Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Chọn lọc các dòng vô tính keo lá tràm (acacia auriculiformis) có năng suất và chất lượng cao cho trồng rừng một số tỉnh miền bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------------------------

PHẠM THU HÀ

CHỌN LỌC CÁC DÒNG VÔ TÍNH KEO LÁ TRÀM
(ACACIA AURICULIFORMIS) CÓ NĂNG SUẤT,
CHẤT LƯỢNG CAO CHO TRỒNG RỪNG MỘT SỐ
TỈNH PHÍA BẮC
CHUYÊN NGÀNH: LÂM NGHIỆP
MÃ SỐ: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: TS. HÀ HUY THỊNH

THÁI NGUYÊN, NĂM 2008


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Hà Huy Thịnh.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn của tôi hoàn toàn
trung thực và chưa hề công bố hoặc sử dụng để bảo vệ học vị nào.
Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được chỉ rõ
nguồn gốc. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2008


Tác giả

Phạm Thu Hà


ii

LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của Khoa Sau đại học - Trường Đại học Nông Lâm - Thái
Nguyên, Ban Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Giống cây rừng - Viện Khoa học
Lâm nghiệp Việt Nam đề tài đã được triển khai nghiên cứu tại trạm giống cây
rừng Ba Vì - Hà Tây - Hà Nội thuộc trung tâm nghiên cứu giống cây rừng. Sau
hơn một năm thu thập, xử lí số liệu, viết và chỉnh sửa đến nay luận văn đã hoàn
thành. Luận văn được hoàn thành theo chương trình đào tạo thạc sỹ Lâm nghiệp
cao học trong nước hệ không tập chung, khoá học 2005 - 2008 của Trường Đại
học Nông Lâm - Thái Nguyên.
Có được kết quả này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và
sâu sắc tới TS. Hà Huy Thịnh thầy giáo hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo và giúp
đỡ tôi có được những kiến thức về chuyên môn thiết thực trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Qua đây tôi xin cảm ơn BCN Khoa Lâm nghiệp và Khoa sau đại học Trường Đại học Nông Lâm - Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi có
thể hoàn thành nhiệm vụ. Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy tôi trong hơn 3 năm học vừa qua.
Nhân dịp này, tôi xin cảm ơn về sự giúp đỡ nhiệt tình, tận tuỵ của Ban giám
đốc và toàn thể cán bộ, công nhân viên của Trung tâm nghiên cứu Giống cây rừng,
đặc biệt là Ths. Phí Hồng Hải, Ths. Nguyễn Đức Kiên và Ths. Mai Trung Kiên đã
đóng góp những ý kiến quý báu cho bản luận văn của tôi được hoàn thiện nhất.
Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã cố gắng hết sức mình, học hỏi
Thầy Cô và bạn bè, nhưng do năng lực còn hạn chế, thời gian có hạn, nên luận
văn này chắc chắn rằng không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả

rất mong được sự đóng góp quý báu của các Thầy, Cô giáo và bạn bè.
Xin chân thành cám ơn!
Thái Nguyên, ngày 26 tháng 10 năm 2008

Phạm Thu Hà


76iii

MỤC LỤC
Lời cam đoan...................................................................................................... i
Lời cảm ơn ........................................................................................................ii
Mục lục .............................................................................................................iii
Danh mục các bảng .......................................................................................... vi
Danh mục các hình..........................................................................................vii
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .......................................... 4

1.1. Quan điểm chung về vấn đề nghiên cứu ................................................ 4
1.2. Khái quát chung về cây keo lá tràm....................................................... 6
1.3. Nghiên cứu về keo lá tràm ..................................................................... 8
1.3.1. Nghiên cứu về Keo lá tràm trên thế giới......................................... 8
1.3.1.1. Các nghiên cứu chung về Keo lá tràm..................................... 8
1.3.1.2. Các nghiên cứu về lĩnh vực cải thiện giống Keo lá tràm ...... 12
1.3.2. Nghiên cứu về keo lá tràm ở Việt Nam ........................................ 14
1.3.2.1. Các nghiên cứu chung về Keo lá tràm................................... 14
1.3.2.2. Các nghiên cứu về lĩnh vực cải thiện giống Keo lá tràm ...... 16
Chương 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU .................... 21

2.1. Vị trí địa lý ........................................................................................... 21

2.2. Địa hình ................................................................................................ 21
2.3. Khí hậu - Thủy văn .............................................................................. 21
2.4. Điều kiện đất đai nơi khảo nghiệm giống ............................................ 22
Chương 3. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 23

3.1. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................. 23
3.2. Nội dung nghiên cứu ........................................................................... 23
3.3. Vật liệu nghiên cứu .............................................................................. 23


iv77
3.4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................... 25
3.4.1. Phương pháp tiếp cận.................................................................... 25
3.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể.................................................... 25
3.4.3. Xử lý số liệu .................................................................................. 28
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................... 32

4.1. Biến động về sinh trưởng và một số chỉ tiêu chất lượng của các dòng
vô tính keo lá tràm ................................................................................ 32
4.1.1. Khu khảo nghiệm 102 dòng vô tính thiết lập năm 2002 tại Ba Vì Hà Nội ........................................................................................... 32
4.1.1.1. Biến động về sinh trưởng ....................................................... 34
4.1.1.2. Biến động về chất lượng ........................................................ 39
4.1.2. Khu khảo nghiệm chứng minh dòng thiết lập năm 2005.............. 42
4.1.2.1. Biến động về sinh trưởng ....................................................... 45
4.1.2.2. Biến động về chất lượng ........................................................ 48
4.1.3. Tuyển chọn các dòng vô tính có sinh trưởng nhanh, chất lượng tốt... 51
4.2. Khả năng chịu rét của các dòng vô tính keo lá tràm............................ 52
4.2.1. Khu khảo nghiệm 102 dòng vô tính thiết lập năm 2002............... 52
4.2.2. Khu khảo nghiệm chứng minh dòng thiết lập năm 2005.............. 56
4.2.3. Tuyển chọn các dòng vô tính sinh trưởng nhanh, chất lượng tốt

và có khả năng chịu rét ................................................................. 59
4.3. Giâm hom các dòng vô tính keo lá tràm .............................................. 60
Chương 5. KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................ 67

