Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty CP Ftech

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.03 KB, 91 trang )

Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

LỜI NÓI ĐẦU
Khi Việt Nam hội nhập với nền kinh tế Thế Giới – WTO, đồng nghĩa với nhu
cầu của con người ngày càng cao, đòi hỏi không chỉ ở chất lượng giá cả của chính sản
phẩm đó mà còn yêu cầu tính chuyên nghiệp mà sản phẩm đó mang lại.
Trước xu hướng đó, đối với nền kinh tế Việt Nam ngành kinh doanh thương
mại được coi là một trong những ngành rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
của đất nước. Mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ của ngành là góp phần thực hiện
đường lối của Đảng, xây dựng con đường phát triển sự nghiệp CNH- HĐH đất nước,
đảm bảo nhu cầu toàn xã hội đang không ngừng tăng trưởng về mọi mặt. Việc chuyển
đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết
vĩ mô của Nhà nước, cùng xu thế mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Công ty
Cổ Phần Ftech là một doanh nghiệp tư nhân để có thể tồn tại, đứng vững và phát triển
đòi hỏi Công ty phải xác định được cho mình những phương thức hoạt động, những
chính sách, những chiến lược cạnh tranh đúng đắn.
Nhận thấy trong thời buổi kinh tế thị trường diễn ra gay gắt, cạnh tranh là vấn
đề vô cùng quan trọng đối với mỗi Doanh Nghiệp, vì vậy em muốn được đóng góp
những ý kiến để Công ty CP Ftech ngày càng phát triển và giữ vững được thị phần
kinh doanh. Sau một thời gian thực tập tại Công ty CP Ftech, em quyết định lựa chọn
đề tài “ Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty CP Ftech” để
làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và nâng cao năng lực canh
tranh của Doanh Nghiệp.
Chương 2 : Thực trạng về khả năng cạnh tranh của Công ty Cổ Phần Ftech
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công
Cổ Phần Ftech


Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

1

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VÈ CẠNH TRANH VÀ
NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP
1.1. Lý thuyết cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, các khái
nệm liên quan đến cạnh tranh cũng rất khác nhau.Theo Mac “cạnh tranh là sự
phấn đấu ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất và trong tiêu thụ để đạt được những lợi nhuận siêu
ngạch”, còn các quan niệm khác lại cho rằng “cạnh tranh là sự phấn đấu về chất
lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình sao cho tốt hơn các doanh
nghiệp khác” (Theo nhóm tác giả cuốn “nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ
sản xuất trong nước”). Theo kinh tế chính trị học “cạnh tranh là sự thôn tính lẫn
nhau giữa các đối thủ nhằm giành lấy thị trường, khách hàng cho doanh nghiệp
mình”. Để hiểu một cách khái quát nhất ta có khái niệm như sau:
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh cạnh tranh được hiểu là sự ganh
đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường nhằm giành được ưu thế hơn về

cùng một loại sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ, về cùng một loại khách hàng
so với các đối thủ cạnh tranh .
Từ khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất
hiện và len lỏi vào từng bước đi của các doanh nghiệp. Môi trường hoạt động
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

2

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

kinh doanh của doanh nghiệp lúc này đầy sự biến động và vấn đề cạnh tranh
đó trở nên cấp bách, sôi động trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc
tế. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong bất cứ một lĩnh vực
nào, bất cứ một hoạt động nào của con người cũng nổi cộm lên vấn đề cạnh
tranh. Và như các quốc gia cạnh tranh nhau để giành lợi thế trong đối ngoại,
trao đổi, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để lôi cuốn khách hàng về phía
mình, để chiếm lĩnh những thị trường có nhiều lợi thế và con người cạnh
tranh nhau để vươn lên khẳng định vị trí của mình cả về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ để những người dưới quyền phục tùng mệnh lệnh, để có uy tín và
vị thế trong quan hệ với các đối tác. Như vậy, có thể nói cạnh tranh đã hình
thành và bao trùm lên mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ tầm vi mô đến vĩ mô, từ
một cá nhân riêng lẻ đến tổng thể toàn xã hội. Điều này xuất phát từ một lẽ

đương nhiên nước ta đã và đang bước vào giai đoạn phát triển cao về mọi lĩnh
vực như kinh tế, chính trị, văn hoá, mà bên cạnh đó cạnh tranh vốn là một quy
luật tự nhiên và khách quan của nền kinh tế thị trường, nó không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của mỗi người, bởi tự do là nguồn gốc dẫn tới cạnh
tranh, cạnh tranh là động lực để thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát
triển. Bởi vậy để giành được các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên động não, tích cực nhạy
bén và năng động phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ
thuật công nghệ mới, bổ sung xây dựng các cơ sở hạ tầng, mua sắm thêm
trang thiết bị máy móc, loại bỏ những máy móc đã cũ kỹ và lạc hậu và điều
quan trọng phải có phương pháp tổ chức quản lý có hiệu quả, đào tạo và đội
ngũ có trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động. Thực tế cho thấy ở
đâu thiếu sự cạnh tranh thường ở đó biểu hiện sự trì trì và yếu kém sẽ dẫn
doanh nghiệp sẽ mau chúng bị đào thải ra khỏi quy luật vận động của nền
kinh tế thị trường. Để thúc đẩy tiêu thụ và đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng
hoá các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu, thị
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

