổi ............................................................................. 39

1



2.3. Nội dung vi phạm của đảng viên ....................................................... 42
2.4. Chức vụ và lĩnh vực làm việc ............................................................. 46
2.5. Địa bàn công tác .................................................................................. 50
2.6. Hình thức kỷ luật đảng viên vi phạm ............................................... 53
CHƢƠNG 3: NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐẢNG VIÊN VI PHẠM
KỶ LUẬT ....................................................................................................... 61
4.1. Nguyên nhân khách quan .................................................................. 62
4.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ............................................................... 62
4.1.2. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ............................................ 65
4.1.3. Sự quản lý của Đảng và Nhà nước ................................................ 70
4.2. Nguyên nhân chủ quan....................................................................... 72
4.2.1. Đảng viên suy thoái đạo đức, lối sống ........................................... 72
4.2.2. Đảng viên tham ô, tham nhũng, lãng phí ....................................... 79
4.2.3. Đảng viên lợi dụng chức vụ, quyền hạn ......................................... 82
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 89
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 90

2


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số liệu tổng số đảng viên vi phạm kỷ luật của 4 năm: ................... 38
Bảng 2.2: So sánh giữa lĩnh vực nghề nghiệp và nội dung vi phạm của đảng
viên năm 2013 (Đv: số người) ........................................................................ 48
Bảng 2.3: Địa bàn công tác của các đảng viên vi phạm kỷ luật đảng theo các
tháng 3, 6, 9 năm 2014 (Đv: số người) ........................................................... 51
Bảng 2.4: Đánh giá của cán bộ làm công tác kiểm tra về địa bàn công tác của
các đảng viên có vi phạm năm 2014 ............................................................... 52

Bảng 2.5: So sánh giữa hình thức kỷ luật đảng viên vi phạm với lĩnh vực vi
phạm của đảng viên, số liệu năm 2011 (Đv: người) ....................................... 53
Bảng 2.6: So sánh giữa hình thức kỷ luật đảng viên vi phạm với lĩnh vực vi
phạm của đảng viên, số liệu năm 2012 (Đv: người) ....................................... 55
Bảng 2.7: So sánh giữa hình thức kỷ luật đảng viên vi phạm với lĩnh vực vi
phạm của đảng viên, số liệu năm 2013 (Đv: người) ....................................... 56
Bảng 2.8 So sánh giữa hình thức kỷ luật đảng viên vi phạm với lĩnh vực vi
phạm của đảng viên, số liệu 6 tháng đầu năm 2014 (Đv: người) ................... 58
Bảng 3.1: Đánh giá của người dân về nguyên nhân chủ yếu đảng viên vi phạm
kỷ luật đảng (Đv: Số người) ............................................................................ 62

3


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu 2.1: Số lượng đảng viên vi phạm kỷ luật đảng theo các tháng năm 2014 ....... 34
Biểu 2.2: So sánh số lượng đảng viên vi phạm kỷ luật trong 9 tháng của năm
2013 và 2014(đơn vị: Người) ......................................................................... 35
Biểu 2.3 : Đánh giá của đảng viên và quần chúng về cơ cấu lứa tuổi của đảng
viên vi phạm kỷ luật đảng (Đv: %) ................................................................ 41
Biểu 2.4: Số lượng và nội dung đảng viên vi phạm bị tố cáo của tháng 3, 6, 9
năm 2014 (Đv: số người) ................................................................................ 42
Biểu 2.5: Số lượng và nội dung đảng viên vi phạm bị thi hành kỷ luật của
tháng 3, 6, 9 năm 2014 (Đv: số người) ........................................................... 44
Biểu 2.6: Đánh giá của đảng viên và quần chúng về Cơ cấu chức vụ của đảng
viên vi phạm kỷ luật đảng (Đv: %) ................................................................. 46

4



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn khẳng định được
vị trí, vai trò là lực lượng lãnh đạo đất nước và nhân dân ta, khẳng định được
tính chất của một Đảng cầm quyền. Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng tháng Tám thành
công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Điều này đã luôn luôn được khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng và
các bản Hiến pháp qua các thời kỳ. Mới đây nhất, ngày 28 tháng 11, Quốc hội
đã thông qua Hiến pháp mới (có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 2014), trong đó
tại Điều 4 đã nhấn mạnh vai trò của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân

,

phục vụ Nhân dân , chịu sự giám sát của Nhân dân , chịu trách nhiệm trước
Nhân dân về những quyết đinh
̣ của mình ; Các tổ chức của Đảng và đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 12-NQ/TW – Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong
đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao


5


cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội,
thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng,
lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...” Mà thực tế, trong bất kỳ giai đoạn nào,
chất lượng đội ngũ đảng viên luôn có tầm quan trọng rất to lớn đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Chất lượng đội ngũ đảng viên và nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng - nó quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở đảng từ Trung ương đến địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “...Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc Đảng đều
do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi
chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu
hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện...”.
Chính vì vậy, trước thực trạng trên, việc xử lý nghiêm minh các trường
hợp đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng đang là yêu cầu bức thiết, cần triển khai
nhanh chóng, chính xác, nhằm làm trong sạch Đảng và đội ngũ đảng viên, đặc
biệt là củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và đảng viên. Đảng ta
cũng luôn khẳng định quan điểm xuyên suốt và nhất quán của mình là: kiểm
tra, giám sát là một tất yếu, là nhu cầu không thể thiếu đối với hoạt động của
Đảng, từ đó xác định rõ mục tiêu, ý nghĩa, vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng
của công tác kiểm tra, giám sát và việc giữ gìn cũng như thi hành kỷ luật
trong Đảng; nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra các
cấp đã luôn được bổ sung, hoàn thiện qua mỗi kỳ Đại hội, để phù hợp với
nhiệm vụ từng giai đoạn cách mạng. Đảng ta đã nhấn mạnh: kiểm tra, giám
sát là chức năng và phương thức, nội dung lãnh đạo quan trọng của Đảng,
không có kiểm tra, giám sát thì coi như không lãnh đạo. Để khái quát về tình

hình vi phạm của đảng viên và vấn đề thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm, tác

6


giả chọn đề tài“Thực trạng đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng trên địa bàn
thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp chương trình Cao học.
2. Ý nghĩa nghiên cứu
2.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu đề tài là quá trình vận dụng những tri thức, những phương
pháp nghiên cứu, hệ thống lý thuyết và một số khái niệm xã hội học nhằm tìm
hiểu thực trạng đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, lấy đó là cơ sở thực nghiệm
và kiểm chứng lý thuyết. Từ đó, tác giả kiến giải những nguyên nhân đảng
viên vi phạm kỷ luật đảng giúp đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế những tiêu
cực trên để xây dựng Đảng bộ Thành phố Hà Nội ngày càng trong sạch, vững
mạnh hơn.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Việc nghiên cứu thực trạng đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng phục vụ
trực tiếp công việc chuyên môn hàng ngày của tôi tại cơ quan, giúp tôi có thể
tổng hợp được các số liệu liên quan, tạo thành một tài liệu tham khảo về
nghiệp vụ kiểm tra.
- Nghiên cứu đề tài này cũng góp phần làm mọi người hiểu hơn về
ngành nghề và công việc kiểm tra Đảng, từ đó nâng cao nhận thức của mọi
người về vấn đề xây dựng Đảng ta hiện nay.
- Qua việc chỉ ra những dấu hiệu vi phạm của một bộ phận đảng viên
hiện nay, góp phần giúp các đảng viên có ý thức phấn đấu, giữ gìn phẩm chất,
tư tưởng lập trường kiên định, không mắc phải các điều đảng viên không
được làm.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng trên địa bàn thành
phố Hà Nội hiện nay.

7


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ cấu đảng viên vi phạm kỷ luật đảng theo: số lượng, độ
tuổi, giới tính, chức vụ, nghề nghiệp, địa bàn công tác, nội dung vi phạm và
hình thức bị kỷ luật.
- Phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng một bộ phận đảng viên
vi phạm kỷ luật Đảng.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng trên địa bàn thành phố Hà
Nội hiện nay.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Cán bộ của cơ quan Uỷ ban Kiểm tra các cấp thuộc Đảng bộ thành
phố Hà Nội, bao gồm 2 cấp: quận/huyện/thị xã, phường/xã/thị trấn.
- Đảng viên (trên địa bàn Hà Nội).
- Người dân Hà Nội.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: từ tháng 11/2013 đến tháng 9/2014.
- Phạm vi không gian: địa bàn thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nội dung: nghiên cứu các tài liệu, báo cáo của nhiệm kỳ
2010-2015
4.4. Mẫu nghiên cứu
- Mẫu định lượng: 320
+ 160 mẫu dành cho cán bộ làm công tác kiểm tra Đảng các cấp
+ 160 mẫu dành cho đảng viên và quần chúng nhân dân, trong đó cơ

cấu mẫu như sau:

8


Khách thể

Cấp huyện

Cấp xã

Cán bộ UBKT

80

80

Đảng viên và quần chúng

80

80

- Mẫu định tính: 22 mẫu
+ Đối với Uỷ ban Kiểm tra quận uỷ/huyện uỷ: 05 mẫu
+ Đối với Uỷ ban Kiểm tra đảng uỷ phường/xã: 05 mẫu
+ Đối với đảng viên: 05 mẫu;
+ Đối với người dân: 07 mẫu
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, bao gồm
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng một
cách cụ thể, khách quan và chặt chẽ.
Trong nghiên cứu này, vấn đề được đặt trong bối cảnh toàn đảng, toàn
dân, toàn quân ta đang quán triệt sâu sắc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khoá XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, việc kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật đối với đảng viên có dấu hiệu vi phạm ngày
càng trở nên quan trọng. Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng, đối
tượng nghiên cứu của đề tài được tiếp cận từ mục tiêu làm trong sạch đội ngũ
đảng viên, nâng cao uy tín, chất lượng và sức chiến đấu của Đảng, góp phần
thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 4.
5.2. Phương pháp nghiên cứu xã hội học
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Sử dụng các tài liệu như Tạp chí Kiểm tra Đảng, Tạp chí Xây dựng
Đảng, một số báo cáo của cơ quan Uỷ ban Kiểm tra về công tác kiểm tra,
giám sát đảng viên có dấu hiệu vi phạm để xác định số lượng đảng viên vi
phạm, nội dung đảng viên hay vi phạm, hình thức đảng viên vi phạm bị kỷ
9


luật. Đồng thời có số liệu để so sánh số lượng, nội dung vi phạm, hình thức kỷ
luật qua các năm.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn bằng phiếu trưng cầu ý kiến
Đây là đề tài nghiên cứu trường hợp, dung lượng mẫu là 160 phiếu
dành cho cán bộ làm công tác Kiểm tra Đảng tại quận uỷ/huyện uỷ/thị ủy và
đảng uỷ xã/phường/thị trấn.
Phương pháp lấy mẫu là ngẫu nhiên thuận tiện.
Phiếu trưng cầu ý kiến được xây dựng nhằm làm rõ những nội dung cơ
bản là: thực trạng đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, bao gồm số lượng, giới
tính, độ tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, địa bàn công tác, nội dung vi phạm, hình

thức bị kỷ luật khi vi phạm và những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này.
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân
Tiến hành phỏng vấn sâu một số cán bộ làm công tác kiểm tra tại nhiều
cấp và địa bàn khác nhau để lắng nghe ý kiến đánh giá của họ về thực trạng
đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng hiện nay, qua đó hiểu và phân tích chính xác
hơn về các kết quả định lượng thu được.
Đồng thời phỏng vấn sâu một số đảng viên và người dân trên địa bàn
Hà Nội để có cách đánh giá khách quan về thực trạng đảng viên vi phạm kỷ
luật Đảng.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Những đảng viên nào thường vi phạm kỷ luật Đảng? Họ hay vi phạm
ở những nội dung, lĩnh vực nào?
- Những nguyên nhân nào khiến đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Đảng viên vi phạm kỷ luật đa số là nam giới, giữ các chức vụ lãnh
đạo, quản lý trong cơ quan. Họ thường vi phạm nhiều trong lĩnh vực quản lý
đất đai, nhà ở, tài nguyên môi trường, đầu tư xây dựng.

10


- Hành vi vi phạm kỷ luật Đảng của đảng viên chủ yếu là do nhiều đảng
viên suy thoái về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện
hành vi sai trái.
7. Khung lý thuyết
Đảng viên vi
phạm kỷ luật

Quy mô đảng viên vi phạm

Giới tính và độ tuổi
Nội dung vi phạm
Chức vụ và lĩnh vực làm việc
Địa bàn công tác
Hình thức kỷ luật đảng viên vi phạm

- Tình hình kinh tế - xã hội

- Đảng viên suy thoái đạo đức, lối

- Công tác giáo dục chính trị, tư

sống

tưởng

- Đảng viên tham ô, tham nhũng, lãng

- Sự quản lý của Đảng và Nhà nước

phí
- Đảng viên lợi dụng chức vụ, quyền
hạn

11


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.


Khái niệm công cụ

1.1.1. Khái niệm đảng viên
Theo Điều lệ Đảng của Đảng cộng sản Việt Nam (được Đại hội đại
biểu toàn quốc khóa XI thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011), có định nghĩa
đảng viên như sau:
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội
tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam,
suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục
tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện :
thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên,
hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú,
được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng (Điều 1).
Đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng là việc đảng viên không tuân theo
hoặc Iàm trái Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết
định, quy định, quy chế, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, điều lệ, quy định của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội mà đảng viên là thành viên.
1.1.2. Khái niệm kỷ luật Đảng
Kỷ luật là hình thức phạt đối với người hoặc tổ chức vi phạm kỷ luật.
Trong một tổ chức, khi có đối tượng vi phạm những điều đã quy định thì tổ
chức có thẩm quyền áp dụng hình thức kỷ luật đối với đối tượng đó.