5.1. Kết luận ................................................................................................ 67
5.1.1. Mức độ phân hóa về sinh trưởng và một số chỉ tiêu chất về
hình dạng thân của các dòng vô tính Keo lá tràm trong 2 khu
vực khảo nghiệm............................................................................. 67
5.1.2. Khả năng chịu rét của các dòng vô tính Keo lá tràm................. 68


78
v
5.1.3. Khả năng nhân giống bằng hom của các dòng vô tính Keo lá tràm ...68
5.1.4. Các dòng vô tính Keo lá tràm được chọn ..................................... 69
5.2. Tồn tại và khuyến nghị......................................................................... 69
5.2.1. Tồn tại ........................................................................................... 69
5.2.2. Khuyến nghị .................................................................................. 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 71

I. Tiếng việt ................................................................................................. 71
II. Tiếng anh ................................................................................................ 73
PHỤ BIỂU


vi
79

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Đặc điểm khí hậu vùng trồng khảo nghiệm.................................... 21

Bảng 2.2. Tính chất hoá học và vật lý của đất ở các khu vực nghiên cứu...... 22
Bảng 4.1. Biến động về sinh trưởng và một số chỉ tiêu chất lượng trong
khảo nghiệm 102 dòng vô tính Keo lá tràm tại Ba vì - Hà Nội
(6/2002 - 06/2007) ....................................................................... 33
Bảng 4-2. Sinh trưởng các dòng vô tính Keo lá tràm của khảo nghiệm 102
dòng tại Cẩm Quỳ - Ba Vì – Hà Nội (6/2002 - 06/2007) ........... 35
Bảng 4-3: Thứ tự xếp hạng và sinh trưởng thể tích của các dòng vô tính ở
các giai đoạn tuổi khác nhau........................................................ 37
Bảng 4-4 Chỉ số chất lượng trong khảo nghiệm 102 dòng vô tính Keo lá
tràm tại Cẩm Quỳ - Ba vì - Hà Nội (8/2002 - 06/2007) .............. 40
Bảng 4-5. Biến động sinh trưởng và một số chỉ tiêu chất lượng trong khảo
nghiệm 25 dòng vô tính Keo lá tràm trồng 8/2005 tại Ba vì Hà Nội .......................................................................................... 44
Bảng 4-6: Sinh trưởng Keo lá tràm của khảo nghiệm 25 dòng tại Ba Vì Hà Nội sau 2 năm (8/2005 - 06/2007) ......................................... 46
Bảng 4-7: Chỉ số chất lượng trong khảo nghiệm 25 dòng vô tính Keo lá
tràm tại Ba vì – Hà Nội (8/2005 - 06/2007)................................. 49
Bảng 4-8: Khả năng chịu rét của một số dòng vô tính Keo lá tràm trong
khảo nghiệm 102 dòng tại Ba vì - Hà Nội (6/2002 - 8/2008)..... 53
Bảng 4-9: Khả năng chịu rét của những dòng sinh trưởng nhanh trong
khảo nghiệm 102 dòng tại Ba vì - Hà Nội (6/2002 - 8/2008)..... 55
Bảng 4-10: Thống kê cây chết do rét 2007 của khảo nghiệm 25 dòng vô
tính Keo lá tràm tại Ba Vì - Hà Nội trồng 8/2005 ....................... 57
Bảng 4-11: Ảnh hưởng của IBA ở các nồng độ khác nhau đến khả năng
ra rễ cho giâm hom các dòng Keo lá tràm ................................... 63


vii
80

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1: Khu khảo nghiệm 102 dòng trồng 6/2002 tại Ba Vì - Hà Nội........ 32

Hình 4.2: Dòng 98 sinh trưởng nhanh, hình dáng đẹp.................................... 41
Hình 4.3: Dòng 213 sinh trưởng nhanh, hình dáng đẹp.................................. 41
Hình 4.4: Khu khảo nghiệm chứng minh dòng trồng tháng 8/2005 tại
Cẩm Quỳ - Ba vì - Hà Nội ........................................................... 43
Hình 4.5: Khảo nghiệm chứng minh dòng..................................................... 50
Hình 4.6: Dòng 25 được chọn trong khảo nghiệm chứng minh dòng................ 50
Hình 4.7. Dòng Bvlt83; 73; 57 đại diện cho những dòng chịu rét kém.......... 54
Hình 4.8: Một số dòng chết rét trong khảo nghiệm chứng minh dòng........... 58
Hình 4.9: Giâm hom 26 dòng vô tính Keo lá tram ......................................... 62
Hình 4.10: Tỷ lệ ra rễ của các dòng vô tính Keo lá tràm với các nồng độ
thuốc điều hòa sinh trưởng IBA................................................... 65
Hình 4.11: Ảnh hưởng của thuốc kích thích ra rễ IBA nồng độ 1.0% đến
các dòng vô tính Keo lá tràm ....................................................... 65


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, sản lượng gỗ lấy ra từ rừng tự nhiên còn ít trong khi nhu cầu
sử dụng các sản phẩm được chế biến từ gỗ của con người vẫn không ngừng
tăng, gỗ vẫn là nguồn nguyên liệu không thể thiếu được trong cuộc sống hàng
ngày. Từ gỗ người ta có thể tạo ra nhiều vật dụng và các loại sản phẩm khác
nhau phục vụ cho sinh hoạt của con người nhờ công nghệ hiện đại mới. Chính
vì những lý do trên mà các nhà lâm nghiệp vẫn hàng, ngày hàng giờ tiếp tục
tiến hành các nghiên cứu nhằm chọn tạo ra những giống mới có năng suất và
chất lượng cao đáp ứng nhu cầu trên. Keo lá tràm là một trong những loài cây
đang được các nhà nghiên cứu quan tâm và hướng tới. Đây là loài cây đã
được xác định là thích hợp với điều kiện đất đai, khí hậu ở Việt Nam và có
diện tích gây trồng tương đối lớn trong các chương trình trồng rừng. Loài cây
này có chu kỳ kinh doanh ngắn, gỗ có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác

nhau như làm giấy, ván dăm, ván sợi... Keo lá tràm là loài cây lá rộng, mọc
nhanh, mọc được trên nhiều loại đất, có biên độ sinh thái rộng, phù hợp cho
trồng rừng trên quy mô lớn. Ngoài việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
sản xuất giấy, ván nhân tạo, gỗ của loài cây này còn được sử dụng cho các
mục đích khác như xây dựng, đồ gỗ, trang trí nội thất, gỗ củi... Đây cũng là
loài cây có nốt sần chứa cả Rhizobium và Bradyrhiobium, có khả năng tổng
hợp nitơ tự do trong không khí rất cao (Dart và các cộng sự, 1991), có khả
năng thích ứng với nhiều điều kiện khí hậu đất đai ở nước ta từ vùng cát ven
biển tương đối khô hạn đến vùng núi thấp dưới 400m ở Tây Nguyên. Từ năm
1980, nòi địa phương Đồng Nai của Keo lá tràm đã được lấy giống để gây
trồng ở nhiều nơi. Nếu nguồn giống tốt, điều kiện sinh thái và lập địa phù hợp
sẽ tạo ra khối lượng gỗ lớn không những đáp ứng được nhu cầu trong nước


2
mà còn có thể xuất khẩu sang nước ngoài. Những năm gần đây một loạt các
công trình nghiên cứu dòng vô tính keo lá tràm đã được thực hiện nhằm cải
thiện chất lượng di truyền.
Keo lá tràm là một trong những loài cây đáp ứng được mục tiêu của
trồng rừng sản xuất của nước ta trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Có khả năng thích ứng lớn có thể trồng trên đất trống đồi núi trọc, vừa có khả
năng cung cấp gỗ nguyên liệu vừa có khả năng cung cấp gỗ lớn có giá trị để
làm đồ mộc. Vì vậy, đây là một trong những loài cây chính được dùng trong
trồng rừng sản xuất ở nhiều vùng trong cả nước. Nói đến trồng rừng sản xuất
thì năng suất rừng là vấn đề quan trọng hàng đầu, trong đó công tác giống là
vấn đề rất quan trọng vì có giống tốt sẽ làm tăng năng suất và chất lượng
rừng. Các nghiên cứu về cải thiện giống Keo lá tràm được thực hiện ở Trung
tâm nghiên cứu giống cây rừng từ năm 1991 đến nay qua các đề tài nghiên
cứu khoa học. Giai đoạn 1991- 1995 đề tài cấp nhà nước “Xây dựng cơ sở
khoa học cho việc cung cấp nguồn giống cây rừng được cải thiện - mã số KN

03 - 03” và kế tiếp giai đoạn 1996 - 2000 là đề tài cấp nhà nước “Chọn giống
và nhân giống cho một số loài cây rừng chủ yếu - mã số KH 08- 04” do Giáo
sư Lê Đình Khả làm chủ nhiệm và Tiến sỹ Nguyễn Hoàng Nghĩa làm chủ đề
mục đã nghiên cứu về cải thiện giống Keo lá tràm. Hiện nay về lĩnh vực này
vẫn được tiếp tục nghiên cứu thông qua đề tài cấp ngành “Nghiên cứu chọn,
tạo giống có năng suất và chất lượng cao cho một số loài cây trồng rừng chủ
yếu ở Việt Nam” thực hiện giai đoạn 2001 - 2005 và giai đoạn 2006 - 2010,
do Tiến sỹ Hà Huy Thịnh làm chủ nhiệm. Theo số liệu thống kê toàn quốc
giai đoạn 1986 - 1992 của Vụ khoa học công nghệ, Bộ lâm nghiệp (1994) cho
thấy Keo lá tràm có tỷ lệ diện tích trồng là 4,5% (khoảng 43000 ha). Hàng
năm, diện tích rừng trồng Keo lá tràm tăng khoảng 10.000 tới 15.000 ha


3
(Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003). Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về
Keo lá tràm cả trong nước và trên thế giới. Ở nước ta nhiều các dòng và xuất
xứ Keo lá tràm được công nhận là giống nhà nước và giống tiến bộ kỹ thuật.
Keo lá tràm được trồng nhiều ở các tỉnh miền Trung và Đông nam bộ cho
năng suất và chất lượng cao. Với nhiều công dụng như vậy Keo lá tràm hiện
đang là loài cây trồng rừng phổ biến trong các chương trình trồng rừng ở nước
ta. Chính vì vậy cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyển chọn các dòng và
các xuất xứ Keo lá tràm có năng suất và chất lượng cao cho trồng rừng, đặc
biệt đối với trồng rừng miền Bắc. Trên cơ sở nối tiếp các đề tài nghiên cứu về
cải thiện giống Keo lá tràm đã được thực hiện tại trung tâm Giống cây rừng
thuộc Viện Lâm nghiệp Việt Nam từ trước đến nay chúng tôi tiếp tục nghiên
cứu đề tài: “Chọn lọc các dòng vô tính Keo lá tràm (Acacia auriculiformis)
có năng suất và chất lượng cao cho trồng rừng một số tỉnh miền Bắc”