3

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

hiếu của khách hàng. Do đó, cạnh tranh không chỉ kích thích tăng năng suất
lao động, giảm chi phí sản xuất mà còn cải tiến mẫu mã, chủng loại hàng hoá,

nâng cao chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ làm cho sản xuất ngày
càng gắn liền với tiêu dùng, phục vụ nhu cầu xã hội được tốt hơn. Cạnh tranh
là một điều kiện đồng thời là một yếu tố kích thích hoạt động kinh doanh phát
triển. Bên cạnh những mặt tích cực cạnh tranh cũng để lại nhiều hạn chế và
tiêu cực đó là sự phân hoá sản xuất hàng hoá, làm phá sản những doanh
nghiệp kinh doanh gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, cơ sở hạ tầng hạn hẹp,
trình độ công nghệ thấp và có thể làm cho doanh nghiệp phá sản khi doanh
nghiệp gặp những rủi ro khách quan mang lại như thiên tai, hoả hoạn…v.v
hoặc bị rơi vào những hoàn cảnh, điều kiện không thuận lợi.
PGS. TS Vũ Văn Phúc có bài thuyết trình về vấn đề này cho hay,
cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị trường. Theo các nhà kinh tế, môi trường
cạnh tranh có tác dụng tạo sức mạnh hướng hành vi của các chủ thể kinh tế tới
năng suất, chất lượng và hiệu quả từ mục tiêu thắng trong cạnh tranh sẽ thu lợi
nhuận. Trong môi trường cạnh tranh, sức mạnh của các tổ chức kinh tế không
chỉ được đo bằng chính năng lực nội tại của từng chủ thể, mà điều quan trọng
hơn, là trong sự so sánh tương quan giữa các chủ thể với nhau. Do đó, đạt được
vị thế cạnh tranh mạnh trên thị trường là yêu cầu sống còn của doanh nghiệp.
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất
đó là cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường
với nhau, kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự
thay thế lẫn nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận. Các
doanh nghiệp thương mại cần nhận thức đúng đắn về canh tranh để một mặt
chấp nhận canh tranh theo khía cạnh tích cực để từ đó phát huy yếu tố nội lực
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mặt khác tránh tình trạng cạnh

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

4


Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

tranh bất hợp lý dẫn đến làm tổn hại đến lợi ích cộng đồng cũng như làm suy
yếu chính mình.
Doanh nghiệp thương mại mang tính đặc thù phải chịu sự cạnh tranh
quyết liệt hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
1.1.2. Vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây phạm trù cạnh tranh hầu
như không tồn tại giữa các doanh nghiệp, tại thời điểm này các doanh nghiệp
hầu như có được nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt
động, kể cả khi các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc
về nhà nước. Vì vậy, vô hình dung nhà nước đó tạo ra một lối mòn trong kinh
doanh, một thói quen trì trệ và ỉ lại, doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm
khách hàng mà chỉ có khách hàng tự tìm đến doanh nghiệp. Chính điều đó đó
không tạo được động lực cho doanh nghiệp phát triển. Sau khi kết thúc Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) nước ta đã chuyển sang một giai đoạn
mới, một bước ngoặt lớn, nền kinh tế thị trường được hình thành thì vấn đề
cạnh tranh xuất hiện và có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với doanh
nghiệp mà còn đối với người tiêu dùng cũng như nền kinh tế quốc dân nói
chung.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Đối với nền kinh tế cạnh tranh không chỉ là môi trường và động lực của
sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng năng
suất lao động mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá quan hệ xã hội,
cạnh tranh còn là điều kiện giáo dục tính năng động của các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó cạnh tranh góp phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội
thông qua sự xuất hiện của những sản phẩm mới. Điều đó chứng tỏ đời sống
của con người ngày càng được nâng cao về chính trị, về kinh tế và văn hoá.
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

5

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân
công lao động xã hội ngày càng phát triển sâu và rộng. Tuy nhiên, bên cạnh
những lợi ích to lớn mà cạnh tranh đem lại thì nó vẫn còn mang lại những mặt
hạn chế như cạnh tranh không lành mạnh tạo sự phân hoá giàu nghèo, cạnh
tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến có những manh mối làm ăn vi phạm pháp
luật như trốn thuế, lậu thuế, lậu hàng giả, buôn bán trái phép những mặt hàng
mà Nhà nước và pháp luật nghiêm cấm.
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt
động kinh doanh trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại và
đứng vững. Để tồn tại và đứng vững các doanh nghiệp phải có những chiến
lược cạnh tranh cụ thể và lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ
mô. Họ cạnh tranh để giành những lợi thế về phía mình, cạnh tranh để giành
giật khách hàng, làm cho khách hàng tự tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp
mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu người tiêu dùng nhất. Doanh

nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, kịp thời, nhanh chóng và đầy
đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kèm theo với mức giá phù hợp thì doanh
nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và phát triển. Do vậy cạnh tranh là rất quan
trọng và cần thiết.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt
đầu từ việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì ? sản xuất như
thế nào? và sản xuất cho ai? Nghiên cứu thị trường để doanh nghiệp xác định
được nhu cầu thị trường và chỉ sản xuất ra những gì mà thị trường cần chứ
không sản xuất những gì mà doanh nghiệp có. Cạnh tranh buộc các doanh
nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn, tiện dụng với người
tiêu dùng hơn. Muốn vậy các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu
khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

6

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, cử các cán bộ đi học để
nâng cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh thắng lợi sẽ tạo cho doanh nghiệp
một vị trí xứng đáng trên thị trường tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Trên
cơ sở đó sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, tái sản xuất xã hội, tạo
đà phát triển mạnh cho nền kinh tế.
1.1.2.3. Đối với ngành

