Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần may Sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.14 KB, 83 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH CHU VĂN AN
KHOA KT & QTKD
--- o0o ---
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần may
Sông Hồng
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Đồng Xuân Ninh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Lớp : 07K3C
Khoa: Kinh Tế & Quản Trị Kinh Doanh
Mã số sinh viên: 0754020012
Phú Thọ, ngày 10 tháng 04 năm 2011
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
LỜI MỞ ĐẦU
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường là một bước ngoặt lớn có tính chất cơ bản để nền kinh tế nước ta có thể
đứng vững và phát triển kịp với nền kinh tế thế giới và khu vực. Sự chuyển đổi này
đã kéo theo sự chuyển hướng trong việc lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp. Cơ chế mới này đã mở ra một thời kỳ mới đầy cơ hội phát triển nhưng
cũng nhiều thách thức lớn đối với các thành phần kinh tế cũng như các doanh nghiệp
ở Việt Nam.
Hoạt động trong cơ chế thị trường mọi doanh nghiệp phải tự thân vận động, tự
quyết định mọi vấn đề về kinh doanh của mình, không có sự phân công chỉ đạo trực
tiếp như trong cơ chế cũ, vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có tính linh hoạt cao.
Chính vì sự sống còn và phát triển của mỗi doanh nghiệp mà đã có sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp với nhau. Cạnh tranh từ đó đã ra đời, góp phần giúp cho các doanh


nghiệp khẳng định được sức mạnh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Ngược lại, đó
cũng là yếu tố loại bỏ những doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả, không có sức
cạnh tranh.
Khi nền kinh tế càng phát triển, các thành phần kinh tế ngày càng đa dạng, số
lượng các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều thì cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Mỗi doanh nghiệp để đảm bảo cho sự tồn tại của mình đã đưa ra những chiến lược
cạnh tranh táo bạo nhằm không ngừng tăng cường khả năng cạnh tranh cho mình.
Mặt khác, các doanh nghiệp không bao giờ tự thỏa mãn với thị trường chiếm lĩnh
được (điều này rất nguy hiểm, có thể sẽ kéo theo sự diệt vong của doanh nghiệp) nên
luôn tìm cách vươn lên, mở rộng thị trường. Và vì vậy, cần phải xây dựng một chiến
lược cạnh tranh với những công cụ, biện pháp thích hợp nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh trên thị trường.
Xuất phát từ tầm quan trọng của cạnh tranh đối với mỗi doanh nghiệp, cùng
với quá trình tìm hiểu thực tế trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần may Sông
Hồng, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh
của Công ty cổ phần may Sông Hồng” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của mình.
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề được kết cấu chia làm 3
phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng và khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần may
Sông Hồng.
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
Công ty cổ phần may Sông Hồng.
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
3

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
I- Lý thuyết cạnh tranh
1. Khái niệm cạnh tranh
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, các khái
niệm liên quan đến cạnh tranh còn rất khác nhau.
Theo Mác: “Cạnh tranh là sự phấn đấu ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và trong tiêu thụ để đạt
được những lợi nhuận siêu ngạch ”.
Có quan niệm khác lại cho rằng: “Cạnh tranh là sự phấn đấu về chất lượng sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình sao cho tốt hơn các doanh nghiệp khác”. (Theo
nhóm tác giả cuốn “Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước”).
Theo kinh tế chính trị học: “Cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối
thủ nhằm giành lấy thị trường, khách hàng cho doanh nghiệp mình”.
Để hiểu một cách khái quát nhất ta có khái niệm như sau: Trong nền kinh tế
thị trường, cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường
nhằm giành được ưu thế hơn về cùng một loại sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ, về
cùng một loại khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh.
Từ khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung snag nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất hiện và len lỏi
vào từng bước đi của các doanh nghiệp. Môi trường hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lúc này đầy sự biến động và vấn đề cạnh tranh đã trở nên cấp bách, sôi động
trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Như vậy, trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, trong bất cứ một lĩnh vực nào, bất cứ một hoạt động nào của con
người cũng nổi cộm lên vấn đề cạnh tranh. Ví dụ như: Các quốc gia cạnh tranh nhau
để giành lợi thế trong đối ngoại, trao đổi. Các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để lôi
cuốn khách hàng về phía mình, để chiếm lĩnh những thị trường có nhiều lợi thế. Con
người cạnh tranh nhau để vươn lên khẳng định vị trí của mình cả về trình độ chuyên

môn nghiệp vụ để những người dưới quyền phục tùng mệnh lệnh, để có uy tín và vị
thế trong quan hệ với các đối tác. Như vậy có thể nói cạnh tranh đã hình thành và bao
trùm lên mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ tầm vi mô đến vĩ mô, từ một cá nhân riêng lẻ
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
đến tổng thể toàn xã hội. Điều này xuất phát từ một lẽ đương nhiên nước ta đã và
đang bước vào giai đoạn phát triển cao về mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn
hóa…Mà bên cạnh đó cạnh tranh vốn là một quy luật tự nhiên và khách quan của
nền kinh tế thị trường, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi người bởi
tự do là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh, cạnh tranh là động lực để thúc đẩy sản xuất,
lưu thông hàng hóa phát triển. Bởi vậy để giành được các điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên động não,
tích cực, nhạy bén và năng động, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa
học kỹ thuật công nghệ mới, bổ sung xây dựng các cơ sở hạ tầng, mua sắm thêm
trang thiết bị máy móc, loại bỏ những máy móc đã cũ kỹ và lạc hậu. Và điều quan
trọng là phải có phương pháp tổ chức quản lý có hiệu quả, đào tạo và đãi ngộ trình độ
chuyên môn, tay nghề cho người lao động. Thực tế cho thấy, ở đâu thiếu sự cạnh
tranh thường ở đó biểu hiện sự trì trệ và yếu kém, sẽ dẫn đến doanh nghiệp sẽ mau
chóng bị đào thải ra khỏi quy luật vận động của nền kinh tế thị trường. Để thúc đẩy
tiêu thụ và đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa, các doanh nghiệp cần phải nghiên
cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Do đó, cạnh tranh không
chỉ kích thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí mà còn cải tiến mẫu mã, chủng
loại hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ, làm cho sản xuất
ngày càng gắn liền với tiêu dùng, phục vụ ngu cầu xã hội được tốt hơn. Cạnh tranh là
một điều kiện đồng thời là một yếu tố kích thích hoạt động kinh doanh phát triển.
Bên cạnh những mặt tích cực, cạnh tranh còn để lại nhiều hạn chế và tiêu cực. Đó là
sự phân hóa sản xuất hàng hóa, làm phá sản những doanh nghiệp kinh doanh gặp
nhiều khó khăn do thiếu vốn, cơ sở hạ tầng hạn hẹp, trình độ công nghệ thấp và có
thể làm cho doanh nghiệp phá sản khi doanh nghiệp gặp những rủi ro khách quan

