Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiêu Luận Điều Trị Nội tiết trong ung thư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.45 KB, 19 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

TIỂU LUẬN HÓA TRỊ LIỆU

CHỦ ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP KẾT HỢP CÁC
PHƯƠNG PHÁP KHÁC:ĐIỀU TRỊ NỘI TIẾT
Nhóm thực hiện

Chengsavang Siatoutho MHV: 1411101
Hà Huy Bách
MHV: 1511002
Trần Quốc Thịnh
MHV: 1511051

Lớp Cao học 20

1


Hà Nội – 2016

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
NỘI DUNG..........................................................................................................3
I. TỔNG QUAN
1.

Ung thư và nguyên nhân gây bệnh ung thư

2.



Phương pháp điều trị trong ung thư

II. HORMON TRỊ LIỆU
1.Định nghĩa hormon và hormon trị liệu ……………………………………..4
2.Phương pháp điều trị hormon trong ung thư ……………………………….5
3.Phân loại Hormon trị liệu …………………………………………………..5
3.1.Theo cơ chế tác dụng ………………………………………………...5
3.1.1.Đối kháng Hormon steroid ………………………………….5
3.1.2.Ức chế enzym sản xuất Hormon steroid …………………….8
3.1.3.Hormon sinh dục steroid liều cao……………………………9
3.1.4.Phương pháp khác ………………………………………….11
3.2.Theo loại ung thư …………………………………………………...12

III. MỘT SỐ BỆNH UNG THƯ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG NỘI TIẾT

2

1.

Ung thư vú13

2.

Ung thư tuyến tiền liệt14

3.

Ung thư hệ tạo máu15


4.

Các ung thư khác15


KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới, với khoảng 14
triệu ca được phát hiện và 8.2 triệu ca tử vong liên quan đến bệnh ung thư vào
năm 2012. Dự báo sẽ có khoảng 100 triệu người tử vong trong 10 năm tới.
Riêng tại Việt Nam, trung bình mỗi năm có khoảng 150.000 ca mắc mới, trong
đó có 75.000 người tử vong, con số này có xu hướng tăng trong những năm tiếp
theo.
Trong các loại ung thư thì ung thư liên quan đến rối loạn hormon như ung
thư buồng trứng, tử cung, ung thư vú, ung thư tiền liệt tuyến chiếm một tỷ lệ khá
lớn. Ung thư tuyến tiền liệt chiếm 10% ung thư ở nam giới, ung thư vú chiếm
15% và ung thư cổ tử cung chiếm 6% ung thư ở nữ giới. Trên lâm sàng, các khối
u liên quan đến nội tiết thường khiến nồng độ hormon trong máu tăng cao. Tình
trạng bệnh lý này thường được xử lý bằng cách phẫu thuật loại bỏ khối u, hoặc
điều trị làm giảm nồng độ hormon trong cơ thể bằng thuốc.Phương pháp điều trị
bằng hoc-môn có nhiều điểm ưu việt như: đơn giản, dễ thực hiện, giá thành
không cao, tác dụng phụ ít. Bởi vậy hiện nay đã có từ 1/7- 1/6 số trường hợp ung
thư có thể điều trị bằng hoc-môn. Với mong muốn làm rõ hơn các liệu pháp,
phác đồ, thuốc điều trị nội tiết tố; chúng tôi tiến hành tiểu luận “Phương pháp
kết hợp các phương pháp khác : điều trị nội tiết tố trong một số loại ung thư”.