Hiện nay đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành kinh doanh
thương mại nói riêng, cạnh tranh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự
phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như dịch vụ sau bán hàng.
Cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh sẽ tạo bước đà vững chắc cho mọi ngành
nghề phát triển. Nhất là đối với ngành kinh doanh thương mại - là một ngành
có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh
sẽ tạo bước đà và động lực cho ngành phát triển trên cơ sở khai thác lợi thế và
điểm mạnh của ngành đó nhằm thu hút được mọi khách hàng có hoặc chưa có
nhu cầu về sản phẩm biết đến sản phẩm cũng như doanh nghiệp mình.
Như vậy, trong bất cứ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mô
hoạt động lớn hay quy mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đứng ở tầm vĩ
mô hay vi mô thì không thể thiếu sự có mặt và vai trò của yếu tố cạnh tranh .
1.1.2.4 Đối với sản phẩm.
Nhờ có cạnh tranh, mà sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng cao
về chất lượng, phong phú về chủng loại, mẫu mã và kích cỡ. Giúp cho lợi ích
của người tiêu dùng và của doanh nghiệp thu được ngày càng nhiều hơn.
Ngày nay các sản phẩm của người tiêu dùng không chỉ là các sản phẩm sản
xuất trong nước mà còn là các sản phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài về.
Qua những ý nghĩa trên ta thấy rằng cạnh tranh không thể thiếu sót ở bất cứ
một lĩnh vực nào của nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh sẽ thực sự tạo ra
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

7

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội


Khoa Quản Lý Kinh Doanh

những nhà doanh nghiệp giỏi và đồng thời là động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, đảm bảo công bằng xã hội. Bởi vậy cạnh tranh là một yếu tố rất
cần cú sự hỗ trợ và quản lý của nhà nước để phát huy những mặt tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến độc
quyền và gây lũng loạn, xáo trộn thị trường.
1.1.3 Các hình thức cạnh tranh
Cạnh tranh được phân loại theo các hình thức khác nhau:
1.1.3.1 Căn cứ vào các chủ thể tham gia cạnh tranh
Cạnh tranh được chia thành ba loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra
theo quy luật mua rẻ bán đắt, cả hai bên đều muốn tối đa hoá lợi ích của mình.
Người bán muốn bán với giá cao nhất để tối đa hoá lợi nhuận còn người mua
muốn mua với giá thấp nhưng chất lượng vẫn được đảm bảo và mức giá cuối
cùng vẫn là mức giá thoả thuận giữa hai bên.
- Cạnh tranh giữa người mua và người mua: Là cuộc cạnh tranh trên cơ
sở quy luật cung cầu, khi trên thị trường mức cung nhỏ hơn mức cầu. Lúc này
hàng hóa trên thị trường sẽ khan hiếm, người mua để đạt được nhu cầu mong
muốn của mình họ sẽ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn do vậy mức độ cạnh
tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn giữa những người mua, kết quả là giá cả hàng hoá
sẽ tăng lên, những người bán sẽ thu được lợi nhuận lớn trong khi những người
mua bị thiệt thòi cả về giá cả và chất lượng, nhưng trường hợp này chủ yếu
chỉ tồn tại ở nền kinh tế bao cấp và xảy ra ở một số nơi khi diễn ra hoạt động
bán đấu giá một loại hàng hoá nào đó.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh tranh
gay go và quyết liệt nhất khi mà trong nền kinh tế thị trường sức cung lớn hơn

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4


8

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

sức cầu rất nhiều, khách hàng được coi là thượng đế của người bán, là nhân tố
có vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do
vậy các doanh nghiệp phải luôn ganh đua, loại trừ nhau để giành những ưu
thế và lợi thế cho mình.
1.1.3.2 Căn cứ theo tính chất và mức độ cạnh tranh
Theo tiêu thức này cạnh tranh được chia thành bốn loại:
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh thuần tuý, là một hình thức
đơn giản của cấu trúc thị trường trong đó người mua và người bán đều không
đủ lớn để tác động đến giá cả thị trường. Nhóm người mua tham gia trên thị
trường này chỉ có cách thích ứng với mức giá đưa ra và cung cầu trên thị
trường được tự do hình thành, giá cả do thị trường quyết định.
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Đây là hình thức cạnh tranh
phổ biến trên thị trường mà ở đó doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh có thể chi
phối được giá cả của sản phẩm thông qua hình thức quảng cáo, khuyến mại
các dịch vụ trong và sau khi bán hàng. Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh
tranh mà phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau, mỗi loại sản
phẩm mang nhãn hiệu và đặc tính khác nhau dù xem xét về chất lượng thì sự
khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể nhưng mức giá mặc định cao
hơn rất nhiều. Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại:
+ Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh mà ở đó một hoặc một số chủ

thể có ảnh hưởng lớn, có thể ép các đối tác của mình phải bán hoặc mua sản
phẩm của mình với giá rất cao và những người này có thể làm thay đổi giá cả
thị trường. Có hai loại cạnh tranh độc quyền đó là độc quyền bán và độc
quyền mua. Độc quyền bán tức là trên thị trường có ít người bán và nhiều
người mua, lúc này người bán có thể tăng giá hoặc ép giá khách hàng nếu họ
muốn lợi nhuận thu được là tối đa, còn độc quyền mua tức là trên thị trường
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

9

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

có ít người mua và nhiều người bán khi đó khách hàng được coi là thượng đế,
được chăm sóc tận tình và chu đáo nếu không những người bán sẽ không lôi
kéo được khách hàng về phía mình. Trong thực tế có tình trạng độc quyền xảy
ra nếu không có sản phẩm nào thay thế , tạo ra sản phẩm độc quyền hoặc các
nhà độc quyền liên kết với nhau gây trở ngại cho quá trình phát triển sản xuất
và làm tổn hại đến người tiêu dùng. Vì vậy phải có một đạo luật chống độc
quyền nhằm chống lại liên minh độc quyền của một số nhà kinh doanh.
+ Độc quyền tập đoàn: Hình thức cạnh tranh này tồn tại trong một số
ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất. Lúc này cạnh tranh sẽ
xảy ra giữa một số lực lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy mọi doanh
nghiệp phải nhận thức rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ
thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc vào hoạt động của những đối thủ cạnh