4

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Giống là một trong những khâu quan trọng của trồng rừng thâm canh.
Không có giống được cải thiện theo mục tiêu kinh tế thì không thể đưa năng
suất rừng lên cao. Trong dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng, có 2 triệu hecta
rừng sản xuất và 1 triệu hecta rừng phòng hộ. Giống có vai trò cực kỳ quan
trọng trong công tác trồng rừng, đặc biệt đối với trồng rừng sản xuất. Vì thế
nghiên cứu chọn tạo giống cây rừng là một khâu không thể thiếu trong sản
xuất lâm nghiệp.
Công tác giống có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện dự án
trồng rừng. Dù trồng rừng sản xuất hay trồng rừng phòng hộ thì dùng giống
có chất lượng di truyền được cải thiện mới mau đem lại hiệu quả. Chọn loài
cây cho trồng rừng phải căn cứ vào mục tiêu kinh tế và/ hoặc phòng hộ được
đặt ra, có thị trường tiêu thụ mau đạt hiệu quả và phù hợp điều kiện lập địa ở
nơi gây trồng. Cây ngoại lai hay cây bản địa đáp ứng yêu cầu này đều có vai
trò quan trọng trong trồng rừng.
Công tác giống gồm nhiều bước đi khác nhau trong đó có 4 khâu quan
trọng nhất là chọn lọc giống, lai giống, khảo nghiệm giống và nhân giống.
Mặt khác muốn tăng năng suất rừng trồng không những phải sử dụng giống
có chất lượng di truyền được cải thiện mà còn cần áp dụng các biện pháp
thâm canh khác và phải quan tâm đầy đủ đến công tác bảo vệ rừng. Trong
những năm qua công tác cải thiện giống cây rừng đã đạt được một số thành
tích quan trọng về chọn tạo và nhân giống cây rừng đã cung cấp một số giống
mới có năng suất, chất lượng cao cho trồng rừng sản xuất song tỷ lệ giống đã
được cải thiện trong sản suất chưa đáng là bao. Để đáp ứng yêu cầu to lớn của
các chương trình trồng rừng cần có bước đi thích hợp với tình hình thực tế



5
của nước ta. Một mặt phải tận dụng những thành quả đã đạt được ở trong
nước và trên thế giới về chọn tạo giống mới và nhân giống đáp ứng yêu cầu
ngày càng tăng của sản xuất, mặt khác phải chú ý công tác bảo tồn nguồn gen
cây rừng để làm cơ sở cho công tác cải thiện giống lâu dài và trao đổi giống
quốc tế.
Trong các năm 1996 - 1999 dự án FORTIP (Regional Project on Forest
Tree Impovement) về cải thiện giống cây rừng do Trung tâm nghiên cứu
giống cây rừng thuộc Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam hợp tác với
CSIRO (Tổ chức khoa học và công nghệ Australia) đã trồng 8 ha vườn giống
Keo lá tràm tại Ba Vì (Hà Nội) và Chơn Thành (Bình Phước). Điều đáng tiếc
là vườn giống Chơn Thành hiện nay không còn do địa phương trưng dụng lô
đất đó để xây dựng khu công nghiệp. Vật liệu để xây dựng vườn giống là hạt
giống được thu từ các cây trội đã được chọn lọc tại Papua New Guinea (PNG)
và các bang Queensland (Qld), Northern Territory (NT) của Australia cũng
như từ vườn giống Sakaerat của Thái Lan. Các vùng lấy giống là những xuất
xứ đã được khảo nghiệm trước đây tại Việt Nam và Thái Lan được đánh giá
là những xuất xứ tốt nhất. Mỗi xuất xứ được lấy từ một số cây trội nhất định,
hạt lấy từ cây trội được thụ phấn tự do coi là một gia đình (family) (Phi Hong
Hai, 1999)[36]. Các gia đình này được trồng thành vườn giống theo khối hàng
4 cây lặp lại 8 lần hoàn toàn ngẫu nhiên. Đánh giá tổng hợp các vườn giống
sau 3 năm về sinh trưởng của cây theo gia đình và theo xuất xứ, từ đó giữ lại
những gia đình tốt nhất của các xuất xứ có triển vọng, tỉa bỏ những cá thể và
những gia đình xấu để thành vườn giống lấy hạt (Seed orchard) cung cấp
giống trồng rừng ở Việt Nam (Lê Đình Khả và cộng sự, 2001)[15]. Qua đó
chọn ra được những xuất xứ, gia đình và cá thể xuất sắc nhất của vườn giống
để tiếp tục nhân giống và khảo nghiệm dòng vô tính. Mục đích của việc khảo
nghiệm các dòng vô tính Keo lá tràm nhằm chọn ra các dòng sinh trưởng,



6
phát triển tốt, có khả năng chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh và khả
năng nhân giống cao, thích ứng tốt với các vùng sinh thái khác nhau, phục vụ
cho công tác trồng rừng.
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÂY KEO LÁ TRÀM

Keo Acacia là một chi thực vật họ phụ Trinh nữ (Mimosoideae) thuộc
họ Đậu (Leguminosae) bao gồm khoảng 1200 loài có phân bố rộng ở châu Á,
và châu Đại Dương. Riêng Austrailia có khoảng 850 loài Keo Acacia với
hàng trăm loài có lá giả (Pedley, 1987)[35]. Ở Việt Nam, vào đầu những năm
1960 gần 20 loài Keo Acacia được đưa vào thử nghiệm gây trồng, Keo lá
tràm là một trong những loài có khả năng thích nghi cao và sinh trưởng nhanh
do đó trở thành loài cây trồng rừng phổ biến ở các tỉnh phía Nam (Nguyễn
Hoàng Nghĩa, 1997) [18].
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis A.Cunn. ex Benth), có nơi còn gọi
là Tràm bông vàng (vì chúng có lá giống lá cây Tràm và có hoa màu vàng) là
loài cây đơn thân, thẳng, thường xanh và sinh trưởng khá nhanh. Hiện nay ở
nước ta Keo lá tràm là một trong những loài cây trồng rừng kinh tế chủ yếu.
Số liệu thống kê toàn quốc giai đoạn 1986 - 1992 của vụ khoa học công nghệ,
Bộ lâm nghiệp (1994) cho thấy diện tích trồng Keo lá tràm khoảng 43.000 ha
chiếm 4,5% (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003).
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) có nguồn gốc từ Australia, Papua
New Guinea (PNG) và Indonesia được nhập vào nước ta từ những năm 1960,
phân bố chủ yếu ở 8 - 160 vĩ Nam, ở độ cao 100m, có thể đến 400m trên mặt
biển, lượng mưa 1400 - 3400mm/năm, song có thể chịu được lượng mưa 500
- 1000mm (Doran, Turnbull và các cộng sự, 1997). Keo lá tràm là một trong
những loài cây đang được ưa chuộng trên thị trường đồ mộc ở nước ta và trên
thế giới. Keo lá tràm thường có kích thước trung bình, thân ngắn nhiều cành
nhánh, tuy nhiên trên các lập địa tốt loài này có thế cao 30 m với đường kính