4


NỘI DUNG
I. TỔNG QUAN
1. Ung thư và nguyên nhân gây bệnh ung thư
Ung thư là một loại bệnh do sự phát triển không bình thường của tế bào.
Cơ thể của con người được hình thành từ rất nhiều loại tế bào. Bìnhthường
những tế bào được phát triển và phân chia khi cơ thể cần đến. Tuynhiên đôi khi
các tế bào tiếp tục phân chia kể cả khi không cần thiết làm hìnhthành nên những
nhóm mô gọi là khối u.
- U lành: có thể cắt bỏ mà không phát sinh thêm nữa.
- U ác là ung thư, chúng có thể lan toả và hình thành u mới ở các vị
tríkhác trong cơ thể.
Một số nguyên nhân gây bệnh.
- Nguyên nhân bên trong: Yếu tố di truyền, nội tiết.
- Nguyên nhân bên ngoài:
+ Tác nhân vật lý: Các bức xạ.
+ Tác nhân hoá học: Thuốc lá, thực phẩm ô nhiễm, hoá chất, môi
tường.
+ Do nghề nghiệp.
+ Tác nhân sinh học: Virus, ký sinh trùng
2. Các phương pháp điều trị ung thư
• Phẫu thuật
Phẫu thuật là dùng phương pháp mổ cắt bổ khối ung thư nên chỉ có giá trị
triệt để khi khối ung thư ở giai đoạn đầu, còn khu trú, còn nếu khối ung thư
đã di căn phẫu trị chỉ có hiệu lực tạm thời, không có hiệu lực hoặc thậm chí
còn kích thích sự di căn và phát triển của khối ung thư. Lúc này cần phải kết
hợp các biện pháp toàn thân như dùng thuốc, xạ trị, hóa trị ...Tuy vậy, mặc dù

nhiều tiến bộ đã được tạo ra trong điều trị ung thư, nhưng việc loại bỏ các
khối u ác tính qua phẫu thuật vẫn là liệu pháp cứu chữa chủ yếu đối với đa
phần các khối u đặc.
• Xạ trị
Xạ trị có thể tiêu diệt tế bào ung thư bằng cách dùng cách chất phóng xạ
giết các tế bào đó và làm tổn thương các mạch máu tới nuôi chúng. Xạ trị
cũng có mặt hạn chế như không dùng được xạ trị khi ung thư đã lan ra toàn
thân. Một số ung thư chống chỉ định của xạ trị như ung thư dạ dày, đại tràng
5


hoặc tụy ....Biến chứng của xạ trị nhiều khi khá trầm trọng ảnh hưởng lâu dài
đến sức khỏe người bệnh, gây tổn thương các mô lành, làm cho mô bị chai
cứng, gây biến chứng tại các tạng rỗng (ruột, thực quản) bị teo hẹp làm khó
nuốt khó đi tiêu, gây chảy máu tại các chỗ lở loét, xạ trị còn có thể gây ung
thư khác cho người bệnh mà sau đó thường được cho là di căn. Nếu xạ trị
liên tục kéo dài có thể làm cho sức khỏe kiệt quệ, mất sức đề kháng, dễ mắc
các bệnh nhiễm trùng, nếu không có hạn chế và bồi dưỡng thích đáng bệnh
nhân có thể chết trước khi chết vì khối ung thư.
• Hóa trị liệu
Hóa trị liên quan tới việc sử dụng các thuốc chống ung thư và giống như xạ
trị sẽ hủy diệt các tế bào ung thư bằng cách làm tổn hại DNA của
chúng.Bệnh nhân tiếp nhận hóa trị qua đường uống hoặc truyền qua tĩnh
mạch.Tùy loại, vị trí và giai đoạn của bệnh ung thư, bệnh nhân có thể phải
điều trị hàng tuần hay cả tháng. Hóa trị là một điều trị toàn thân tác động tới
toàn bộ các tế bào đang phát triển nhanh. Điều này bao gồm các tế bào của
khối u và các tế bào bình thường như các tế bào ở nang tóc và đường tiêu
hóa. Điều này gây ra các tác dụng phụ, như rụng tóc và tiêu chảy
• Sinh trị liệu
Là biện pháp kích thích khả năng đề kháng tự nhiên của con người chống

lại ung thư, hoặc dùng các sinh chất của con người chữa ung thư như dùng nội
tiết tố:
ví dụ dùng testosterone (nội tiết tố nam) để điều trị ung thư vú, cortisone để
điều trị ung thư máu cấp tính .... hay là các liệu pháp dùng Interferon
• Dùng thuốc đông y
Các thuốc đông y dùng với mục đích hỗ trợ trong điều trị là chủ yếu
II. HORMON TRỊ LIỆU
1.Định nghĩa Hormon và Hormon trị liệu
Hormon là những chất hóa học do một nhóm tế bào hoặc một tuyến nội tiết bài tiết vào
máu rồi được máu đưa đến các tế bào hoặc các mô khác trong cơ thể và gây ra các tác
dụng sinh lý tại đó
Hormon trị liệu là sử dụng thuốc để ức chế tác dụng của hormon. Liệu pháp này không
thể áp dụng cho tất cả các bệnh ung thư, chỉ một số loại ung thư nhạy cảm với hormon
mới áp dụng được.