mang lại như thiên tai, hỏa hoạn…hoặc bị rơi vào những hoàn cảnh, điều kiện không
thuận lợi.
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất đó là
cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường với nhau, kinh
doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự thay thế lẫn nhau
nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận.Các doanh nghiệp thương mại
cần nhận thức đúng đắn về cạnh tranh theo khía cạnh tích cực để từ đó phát huy yếu
tố nội lực, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mặt khác tránh tình trạng cạnh
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
tranh bất hợp lý dẫn đến làm tổn hại đến lợi ích cộng đồng cũng như làm suy yếu
chính mình.
Doanh nghiệp thương mại mang tính đặc thù phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt
hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
2. Vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, phạm trù cạnh tranh hầu như
không tồn tại giữa các doanh nghiệp, tại thời điểm này các doanh nghiệp hầu như đã
được nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn, chi phí cho mọi hoạt động, kể cả khi các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trách nhiệm này cũng thuộc về Nhà nước. Vì vậy, vô
hình dung Nhà nước đã tạo ra một lối mòn trong kinh doanh, một thói quen trì trệ và ỉ
nại, doanh nghiệp không phải tự tìm kiếm khách hàng mà chỉ có khách hàng tự tìm
đến doanh nghiệp. Chính điều đó đã không tạo được động lực cho doanh nghiệp phát
triển. Sau khi kết thúc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), nước ta đã chuyển
sang một giai đoạn mới. Nền kinh tế thị trường được hình thành thì vấn đề cạnh tranh
xuất hiện và có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn
đối với người tiêu dùng cũng như nền kinh tế quốc dân nói chung.
2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Đối với nền kinh tế, cạnh tranh không chỉ là môi trường và động lực của sự
phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng năng xuất lao động

mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hóa quan hệ xã hội. Cạnh tranh còn là
điều kiện giáo dục tính năng động của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cạnh tranh
góp phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự xuất hiện của những
sản phẩm mới. Điều đó chứng tỏ đời sống của con người ngày càng được nâng cao
về chính trị, về kinh tế và văn hóa xã hội. Cạnh tranh đảm bảo thúc đẩy sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển sâu và
rộng. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích to lớn mà cạnh tranh đem lại thì nó vẫn còn
những mặt hạn chế như: cạnh tranh không lành mạnh tạo sự phân hóa giàu nghèo;
cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến có những manh mối làm ăn vi phạm pháp
luật như trốn thuế, lậu thuế, buôn lậu hàng giả, buôn bán trái phép những mặt hàng
mà Nhà nước và pháp luật nghiêm cấm.
2.2. Đối với doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào các hoạt động kinh
doanh trên thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình tồn tại và đứng vững. Để tồn
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
tại và đứng vững được thì các doanh nghiệp phải có những chiến lược cạnh tranh cụ
thể và lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Họ cạnh tranh để giành
những lợi thế về phía mình, cạnh tranh để giành giật khách hàng, làm cho khách hàng
tự tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu, nhu cầu
người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng kịp
thời, nhanh chóng và đầy đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kèm theo với mức giá
phù hợp thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại và phát triển. Do vậy cạnh tranh
là rất quan trọng và cần thiết.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt đầu từ
việc nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và
sản xuất cho ai?. Nghiên cứu thị trường để doanh nghiệp xác định được nhu cầu thị
trường và chỉ sản xuất ra những gì mà thị trường cần chứ không sản xuất ra những gì
mà doanh nghiệp có. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có

chất lượng cao hơn, tiện dụng với người tiêu dùng hơn. Muốn vậy các doanh nghiệp
phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh,
tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, cử các cán
bộ đi học để nâng cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh thắng lợi sẽ tạo cho doanh
nghiệp một vị trí xứng đáng trên thị trường, tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Trên
cơ sở đó sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, tái sản xuất xã hội, tạo đà phát
triển mạnh mẽ cho nền kinh tế.
2.3. Đối với ngành
Hiện nay đối với nền kinh tế nói chung và đối với ngành dệt may nói riêng,
cạnh tranh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nâng cao chất lượng
sản phẩm. Cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh sẽ tạo bước đà vững chắc cho mọi
ngành nghề phát triển. Nhất là đối với ngành dệt may- một ngành có vai trò chủ lực
trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh sẽ tạo bước đà và động lực
cho ngành phát triển trên cơ sở khai thác lợi thế và điểm mạnh của ngành đó là thu
hút được một nguồn lao động dồi dào và có thể khai thác tối đa nguồn lực đó.
Như vậy, trong bất cứ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mô hoạt
động lớn hay quy mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đứng ở tầm vĩ mô hay vi mô
thì không thể thiếu sự có mặt và vai trò của yếu tố cạnh tranh.
2.4. Đối với sản phẩm
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
Nhờ có cạnh tranh mà sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng cao về chất
lượng, phong phú về chủng loại, mẫu mã và kích cỡ. Giúp cho lợi ích của người tiêu
dùng và của doanh nghiệp thu được ngày càng nhiều hơn. Ngày nay các sản phẩm
được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn cung cấp và xuất
khẩu ra nước ngoài. Qua những ý nghĩa trên ta thấy rằng cạnh tranh không thể thiếu
sót ở bất cứ một lĩnh vực nào của nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh sẽ thực sự tạo ra
những nhà doanh nghiệp giỏi và đồng thời là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, đảm bảo công bằng xã hội. Bởi vậy cạnh tranh là một yếu tố rất cần có sự hỗ

trợ và quản lý của Nhà nước để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt
tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến độc quyền và gây lũng đoạn, xáo
trộn thị trường.
3. Các hình thức cạnh tranh
Cạnh tranh được phân loại theo các hình thức khác nhau:
3.1. Căn cứ vào các chủ thể tham gia cạnh tranh
Cạnh tranh được chia thành ba loại:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo
quy luật mua rẻ bán đắt, cả hai bên đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Người bán
muốn bán với giá cao nhất để tối đa hóa lợi nhuận còn người mua muốn mua với giá
thấp nhưng chất lượng vẫn được đảm bảo và mức giá cuối cùng vẫn là mức giá thỏa
thuận giữa hai bên.
- Cạnh tranh giữa người mua và người mua: Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở
quy luật cung cầu, khi trên thị trường mức cung nhỏ hơn mức cầu. Lúc này hàng hóa
trên thị trường sẽ khan hiếm, người mua để đạt được nhu cầu mong muốn của mình
họ sẽ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn. Do vậy mức độ cạnh tranh sẽ diễn ra gay
gắt hơn giữa những người mua, kết quả là giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, những người
bán sẽ thu được lợi nhuận lớn trong khi những người mua bị thiệt thòi cả về giá cả và
chất lượng. Nhưng trường hợp này chủ yếu chỉ tồn tại ở nền kinh tế bao cấp và xảy ra
ở một số nơi khi diễn ra hoạt động bán đấu giá một loại hàng hóa nào đó.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây là cuộc cạnh tranh gay go
và quyết liệt nhất khi mà trong nền kinh tế thị trường sức cung lớn hơn sức cầu rất
nhiều, khách hàng được coi là thượng đế của người bán, là nhân tố có vai trò quan
trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp
phải luôn ganh đua, loại trừ nhau để giành những ưu thế và lợi thế cho mình.
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
3.2. Căn cứ theo tính chất và mức độ cạnh tranh
- Cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh thuần túy, là một hình thức đơn giản