7
80 cm và thân thẳng đơn trục (Pinyopusarerk, 1990). Đây là loài cây sinh
trưởng nhanh, gỗ có tỷ trọng 0,5 - 0,6, thậm chí 0,7, nhiệt lượng cao (4800 4900 Kcal/kg) (Viện hàn lâm khoa học Mỹ, 1984) có thể dùng làm giấy, làm
gỗ xây dựng và gỗ đồ mộc.
Keo lá tràm có phân bố tự nhiên ở Ôxtrâylia, Papua New Guinea và
Indonesia. Ở Ôxtrâylia cây phân bố chủ yếu ở các vùng phía bắc bang
Northern Territory với độ cao 400m (nằm gữa vĩ độ 110 đến 140 nam và kinh
độ 1300 đến 1350 đông), Cape York Peninsula, Queesland và trên đảo Torres
Strait ở độ cao 150m (100 đến 160 vĩ nam và 1420 đến 1450 kinh đông).
Ở Papua New Guinea Keo lá tràm chủ yếu ở phía Tây từ vùng giáp
ranh Irian Jaya đến vùng sông oriomo. Tại Indonesia chúng có phân bố gần
Papua New Guinea và trên đảo Kai Island chủ yếu ở độ cao từ 5 đến 20m
(Pinyopusarerk. K, 1984) [38]. Ở nước ta, Keo lá tràm là cây nhập nội đã được
gây trồng rộng rãi ở hầu hết các địa phương, đây là loài cây thích ứng khá
rộng với các vùng sinh thái khác nhau của nước ta, từ điều kiện khí hậu, đất
đai của vùng cát ven biển tương đối khô hạn miền Trung đến vùng núi thấp
dưới 400m ở Tây nguyên. (Lê Đình Khả và cộng sự, 2001) [15]
Gỗ Keo lá tràm có tỷ trọng từ 0,5 đến 0,6 thậm chí 0,7 nhiệt lượng cao
4800 đến 4900 kcal/kg (Viện hàn lâm khoa học Mỹ, 1984), trong thành phần
hoá học gỗ chứa 48-50,5% cellulose, 23,5-25,5% lignin và 19,6-22,7%
pentosan (Lê Đình Khả ,1999) [16], vì vậy thường được sử dụng làm chất đốt,
làm giấy sợi, gỗ xây dựng và đồ mộc. Ngoài ra, Keo lá tràm cũng là loài cây
có nốt sần ở rễ chứa cả Rhizobium và Bradyrhizobium có khả năng tổng hợp
Nitơ trong khí quyển rất cao, do đó khả năng cải tạo đất của chúng rất hiệu
quả. Nhiều nơi đã dùng Keo lá tràm như là một trong những loài cây tiên
phong để cải tạo đất trống đồi núi trọc.



8
Chu kỳ kinh doanh của cây Keo lá tràm thường từ 8 đến 12 năm với
mục tiêu làm gỗ nguyên liệu. Vỏ và giác cây thường chiếm khoảng 30% thể
tích cây (Chomcharn và cộng sự, 1986) [27], lõi có mầu nâu nhẹ đến đỏ thẫm,
thớ gỗ mịn, có thể dùng đóng đồ mộc rất tốt. Ở nước ta hiện nay gỗ Keo lá
tràm được dùng làm nguyên liệu giấy sợi, gỗ xây dựng, gỗ chống lò và đóng
đồ gia dụng, đồ mỹ nghệ. Do gỗ có vân đẹp và có mầu phù hợp nên có nơi gọi
là “Cẩm lai giả” (Lê Đình Khả, 1993) [12] điều đó chứng tỏ gỗ Keo lá tràm
được dùng rộng rãi và được người dân chấp nhận khi gỗ của một số loài như
Đinh, Lim, Lát, v.v... ngày càng hiếm và đắt. Kết quả khảo nghiệm xuất xứ
trong nhiều năm qua ở nước ta cho thấy trong hàng chục xuất xứ Keo lá tràm
chỉ có một số ít là có sinh trưởng nhanh rõ rệt. Nòi địa phương Keo lá tràm
được nhập trước đây tuy có khả năng chịu đựng khá tốt đối với hoàn cảnh
khắc nghiệt nhưng sinh trưởng kém hơn nhiều xuất xứ khác, lại có nhiều cành
nhánh (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1997) [18]. Vì vậy, việc chọn những cá thể ưu
trội có sinh trưởng nhanh, chất lượng thân cây đẹp và khảo nghiệm dòng vô
tính để xác định tính ổn định di truyền của chúng là một trong những biện
pháp góp phần nâng cao năng suất và chất lượng của rừng trồng loài cây này.
Với những ưu điểm vừa nêu Keo lá tràm nhanh chóng được các nước ở vùng
nhiệt đới sử dụng như là một loài chủ yếu để trồng rừng kinh tế, phủ xanh đất
trống đồi núi trọc nhất là các nước vùng Đông Nam Á và Trung Quốc. Do đó
nghiên cứu về Keo lá tràm được các nhà khoa học trên thế giới rất quan tâm.
1.3. NGHIÊN CỨU VỀ KEO LÁ TRÀM

1.3.1. Nghiên cứu về Keo lá tràm trên thế giới
1.3.1.1. Các nghiên cứu chung về Keo lá tràm
Muốn trồng rừng thành công đối với bất cứ một loài cây nào ở một
vùng sinh thái cụ thể, cũng cần phải nghiên cứu để hiểu biết đầy đủ về đặc
tính sinh vật học, lâm học… của loài cây đó. Đây chính là nhiệm vụ rất quan