12



Theo đó, trong Đảng cũng có các hình thức kỷ luật được quy định tại
Điều 35 Điều lệ Đảng. Việc thi hành kỷ luật trong Đảng được hiểu là các tổ
chức đảng có thẩm quyền được quyền thi hành kỷ luật đối với các tổ chức
đảng và đảng viên có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật sắt,
nghĩa là nghiêm túc và tự giác.
1.1.3. Khái niệm Ủy ban Kiểm tra
Ủy ban Kiểm tra là cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên trách của Ban
Chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam (từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở), thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Điều lệ Đảng Cộng sản
Việt Nam; tham mưu, giúp Ban Chấp hành các cấp chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
Ủy ban kiểm tra các cấp do cấp ủy cùng cấp bầu, gồm một số đồng chí
trong cấp ủy và một số đồng chí ngoài cấp ủy.
Cơ cấu tổ chức và số lượng ủy viên ủy ban kiểm tra:
- Ủy ban kiểm tra tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương: Số lượng từ
9 đến 11 ủy viên, trong đó có 2 ủy viên kiêm chức; riêng Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh số lượng từ 13 đến 15 ủy viên; Thanh Hóa, Nghệ An số lượng
từ 11 đến 13 ủy viên (do tỉnh ủy, thành ủy quyết định). Trường hợp đặc biệt
thì cấp ủy trao đổi với Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Tổ chức Trung
ương để báo cáo Ban Bí thư xem xét, quyết định. Các ủy viên chuyên trách
gồm: Chủ nhiệm, từ 2 đến 3 Phó Chủ nhiệm và một số ủy viên. Trong đó, 1
ủy viên Ban Thường vụ cấp ủy làm Chủ nhiệm và một cấp ủy viên làm Phó
Chủ nhiệm Thường trực (riêng Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Thanh Hóa, Nghệ An từ 3 đến 4 phó chủ nhiệm). Ủy
viên kiêm chức gồm: Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban Tổ chức của cấp ủy là
cấp ủy viên và Chánh Thanh tra tỉnh, thành phố.

13



- Ủy ban kiểm tra của cấp ủy trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy: Số lượng từ
7 đến 9 ủy viên (do cấp ủy quyết định): trong đó đồng chí Chủ nhiệm là ủy
viên Ban Thường vụ cấp ủy, từ 1 đến 2 Phó Chủ nhiệm (Phó Chủ nhiệm
Thường trực là cấp ủy viên) và một số ủy viên chuyên trách; 2 ủy viên kiêm
chức gồm Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban Tổ chức là cấp ủy viên và Chánh
Thanh tra cùng cấp (nơi không có Chánh Thanh tra cùng cấp là đồng chí Phó
Bí thư của cấp ủy trực thuộc).
- Ủy ban Kiểm tra đảng cấp ủy cấp trên cơ sở: Số lượng từ 5 đến 7 ủy
viên (do cấp ủy cấp trên cơ sở quyết định), trong đó, đồng chí Chủ nhiệm là
ủy viên Ban Thường vụ cấp ủy, có từ 1 đến 2 Phó Chủ nhiệm (Phó Chủ nhiệm
Thường trực là chuyên trách) và một số ủy viên chuyên trách. Ủy viên kiêm
chức gồm đồng chí Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban Tổ chức là cấp ủy viên
và Phó Chánh Thanh tra cùng cấp (nơi không có Chánh Thanh tra cùng cấp là
đồng chí Phó Bí thư hoặc Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra đảng ủy trực thuộc).
- Ủy ban Kiểm tra đảng ủy cơ sở: Số lượng từ 3 đến 5 ủy viên (do đảng
ủy cơ sở quyết định), trong đó đồng chí Phó Bí thư hoặc ủy viên Ban Thường
vụ, Thường trực cấp ủy làm Chủ nhiệm. Trường hợp không có Ban Thường
vụ cấp ủy thì đồng chí Phó Bí thư làm Chủ nhiệm; Phó Chủ nhiệm là cấp ủy
viên hoặc đảng viên. Các ủy viên khác có thể là cấp ủy viên hoặc đảng viên
phụ trách công tác đoàn thể, Bí thư chi bộ, thanh tra nhân dân. Ủy ban Kiểm
tra của đảng ủy cơ sở xã, phường, thị trấn; những tổ chức cơ sở đảng trong cơ
quan và doanh nghiệp có từ 300 đảng viên trở lên thì bố trí 1 ủy viên chuyên
trách làm Phó Chủ nhiệm.
1.2.