2. Phương pháp điều trị nội tiết tố trong ung thư
Từ 1896, Beatson đã ghi nhận một số hormon có tác dụng trong điều trị
một số bệnh ung thư. Khi vào cơ thể, thuốc gắn với thụ cảm thể nội tiết trên ti
lạp thể sau đó được đưa vào tế bào, can thiệp vào sự hoạt động của AND làm sai

6


lạc thông tin, dẫn đến sự sai lạc tổng hợp protein của tế bào ung thư (androgen,
estrogen, progestin, corticosteroid, thyroid…)
Điều trị nội tiết đóng vai trò quan trọng trong điều trị một số bệnh ung thư
đặc trưng theo giới. Điều trị nội tiết trong ung thư được thực hiện lần đầu năm
1895 là thủ thuật cắt buồng trứng ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn muộn.
Trong những năm 1940, việc cắt bỏ tinh hoàn và dùng estrogen tỏ ra có hiệu quả
trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt.

Hiện nay, khoa học đã nhận thấy các tế bào lành và các tế bào ung thư loại
nhạy cảm với hormon đều có các thụ thể (receptor) làm trung gian cho các tác
dụng của hormon.
Phương pháp điều trị bằng hormon có nhiều điểm ưu việt như: đơn giản,
dễ thực hiện, giá thành không cao, tác dụng phụ ít. Hiện có từ 1/7- 1/6 số trường
hợp ung thư có thể điều trị bằng hormon. Với những tiến bộ của khoa học về
sinh học phân tử, cơ chế tác động của hormon lên các khối u ngày càng sáng tỏ
và việc điều trị một số ung thư bằng hormon sẽ có hiệu quả hơn.
Nguyên lý điều trị nội tiết trong ung thư: Điều trị nội tiết trong ung thư
được xem như một phương pháp kìm tế bào. Cơ chế được giải thích đầy đủ.
Nhìn chung điều trị nội tiết được thực hiện theo nguyên lý sau: Loại bỏ hoặc
ngăn chặn sự tiết các hormon từ các tuyến nội tiết có tác dụng trực tiếp kích
thích khối u phát triển.
3.Phân loại Hormon trị liệu
3.1.Theo cơ chế tác dụng của thuốc
3.1.1. Các chất đối kháng hormon steroid

Trong điều trị ung thư bằng liệu pháp hormon, các chất đối kháng với estrogen,
progestin và androgen đã được nghiên cứu và phát triển
3.1.1.1. Các chất tác động chọn lọc trên receptor estrogen
Các thuốc thuộc nhóm này bao gồm: tamoxifene, raloxifene, toremifene, và
fulvestrant.

7


Tamoxifene
- Cơ chế tác dụng: Tamoxifene là chất đối kháng estrogen không hoàn toàn
[7]. Nhờ có cấu trúc tương tự estrogen, tamoxifene khi vào cơ thể sẽ cạnh tranh
vị trí liên kết trên receptor của estrogen[9]. Do đó, tamoxifene có tác dụng ức