của cấu trúc thị trường trong đó người mua và người bán đều không đủ lớn để tác
động lên giá cả thị trường. Nhóm người mua tham gia trên thị trường này chỉ có cách
thích ứng với mức giá đưa ra vì cung cầu trên thị trường được tự do hình thành, giá
cả do thị trường quyết định.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: Đây là hình thức cạnh tranh phổ biến trên thị
trường mà ở đó doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh có thể chi phối được giá cả của
sản phẩm thông qua hình thức quảng cáo, khuyến mại các dịch vụ trong và sau khi
bán hàng. Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh mà phần lớn các sản phẩm không
đồng nhất với nhau, mỗi loại sản phẩm mang nhãn hiệu và đặc tính khác nhau dù
xem xét về chất lượng thì sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể nhưng
mức giá mặc định cao hơn rất nhiều. Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại:
+ Cạnh tranh độc quyền: Là cạnh tranh mà ở đó một hoặc một số chủ thể có
ảnh hưởng lớn, có thể ép các đối tác của mình phải bán hoặc mua sản phẩm của mình
với giá rất cao và những người này có thể làm thay đổi giá cả thị trường. Có hai loại
cạnh tranh độc quyền đó là độc quyền bán và độc quyền mua. Độc quyền bán tức là
trên thị trường có ít người bán và nhiều người mua, lúc này người bán có thể tăng giá
hoặc ép giá khách hàng nếu họ muốn lợi nhuận thu được là tối đa. Còn độc quyền
mua tức là trên thị trường có ít người mua và nhiều người bán, khi đó khách hàng
được coi là thượng đế, được chăm sóc tận tình và chu đáo nếu không những người
bán sẽ không lôi kéo được khách hàng về phía mình. Trong thực tế có tình trạng độc
quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay thế, tạo ra sản phẩm độc quyền hoặc
các nhà độc quyền liên kết với nhau gây trở ngại cho quá trình phát triển sản xuất và
làm tổn hại đến người tiêu dùng. Vì vậy phải có một đạo luật chống độc quyền nhằm
chống lại liên minh độc quyền của một số nhà kinh doanh.
+ Cạnh tranh độc quyền tập đoàn: Hình thức cạnh tranh này tồn tại trong một
số ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít người sản xuất. Lúc này cạnh tranh sẽ xảy
ra giữa một số lực lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy mọi doanh nghiệp phải nhận
thức rằng giá cả các sản phẩm của mình không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn
phụ thuộc vào hoạt động của những đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường. Một sự
thay đổi về giá của doanh nghiệp cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng đến nhu cầu cân

đối với các sản phẩm của doanh nghiệp khác. Những doanh nghiệp tham gia thị
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
trường này là những người có tiềm lực kinh tế mạnh, vốn đầu tư lớn. Do vậy việc
thâm nhập vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh là rất khó.
3.3. Căn cứ vào phạm vi kinh tế
- Cạnh tranh nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, sản xuất và tiêu dùng cùng một chủng loại sản phẩm. Trong cuộc
cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn nhau, các doanh nghiệp phải áp dụng mọi biện
pháp để thu được lợi nhuận như cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động, giảm
chi phí cá biệt của hàng hóa nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả là trình độ
sản xuất ngày càng phát triển, các doanh nghiệp không có khả năng sẽ bị thu hẹp,
thậm chí còn có thể bị phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các ngành kinh tế khác nhau
nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng
minh các doanh nghiệp của một ngành với ngành khác. Như vậy giữa các ngành kinh
tế do điều kiện kỹ thuật và các điều kiện khác nhau như môi trường kinh doanh, thu
nhập khu vực, nhu cầu và thị hiếu có tính chất khác nhau nên cùng một lượng vốn
đầu tư vào ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn các ngành khác. Điều
đó dẫn đến tình trạng nhiều người sản xuất kinh doanh ở những lĩnh vực có tỷ suất
lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển dịch sang sản xuất tại những ngành có tỷ suất lợi
nhuận cao hơn, đó chính là biện pháp để thực hiện cạnh tranh giữa các ngành. Kết
quả là những ngành trước kia có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút các nguồn lực, quy
mô sản xuất tăng. Do đó cung vượt quá cầu làm cho giá cả hàng hóa có xu hướng
giảm xuống, làm giảm tỷ suất lợi nhuận. Ngược lại những ngành trước đây có tỷ suất
lợi nhuận thấp khiến cho một số nhà đầu tư rút vốn chuyển sang lĩnh vực khác làm
cho quy mô sản xuất của ngành này giảm, dẫn đến cung nhỏ hơn cầu, làm cho giá cả
hàng hóa tăng và làm tăng tỷ suất lợi nhuận.
4. Các công cụ cạnh tranh

Công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được hiểu là tập hợp các yếu tố,
các kế hoạch, các chiến lược, các chính sách, các hoạt động mà doanh nghiệp sử
dụng nhằm vượt trên các đối thủ cạnh tranh và tác động vào khách hàng để thỏa mãn
mọi nhu cầu của khách hàng. Từ đó tiêu thụ được nhiều sản phẩm, thu được lợi
nhuận cao. Nghiên cứu các công cụ cạnh tranh cho phép các doanh nghiệp lựa chọn
những công cụ cạnh tranh phù hợp với tình hình thực tế, với quy mô kinh doanh và
thị trường của doanh nghiệp. Từ đó phát huy được hiệu quả sử dụng công cụ, việc
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
lựa chọn công cụ cạnh tranh có tính linh hoạt và phù hợp không theo một khuôn mẫu
cứng nhắc nào. Dưới đây là một số công cụ cạnh tranh tiêu biểu và quan trọng mà các
doanh nghiệp thương mại thường phải dùng đến chúng.
4.1. Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản phẩm
thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp
với công dụng lợi ích của sản phẩm. Nếu như trước kia giá cả được coi là quan trọng
nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó phải nhường chỗ cho tiêu chuẩn chất lượng sản
phẩm. Khi có cùng một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm nào tốt hơn, đáp ứng và
thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng thì họ sẵn sàng mua với mức giá cao
hơn. Nhất là trong nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của sản xuất, thu
nhập của người lao động ngày càng được nâng cao, họ có đủ điều kiện để thoả mãn
nhu cầu của mình, cái mà họ cần là chất lượng và lợi ích sản phẩm đem lại. Nếu nói
rằng giá cả là yếu tố mà khách hàng không cần quan tâm đến là hoàn toàn sai bởi giá
cả cũng là một trong những yếu tố quan trọng để khách hàng tiêu dùng cho phù hợp
với mức thu nhập của mình. Điều mong muốn của khách hàng và của bất cứ ai có
nhu cầu mua hay bán là đảm bảo được hài hoà giữa chất lượng và giá cả.
Để sản phẩm của doanh nghiệp luôn là sự lựa chọn của khách hàng ở hiện tại
và trong tương lai thì nâng cao chất lượng sản phẩm là điều cần thiết. Nâng cao chất
lượng sản phẩm là sự thay đổi chất liệu sản phẩm hoặc thay đổi công nghệ chế tạo