tranh khác trên thị trường. Một sự thay đổi về giá của doanh nghiệp cũng sẽ
gây ra những ảnh hưởng đến nhu cầu cân đối với các sản phẩm của doanh
nghiệp khác. Những doanh nghiệp tham gia thị trường này là những người có
tiềm lực kinh tế mạnh, vốn đầu tư lớn. Do vậy việc thâm nhập vào thị trường
của các đối thủ cạnh tranh thường là rất khó.
1.1.3.3 Căn cứ vào phạm vi kinh tế
- Cạnh tranh nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất và tiêu dùng cùng một chủng loại sản
phẩm. Trong cuộc cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn nhau, các doanh nghiệp
phải áp dụng mọi biện pháp để thu được lợi nhuận như cải tiến kỹ thuật, nâng
cao năng suất lao động, giảm chi phí cá biệt của hàng hoá nhằm thu được lợi
nhuận siêu ngạch. Kết quả là trình độ sản xuất ngày càng phát triển, các
doanh nghiệp không có khả năng sẽ bị thu hẹp, thậm chí còn có thể bị phá
sản.

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

10

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các ngành kinh tế
khác nhau nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp hay đồng minh các doanh nghiệp của một ngành với ngành khác. Như

vậy giữa các ngành kinh tế do điều kiện kỹ thuật và các điều kiện khác khác
nhau như môi trường kinh doanh, thu nhập khu vực, nhu cầu và thị hiếu có
tính chất khác nhau nên cùng một lượng vốn đầu tư vào ngành này có thể
mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn các ngành khác. Điều đó dẫn đến tình
trạng nhiều người sản xuất kinh doanh ở những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận
thấp có xu hướng chuyển dịch sang sản xuất tại những ngành có tỷ suất lợi
nhuận cao hơn, đó chính là biện pháp để thực hiện cạnh tranh giữa các ngành.
Kết quả là những ngành trước kia có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút các
nguồn lực, quy mô sản xuất tăng. Do đó cung vượt quá cầu làm cho giá cả
hàng hoá có xu hướng giảm xuống, làm giảm tỷ suất lợi nhuận. Ngược lại
những ngành trước đây có tỷ suất lợi nhuận thấp khiến cho một số nhà đầu tư
rút vốn chuyển sang lĩnh vực khác làm cho quy mô sản xuất của ngành này
giảm, dẫn đến cung nhỏ hơn cầu, làm cho giá cả hàng hoá tăng và làm tăng tỷ
suất lợi nhuận.
1.1.4. Các công cụ cạnh tranh.
Công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu tập hợp các yếu tố,
các kế hoạch, các chiến lược, các chính sách, các hành động mà doanh nghiệp
sử dụng nhằm vượt trên các đối thủ cạnh tranh và tác động vào khách hàng để
thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Từ đó tiêu thụ được nhiều sản phẩm,
thu được lợi nhuận cao. Nghiên cứu các công cụ cạnh tranh của các doanh
nghiệp phải lựa chọn những công cụ cạnh tranh phù hợp với tình hình thực
tế, với quy mô kinh doanh và thị trường của doanh nghiệp. Từ đó phát huy
được hiệu quả sử dụng công cụ, việc lựa chọn công cụ cạnh tranh có tính chất
linh hoạt và phù hợp không theo một khuân mẫu cứng nhắc nào. Dưới đây là
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

11

Chuyên đề tốt nghiệp



Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

một số công cụ cạnh tranh tiêu biểu và quan trọng mà các doanh nghiệp
thương mại thường phải dùng đến chúng.
1.1.4.1. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản
phẩm thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác
định, phù hợp với công dụng lợi ích của sản phẩm. Nếu như trước kia giá cả
được coi là quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó phải nhường
chỗ cho tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Khi có cùng một loại sản phẩm, chất
lượng sản phẩm nào tốt hơn, đáp ứng và thoả mãn được nhu cầu của người
tiêu dùng thì họ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn. Nhất là trong nền kinh tế
thị trường cùng với sự phát triển của sản xuất, thu nhập của người lao động
ngày càng được nâng cao, họ có đủ điều kiện để thoả mãn nhu cầu của mình,
cái mà họ cần là chất lượng và lợi ích sản phẩm đem lại. Nếu nói rằng giá cả
là yếu tố mà khách hàng không cần quan tâm đến là hoàn toàn sai bởi giá cả
cũng là một trong những yếu tố quan trọng để khách hàng tiêu dùng cho phù
hợp với mức thu nhập của mình. Điều mong muốn của khách hàng và của bất
cứ ai có nhu cầu mua hay bán là đảm bảo được hài hoà giữa chất lượng và giá
cả.
Để sản phẩm của doanh nghiệp luôn là sự lựa chọn của khách hàng ở
hiện tại và trong tương lai thì nâng cao chất lượng sản phẩm là điều cần thiết.
Nâng cao chất lượng sản phẩm là sự thay đổi chất liệu sản phẩm hoặc thay
đổi công nghệ chế tạo đảm bảo lợi ích và tính an toàn trong quá trình tiêu
dùng và sau khi tiêu dùng. Hay nói cách khác nâng cao chất lượng sản phẩm
là việc cải tiến sản phẩm có nhiều chủng loại, mẫu mó, bền hơn và tốt hơn.