Lý thuyết áp dụng

1.2.1. Lý thuyết Hành động xã hội

Max Weber khẳng định: Hành động xã hội là đối tượng nghiên cứu của
xã hội học. “ Hành động là một thái độ của con người (tự có, bên ngoài hoặc
14


bên trong, cho phép hoặc không cho phép) khi và chỉ khi chủ thể gắn liền với
thái độ của mình một ý nghĩa chủ quan nhất định”. Ông đã phân biệt hành
động xã hội với những hành vi và hoạt động khác. Nói tới hành động xã hội là
nói tới việc chủ thể gán cho hành vi của mình một ý nghĩa chủ quan nào đó.
Hành động, kể cả hành động thụ động và không hành động được gọi là
hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan của nó có tính đến thái độ hành vi của
người khác trong quá khứ hiện tại và tương lai. Ý nghĩa chủ quan đó định hướng
cho hành động. Như vậy không phải hành động nào cũng có tính xã hội.
Tóm lại Weber tổng quát định nghĩa: hành động xã hội là hành động
được chủ thể gán cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, là hành động có tính
đến hành vi của người khác và vì vậy được định hướng tới người khác trong
quá trình thực hiện nó.
M. Weber phân loại hành động xã hội ra làm 4 loại:
- Hành động duy lý công cụ: là hành động được thực hiện với sự cân
nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả
cao nhất.
Ví dụ: Hành động của anh kỹ sư xây dựng cầu. Mục đích của anh ta là
xây dựng được một chiếc cầu với chất lượng tốt và giá thành thấp nhất có thể.
Anh ta sẽ tìm mọi cách để đạt được mục đích trên. Như vậy những hành động
của anh ta để hoàn thành chiếc cầu đó là hành động duy lý công cụ.
- Hành động duy lý giá trị: là hành động được thực hiện bởi bản thân
hành động. Là hành động được thực hiện vì bản thân hành động (mục đích tự
thân). Thực chất loại hành động này có thể nhằm vào những mục đích phi lý
nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ phương tiện duy lý.
Ví dụ: Một số hành vi tín ngưỡng. Hành động một người thuyền trưởng

sẵn sàng chết với con tàu của mình khi nó bị đắm. Người thuyền trưởng này
tự nguyện chết chung với con tàu của mình không phải vì tiếc con tàu đó mà

15


là giữ gìn danh dự của mình. Như vậy hành động của người thuyền trưởng
này nằm ở bản thân hoạt động đó chứ không phải vì thứ khác.
- Hành động duy cảm: là hành động do các trạng thái cảm xúc hoặc tình
cảm bột phát gây ra mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ
giữa công cụ phương tiện và mục đích hành động.
Ví dụ: hành động của đám đông quá khích hay hành động do tức giận
gây ra. Khi bị kích động bị người khác làm cho tức giận chúng ta thậm chí có
đánh nhau, thậm chí còn giết người.
- Hành động duy lý truyền thống là hành động tuân thủ những thói
quen, nghi lễ, phong tục, tập quán, đã được truyền lại từ đời này qua đời khác.
Ví dụ: Các lễ hội, lễ tục trong cưới xin, ăn hỏi…tất cả những cái đó đều
là những thói quen quan niệm của người xưa cố nhân, và chúng ta phải tuân
theo từ đời này qua đời khác.
Xã hội học nghiên cứu hành động xã hội thực chất là tập trung vào
nghiên cứu hành động duy lý công cụ.
M. Weber phân tích sự thay đổi về vai trò và xu hướng của hành động xã
hội để chỉ ra điều kiện tiến trình phát triển lịch sử xã hội hiện đại phương Tây.
Thành tố đầu tiên là động cơ và mục đích của hành động. Nhu cầu của
chủ thể tạo ra động cơ thúc đẩy để thỏa mãn nó. Động cơ này sẽ tạo ra tích
cực của chủ thể tham gia định hướng hành động, và quy định mục đích của
hành động. Các động cơ này cũng hướng các hành động xã hội đến việc đạt
được những mục đích nhất định hay đến điều kiện sống và làm việc, điều kiện
hoạt động nói chung.
Yếu tố thứ hai là chủ thể hành động. Chủ thể có thể là cá nhân, nhóm

hay toàn thể xã hội.
Một thành tố nữa trong cấu trúc hành động xã hội là hoàn cảnh hay môi
trường của hành động. Đó chính là những điều kiện về thời gian, không gian,

16


vật chất và tinh thần của hành động. Hành động xã hội đó diễn ra trong hoàn
cảnh nào, ở thời điểm nào, diễn ra như thế nào... Giữa các yếu tố đó có mối
quan hệ hữu cơ với nhau.
Vận dụng lí thuyết hành động xã hội vào việc phân tích, xem xét hành
vi vi phạm kỷ luật Đảng của đảng viên là xuất phát từ bối cảnh kinh tế xã hội,
xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá khiến cho một bộ phận không nhỏ đảng
viên bị thoái hoá biến chất, lạm dụng chức trách, nhiệm vụ được giao; mặc dù
những đảng viên vi phạm này biết và hiểu rõ về nguyên tắc, điều lệ Đảng
nhưng họ vẫn cố tình có những hành vi vi phạm tinh vi, khó phát hiện để
nhằm mục đích mưu lợi cho cá nhân.
1.2.2. Lý thuyết Sai lệch xã hội
Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là một hiện tượng đa dạng và phức
tạp. Nó tồn tại ở mọi nơi, trong tất cả các giai đoạn phát triển của xã hội loài
người. Đặc biệt, ở giai đoạn diễn ra những biến đổi xã hội sâu sắc thì hành vi
sai lệch chuẩn mực xã hội lại càng phát triển. Nó phong phú hơn về biểu hiện,
phức tạp hơn về nguyên nhân, gây ra những tổn thất nặng nề hơn cho xã hội,
khó khăn hơn về phương thức khắc phục.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang thực hiện chính sách đổi
mới trên mọi lĩnh vực của cuộc sống, cùng với việc đạt được những tiến bộ xã
hội đáng kể cũng nảy sinh khá nhiều hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, mà
biểu hiện rõ rệt nhất là các tệ nạn xã hội như tham nhũng, buôn lậu, mại dâm,
nghiện hút, cướp của, giết người…Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều biện
pháp để ngăn chặn và phòng ngừa tình hình này. Nhưng thực tế, các tệ nạn xã