đảm bảo lợi ích và tính an toàn trong quá trình tiêu dùng và sau khi tiêu dùng. Hay
nói cách khác nâng cao chất lượng sản phẩm là việc cải tiến sản phẩm có nhiều chủng
loại, mẫu mã, bền hơn và tốt hơn. Điều này làm cho khách hàng cảm nhận lợi ích mà
họ thu được ngày càng tăng lên khi duy trì tiêu dùng sản phẩm của doang nghiệp.
Làm tăng lòng tin và sự trung thành của khách hàng đối với doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm được coi là một vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp
nhất là đối với doanh nghiệp Việt Nam khi mà họ phải đương đầu đối với các đối thủ
cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Một khi chất lượng hàng hoá dịch vụ không
được bảo đảm thì có nghĩa là khách hàng sẽ đến với doanh nghiệp ngày càng giảm,
doanh nghiệp sẽ mất khách hàng và thị trường dẫn tới sự suy yếu trong hoạt động
kinh doanh. Mặt khác chất lượng thể hiện tính quyết định khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp ở chỗ nâng cao chất lượng sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng
khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Nâng cao chất lượng
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
sản phẩm sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp. Do vậy cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm là một yếu tố rất
quan trọng và cần thiết mà bất cứ doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều phải sử dụng
nó.
4.2. Cạnh tranh bằng giá cả
Giá cả được hiểu là số tiền mà người mua trả cho người bán về việc cung ứng
một số hàng hoá dịch vụ nào đó. Thực chất giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị
hao phí lao động sống và hao phí lao động vật hoá để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp, khách hàng được tôn vinh là “Thượng đế” họ có quyền
lựa chọn những gì họ cho là tốt nhất, khi có cùng hàng hoá dịch vụ với chất lượng
tương đương nhau thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá thấp hơn, để lợi ích họ thu
được từ sản phẩm là tối ưu nhất. Do vậy mà từ lâu giá cả đã trở thành một biến số
chiến thuật phục vụ mục đích kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp thành công trong việc

cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường là do sự khéo léo, tinh tế chiến thuật giá cả. Giá cả
đã thể hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc định giá sản phẩm: Định giá
thấp hơn giá thị trường, định giá ngang bằng giá thị trường hay chính sách giá cao
hơn giá thị trường.
Với một mức giá ngang bằng với giá thị trường: giúp doanh nghiệp đánh giá
được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được biện pháp giảm giá mà chất lượng
sản phẩm vẫn được đảm bảo khi đó lượng tiêu thụ sẽ tăng lên, hiệu quả kinh doanh
cao và lợi sẽ thu được nhiều hơn.
Với một mức giá thấp hơn mức giá thị trường: chính sách này được áp dụng
khi cơ sở sản xuất muốn tập trung một lượng hàng hoá lớn, thu hồi vốn và lời nhanh.
Không ít doanh nghiệp đã thành công khi áp dụng chính sách định giá thấp. Họ chấp
nhận giảm sút quyền lợi trước mắt đến lúc có thể để sau này chiếm được cả thị
trường rộng lớn, với khả năng tiêu thụ tiềm tàng. Định giá thấp giúp doanh nghiệp
ngay từ đầu có một chỗ đứng nhất định để định vị vị trí của mình từ đó thâu tóm
khách hàng và mở rộng thị trường.
Với chính sách định giá cao hơn giá thị trường: là ấn định giá bán sản phẩm
cao hơn giá bán sản phẩm cùng loại ở thị trường hiện tại khi mà lần đầu tiên người
tiêu dùng chưa biết chất lượng của nó nên chưa có cơ hội để so sánh, xác định mức
giá của loại sản phẩm này là đắt hay rẻ chính là đánh vào tâm lý của người tiêu dùng
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
rằng những hàng hoá giá cao thì có chất lượng cao hơn các hàng hoá khác. Doanh
nghiệp thường áp dụng chính sách này khi nhu cầu thị trường lớn hơn cung hoặc khi
doanh nghiệp hoạt động trong thị trường độc quyền, hoặc khi bán những mặt hàng
quý hiếm cao cấp ít có sự nhạy cảm về giá.
Như vậy, để quyết định sử dụng chính sách giá nào cho phù hợp và thành
công khi sử dụng nó thì doanh nghiệp cần cân nhắc và xem xét kỹ lưỡng xem mình
đang ở tình thế nào thuận lợi hay không thuận lợi, nhất là nghiên cứu xu hướng tiêu
dùng và tâm lý của khách hàng cũng như cần phải xem xét các chiến lược các chính

sách giá mà đối thủ đang sử dụng.
4.3. Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối
Phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh đắc lực bởi
nó hạn chế được tình trạng ứ đọng hàng hoá hoặc thiếu hàng. Để hoạt động tiêu thụ
của doanh nghiệp được diễn ra thông suốt, thường xuyên và đầy đủ doanh nghiệp cần
phải lựa chọn các kênh phân phối nghiên cứu các đặc trưng của thị trường, của khách
hàng. Từ đó có các chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu
của khách hàng. Chính sách phân phối sản phẩm hợp lý sẽ tăng nhanh vòng quay của
vốn, thúc đẩy tiêu thụ, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông thường
kênh phân phối của doanh nghiệp được chia thành 5 loại:
+ Kênh ngắn: Người sản xuất => Người bán lẻ => Người tiêu dùng
+ Kênh cực ngắn: Người sản xuất => Người tiêu dùng
+ Kênh dài: Người sản xuất => Người buôn bán => Người bán lẻ => Người
tiêu dùng
+ Kênh cực dài: Người sản xuất => Đại lý => Người buôn bán => Người bán
lẻ => Người tiêu dùng.
+ Kênh rút gọn: Người sản xuất => Đại lý => Người bán lẻ => Người tiêu
dùng.
Tuỳ theo từng mặt hàng kinh doanh, tuỳ theo vị trí địa lý, tuỳ theo nhu cầu của
người mua và người bán, tuỳ theo quy mô kinh doanh của doanh nghiệp mà sử dụng
các kênh phân phối khác nhau cho hợp lý và mang lại hiệu quả bởi nhiều khi kênh
phân phối có tác dụng như những người môi giới nhưng đôi khi nó lại mang lại
những trở ngại rườm rà.
4.4. Cạnh tranh bằng chính sách Marketing
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì chính sách Marketing
đóng một vai trò rất quan trọng. Bởi khi bắt đầu thực hiện hoạt động kinh doanh,
doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng đang có