9
trọng, vì nắm vững các đặc tính trên sẽ đề ra các biện pháp kỹ thuật gây trồng
một cách chính xác. Đối với Keo lá tràm cũng vậy, hầu hết các nước có nhập
nội hoặc ngay cả những nước nguyên sản của chúng cũng đều tập trung
nghiên cứu về những lĩnh vực này.
Theo Verdcourt (1979)[44] thì Keo lá tràm là loài cây gỗ nhỏ đến trung
bình cao khoảng 8 đến 20m nhưng ở những nơi có lập địa thích hợp Keo lá
tràm có thể cao đến 30m, đường kính đạt từ 80cm đến 90cm. Tán Keo lá tràm
khá dày, rộng và xanh quanh năm, màu lá xanh lục đậm. Vỏ Keo lá tràm màu
nâu, dày từ 3-10mm có nứt dọc nhỏ. Cây non có vỏ mền màu xám, nhẵn sau
trở nên xù xì chuyển màu đậm dần theo tuổi.
Khi ở giai đoạn cây mầm, lá Keo lá tràm là lá kép lông chim. Sau
khoảng 20 ngày nảy mầm, cây cho ra các lá có phiến rộng, mỏng do cuống lá
biến đổi thành tuy vậy trên đầu lá vẫn mang đôi lá kép như lá ban đầu (lá thật).
Hoa của Keo lá tràm là hoa tự chùm dài 8 - 10cm mọc thành từng đôi
từ nách lá, mỗi hoa nhỏ dài 0,5 -1,5cm ở vùng nguyên sản Keo lá tràm ra hoa
vào tháng 6, tháng 7.
Quả của Keo lá tràm là quả đậu, dẹt và mỏng dài 6 - 10cm. Khi còn non
quả thẳng, khi già quả cuộn lại xoắn ốc, vỏ quả hoá gỗ cứng. Mỗi quả mang
5-7 hạt nằm ngang trong vỏ, có dây rốn dài màu vàng cuốn lại dính vào vách
vỏ quả. Quả Keo lá tràm chín vào tháng 9, tháng 10.
Hạt Keo lá tràm dẹt hình bầu dục dài 4- 6mm, rộng 3- 4mm, dày
khoảng 1mm. Khi chín hạt màu nâu đen, vỏ hạt rất cứng 1kg có từ 30.00060.000 hạt.
Nghiên cứu của Pinyopusarerk (1984)[38] về Keo lá tràm cho thấy ở
vùng nguyên sản sinh trưởng tốt ở độ cao thấp hơn 400m, nhiệt độ trung bình
28- 30oC không có sương mù. Lượng mưa hàng năm thay đổi từ 760mm đến
2000mm, số ngày mưa thông thường từ 80 - 100 ngày trong một năm và phân
bố theo mùa.



10
Theo Turnbull và các cộng sự (1997)[42] Keo lá tràm mọc được trên
nhiều loại đất. Ở Papua New Guinea chúng mọc được trên đất chua đến đất
glay hoá mạnh, úng nước với pH từ 4- 6 và có thể mọc được trên đất có tính
kiềm cao pH từ 8- 9 ở Northern Territory Keo lá tràm còn có khả năng sinh
trưởng và phát triển ở những nơi có hoàn cảnh khác hẳn so với vùng nguyên
sản, như có mùa khô kéo dài, lượng mưa trung bình hàng năm nhỏ hơn
650mm, hoặc ở những vùng đất hoang hoá bị xói mòn mạnh kể cả chịu ảnh
hưởng của khí độc công nghiệp như ở một số nơi của Trung Quốc và Ấn Độ
nó vẫn sống và phát triển tốt.
Keo lá tràm cũng như một số loài trong chi Acacia là những loài mọc
nhanh, có khả năng cố định đạm trong đất, cải tạo đất, cải tạo môi trường và
phát triển được trong nhiều hoàn cảnh dù là khắc nghiệt ít loài cây khác mọc
được. Theo Banerjee (1973)[25] “Ít có loài cây nào có khả năng thích nghi
rộng rãi với hoàn cảnh sống như Keo lá tràm, nó có vai trò đặc biệt trong việc
trồng lại rừng ở những lập địa khó khăn, đất đai nghèo dinh dưỡng do xói
mòn vì thiếu hiểu biết khi canh tác”.
Do có nhiều ưu điểm như đã trình bày, Keo lá tràm nhanh chóng được
các nước ở vùng nhiệt đới trồng thành những vùng rộng lớn như là một loài
chủ yếu phủ xanh đất trống, đồi trọc. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu sinh trưởng
của Keo lá tràm cũng được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm.
Theo Brewbaker (1986)[26] khi tổng kết tình hình sinh trưởng của Keo
lá tràm ở Indonesia cho thấy trong những điều kiện thuận lợi về khí hậu
(lượng mưa bình quân >2000mm) đất đai tốt thì Keo lá tràm sinh trưởng
mạnh ở tuổi 10 đến 12 cao từ 15m- 18m, đường kính 15cm - 20cm và năng
suất có thể đạt được 20m3 - 25m3/ha/năm. Tuy vậy trên những vùng đất bạc
màu bị xói mòn mạnh thì năng suất chỉ đạt 8m3 - 10m3/ha/năm và ở những nơi
có lượng mưa thấp, mùa khô kéo dài trồng không bón phân thì năng suất chỉ