Điều này làm cho khách hàng cảm nhận lợi ích mà họ thu được ngày càng
tăng lên khi duy trì tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Làm tăng lòng tin
và sự trung thành của khách hàng đối với doanh nghiệp.
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

12

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

Chất lượng sản phẩm được coi là một vấn đề sống còn đối với doanh
nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp Việt Nam khi mà họ phải đương đầu đối
với các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Một khi chất lượng
hàng hoá dịch vụ không được bảo đảm thì có nghĩa là khách hàng sẽ đến với
doanh nghiệp ngày càng giảm, doanh nghiệp sẽ mất khách hàng và thị trường
dẫn tới sự suy yếu trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác chất lượng thể hiện
tính quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ nâng cao chất
lượng sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hoá bán ra,
kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm
tăng uy tín của doanh nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp. Do vậy cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm là một yếu tố rất
quan trọng và cần thiết mà bất cứ doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều phải
sử dụng nó.
1.1.4.2. Cạnh tranh bằng giá cả.
Giá cả được hiểu là số tiền mà người mua trả cho người bán về việc

cung ứng một số hàng hoá dịch vụ nào đó. Thực chất giá cả là sự biểu hiện
bằng tiền của giá trị hao phí lao động sống và hao phí lao động vật hoá để sản
xuất ra một đơn vị sản phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Trong
nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, khách hàng
được tôn vinh là “Thượng đế” họ có quyền lựa chọn những họ cho là tốt
nhất, khi có cùng hàng hoá dịch vụ với chất lượng tương đương nhau thì chắc
chắn họ sẽ lựa chọn mức giá thấp hơn, để lợi ích họ thu được từ sản phẩm là
tối ưu nhất. Do vậy mà từ lâu giá cả đó trở thành một biến số chiến thuật phục
vụ mục đích kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp thành công trong việc cạnh
tranh chiếm lĩnh thị trường là do sự khéo léo, tinh tế chiến thuật giá cả. Giá cả
đó thể hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc định giá sản phẩm:

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

13

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

định giá thấp hơn giá thị trường, định giá ngang bằng giá thị trường hay chính
sách giá cao hơn giá thị trường.
Với một mức giá ngang bằng với giá thị trường: giúp doanh nghiệp
đánh giá được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được biện pháp giảm giá
mà chất lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo khi đó lượng tiêu thụ sẽ tăng lên,
hiệu quả kinh doanh cao và lợi sẽ thu được nhiều hơn.

Với một mức giá thấp hơn mức giá thị trường: chính sách này được áp
dụng khi cơ sở sản xuất muốn tập trung một lượng hàng hoá lớn, thu hồi vốn
và lời nhanh. Không ít doanh nghiệp đó thành công khi áp dụng chính sách
định giá thấp. Họ chấp nhận giảm sút quyền lợi trước mắt đến lúc có thể để
sau này chiếm được cả thị trường rộng lớn, với khả năng tiêu thụ tiềm tàng.
Định giá thấp giúp doanh nghiệp ngay từ đầu có một chỗ đứng nhất định để
định vị vị trí của mình từ đó thâu tóm khách hàng và mở rộng thị trường.
Với chính sách định giá cao hơn giá thị trường: là ấn định giá bán sản
phẩm cao hơn giá bán sản phẩm cùng loại ở thị trường hiện tại khi mà lần đầu
tiên người tiêu dùng chưa biết chất lượng của nó nên chưa có cơ hội để so
sánh, xác định mức giá của loại sản phẩm này là đắt hay rẻ chính là đánh vào
tâm lý của người tiêu dùng rằng những hàng hoá giá cao thì có chất lượng cao
hơn các hàng hoá khác. Doanh nghiệp thường áp dụng chính sách này khi nhu
cầu thị trường lớn hơn cung hoặc khi doanh nghiệp hoạt động trong thị trường
độc quyền, hoặc khi bán những mặt hàng quý hiếm cao cấp thì có sự nhạy
cảm về giá.
Như vậy, để quyết định sử dụng chính sách giá nào cho phù hợp và
thành công khi sử dụng nó thì doanh nghiệp cần cân nhắc và xem xét kỹ
lưỡng xem mình đang ở tình thế nào thuận lợi hay không thuận lợi, nhất là

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

14

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội


Khoa Quản Lý Kinh Doanh

nghiên cứu xu hướng tiêu dùng và tâm lý của khách hàng cũng như cần phải
xem xét các chiến lược các chính sách giá mà đối thủ đang sử dụng.
1.1.4.3. Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối.
Phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh đắc
lực bởi nó hạn chế được tình trạng ứ đọng hàng hoá hoặc thiếu hàng. Để hoạt
động tiêu thụ của doanh nghiệp được diễn ra thông suốt, thường xuyên và đầy
đủ doanh nghiệp cần phải lựa chọn các kênh phân phối nghiên cứu các đặc
trưng của thị trường, của khách hàng. Từ đó có các chính sách phân phối sản
phẩm hợp lý, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chính sách phân
phối sản phẩm hợp lý sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn, thúc đẩy tiêu thụ,
tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông thường kênh phân phối
của doanh nghiệp được chia thành 5 loại:
+ Kênh ngắn: Người sản xuất => Người bán lẻ => Người tiêu dùng
+ Kênh cực ngắn: Người sản xuất => Người tiêu dùng
+ Kênh dài: Người sản xuất=> Người buôn bán=> Người bán lẻ=>
Người tiêu dùng
+ Kênh cực dài: Người sản xuất=> Đại lý=> Người buôn bán=> Người
bán lẻ=> Người tiêu dùng.
+ Kênh rút gọn: Người sản xuất=> Đại lý=> Người bán lẻ=> Người
tiêu dùng.
Tuỳ theo từng mặt hàng kinh doanh, tuỳ theo vị trí địa lý, tuỳ theo nhu
cầu của người mua và người bán, tuỳ theo quy mô kinh doanh của doanh
nghiệp mà sử dụng các kênh phân phối khác nhau cho hợp lý và mang lại hiệu
quả bởi nhiều khi kênh phân phối có tác dụng như những người môi giới
nhưng đôi khi nó lại mang lại những trở ngại rườm rà.
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4