xu hướng tiêu dùng những sản phẩm gì?, thu thập thông tin thông qua sự phân tích và
đánh giá doanh nghiệp sẽ đi đến quyết định sản xuất những gì? kinh doanh những gì
mà khách hàng cần, khách hàng có nhu cầu. Trong khi thực hiện hoạt động kinh
doanh thì doanh nghiệp thường sử dụng các chính sách xúc tiến bán hàng thông qua
các hình thức quảng cáo, truyền bá sản phẩm đến người tiêu dùng. Kết thúc quá trình
bán hàng, để tạo được uy tín hơn nữa đối với khách hàng, doanh nghiệp cần thực
hiện các hoạt động dịch vụ trước khi bán, trong khi bán và sau khi bán.
Như vậy chính sách Marketing đã xuyên suốt vào quá trình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, nó vừa có tác dụng chính và vừa có tác dụng phụ để hỗ trợ
các chính sách khác. Do vậy chính sách Marketing không thể thiếu được trong bất cứ
hoạt động nào của doanh nghiệp.
5. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Ở đâu có nền
kinh tế thị trường thì ở đó có nền kinh tế cạnh tranh. Bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị trường muốn doanh nghiệp mình tồn
tại và đứng vững thì phải chấp nhận cạnh tranh. Trong giai đoạn hiện nay do tác động
của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển,
nhu cầu cuộc sống của con người được nâng lên ở mức cao hơn rất nhiều. Con người
không chỉ cần có nhu cầu “ăn chắc mặc bền” như trước kia mà còn cần “ăn ngon mặc
đẹp”. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó, doanh nghiệp phải không ngừng điều tra
nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp nào bắt kịp và
đáp ứng đầy đủ nhu cầu đó thì sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Chính vì vậy cạnh
tranh là rất cần thiết, nó giúp cho doanh nghiệp:
- Tồn tại và đứng vững trên thị trường
Cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường kinh doanh và những điều kiện thuận lợi để
đáp ứng nhu cầu khách hàng, làm cho khách hàng tin rằng sản phẩm của doanh
nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu nhu cầu của người tiêu dùng nhất.
Doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp đó mới
có khả năng tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Doanh nghiệp cần phải cạnh tranh để phát triển

SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là một
yếu tố kích thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy phát triển sản
xuất, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá sản xuất ra nhiều, số lượng
người cung ứng ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh
tranh là loại bỏ những công ty làm ăn kém hiệu quả, năng suất chất lượng thấp và
ngược lại nó thúc đẩy những công ty làm ăn tốt, năng suất chất lượng cao. Do vậy,
muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, tìm mọi cách nâng
cao khả năng cạnh tranh của mình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Các
doanh nghiệp cần phải tìm mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu
dùng như sản xuất ra nhiều loại hàng hoá có chất lượng cao, giá cả phù hợp với chất
lượng sản phẩm, phù hợp với mức thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Có như
vậy hàng hoá của doanh nghiệp bán ra mới ngày một nhiều, tạo được lòng tin đối với
khách hàng. Muốn tồn tại và phát triển được thì doanh nghiệp cần phải phát huy hết
ưu thế của mình, tạo ra những điểm khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh từ đó
doanh nghiệp mới có khả năng tồn tại, phát triển và thu được lợi nhuận cao.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì cạnh tranh luôn là
mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó khách hàng là người tự do
lựa chọn nhà cung ứng và cũng chính là những người quyết định cho doanh nghiệp
có tồn tại hay không. Họ không phải tìm đến doanh nghiệp như trước đây nữa và họ
cũng không phải mất thời gian chờ đợi để mua hàng hoá dịch vụ, mà đối ngược lại
trong nền kinh tế thị trường khách hàng được coi là thượng đế, các doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm đến khách hàng và khai thác nhu cầu nơi họ.
Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có những chương trình giới thiệu truyền bá và
quảng cáo sản phẩm của mình để người tiêu dùng biết đến, để họ có sự xem xét, đánh
giá và quyết định có nên tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp hay không?. Ngày nay
việc chào mời để khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình đã là vấn đề khó khăn
nhưng việc giữ lại được khách hàng còn khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vậy mà doanh

nghiệp nên có những dịch vụ cả trước khi bán, trong khi bán và dịch vụ sau khi bán
hàng hoá cho khách hàng để những khách hàng đó là những khách hàng truyền thống
của doanh nghiệp, chính họ là những nhân tố quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp phải cạnh tranh để thực hiện các mục tiêu
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt động kinh
doanh đều có những mục tiêu nhất định. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của
doanh nghiệp mà doanh nghiệp đặt ra cho mình những mục tiêu khác nhau. Trong
giai đoạn đầu khi mới thực hiện hoạt động kinh doanh thì mục tiêu của doanh nghiệp
là muốn khai thác thị trường nhằm tăng lượng khách hàng truyền thống và tiềm năng,
giai đoạn này doanh nghiệp thu hút được càng nhiều khách hàng càng tốt. Còn ở giai
đoạn trưởng thành và phát triển thì mục tiêu của doanh nghiệp là tăng doanh thu, tăng
lợi nhuận và giảm chi phí, giảm bớt những chi phí được coi là không cần thiết, để lợi
nhuận thu được là tối đa, uy tín của doanh nghiệp và niềm tin của khách hàng đối với
doanh nghiệp là cao nhất. Đến giai đoạn gần như bão hoà thì mục tiêu chủ yếu của
doanh nghiệp là gây dựng lại hình ảnh đối với khách hàng bằng cách thực hiện trách
nhiệm đối với Nhà nước, đối với cộng đồng, củng cố lại thêm niềm tin cho của khách
hàng đối với doanh nghiệp. Để đạt được các mục tiêu doanh nghiệp cần phải cạnh
tranh, chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới bằng mọi giá tìm ra phương cách, biện
pháp tối ưu để sáng tạo, tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng cao hơn, cung ứng
những dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày càng
tăng. Chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển.
II- Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay đổi, thay thế những doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ, sử dụng lãng phí nguồn lực của xã hội bằng các doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội, thúc đẩy nền kinh
tế đất nước phát triển. Tuy nhiên để cạnh tranh được và cạnh tranh một cách lành