hội vẫn diễn ra trên phạm vi rộng hơn và ngày càng tinh vi hơn.
Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội đựơc nhiều ngành khoa học quan
tâm nghiên cứu như xã hội học, tội phạm học, tâm lí học, giáo dục học, đạo
đức học và có sự thống nhất tương đối khi đưa ra định nghĩa về hành vi sai

17


lệch chuẩn mực xã hội. Theo họ, hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội chính là
những hành vi lệch chuẩn, hành vi không đựơc xã hội chấp nhận. Như vậy, có
thể hiểu hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là bất kỳ hành vi nào không phù
hợp với sự mong đợi của nmột nhóm hoặc của xã hội. Nói cách khác, hành vi
sai lệch chuẩn mực xã hội hay còn gọi là hành vi lệch chuẩn là hành vi chệch
khỏi các quy tắc, chuẩn mực của nhóm hay của xã hội.
Để xác định một hành vi có phải là lệch chuẩn hay không, trước hết
phải xác định đựơc các quy tắc văn hoá của xã hội (nhóm) mà chủ thể hành vi
đang sống. Trên cơ sở đó xác định mức độ phù hợp giữa hành vi của cá nhân
(nhóm) với quy tắc đó. Một hành vi cá nhân (nhóm) bao giờ cũng là một hành
vi xã hội. Nó có thể là bình thường hay lệch chuẩn tuỳ thuộc vào giá trị của
nó đối với xã hội.
Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội có tính tương đối về văn hoá và lịch
sử. Có những hành vi có thể được thừa nhận là đúng đắn trong nền văn hoá
của xã hội này, nhưng lại bị coi là lệch chuẩn nếu so với nền văn hoá khác.
Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội không thể quy vào một hành động mà là
“một hệ thống những hành động: hoạt động, cách ứng xử của con người, lối
sống”. Khái niệm chuẩn mực xã hội bao trùm lên mọi hoạt động của con
người trong đời sống xã hội nên khái niệm hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội
cũng rất rộng. Nó lớn hơn khái niệm vi phạm pháp vì pháp luật chỉ là một loại
chuẩn mực xã hội phù hợp mà thôi.
Có nhiều cách phân chia các loại hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội dựa

vào các tiêu chí khác nhau. Dựa trên mục đích của hành vi, R. K. Merton đã
phân loại hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội thành hành vi lầm lạc chỉ sự sai
lệch khỏi cái đã được coi là bình thường và đúng đắn. Những người thực hiện
hành vi này không có ý thay đổi giá trị của chuẩn mục mà đơn giản chỉ là sự
vi phạm chuẩn mực vì những mục đích cá nhân mà thôi. Dựa trên chủ thể

18


hành vi, có thể chia hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội thành hành vi sai lệch
chuẩn mực xã hội tập thể và hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội cá nhân. Hành
vi sai lệch chuẩn mực xã hội ở cấp độ tập thể là hành vi của cả tập thể đi lệch
khỏi chuẩn mực xã hội, ví dụ như cả tập thể cùng tham ô, cùng buôn
lậu…Còn hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội ở cấp độ cá nhân là những hành
vi của cá nhân nhất định. Hậu quả của hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội do
tập thể thực hiện bao giờ cũng nghiêm trọng bởi nó đã góp phần vào việc
giảm bớt đi đáng kể cảm giác tội lỗi của mỗi cá nhân thực hiện hành vi và phá
vỡ trật tự xã hội ở phạm vi rộng hơn. Căn cứ vào loại chuẩn mực mà hành vi
của các nhân vi phạm, có thể chia thành các loại hành vi sai lệch chuẩn mực
xã hội sau: Các hành vi sai lệch về luật pháp và các quy tắc sinh hoạt công
cộng ( nội quy, quy chế,..), các hành vi sai lệch chuẩn mực đạo đức, các hành
vi sai lệch chuẩn mực thẩm mỹ, các hành vi sai lệch chuẩn mực chính trị. Dựa
vào mức độ nhận thức và chấp nhận các chuẩn mực đạo đức, có thể chia ra
hai loại hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Đó là hành vi sai lệch thụ động và
hành vi sai lệch chủ động. Hành vi sai lệch thụ động là những hành vi sai lệch
do không nhận thức đầy đủ hoặc nhận thức sai các chuẩn mực đạo đức nên có
những hành vi không bình thường so với chuẩn chung của cộng đồng. Còn
hành vi sai lệch chuẩn chủ động là những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội
do cá nhân cố ý thực hiện dù họ có thể nhận thức được yêu cầu của chuẩn
mực xã hội. Căn cứ vào tình chất và mức độ của những sai lệch trong hành vi