chế hoạt tính kích thích sinh trưởng của estrogen đối với tế bào ung thư vú, ức
chế đồng thời cả quá trình chuyển vị và gắn vào nhân tế bào của receptor
estrogen (ER)[2].
- Chỉ định: Tamoxifene được chỉ định trong phòng ngừa ung thư vú tiền
mãn kinh, điều trị ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ, điều trị ung thư vú có ER dương tính với bệnh nhân tiền mãn kinh đã phẫu thuật cắt bỏ. Thời gian điều trị
cho tất cả các chỉ định trên là 5 năm, với liều thông thường là 20mg/ngày[2].
- Kháng trị: Tình trạng kháng tamoxifene có thể do nguyên phát hoặc thứ
phát. Dấu chỉ quan trọng nhất để đánh giá đáp ứng điều trị với tamoxifene là
nồng độ ER. Tamoxifene không có hiệu quả trong ung thư vú có ER - âm
tính[2].
- Tác dụng phụ: Hoạt tính giống estrogen của tamoxifene có thể gây ra các
tác dụng ngoại ý có lợi và bất lợi cho bệnh nhân. Bệnh nhân sử dụng tamoxifene
có thể gia tăng nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung, tuy nhiên mức độ gia tăng
nguy cơ không đáng kể, và chủ yếu đối với phụ nữ sau mãn kinh[2]. Bên cạnh
đó, sử dụng tamoxifene kéo dài (trên 5 năm) có thể làm gia tăng nguy cơ gặp
phải các biến cố tim mạch liên quan đến estrogen, như huyết khối tắc mạch[7].
Tác dụng kiểu estrogen của tamoxifene mặt khác giúp làm giảm nồng độ
cholesterol toàn phần, và đảm bảo mật độ xương cho những phụ nữ sau mãn

8


kinh. Tuy nhiên, tamoxifene lại có tác động xấu tới mật độ xương của phụ nữ
tiền mãn kinh[2].
3.1.1.2. Các chất kháng androgen
Các thuốc thuộc nhóm này bao gồm: Flutamide, Bicalutamide
Flutamide
- Cơ chế tác dụng: Flutamide là một chất đối kháng androgen không có
hoạt tính steroid nội tại. Cơ chế tác dụng của flutamide là cạnh tranh vị trí liên
kết trên receptor của androgen, khiến cho dihydrotestosterone không gắn được

với receptor. Sử dụng flutamide đơn độc sẽ làm tăng sản xuất LH và FSH, dẫn
đến làm tăng đồng thời nồng độ testosterone và E2 trong máu[2].
- Chỉ định: Flutamide được chỉ định là phác đồ đầu tiên trong điều trị ung
thư tiền liệt tuyến di căn, phối hợp cùng các dẫn xuất của GnRH. Flutamide
cũng được sử dụng trong điều trị ung thư tiền liệt tuyến di căn đã cắt tinh hoàn
nhưng không đáp ứng. Liều khuyến cáo là 250 mg/3 lần/ngày, dùng đường
uống[2].
- Tác dụng phụ: Tác dụng ngoại ý thường gặp nhất đối với flutamide là
tiêu chảy. Ngoài ra, chứng vú to có thể gặp ở những bệnh nhân nam không cắt
tinh hoàn, tuy nhiên chỉ ở mức độ nhẹ. Flutamide hiếm khi gây độc tính trên
gan. Độc tính trên gan của flutamide có thể gây tử vong, tuy nhiên nếu được
phát hiện sớm có thể hồi phục được[2].
9


3.1.1.3. Các chất đối kháng androgen mới khác
- Abiraterone acetat: Đây là dẫn chất 3 - pyridin steroid pregnenolone, ở
dạng tiền thuốc acetat. Abiraterone ức chế chọn lọc, không đảo ngược CYP 17 enzym đóng vai trò quan trọng trong tổng hợp androgen và estrogen. Hiện nay,
abiterone đang được nghiên cứu trong điều trị tái phát ung thư tiền liệt tuyến đã
cắt tinh hoàn. Tác dụng phụ chủ yếu của thuốc là các triệu chứng do dư thừa
mineralocorticoid, bao gồm hạ kali huyết, tăng huyết áp, phù[2].
- MDV3100: Đây là chất mới thuộc nhóm diarylthiohydatoin. Cơ chế tác
dụng của nó là ức chế trục testosterone - receptor androgen[2].
3.1.2. Các chất ức chế enzym sản xuất hormon steroid
Các thuốc thuộc nhóm này chủ yếu là các chất ức chế aromatase. Enzym
aromatase có tác dụng chuyển androgen thành estrogen, và đây là bước cuối
cùng của chu trình tổng hợp trên. Ức chế enzym aromatase là phương pháp đặc
hiệu nhất để ngăn chặn quá trình sản xuất estrogen. Do quá trình sinh tổng hợp
estrogen có thể xảy ra ở các mô không thuộc tuyến nội tiết như mô mỡ, hay các
khối u ác tính (chủ yếu trên phụ nữ sau mãn kinh), các chất ức chế aromatase có

tác dụng tiếp tục làm giảm nồng độ estrogen trong máu, ngay cả khi đã phẫu
thuật cắt bỏ các tuyến nội tiết ban đầu. Cho đến nay, có 2 nhóm chất ức chế
chính đã được nghiên cứu phát triển[10] :
- Các chất ức chế có bản chất steroid (hay các chất ức chế typ I) :
formestane và exemestane.
10