mạnh không phải là dễ bởi nó phụ thuộc vào tiềm năng, lợi thế và nhiều yếu tố khác
của doanh nghiệp hay một quốc gia, đó chính là khả năng cạnh tranh của mỗi quốc
gia, hay một ngành, một công ty, một xí nghiệp.
1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh
Phải nói rằng thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo, trong giao tiếp hàng ngày của các
chuyên gia kinh tế, các chính sách của các nhà kinh doanh. Nhưng cho đến nay vẫn
chưa có được sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
* Theo cách tiếp cận khả năng cạnh tranh ở tầm quốc gia:
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
+ Cách tiếp cận dựa trên quan điểm diễn đàn kinh tế thế giới (gọi tắt là WEF).
Theo định nghĩa của WEF thì khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt
được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững vàng
tương đối và các đặc trưng kinh tế khác (WEF-1997).
Như vậy khả năng cạnh tranh của một quốc gia được xác định trước hết bằng
mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân và sự có mặt ( hay thiếu vắng) các yếu
tố quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế đã
được thực hiện. Ví dụ điển hình là Nhật Bản, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền
kinh tế Nhật Bản trở nên hoang tàn, nhân dân chìm trong cảnh mất mùa, thiếu thốn.
Vậy mà đến năm 1968 Nhật Bản đã trở thành một nước có nền kinh tế đứng thứ hai
trên thế giới (sau Mỹ) và được xếp hàng các cường quốc kinh tế lớn nhất, kỷ lục về
sự tăng trưởng kinh tế này là một trong những đỉnh cao để xác định năng lực cạnh
tranh lớn của nền kinh tế Nhật bản. Cũng theo WEF thì các yếu tố xác định khả năng
cạnh tranh được chia làm 8 nhóm chính bao gồm 200 chỉ số khác nhau, các nhóm yếu
tố xác định khả năng cạnh tranh tổng thể chủ yếu có thể kể ra là:
Nhóm 1: Mức độ mở cửa nền kinh tế thế giới bao gồm các yếu tố thuế quan,
hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái.

Nhóm 2: Nhóm các chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của chính phủ
bao gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, thuế và mức độ
trốn thuế, chính sách tài khoá.
Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính bao gồm các nội dung về khả năng thực hiện
các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính đầy đủ và
tiết kiệm.
Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm năng lực phát triển công nghệ
trong nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển
công nghệ thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác.
Nhóm 5: Các yếu tố và kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc và kết cấu hạ
tầng khác.
Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số và quản trị nguồn nhân lực và các yếu tố
quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực.
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
Nhóm 7: Các yếu tố về lao động bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề và
năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các chương
trình xã hội , quan hệ lao động trong một ngành.
Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các yếu tố về chất lượng, các thể chế về
pháp lý, các luật và văn bản pháp quy khác.
Dựa vào các nhóm chỉ số này có thể đánh giá, xem xét để rút ra kết luận về
việc định liệu các chính sách, biện pháp đã được sử dụng ở một quốc gia có thực sự
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế không. Chẳng hạn những năm qua chính phủ
Việt Nam đã đưa ra chủ trương khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp
hợp tác liên doanh, liên kết với nước ngoài nhằm học hỏi kinh nghiệm chuyển giao
công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Thế nhưng hiệu quả kinh tế đem lại không lấy gì
làm chắc chắn.
+ Cách tiếp cận dựa trên quan điểm của M.Poter về chỉ số năng suất
Ông cho rằng chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về năng lực

cạnh tranh quốc gia bởi vì đây là yếu tố cơ bản cho việc nâng cao sức sống của một
đất nước. Xét về dài hạn chỉ số năng suất này phụ thuộc vào trình độ phát triển và
tính năng động của các doanh nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh của một quốc gia
phụ thuộc vào việc các yếu tố nào trong nền kinh tế quốc dân, giữ vai trò quyết định
cơ bản cho phép các công ty sáng tạo và duy trì và lợi thế cạnh tranh trên mọi lĩnh
vực cụ thể. Với cách nhìn nhận vấn đề như vậy M.Poter đã đưa ra một khuôn khổ các
yếu tố tạo nên lợi thế canh tranh của một quốc gia và Ông gọi đó là “khối lượng kim
cương các lợi thế cạnh tranh” bao gồm các nhóm được phân chia một cách tương đối.
- Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất (thể hiện vị thế của một quốc gia về
nguồn lao động được đào tạo, có tay nghề, về tài nguyên, kết cấu hạ tầng, tiềm năng
khoa học và công nghệ).
- Nhóm các điều kiện về cầu: Phản ánh bản chất của nhu cầu thị trường trong
nước đối với sản phẩm và dịch vụ của một ngành.
- Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lược của doanh nghiệp và của
đối thủ cạnh tranh.
- Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có khả
năng cạnh tranh quốc tế.
* Tiếp cận khả năng tranh ở cấp ngành, cấp doanh nghiệp:
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
+ Quan điểm của M.Poter
Dựa theo quan điểm quản trị chiến lược được phản ánh trong các cuốn sách
của M.Poter, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là khả năng chiếm
lĩnh thị trường, tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay thế) của doanh
nghiệp đó. Với cách tiếp cận này mỗi ngành dù là trong hay ngoài nước năng lực
cạnh tranh được quy định bởi các yếu tố sau:
- Số lượng các doanh nghiệp mới tham gia.
- Sự có mặt của các sản phẩm thay thế.
- Vị thế của khách hàng.

- Uy tín của nhà cung ứng.
- Tính quyết liệt của đối thủ cạnh tranh.
Nghiên cứu những yếu tố cạnh tranh này sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp xây
dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh cạnh tranh phù hợp với từng giai đoạn, từng
thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
+ Quan điểm tân cổ điển về khả năng cạnh tranh của một sản phẩm
Quan điểm này dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống, đã xem xét khả
năng cạnh tranh của một sản phẩm thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và
năng suất. Như vậy khả năng cạnh tranh của một ngành, một doanh nghiệp được
đánh giá cao hay thấp tuỳ thuộc vào chi phí sản xuất có giảm bớt hay không, vì chi
phí các yếu tố sản xuất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh.
+ Quan điểm tổng hợp của VarDwer, E.Martin và R.Westgren
VarDwer, E.martin và R.Westgren là những đồng tác giả của cuốn
“Assessing the competiviveness of Canada’s agrifood Industry”- 1991. Theo các tác
giả này thì khả năng cạnh tranh của một ngành, của doanh nghiệp được thể hiện ở
việc tạo ra và duy trì lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong nước và nước
ngoài. Như vậy lợi nhuận và thị phần là hai chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của
công ty. Chúng có mối quan hệ tỷ lệ thuận, lợi nhuận và thị phần càng lớn thể hiện
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao. Ngược lại, lợi nhuận và thị phần
giảm hoặc nhỏ phán ánh năng lực cạnh tranh của công ty bị hạn chế hoặc chưa cao.
Tuy nhiên chúng chỉ là những chỉ số tổng hợp bao gồm chỉ số thành phần khác nhau
như:
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
- Chỉ số về năng suất bao gồm năng suất lao động và tổng năng suất các yếu tố
sản xuất.
- Chỉ số về công nghệ bao gồm các chỉ số về chi phí cho nghiên cứu và triển
khai.
- Sản phẩm bao gồm các chỉ số về chất lượng, sự khác biệt.