15

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

1.14.4. Cạnh tranh bằng xúc tiến hỗn hợp
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì chính sách
marketing đóng một vai trò rất quan trọng bởi khi bắt đầu thực hiện hoạt động
kinh doanh, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu
khách hàng đang có xu hướng tiêu dùng những sản phẩm gì? thu thập thông
tin thông qua sự phân tích và đánh giá doanh nghiệp sẽ đi đến quyết định sản
xuất những gì? kinh doanh những gì mà khách hàng cần, khách hàng có nhu
cầu. Trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp thường sử
dụng các chính sách xúc tiến bán hàng thông qua các hình thức quảng cáo,
truyền bá sản phẩm đến người tiêu dùng. Kết thúc quá trình bán hàng, để tạo
được uy tín hơn nữa đối với khách hàng, doanh nghiệp cần thực hiện các hoạt
động dịch vụ trước khi bán, trong khi bán và sau khi bán.
Như vậy chính sách marketing đó xuyên suốt vào quá trình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, nó vừa có tác dụng chính và vừa có tác dụng
phụ để hỗ trợ các chính sách khác. Do vậy chính sách marketing không thể
thiếu được trong bất cứ hoạt động của doanh nghiệp.
1.2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay đổi, thay thế những
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí nguồn lực của xã hội bằng các
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã
hội, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Tuy nhiên để cạnh tranh được và

cạnh tranh một cách lành mạnh không phải là dễ bởi nó phụ thuộc vào tiềm
năng, lợi thế và nhiều yếu tố khác của doanh nghiệp hay một quốc gia, đó
chính là khả năng cạnh tranh của mỗi quốc gia, hay một ngành, một công ty
xí nghiệp.

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

16

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

1.2.1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh
Phải nói rằng thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi
trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo, trong giao tiếp hàng
ngày của các chuyên gia kinh tế, các chính sách của các nhà kinh doanh.
Nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao trong các học giả và giới
chuyên môn về khả năng cạnh tranh của công ty
*Theo cách tiếp cận khả năng cạnh tranh ở tầm quốc gia
+ Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm diễn đàn kinh tế thế giới

(gọi

tắt là WEF). Theo định nghĩa của WEF thì khả năng cạnh tranh của một quốc
gia là khả năng đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính

sách, thể chế vững vàng tương đối và các đặc trưng kinh tế khác

(WEF-1997).

Như vậy khả năng cạnh tranh của một quốc gia được xác định trước hết
bằng mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân và sự có mặt ( hay thiếu
vắng) các yếu tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính
sách kinh tế đó được thực hiện. Ví dụ điển hình là Nhật bản, sau chiến tranh thế
giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản trở nên hoang tàn, nhân dân chìm trong cảnh
mất mùa, thiếu thốn. Vậy mà đến năm 1968 Nhật bản đó trở thành một nước có
nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới ( sau Mỹ) và được xếp hàng các cường
quốc kinh tế lớn nhất, kỷ lục về sự tăng trưởng kinh tế này là một trong những
đỉnh cao để xác định năng lực cạnh tranh lớn của nền kinh tế Nhật bản. Cũng
theo WEF thì các yếu tố xác định khả năng cạnh tranh được chia làm 8 nhóm
chính bao gồm 200 chỉ số khác nhau, các nhóm yếu tố xác định khả năng cạnh
tranh tổng thể chủ yếu có thể kể ra là:
Nhóm 1: Mức độ mở cửa nền kinh tế thế giới bao gồm các yếu tố thuế
quan, hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái.

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

17

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh


Nhóm 2: Nhóm các chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của chính
phủ bao gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, thuế và
mức độ trốn thuế, chính sách tài khoá.
Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính bao gồm các nội dung về khả năng thực
hiện các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính
đầy đủ và tiết kiệm.
Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm năng lực phát triển công nghệ
trong nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát
triển công nghệ thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác.
Nhóm 5: Các yếu tố và kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc và kết cấu
hạ tầng khác.
Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số và quản trị nguồn nhân lực và các
yếu tố quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực.
Nhóm 7: Các yếu tố về lao động bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề
và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các
chương trình xã hội , quan hệ lao động trong một ngành.
Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các yếu tố về chất lượng, các thể chế
về pháp lý, các luật và văn bản pháp quy khác.
Dựa vào các nhóm chỉ số này có thể đánh giá, xem xét để rút ra kết luận
về việc định liệu các chính sách, biện pháp đó được sử dụng ở một Quốc gia có
thực sự nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế không. Chẳng hạn những năm
qua chính phủ Việt Nam đó đưa ra chủ trương khuyến khích phát triển các loại
hình doanh nghiệp hợp tác liên doanh, liên kết với nước ngoài nhằm học hỏi
kinh nghiệm chuyển giao công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Thế nhưng hiệu quả
kinh tế đem lại không lấy gì làm chắc chắn.

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4


18

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

+ Cách tiếp cận dựa trên quan điểm của M.Poter về chỉ số năng suất
Ông cho rằng chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về năng
lực cạnh tranh quốc gia bởi vỡ đây là yếu tố cơ bản cho việc nâng cao sức sống
của một đất nước. Xét về dài hạn chỉ số năng suất này phụ thuộc vào trình độ
phát triển và tính năng động của các doanh nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh
của một quốc gia phụ thuộc vào việc các yếu tố nào trong nền kinh tế quốc dân,
giữ vai trò quyết định cơ bản cho phép các công ty sáng tạo và duy trì và lợi thế
cạnh tranh trên mọi lĩnh vực cụ thể. Với cách nhìn nhận vấn đề như vậy M.Poter
đó đưa ra một khuôn khổ các yếu tố tạo nên lợi thế canh tranh của một quốc gia
và Ông gọi đó là “khối lượng kim cương các lợi thế cạnh tranh” bao gồm các
nhóm được phân chia một cách tương đối.
- Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất (thể hiện vị thế của một quốc
gia về nguồn lao động được đào tạo, có tay nghề, về tài nguyên, kết cấu hạ tầng,
tiềm năng khoa học và công nghệ).
- Nhóm các điều kiện về cầu: Phản ánh bản chất của nhu cầu thị trường
trong nước đối với sản phẩm và dịch vụ của một ngành.
- Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lược của doanh nghiệp và
của đối thủ cạnh tranh.
- Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có khả
năng cạnh tranh quốc tế.
*Tiếp cận khả năng tranh ở cấp ngành, cấp công ty.