- Các chất ức chế không steroid (hay các chất ức chế typ II) :
aminoglutethimide, anastrazole, letrozole.
3.1.2.1Các chất ức chế aromatase typ I
Cơ chế tác dụng của các chất ức chế aromatase có bản chất steroid là cạnh
tranh vị trí liên kết enzym với các androstenedione nền và testosteron nội sinh.
Các chất này sẽ liên kết không đảo ngược với vị trí tác dụng, từ đó gây ra tác
dụng ức chế enzym không hồi phục[2]. Quá trình sinh tổng hợp estrogen chỉ có
thể được tiếp tục nếu enzym arotamase được tổng hợp mới[10].
Exemestane là một chất trong nhóm thuốc này, có cấu trúc steroid.
Exemestane đã được nghiên cứu so sánh hiệu quả điều trị với tamoxifene trong
ung thư di căn, hoặc làm liệu pháp bổ sung. Trong thử nghiệm pha 3 trên bệnh
nhân ung thư vú di căn kháng trị tamoxifene, exemestane cho thấy hiệu quả điều
trị tốt hơn megestrol acetate, kéo dài cả thời gian trung vị trước khi khối u tiến
triển cũng như thời gian sống của bệnh nhân[2]. Giống như các chất ức chế
aromatase khác, tác dụng phụ chủ yếu của thuốc là gây đau cơ, khớp. Ngoài ra,
exemestane cũng có hoạt tính androgen yếu, do đó sử dụng liều cao hơn liều
khuyến cáo (uống 25mg/ngày) có thể gây ra các tác dụng ngoại ý kiểu hormon
steroid, như tăng cân, mụn trứng cá[2].

3.1.2.2. Các chất ức chế aromatase typ II

11



Cơ chế tác dụng của các chất ức chế aromatase không steroid cũng là gắn
cạnh tranh với các chất nền nội sinh vào vị trí tác dụng của enzym (gắn với
nguyên tử Sắt heme), tuy nhiên liên kết này có thể đảo ngược được. Do đó, hoạt
tính của enzym aromastse có thể được hồi phục nếu không còn các chất ức chế
typ II[2].
Các chất ức chế aromatase typ II thế hệ đầu như aminoglutethimide có
hoạt lực không mạnh, và cũng không đặc hiệu. Nó ức chế thêm cả những
hormon chuyển hóa steroid khác. Các chất ức chế typ II thế hệ sau thuộc nhóm
triazole (gồm anastrazole, letrozole) có hoạt lực mạnh gấp 200 lần so với
aminoglutethimide, đồng thời tác dụng ức chế rất chọn lọc con đường sinh tổng
hợp estrogen do có ái lực mạnh với enzym aromatase cytochrom P450. Các
thuốc thế hệ sau có thể làm giảm nồng độ estrogen trong máu ở phụ nữ sau mãn
kinh xuống dưới ngưỡng phát hiện được mà không ảnh hưởng đến các hormon
steroid khác[10] .
Cả letrozole và anastrazole đều đã được nghiên cứu đầy đủ trong điều trị
ung thư di căn cũng như làm liệu pháp hormon bổ sung. Cả hai thuốc đều cho
hiệu quả điều trị tốt hơn cũng như kéo dài thời gian sống với khối u không tiến
triển so với tamoxifene trong ung thư di căn. Trong liệu pháp hormon bổ sung,
cả letrozole và anastrazole đều kéo dài thời gian sống không tái phát của bệnh
nhân[2]. Liều điều trị đối với letrozole là uống 2.5 mg/ngày[5], còn đối với
anastrazole là uống 1mg/ngày[1]. Tác dụng ngoại ý thường gặp nhất của
letrozole và anastrazole là gây đau cơ, khớp, lên tới 50% bệnh nhân điều trị. Mặt
12