- Đầu vào và các chi phí khác: giá cả đầu vào và hệ số chi phí các nguồn lực.
Nói tóm lại có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về khả năng cạnh
tranh. Song bài viết này không nhằm mục đích phân tích ưu nhược điểm của quan
điểm đó mà chỉ mong muốn giới thiệu khái quát một số quan niệm điển hình giúp
cho việc tiếp cận một phạm trù phổ biến nhưng còn nhiều tranh cãi về khái niệm
được dễ dàng hơn.
2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể dựa vào
một số chỉ tiêu sau:
2.1. Thị phần
Doanh thu là số tiền mà doanh nghiệp thu được khi bán hàng hoá hoặc dịch
vụ. Bởi vậy mà doanh thu có thể được coi là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh
tranh. Hơn khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và tăng thêm
lợi nhuận. Căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu qua từng thời kỳ hoặc qua các năm ta có thể
đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh là tăng hay giảm, theo chiều hướng tốt
hay xấu. Nhưng để đánh giá được hoạt động kinh doanh đó có mang lại được hiệu
quả hay không ta phải xét đến những chi phí đã hình thành nên doanh thu đó. Nếu
doanh thu và chi phí của doanh nghiệp đều tăng lên qua các năm nhưng tốc độ tăng
của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí thì hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được đánh giá là tốt, doanh nghiệp đã biết phân bổ và sử dụng hợp lý yếu tố
chi phí, bởi một phần chi phí tăng thêm đó được doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh
doanh, đầu tư mua sắm trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng. v.v.
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác, trong đó thị phần là một chỉ
tiêu thường hay được sử dụng. Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh
nghiệp chiếm giữ trong tổng dung lượng thị trường. Do đó thị phần của doanh nghiệp
được xác định:
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An

Thị phần của doanh nghiệp =
Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp càng
rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức động hoạt
động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh nghiệp có một mảng thị
trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định cho doanh nghiệp một vị trí ưu
thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì chỉ số
trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang bị chèn ép bởi các đối thủ
cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể đánh giá sơ bộ khả năng
chiếm lĩnh thị trường so với toàn ngành.
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ ta
dùng chỉ tiêu thị phần tương đối: Đó là tỷ lệ so sánh về doanh thu của doanh nghiệp
so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất để từ đó có thể biết được những mặt mạnh hay
những điểm còn hạn chế so với đối thủ. Ưu điểm của chỉ tiêu này là đơn giản, dễ hiểu
nhưng nhược điểm của nó là khó nắm bắt được chính xác số liệu cụ thể và sát thực
của đối thủ.
2.2. Năng suất lao động
Năng suất lao động là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh
và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thông qua năng suất lao động ta có thể
đánh giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình độ công nghệ của doanh
nghiệp.
2.3. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là một phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí dùng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng hợp đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp thu được lợi
nhuận cao chắc chắn doanh nghiệp có doanh thu cao và chi phí thấp. Căn cứ vào chỉ
tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng cạnh tranh của mình
so với đối thủ. Nếu lợi nhuận cao thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao và
được đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất khả quan.
Nếu xét về tỷ suất lợi nhuận:
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C

21
Doanh thu của doanh nghiệp
Tổng doanh thu toàn ngành
Tổng lợi nhuận
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
Tỷ suất lợi nhuận =
Chỉ tiêu này cho thấy nếu có 100 đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này thấp tức là tốc độ tăng của lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ
tăng của doanh thu, chứng tỏ sức cạnh tranh của doanh nghiệp thấp. Hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả cao. Đã có quá nhiều đối thủ thâm nhập
vào thị trường của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng thị
trường để nâng cao khả năng cạnh tranh, nhằm mục đích nâng cao lợi nhuận. Nếu chỉ
tiêu này cao tức là tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu. Hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá là có hiệu quả. Điều này chứng tỏ
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao. Doanh nghiệp cần phát huy lợi thế của
mình một cách tối đa và không ngừng đề phòng đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn thâm nhập
vào thị trường của doanh nghiệp bất cứ lúc nào do sức hút lợi nhuận cao.
2.4. Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có nhiều bạn
hàng, nhiều đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng rất lớn. Mục tiêu của
các doanh nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận .v.v. Nhưng để đạt được các
mục tiêu đó doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị trường, phải tạo
được vị thế của mình trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền đề để tạo được uy tín
của doanh nghiệp đó là doanh nghiệp phải có một nguồn vốn đảm bảo để duy trì và
phát triển hoạt động kinh doanh, có một hệ thống máy móc, cơ sở hạ tầng đáp ứng
đầy đủ yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên uy tín
của doanh nghiệp đó là “con người trong doanh nghiệp” tức doanh nghiệp đó phải có
một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đội ngũ nhân viên giỏi về
tay nghề và kỹ năng làm việc, họ là những con người có trách nhiệm và nhiệt tình

trong công việc, biết khơi dậy nhu cầu của khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố nổi bật nhất để đánh giá khả năng cạnh
tranh, uy tín của doanh nghiệp đó là nhãn hiệu sản phẩm.
- Thiết kế nhãn hiệu sản phẩm: Khi xây dựng một sản phẩm, các nhà quản trị
sẽ lưu tâm đến rất nhiều đến nhãn hiệu sản phẩm, một nhãn hiệu sản phẩm hay và ấn
tượng góp phần không nhỏ vào sự thành công của sản phẩm, nó giúp phân biệt sản
phẩm của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh khác và là công cụ để doanh nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
22
Tổng doanh thu
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
định vị sản phẩm trên thị trường mục tiêu. Khi thiết kế nhãn hiệu doanh nghiệp phải
xem xét đến các thành phần gồm: đặt tên sản phẩm, xây dựng biểu tượng (logo),
khẩu hiệu và hình ảnh cho nhãn. Đồng thời phải có chiến lược về nhãn hiệu đối với
sản phẩm của doanh nghiệp.
- Các giá trị tài sản nhãn hiệu: Tài sản nhãn hiệu là giá trị của một nhãn hiệu
của sản phẩm do uy tín của nhãn hiệu sản phẩm đó đem lại. Quản trị giá trị nhãn là
một trong các công việc mang tính chiến lược quan trọng nhất, nó được xem là một
trong những dạng tầm tiềm năng có giá trị cao. Trong những năm gần đây, khi các
nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, hình
thức khuyến mại định hướng vào gía là hình thức phổ biến được nhiều doanh nghiệp
áp dụng, điều này làm tổn thương nhiều doanh nghiệp.
2.5. Năng lực quản trị
Năng lực của nhà quản trị được thể hiện ở việc đưa ra các chiến lược, hoạch
định hướng đi cho doanh nghiệp. Nhà quản trị giỏi phải là người giỏi về trình độ, giỏi
về chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng giao tiếp, biết nhìn nhận và giải quyết các
công việc mộ cách linh hoạt và nhạy bén, có khả năng thuyết phục để người khác
phục tùng mệnh lệnh của mình một cách tự nguyện và nhiệt tình. Biết quan tâm, động
viên, khuyến khích cấp dưới làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điều đó sẽ tạo nên
sự đoàn kết giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra nhà quản trị còn phải là