+ Quan điểm của M.Poter
Dựa theo quan điểm quản trị chiến lược được phản ánh trong các cuốn
sách của M.Poter, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là năng
chiếm lĩnh thị trường, tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay thế)
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

19

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

của công ty đó. Với cách tiếp cận này mỗi ngành dù là trong hay ngoài nước
năng lực cạnh tranh được quy định bởi các yếu tố sau:
- Số lượng các doanh nghiệp mới tham gia.
- Sự có mặt của các sản phẩm thay thế
- Vị thế của khách hàng
- Uy tín của nhà cung ứng
- Tính quyết liệt của đối thủ cạnh tranh
Nghiên cứu những yếu tố cạnh tranh này sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp xây
dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh cạnh tranh phù hợp với trong giai đoạn,
thời kỳ phát triển thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
+ Quan điểm tân cổ điển về khả năng cạnh tranh của một sản phẩm
Quan điểm này dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống, đó xem xét
khả năng cạnh tranh của một sản phẩm thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản
xuất và năng suất. Như vậy khả năng cạnh tranh của một ngành, công ty được

đánh giá cao hay thấp tuỳ thuộc vào chi phí sản xuất có giảm bớt hay không và
chi phí các yếu tố sản xuất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế
cạnh tranh
+ Quan điểm tổng hợp của VarDwer, E.Martin và R.Westgren
VarDwer, E.martin và R.Westgren là những đồng tác giả của cuốn
“Assessing the competiviveness of Canada’s agrifood Industry”- 1991. Theo các
tác giả này thì khả năng cạnh tranh của một ngành, của công ty được thể hiện ở
việc tạo ra và duy trì lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong nước và nước
ngoài. Như vậy lợi nhuận và thị phần, hai chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh
của công ty. Chúng có mối quan hệ tỷ lệ thuận, lợi nhuận và thị phần càng lớn

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

20

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

thể hiện khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao. Ngược lại, lợi nhuận
và thị phần giảm hoặc nhỏ phán ánh năng lực cạnh tranh của công ty bị hạn chế
hoặc chưa cao. Tuy nhiên chúng chỉ là những chỉ số tổng hợp bao gồm chỉ số
thành phần khác nhau như:
- Chỉ số về năng suất bao gồm năng suất lao động và tổng năng suất các
yếu tố sản xuất
- Chỉ số về công nghệ bao gồm các chỉ số về chi phí cho nghiên cứu và

triển khai
- Sản phẩm bao gồm các chỉ số về chất lượng, sự khác biệt
- Đầu vào và các chi phí khác: giá cả đầu vào và hệ số chi phí các nguồn
lực.
Có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về khả năng cạnh tranh.
Song bài viết này không nhằm mục đích phân tích ưu nhược điểm của quan
điểm đó mà chỉ mong muốn giới thiệu khái quát một số quan niệm điển hình
giúp cho việc tiếp cận một phạm trù phổ biến nhưng còn nhiều tranh cãi về khái
niệm được dễ dàng hơn.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh.
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. ở đâu có
nền kinh tế thị trường thì ở đó có nền kinh tế cạnh tranh. Bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị trường muốn
doanh nghiệp mình tồn tại và đứng vững thì phải chấp nhận cạnh tranh. Trong
giai đoạn hiện nay do tác động của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh
tế nước ta đang ngày càng phát triển, nhu cầu cuộc sống của con người được
nâng lên ở mức cao hơn rất nhiều.Con người không chỉ cần có nhu cầu “ăn
chắc mặc bền” như trước kia mà còn cần “ăn ngon mặc đẹp”. Để đáp ứng kịp

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

21

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh


thời nhu cầu đó, doanh nghiệp phải không ngừng điều tra nghiên cứu thị
trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp nào bắt kịp và đáp
ứng đầy đủ nhu cầu đó thì sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Chính vì vậy cạnh
tranh là rất cần thiết, nó giúp cho doanh nghiệp:
- Tồn tại và đứng vững trên thị trường: Cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường
kinh doanh và những điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu khách hàng, làm
cho khách hàng tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp
với thị hiếu nhu cầu của người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào càng đáp
ứng tốt nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại
trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Doanh nghiệp cần phải cạnh tranh để phát triển
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là
một yếu tố kích thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy
phát triển sản xuất, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá sản xuất
ra nhiều, số lượng người cung ứng ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng
khốc liệt, kết quả cạnh tranh là loại bỏ những Công ty làm ăn không hiệu quả,
năng suất chất lượng thấp và ngược lại nó thúc đẩy những Công ty làm ăn tốt,
năng suất chất lượng cao. Do vậy, muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp
cần phải cạnh tranh, tìm mọi cách nâng cao khả năng cạnh tranh của mình
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Các doanh nghiệp cần phải tìm
mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng như sản xuất
ra nhiều loại hàng hóa chất lượng cao, giá cả phù hợp với chất lượng sản
phẩm, phù hợp với mức thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Có như vậy
hàng hóa của doanh nghiệp bán ra mới ngày một nhiều, tạo được lòng tin đối
với khách hàng. Muốn tồn tại và phát triển được thì doanh nghiệp cần phải
phát huy hết ưu thế của mình, tạo ra những điểm khác biệt so với các đối thủ