khác, hai thuốc này đều làm gia tăng nguy cơ gãy xương so với tamoxifene. Do
đó, khuyến cáo khi điều trị anastrazole kéo dài trên bệnh nhân ung thư vú giai
đoạn sớm, bệnh nhân cần chú ý đến tình trạng xương, cũng như được theo dõi

mật độ xương chặt chẽ. Đối với những bệnh nhân đã bị loãng xương, hoặc có
nguy cơ gãy xương cao, nên dùng kèm biphosphonate[2]
3.1.3. Liệu pháp sử dụng hormon sinh dục steroid liều cao
Liệu pháp này có cơ chế tác dụng tương tự như các dẫn chất GnRH, được
sử dụng trong điều trị các bệnh ung thư phụ thuộc hormon. Các thuốc trong
nhóm này bao gồm:
- Estrogen (Diethyl stilbestrol và Estradiol)
- Progestogen (Medroxyprogesterone và Megestrol)
- Androgen (Testolactone và Fluoxymesterone)
Cần lưu ý, nếu sử dụng các thuốc này thấp hơn liều sinh lý sẽ gây kích
thích khối u phát triển[10].
3.1.4. Các liệu pháp nội tiết tố khác
Các chất đối kháng hormon giải phóng gonadotrophin
Chất đại diện là degarelix
- Cơ chế tác dụng: Degarelix được sử dụng trong điều trị ung thư tiền liệt
tuyến nhờ tác dụng chẹn các receptor của GnRH, từ đó ức chế quá trình tổng
13


hợp LH, dẫn đến giảm tổng hợp nên androgen. Ưu điểm của degarelix so với các
dẫn xuất của GnRH đó là không gây tăng tổng hợp androgen tạm thời[2].
- Chỉ định: Degarelix được FDA phê duyệt năm 2008 để kiểm soát ung
thư tiền liệt tuyến. Liều khuyến cáo là 240 mg degarelix liều loading, chia 2 lần
tiêm dưới da; sau đó liều duy trì hàng tháng là 80 mg dạng dung dịch[2].
- Tác dụng phụ: thường gặp nhất là đỏ bừng mặt, đau tại vị trí tiêm. Hiện
tại vẫn chưa xác định được liệu degarelix có gây ra các tác dụng ngoại ý mạn
tính giống như các dẫn chất của GnRH hay không, bao gồm hội chứng chuyển
hóa, loãng xương, gia tăng tỉ lệ mắc tiểu đường typ 2[2].
3.2.Theo các loại ung thư
-Ung thư vú

- Ung thư tử cung
-Ung thư buồng trứng
-Ung thư tuyến tiền liệt
- Ung thư thận

III. Một số bệnh ung thư được điều trị bằng nội tiết
1. Ung thư vú
– Phương pháp cổ điển: Cắt bỏ buồng trứng ở bệnh nhân chưa mãn kinh
và dùng một dạng estrogen liều thấp ở bệnh nhân đã mãn kinh
– Điều trị nội tiết được chỉ định cho các trường hợp có xét nghiệm dương
tính với thụ thể estrogen hoặc thụ thể progesteron. Điều trị nội tiết không chỉ
định cho bệnh nhân di căn não, phổi đa ổ hoặc di căn đến các cơ quan có tính
14


chất sống còn của bệnh nhân do thời gian đáp ứng của liệu pháp này quá lâu so
với thời gian sống còn của người bệnh.
Có ba phác đồ điều trị ung thư vú bằng hormon:
• Liệu pháp phối hợp trong giai đoạn sớm của ung thư vú: Các nghiên cứu cho
thấy sử dụng hormon phối hợp mang lại lợi ích kéo dài ít nhất 5 năm tuổi thọ.
Liệu pháp kết hợp sử dụng sau các liệu pháp chính như sau phẫu thuật. Có thể
kết hợp với xạ trị hoặc hóa trị hoặc điều trị bằngtế bào đích.
Tamoxifen được chỉ định cho điều trị ở phụ nữ trước và sau mãn kinhvà ở
nam giới. Anastrozole and letrozole được chỉ định cho bệnh nhân saumãn kinh.
Các thuốc ức chế aromatase như exemestane được chỉ định ở phụ nữsau
mãn kinh đã sử dụng tamoxifen trước đó.
Cho đến gần đây, đa số các phụ nữ đã giảm được sự tái phát ung thư
vúkhu dùng tamoxifen hàng ngày trong 5 năm. Tuy nhiên với sự ra đời của
cácthuốc hormon mới được so sánh với tamoxifen thì việc sử dụng hormon
trịliệu càng trở nên phổ biến.