cá nhân và hành vi xã hội của trẻ em, một số nhà nghiên cứu (Võ Quang
Phúc, Lê Như Hoa, Nguyễn Đức Mạnh…) đã đưa ra những khái niệm: trẻ
chưa ngoan, trẻ hư và trẻ phạm pháp ( trẻ làm trái pháp luật). Dựa vào phạm
vi ảnh hưởng đến xã hội, một số nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực tâm lí
học, xã hội học, xã hội học truyền thống đã chỉ ra một số dạng tiêu biểu của
hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Đó là những sai lệch trong việc dùng ma

19


tuý, dùng rượu, sai lệch trong hành vi tình dục, hành vi phạm pháp, tự tử. Với
phạm vi ảnh hưởng sâu rộng hơn, một số dạng hành vi sai lệch chuẩn mực xã
hội được xác định là tệ nạn xã hội,cần có phương hướng ngăn ngừa và khắc
phục. Trong Sổ tay công tác phòng ngừa tệ nạn xã hội thì tệ nạn xã hội được
coi là “những hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn mực
xã hội (chuẩn mực về truyền thống văn hoá, lối sống đạo đức của dân tộc…và
những chuẩn mực đã trở thành qui định của pháp luật) mang tính phổ biến, có
xu hướng phát triển trong xã hội, gây ảnh hưởng xấu về đạo đức và những
hậu quả nghiêm trọng trong đời sống kinh tế - văn hoá xã hội của nhân dân”.
Có thể kể ở đây một số hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội như mại dâm, ma
tuý, cờ bạc, buôn lậu, tham nhũng, hối lộ…
Tóm lại, hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là hành vi chệch khỏi các
quy tắc, chuẩn mực của nhóm hay của xã hội.
Áp dụng vào đề tài này, có thể nhận thấy các hành vi vi phạm kỷ luật
Đảng của một bộ phận đảng viên là hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, mà cụ
thể là vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, vi phạm nhiệm vụ
đảng viên, vi phạm những điều đảng viên không được làm. Từ hành vi đó, đã
gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho xã hội: làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với Đảng, làm phức tạp môi trường sinh sống của dân cư, gây mất đoàn
kết trong Đảng và trong quần chúng.

1.3.

Tổng quan vấn đề nghiên cứu

1.3.1. Quan điểm của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
trong Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, ngay từ ngày thành lập đã rất quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát
và việc giữ gìn kỷ luật của Đảng.

20


Trong bản "Điều lệ vắt tắt của Đảng" tại Hội nghị thành lập Đảng
(2/1930), Mục V đã ghi rõ :"Điều tra các việc"; và Mục IX, điểm c đã ghi:
"Cách xử phạt người có lỗi trong Đảng do Hội chấp hành uỷ viên trong cấp
đảng hay đại biểu đại hội định". Điều lệ Đảng chính thức được thông qua vào
tháng 10/1930 đã quy định: Trách nhiệm của đảng viên và cán bộ là giữ gìn
kỷ luật đảng một cách nghiêm khắc. Tất cả đảng viên đều phải chấp hành các
nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của Đảng đại hội, của Trung ương và của
thượng cấp cơ quan… Đối với vấn đề phạm kỷ luật thì do toàn bộ chi bộ hoặc
cấp đảng bộ tra xét. Các cấp uỷ viên có thể đặt ra đặc biệt uỷ viên để tra xét
những vấn đề vi phạm kỷ luật đảng... Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần
thứ I (10/1935) đã khẳng định :"Cần giữ kỷ luật sắt cho Đảng, những phần tử
đi trái đường chính trị chung của Đảng, của Quốc tế Cộng sản mà không chịu
sửa lỗi, những kẻ không phục tùng nghị quyết, Điều lệ, phá hoại kỷ luật của
Đảng thì nhất thiết phải khai trừ… "; và quy định hình thức kỷ luật trong
Đảng là: "a) Đối với đảng bộ: phê bình, giải tán; b) Đối với cá nhân: chỉ trích,
cảnh cáo, tạm thời đình chỉ công tác phụ trách, khai trừ tạm thời hay khai trừ
vĩnh viễn…".