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4


22

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

cạnh tranh từ đó doanh nghiệp mới có khả năng tồn tại, phát triển và thu được
lợi nhuận cao.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì cạnh tranh
luôn là mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó khách
hàng là người tự do lựa chọn nhà cung ứng và cũng chính là những người
quyết định cho doanh nghiệp có tồn tại hay không. Họ không phải tìm đến
doanh nghiệp như trước đây nữa và họ cũng không phải mất thời gian chờ đợi
để mua hàng hoá dịch vụ, mà đối ngược lại trong nền kinh tế thị trường khách
hàng được coi là thượng đế, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì
phải tìm đến khách hàng và khai thác nhu cầu nơi họ. Điều này đòi hỏi doanh
nghiệp phải có những chương trình giới thiệu truyền bá và quảng cáo sản
phẩm của mình để người tiêu dùng biết đến, để họ có sự xem xét, đánh giá và
quyết định có nên tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp hay không?. Ngày
nay việc chào mời để khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình đó là vấn đề
khó khăn nhưng việc giữ lại được khách hàng còn khó khăn hơn rất nhiều.
Bởi vậy mà doanh nghiệp nên có những dịch vụ trước khi bán, trong khi bán
và dịch vụ sau khi bán hàng hoá cho khách hàng để những khách hàng đã là
những khách hàng truyền thống của doanh nghiệp, chính họ là những nhân tố
quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp phải cạnh tranh để thực hiện các mục tiêu

Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt động
kinh doanh đều có những mục tiêu nhất định. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn
phát triển của doanh nghiệp mà doanh nghiệp đặt ra cho mình những mục tiêu
khác nhau. Trong giai đoạn đầu khi mới thực hiện hoạt động kinh doanh thì
mục tiêu của doanh nghiệp là muốn khai thác thị trường nhằm tăng lượng
khách hàng truyền thống và tiềm năng, giai đoạn này doanh nghiệp thu hút
được càng nhiều khách hàng càng tốt. Cũng ở giai đoạn trưởng thành và phát
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

23

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

triển thì mục tiêu của doanh nghiệp là tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và giảm
chi phí, giảm bớt những chi phí được coi là không cần thiết, để lợi nhuận thu
được là tối đa, uy tín của doanh nghiệp và niềm tin của khách hàng đối với
doanh nghiệp là cao nhất. Đến giai đoạn gần như bão hoà thì mục tiêu chủ
yếu của doanh nghiệp là gây dựng lại hình ảnh đối với khách hàng bằng cách
thực hiện trách nhiệm đối với Nhà nước, đối với cộng đồng, củng cố lại thêm
niềm tin cho của khách hàng đối với doanh nghiệp. Để đạt được các mục tiêu
doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới
bằng mọi giá tìm ra phương cách, biện pháp tối ưu để sáng tạo, tạo ra những
sản phẩm đạt chất lượng cao hơn, cung ứng những dịch vụ tốt hơn đối thủ
cạnh tranh, thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày càng tăng. Chỉ có cạnh tranh

thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
1.2.3.1 Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố thuộc yếu tố bên trong doanh
nghiệp. Các yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh
và khả năng cạnh tranh của Công ty. Bởi vậy mà nó được coi là các yếu tố cấu
thành khả năng cạnh tranh của Công ty.
1.2.3.1.1. Khả năng về tài chính.
Vốn là tiền đề vật chất cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bất cứ hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xem xét
tính toán đến tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực
lớn về tài chính sẽ rất thuận lợi trong việc huy động vốn đầu tư, trong mua sắm
đổi mới công nghệ và máy móc cũng như có điều kiện để đào tạo và đội ngũ
nhân sự. Những thuận lợi đó sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được trình độ
chuyên môn tay nghề cho cán bộ, nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ
Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

24

Chuyên đề tốt nghiệp


Trường ĐH Công Nghiệp Hà Nội

Khoa Quản Lý Kinh Doanh

thấp chi phí để nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
nghiệp nào yếu kém về tài chính sẽ không có điều kiện để mua sắm, trang trải
nợ và như vậy sẽ không tạo được uy tín về khả năng thanh toán và khả năng đáp

ứng những sản phẩm có chất lượng cao đối với khách hàng. Làm cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp không tiến triển được và có nguy cơ bị thụt lùi
hoặc phá sản. Như vậy khả năng tài chính là yếu tố quan trọng đầu tiên để doanh
nghiệp hình thành và phát triển.
1.2.3.1.2. Nguồn lực và vật chất kỹ thuật
Nguồn lực vật chất kỹ thuật sẽ phản ánh thực lực của doanh nghiệp đối
với thủ cạnh tranh về trang thiết bị hiện có được tận dụng và khai thác trong quá
trình hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Bởi vì:
Trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị
máy móc, công nghệ hiện đại thì các sản phẩm của doanh nghiệp nhất định sẽ
được bảo toàn về chất lượng khi đến tay người tiêu dùng. Có hệ thống máy móc
hiện đại sẽ thúc đẩy nhanh qua trình tiêu thụ hàng hoá, tăng nhanh vòng quay về
vốn, giảm bớt được khâu kiểm tra về chất lượng hàng hoá có được bảo đảm hay
không. Nếu xét về công nghệ máy móc có ảnh hưởng đến giá thành của sản
phẩm và như vậy sẽ ảnh hưởng đến giá bán của doanh nghiệp thương mại. Ngày
nay do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cuộc chiến giữa
các doanh nghiệp đang trở thành cuộc cạnh tranh về trí tuệ, về trình độ công
nghệ. Công nghệ tiên tiến không những đảm bảo năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm cao, giá thành hạ mà còn có thể xác lập tiêu chuẩn mới cho từng
ngành sản xuất kỹ thuật. Mặt khác khi mà việc bảo vệ môi trường như hiện nay
đang trở thành một vấn đề của toàn cầu thì doanh nghiệp nào có trình độ công
nghệ cao thiết bị máy móc nhất định sẽ dành được ưu thế trong cạnh tranh.

Sv: Lại Thị Minh Ngọc
Lớp: CDDH QTKD1 – K4

25

Chuyên đề tốt nghiệp



×