- Sử dụng thuốc ức chế aromatase hàng ngày trong 5 năm thay
chotamoxifen.
- Sử dụng thuốc ức chế aromatase sau khi sử dụng tamoxifen 2-3 nămcho
đến khi tổng thời gian sử dụng hormon trị liệu là 5 năm.
Quyết định sử dụng loại hormon trị liệu nào và thời gian điều trị phảidựa
trên từng bệnh nhân.
• Điều trị ung thư di căn: Một vài liệu pháp điều trị hormon được phêchuẩn cho
điều trị ung thư vú nhạy cảm hormon di căn.
- Tamoxifen có hiệu quả trong điều trị ung thứ vú di căn ở cả nam vànữ.
- Toremifene cũng được phê chuẩn để điều trị.
- Thuốc đối kháng estrogen fulvestrant được chỉ định cho phụ nữ tiềnmãn
kinh có ung thư vú nhạy cảm hormon di căn đã điều trị bằng các thuốckháng
estrogen trước đó.
- Thuốc ức chế aromatase: anastrozole và letrozole là liệu pháp khởiđầu
trong điều trị ung thư vú di căn ở phụ nữ tiền mãn kinh. Cả haithuốc cũng có thể
sử dung ở phụ nữ tiền mãn kinh có ung thư vú phát triểnsau khi đã thất bại trong
điều trị bằng tamoxifen.
15


• Điều trị kết hợp trước phẫu thuật cắt bỏ vú: Sử dụng liệu pháphormon trước
phẫu thuật cắt bỏ vú được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng. Mục đích
của liệu pháp điều trị hormon trước là để giảm kíchthước khối u và có thể bảo
tồn tuyến vú tránh phẫu thuật.
Không có liệu pháp hormon nào được FDA phê chuẩn trong điều trị ung
thư vú trước phẫu thuật.
Một số công thức nội tiết thường dùng
* Tamoxifen 10mg/ngày hoặc có thể thay bằng toremifene 60mg/ngày, uống
hàng ngày
* Anastrozole (Arimidex) 1mg/ngày uống hàng ngày

* Letrozole (Femara) 2,5mg/ngày uống hàng ngày
* Megestrol acetat 80- 120mg/ngày uống hàng ngày
* Exemestane (Aromasin) 25mg/ngày, uống hàng ngày
2. Ung thư tuyến tiền liệt
Điều trị hormon trong ung thư tuyến tiền liệt có tỷ lệ đáp ứng chung là
75% và thời gian sồng trung bình là 18 tháng. Tiêu chuẩn đánh giá chung dựa
vào kích thước khối u hoặc hàm lượng PSA. Khó đánh giá được tác nhân nội tiết
nào là ưu thế, do vậy trên lâm sàng nên dựa vào thể trạng chung và điều kiện của
từng bệnh nhân.
* Cắt tinh hoàn
* Các estrogen: Diethylstibestrol 1mg/ngày
* Các dẫn chất của LHRH:
– Leuprolide acetate (Luphere depot) 3,75mg/1lần/tháng, tiêm dưới da
– Goserelin acetate (Zoladex) 3,6mg/lần/tháng, tiêm dưới da bụng
* Các thuốc kháng androgen tổng hợp
– Bicalutamide (Casodex) 50mg/viên/ngày, uống hàng ngày
– Flutamide (Fugerel) 100mg/viên x 3 viên/ngày, uống hàng ngày
3. Ung thư hệ tạo máu
Người ta đã phát hiện ra các thụ thể của corticosteroid ở trong các tế bào
dòng lympho, chính vì vậy corticoid trở thành một trong các thuốc trong phác đồ
hoá trị một số bệnh lý ung thư dòng tế bào lympho.
4. Các ung thư khác
16