người biết nhìn xa trông rộng, vạch ra những chiến lược kinh doanh trong tương lai
với cách nhìn vĩ mô, hợp với xu hướng phát triển chung trong nền kinh tế thị trường.
Nhà quản trị chính là người cầm lái con tàu doanh nghiệp, họ là những người đứng
mũi chịu sào trong mỗi bước đi của doanh nghiệp. Họ là những người có quyền lực
cao nhất và trách nhiệm thuộc về họ cũng là nặng nề nhất. Họ chính là nhứng người
xác định hướng đi và mục tiêu cho doanh nghiệp. Vì vậy mà nhà quản trị đóng một
vai trò chủ chốt trong sự phát triển của doanh nghiệp.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
3.1. Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố thuộc yếu tố bên trong doanh nghiệp.
Các yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh và khả năng
cạnh tranh của Công ty. Bởi vậy mà nó được coi là các yếu tố cấu thành khả năng
cạnh tranh của Công ty.
3.1.1. Khả năng tài chính
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
Vốn là tiền đề vật chất cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Bất
cứ hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xem xét tính toán
đến tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực lớn về tài
chính sẽ rất thuận lợi trong việc huy động vốn đầu tư, trong mua sắm đổi mới công
nghệ và máy móc cũng như có điều kiện để đào tạo và đãi ngộ nhân sự. Những thuận
lợi đó sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được trình độ chuyên môn tay nghề cho cán bộ,
nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí để nâng cao sức cạnh tranh
cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nghiệp nào yếu kém về tài chính sẽ không có
điều kiện để mua sắm, trang trải nợ và như vậy sẽ không tạo được uy tín về khả năng
thanh toán và khả năng đáp ứng những sản phẩm có chất lượng cao đối với khách
hàng. Làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không tiến triển được và có
nguy cơ bị thụt lùi hoặc phá sản. Như vậy khả năng tài chính là yếu tố quan trọng đầu
tiên để doanh nghiệp hình thành và phát triển.

3.1.2. Nguồn lực vật chất kỹ thuật
Nguồn lực vật chất kỹ thuật sẽ phản ánh thực lực của doanh nghiệp đối với
thủ cạnh tranh về trang thiết bị hiện có được tận dụng và khai thác trong quá trình
hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Bởi vì:
Trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị máy móc,
công nghệ hiện đại thì các sản phẩm của doanh nghiệp nhất định sẽ được bảo toàn về
chất lượng khi đến tay người tiêu dùng. Có hệ thống máy móc hiện đại sẽ thúc đẩy
nhanh quá trình tiêu thụ hàng hoá, tăng nhanh vòng quay về vốn, giảm bớt được khâu
kiểm tra về chất lượng hàng hoá có được bảo đảm hay không. Nếu xét về công nghệ
máy móc có ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm và như vậy sẽ ảnh hưởng đến giá
bán của doanh nghiệp thương mại. Ngày nay do tác động của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp đang trở thành cuộc cạnh tranh
về trí tuệ, về trình độ công nghệ. Công nghệ tiên tiến không những đảm bảo năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ mà còn có thể xác lập tiêu
chuẩn mới cho từng ngành sản xuất kỹ thuật. Mặt khác, khi mà việc bảo vệ môi
trường như hiện nay đang trở thành một vấn đề của toàn cầu thì doanh nghiệp nào có
trình độ công nghệ cao, thiết bị máy móc nhất định sẽ dành được ưu thế trong cạnh
tranh.
3.1.3. Nguồn nhân lực
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường Đại học Chu Văn An
Con người là yếu tố quyết định mọi thành bại của hoạt động kinh doanh. Bởi
vậy, doanh nghiệp phải chú ý việc sử dụng con người phát triển nhân sự, xây dụng
môi trường văn hoá và có nề nếp, tổ chức của doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp
phải quan tâm đến các chỉ tiêu rất cơ bản như số lượng lao động, trình độ nghề
nghiệp, năng suất lao động, thu nhập bình quân. năng lực của cán bộ quản lý.
Con người là yếu tố chủ chốt, là tài sản quan trọng và có giá trị cao nhất của
doanh nghiệp. Bởi chỉ có con người mới có đầu óc và sáng kiến để sáng tạo ra sản

phẩm, chỉ có con người mới biết và khơi dậy được nhu cầu con người, chỉ có con
người mới tạo được uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp mà tất những yếu tố này
hình thành nên khả năng cạnh tranh. Vậy muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình doanh nghiệp phải chú ý quan tâm đến tất cả mọi người trong doanh nghiệp, từ
những người lao động bậc thấp đến nhà quản trị cấp cao nhất, bởi mỗi người đều có
một vị trí quan trọng trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những người
lãnh đạo chính là những người cầm lái con tàu doanh nghiệp, họ là những người
đứng mũi chịu sào trong mỗi bước đi của doanh nghiệp, là những người có quyền lực
cao nhất và trách nhiệm thuộc về họ cũng là nặng nề nhất. Họ chính là những người
xác định hướng đi và mục tiêu cho doanh nghiệp, còn thực hiện quyết định của họ là
những nhân viên dưới quyền.
Trong bất cứ một doanh nghiệp nào chỉ mới có nhà lãnh đạo giỏi vẫn chưa đủ,
vẫn chỉ mới có người ra quyết định mà chưa có người thực hiện những quyết định đó.
Bên cạnh đó phải có một đội ngũ nhân viên giỏi cả về trình độ và tay nghề, có óc
sáng tạo có trách nhiệm và có ý thức trong công việc. Có như vậy họ mới có thể đưa
ra những sản phẩm có chất lượng tốt mang tính cạnh tranh cao. Trong nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung trước kia ban lãnh đạo có thể họ không có trình độ chuyên môn
cao chỉ cần họ có thâm niên công tác lâu năm trong nghề là họ yên trí đứng ở vị trí
lãnh đạo, và đội ngũ nhân viên không cần giỏi về chuyên môn, tay nghề, vẫn có thể
tồn tại lâu dài trong doanh nghiệp. Ngày nay với quy luật đào thải của nền kinh tế thị
trường nếu như nếu ban lãnh đạo không có đủ trình độ chuyên môn cao, không có
năng lực lãnh đạo thì trước sau họ cũng sẽ bị đào thải, sẽ phải rời khỏi vị trí mà họ
đang nắm giữ.
Thực tế cho thấy, doanh nghiệp nào có đội ngũ lãnh đạo giỏi, tài tình và sáng
suốt thì ở đó công nhân viên rất yên tâm để cống hiến hết mình, họ luôn có cảm giác
là doanh nghiệp mình sẽ luôn đứng vững và phát triển, trách nhiệm và quyền lợi của
SVTH: Nguyễn Thị Hương Lớp: 07K3C
25

×