11
còn 2m3 đến 4m3/ha/năm. Điều này giống với năng suất rừng Keo lá tràm
trồng quảng canh ở nước ta hiện nay.
Nghiên cứu tuổi khai thác của Keo lá tràm trồng trên đất hoang hoá ở
Indonesia của Djuwadi, Fanani và Durbari (1981)[29] cho thấy lượng tăng
trưởng hàng năm và lượng tăng trưởng bình quân hàng năm bằng nhau ở tuổi
14, sau đó giảm dần và đến tuổi 18 thì lượng tăng trưởng hàng năm bằng
không. Vì vậy, tác giả đề nghị tuổi khai thác của Keo lá tràm nên ở tuổi 14.
Tuy nhiên, tác giả không đề cập đến mục đích kinh doanh rừng Keo lá tràm vì
mục đích kinh doanh là một chỉ tiêu rất quan trọng để quyết định tuổi khai
thác rừng trồng.
Nghiên cứu về sinh khối Keo lá tràm ở tỉnh Pangnga, nam Thái Lan của
Tampibal và cộng sự (1981)[40] cho thấy tăng trưởng của Keo lá tràm phụ
thuộc rất nhiều vào xuất xứ. Tuy tác giả không nêu mật độ trồng và thí
nghiệm không nhiều xuất xứ, nhưng với các cấp tuổi khác nhau thì giống xuất
xứ từ Balamuk của Papua New Guinea đều có lượng tăng trưởng gấp 2 đến 3
lần giống xuất xứ từ Springvale ở Queensland.
Ngoài ra, còn một số tác giả nghiên cứu về giá trị sử dụng của gỗ Keo
lá tràm. Theo Chomcharn và cộng sự (1986)[27] cho thấy gỗ Keo lá tràm bên
cạnh tính năng thích hợp với các công trình xây dựng và làm đồ gia dụng như
bàn, tủ, giường, chạm khắc… thì trong công nghệ sản xuất bột giấy, Keo lá
tràm có tính chất bột tương đương với một số loài bạch đàn. Soetrisno
(1990)[43] còn cho rằng Keo lá tràm có thể ghép vào nhóm những cây có tỷ
trọng cao, sợi ngắn và thành phần lignin thấp có tính chất dễ hoà tan khi đun
nóng với axit sunfuric 15% sẽ cho sản phẩm bột giấy có tính chất vật lý phù
hợp với sản phẩm giấy có chất lượng cao.


12

1.3.1.2. Các nghiên cứu về lĩnh vực cải thiện giống Keo lá tràm
Vào đầu những năm 1980, một loạt các khảo nghiệm xuất xứ về Keo
lá tràm bắt đầu được xây dựng ở các nước như Australia, Thái Lan, Trung
Quốc v.v... Kết quả cho thấy giữa các xuất xứ có sự sai khác rất rõ rệt về sinh
trưởng và chất lượng thân cây (Yang and Zeng, 1993; Awang và cộng sự,
1994; Venkateswarlu và cộng sự, 1994…). Qua đó cho thấy rằng có thể tăng
năng suất rừng trồng Keo lá tràm thông qua việc sử dụng các xuất xứ tốt.
Sự sai khác rất lớn về sinh trưởng và hình dạng thân giữa các xuất xứ
Keo lá tràm đã được nghiên cứu và ghi nhận ở rất nhiều nước trên thế giới
như Australia (Harwood và cộng sự, 1991) [30]; Thái Lan (Luangviriyasaeng
và cộng sự, 1991); Zaire (Khasa và cộng sự, 1995); Indonesia (Otsamo và
cộng sự, 1996) và Malaysia (Nor Aini và cộng sự, 1997). Các xuất xứ có
nguồn gốc từ Papua New Guinea (PNG) có sinh trưởng sinh khối lớn hơn các
xuất xứ có nguồn gốc từ Queensland (Qld) và Northern Territory (NT) nhưng
các xuất xứ có nguồn gốc từ (Qld) lại có tỷ lệ cây một thân cao hơn, có hình
dạng thân đẹp hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu của Pinyopusarerk và cộng sự,
1997 tại Thái Lan [39] lại cho thấy rằng các xuất xứ từ Queensland (Qld) sinh
trưởng tốt hơn và có hình dạng thân đẹp hơn các xuất xứ từ Papua New
Guinea (PNG) và Northern Territory (NT).
Nghiên cứu của Nor Aini và các cộng sự, 1997 [33] tại Malaysia trên
khảo nghiệm xuất xứ 4 năm tuổi cho thấy không những các xuất xứ khác nhau
thì sinh trưởng khác nhau mà tỷ trọng của gỗ cũng sai khác rất lớn. Các xuất
xứ có sinh trưởng tốt nhất đồng thời cũng là những xuất xứ cho tỷ trọng gỗ
cao nhất, trong khi các xuất xứ sinh trưởng kém có tỷ trọng gỗ thấp nhất.
Tính chất chống chịu của Keo lá tràm cũng đã được các nhà khoa học quan
tâm trong quá trình chọn giống. Nghiên cứu của Marcar và các cộng sự 1991
cho thấy các xuất xứ Keo lá tràm có sự khác biệt rất lớn về khả năng chịu mặn


13

và chịu úng ngập, điều đáng chú ý là sinh trưởng của các xuất xứ không có sự
tương quan với các chỉ tiêu này.
Song song với các khảo nghiệm loài và xuất xứ, trong khoảng 10 năm
gần đây các kỹ thuật di truyền phân tử cũng đã được áp dụng rộng rãi trong
nghiên cứu chọn giống cây rừng. Các nghiên cứu di truyền phân tử được dùng
trong đánh giá mức độ đa dạng di truyền trong quần thể và giữa các quần thể,
tỷ lệ giao phấn chéo trong quần thể. Các nghiên cứu của Wickneswari. R và
Norwati. M, 1993 [45] sử dụng chất isozyme trong đánh giá đa dạng di truyền
của quần thể Keo lá tràm tự nhiên tại Australia cho thấy sự sai khác khá cao
giữa các quần thể và sự sai khác di truyền là do sự sai khác giữa các cá thể
trong quần thể. Điều này có thể lý giải sự sai khác về sinh trưởng cũng như
khả năng thích nghi của các xuất xứ trong các khảo nghiệm và là cơ sở quan
trọng trong chọn lọc cá thể.
Sau khảo nghiệm loài và xuất xứ, việc chọn lọc cá thể (cây trội) để
xây dựng các khảo nghiệm hậu thế, dòng vô tính và vườn giống để cung cấp
hạt giống là bước tiếp theo của một chương trình chọn giống. Khảo nghiệm
hậu thế các gia đình cây trội Keo lá tràm được chọn lọc từ nơi nguyên sản và
từ các lâm phần địa phương tại Thái Lan năm 1989 đã cho thấy có sự sai
khác rất lớn về sinh trưởng giữa các xuất xứ cũng như giữa các gia đình
trong cùng xuất xứ. Các gia đình được chọn lọc trong các rừng sản xuất tại
Thái Lan có sinh trưởng kém đã bị chặt bỏ khi khảo nghiệm này được
chuyển hoá thành vườn giống. Sự sinh trưởng kém của các gia đình địa
phương đã được lý giải là do nền tảng di truyền hẹp, tình trạng giao phối cận
huyết và chọn lọc âm tính (các cá thể có sinh trưởng kém được chọn để thu
hái hạt giống cho sản xuất đại trà) đã xảy ra qua nhiều thế hệ (Pyniopusarerk
và cộng sự, 1997) [39].