- Ung thư nội mạc tử cung: Dùng các progesteron tổng hợp như
medroxyprogesteron và megestral acetate
- Ung thư vú nam: Dùng tamoxifen hoặc cắt bỏ tinh hoàn kết hợp
Diethylstibestrol 1mg/ngày


17


KẾT LUẬN
Điều trị nội tiết trong ung thư thường được xem là phương pháp kìm tế
bào. Cơ chế của đáp ứng với điều trị nội tiết của các ung thư vẫn chưa đầy đủ.
Nói chung, điều trị nội tiết hiện nay được tiến hành theo các cách sau: Loại bỏ
các hormon trực tiếp kích thích khối u phát triển; ngăn chặn sự sản xuất hoặc tiết
ra các yếu tố dinh dưỡng có tác dụng kích thích trực tiếp khối u phát triển. Các
yếu tố này có thể được tạo ra bởi: Chính tế bào u, các tế bào ở ngay xung quanh,
các tuyến nội tiết ở xa.
Sau khi điều trị nội tiết, khối u có thể thoái lui hoặc bệnh nhân thấy giảm
triệu chứng trong một thời gian. Sự phát triển trở lại của khối u là không tránh
khỏi. Mặc dù sau đó khối u vẫn có thể đáp ứng với các biện pháp điều trị nội tiết
khác nhưng cuối cùng khối u trở nên trơ với mọi liệu pháp nội tiết. Ưu điểm của
phương pháp điều trị nội tiết: Đơn giản, dễ thực hiện, giá thành không cao, tác
dụng phụ thấp hoặc không đáng kể so với các phương pháp khác. Với những
tiến bộ của khoa học về sinh học phân tử, cơ chế tác động của hormon lên các
khối u ngày càng sáng tỏ và việc điều trị một số ung thư bằng hormon sẽ có hiệu
quả hơn.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài giảng của PGS.TS. Nguyễn Tường Vy, Bộ môn Hóa Dược, trường
Đại học Dược Hà Nội.
2. Bài giảng của TS. Nghiêm Thị Minh Châu, Học viện Quân y.
3.


Early

Breast

Cancer

Trialists’

Collaborative

Group

(EBCTCG).Relevance of breast cancer hormone receptors and other factors to
the

efficacy

of

adjuvant

tamoxifen:

patient-level

meta-analysis

of

randomisedtrials. Lancet 2011; 378(9793)771–784. [PubMed Abstract]

4. Untch M, Thomssen C. Clinical practice decisions in endocrine therapy.
Cancer Investigation 2010; 28 Suppl 1:4–13. [PubMed Abstract]
5. Howell A, Pippen J, Elledge RM, et al. Fulvestrant versus anastrozole
for the treatment of advanced breast carcinoma: a prospectively planned
combined survival analysis of two multicenter trials. Cancer 2005; 104(2):236–
239. [PubMed Abstract]
6. Cuzick J, Sestak I, Baum M, et al. Effect of anastrozole and tamoxifen
as adjuvant treatment for early-stage breast cancer: 10-year analysis of the
ATAC trial. Lancet Oncology 2010; 11(12):1135–1141. [PubMed Abstract]
7. Mouridsen H, Gershanovich M, Sun Y, et al. Phase III study of
letrozoleversus tamoxifen as first-line therapy of advanced breast cancer in
postmenopausal women: analysis of survival and update of efficacy from the
International Letrozole Breast Cancer Group. Journal of ClinicalOncology
2003; 21(11):2101–2109. [PubMed Abstract]
8. Mauri D, Pavlidis N, Polyzos NP, Ioannidis JP. Survival with aromatase
inhibitors and inactivators versus standard hormonal therapy in advanced breast
cancer: meta-analysis. Journal of the National CancerInstitute 2006;
98(18):1285–1291. [PubMed Abstract]
9. Chia YH, Ellis MJ, Ma CX. Neoadjuvant endocrine therapy in primary
breast cancer: indications and use as a research tool. British Journal ofCancer
2010; 103(6):759–764. [PubMed Abstract]

19



×