Việc kiểm tra các vấn đề chung về chấp hành đường lối, chính sách và
các nghị quyết của Đảng để đôn đốc, uốn nắn việc chấp hành phải do cấp uỷ
và các ban theo chức năng và phạm vi công tác của mình bảo đảm.
Công tác kiểm tra các vụ đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng nhằm vào các
vụ vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, vi phạm kỷ luật đảng, kiểm
tra tài chính của Đảng … theo quy định của Điều lệ Đảng, phải do Uỷ ban
Kiểm tra Trung ương và các cấp thực hiện.
Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo".
Bước vào thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
một số đảng viên vẫn còn dao động, thiếu tin tưởng, nhất là đã xuất hiện

21


nhiều tiêu cực trên mọi lĩnh vực. Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) tiếp tục khẳng định các quan điểm về
kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng mà Đại hội V đã chỉ ra, đồng thời nhấn
mạnh :"Kiểm tra là một chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng, là một khâu
quan trọng của tổ chức thực hiện. Đó cũng là biện pháp hiệu nghiệm để khắc
phục bệnh quan liêu. Mọi tổ chức, từ cơ quan đảng, nhà nước đến đoàn thể
quần chúng, mọi lĩnh vực hoạt động từ kinh tế, xã hội đến quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, không có ngoại lệ, đều phải đặt dưới sự kiểm tra của tổ chức
đảng có thẩm quyền. Trung ương Đảng và các cấp uỷ đảng phải nắm chắc
công tác kiểm tra, sử dụng kết quả kiểm tra vào việc chỉ đạo thực hiện các
nghị quyết. Mỗi cấp uỷ, trong từng thời gian, đều phải có chương trình kiểm
tra, tập trung vào những công tác chủ yếu, những đơn vị trọng điểm, sử dụng
và phát huy vai trò của uỷ ban kiểm tra và các ban của Đảng, kết hợp chặt chẽ
kiểm tra của Đảng với thanh tra của Nhà nước và kiểm tra của quần chúng;
kiểm tra phải đi tới kết luận rõ ràng và xử lý đúng đắn"; về việc thành lập uỷ
ban kiểm tra: Điều lệ Đảng Đại hội VI quy định :"Hội nghị toàn thể Ban

Chấp hành Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc, thành phố, thị xã, huyện,
quận và cấp tương đương cử ra uỷ ban kiểm tra của cấp mình gồm một số uỷ
viên trong ban chấp hành và một số uỷ viên ngoài ban chấp hành. Ở các tổ
chức cơ sở đảng, đảng uỷ cơ sở được cử uỷ ban kiểm tra"; thẩm quyền thi
hành kỷ luật của uỷ ban kiểm tra do Điều lệ Đại hội VI quy định như Điều lệ
Đại hội IV và Đại hội V.
So với Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V thông qua
thì tổ chức và quyền hạn của uỷ ban kiểm tra các cấp trong nhiệm kỳ Đại hội
VI không có gì thay đổi, nhưng về nhiệm vụ thì có sửa đổi, bổ sung từ nhiệm
vụ "kiểm tra những vụ đảng viên (kể cả cấp uỷ viên cùng cấp) vi phạm Điều

22


lệ Đảng …" sang nhiệm vụ "kiểm tra đảng viên (kể cả cấp uỷ viên cùng cấp)
chấp hành Điều lệ Đảng…".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) diễn ra trong
bối cảnh có nhiều biến động, diễn biến phức tạp, nhất là bối cảnh quốc tế,
những thời cơ và thách thức lớn đan xen vào nhau. Đảng đứng trước hai tình
huống: tiếp tục giữ vững vị thế của đảng cầm quyền, lãnh đạo hoặc là biến
chất, đổi màu, mất quyền lãnh đạo như các Đảng Cộng sản ở các nước Đông
Âu và Liên Xô cũ. Trong bối cảnh đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí, vai
trò của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; khẳng định sự kiên định,
trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Để đảm đương được vai
trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ chuyên môn,
phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống
nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng.
Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,

chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến
đấu cao…Trong xây dựng Đảng, phải coi trọng các mặt công tác, trong đó có
công tác kiểm tra, phát huy đến mức cao nhất hiệu quả của công tác kiểm tra
và giữ gìn kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Báo cáo chính trị tại Đại hội VII đã
yêu cầu: "Tổ chức tốt việc kiểm tra các quyết định của Đảng… Tăng quyền
hạn của uỷ ban kiểm tra các cấp, chú trọng kiểm tra việc thực hiện các nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra tư cách đảng viên, kể cả cấp uỷ viên
cùng cấp, xem xét và xử lý kỷ luật đảng viên và các tổ chức đảng theo quy
định của Điều lệ Đảng".

23


×