14
1.3.2. Nghiên cứu về keo lá tràm ở Việt Nam

1.3.2.1. Các nghiên cứu chung về Keo lá tràm
Keo lá tràm được nhập nội vào nước ta trong những năm 1960 (Nguyễn
Hoàng Nghĩa, 1997) [18] nên buổi đầu các nhà khoa học có những công trình
nghiên cứu về đặc điểm, công dụng của Keo lá tràm đồng thời tập hợp tài liệu
của nước ngoài, dịch và giới thiệu về loài cây này ở Việt Nam. Có thể kể ra
một loạt các công bố của Phạm Hoàng Hộ, 1981 [8], Viện điều tra quy hoạch
rừng, 1982 [6] của Thái Văn Trừng, 1982 [21] và của Lê Đình Khả, 1993 [12]
giới thiệu Keo lá tràm là một trong những loài cây có khả năng cải tạo đất,
phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Năm 1986, Cao Thọ Ứng và Nguyễn Xuân Quát đã có công trình
nghiên cứu khá toàn diện về các biện pháp kỹ thuật gây trồng Keo lá tràm
[23], tiếp đó Bộ lâm nghiệp sau khi tổng kết nhiều kết quả nghiên cứu đã phổ
biến Quy phạm kỹ thuật tạm thời trồng Keo lá tràm, hướng dẫn trồng Keo lá
tràm bằng cây con có bầu [2]. Trần Hậu Huệ, 1995 [10], đã đánh giá tiềm
năng tái sinh của Keo lá tràm như sau “những cây mạ tái sinh dày đặc, kín cả
mặt đất ở những nơi vừa khai thác trắng nhất là những nơi vừa qua mới bị
cháy”. Từ đó tác giả cho rằng khả năng xúc tiến tái sinh hạt của Keo lá tràm
là rất triển vọng khi kết hợp với các phương pháp làm đất và xử lý thực bì.
Nói chung ở Việt Nam hiện nay, phương pháp trồng rừng Keo lá tràm bằng
cây con có bầu vẫn là chủ yếu. Thời gian gần đây, một số nơi đã xúc tiến thử
nghiệm phương pháp gieo hạt thẳng bằng máy bay song kết quả vẫn chưa
được tổng kết.
Nhu cầu của xã hội về sản phẩm gỗ ngày càng nhiều, rừng trồng Keo lá
tràm không chỉ mang tính phòng hộ như trước đây mà còn phải đáp ứng về
mặt gỗ, củi. Chính vì vậy, nghiên cứu về sinh trưởng cho Keo lá tràm được
các nhà khoa học trong nước quan tâm. Có thể điểm qua một số công trình
gần đây.


15

Nghiên cứu sinh trưởng cây Keo lá tràm ở lâm trường Trị An, tỉnh
Đồng Nai của Trần Hậu Huệ, 1995 [10] đã tổng kết được năng suất của rừng
trồng Keo lá tràm bằng phương thức hỗn giao với Bạch Đàn và trồng thuần
loại. Tuy vậy, số liệu đưa ra chỉ tổng kết kinh nghiệm từ sản xuất, chưa đưa ra
được phương pháp nghiên cứu cũng như phương pháp tính toán có tính khoa
học nên tính thuyết phục chưa cao.
Lập biểu thể tích cho Keo lá tràm của Nguyễn Ngọc Lung, 1996 [17],
Xây dựng cơ sở khoa học để hướng dẫn tỉa thưa Keo lá tràm của Đào Công
Khanh, 1997. Trên cơ sở nghiên cứu cấp đất và các quy luật sinh trưởng của
Keo lá tràm đồng thời tác giả đưa ra nhận xét ban đầu về mật độ trồng thích
hợp để đảm bảo chất lượng sản phẩm cung cấp nguyên liệu giấy.
Cũng vào năm 1996, Vũ Tiến Hinh [9] sau khi khảo sát 84 ô rừng trồng
thuần loài Keo lá tràm 4 đến 10 tuổi thuộc 7 địa phương đại diện cho các
vùng sinh thái trong cả nước và giải tích 117 cây đại diện cho các ô quan sát
đã lập được các biểu sau :
- Biểu thể tích cây đứng Keo lá tràm.
- Biểu cấp đất rừng trồng Keo lá tràm.
- Xây dựng một số mô hình dự đoán sản lượng của Keo lá tràm.
- Biểu quá trình sinh trưởng của Keo lá tràm.
Theo kết quả trong biểu sinh trưởng ở một số vùng được nghiên cứu,
lượng tăng trưởng bình quân của Keo lá tràm ở cấp tuổi 8 có thể đạt từ 5.5
m3/ha/ năm (cấp đất 4) đến 16.2 m3/ha/năm (cấp đất 1). Tác giả cũng đưa ra
kết luận là tuổi thành thục công nghệ của rừng trồng Keo lá tràm phải sau tuổi
12 (vì lúc đó chưa có rừng Keo lá tràm thuần loài cao tuổi hơn). Từ đó, tác giả
đề xuất việc ứng dụng kết quả này cho sản xuất và nghiên cứu vì đây là những
căn cứ quan trọng giúp cho các đơn vị trồng Keo lá tràm tham khảo, tra cứu
tính toán trong sản xuất.


16

Keo lá tràm là một trong những loài cây có nhiều tác dụng, vì vậy có một
số công trình trong nước nghiên cứu về công dụng của Keo lá tràm như: Khả
năng cố định đạm của Keo lá tràm (FAO - Vũ Công Hậu dịch năm 1992) [4],
Keo lá tràm có tác dụng làm thay đổi hoàn cảnh dưới tán rừng của Trần Hậu
Huệ, 1995 [10], v.v... Đáng chú ý là công trình nghiên cứu về nguyên liệu sản
xuất bột giấy của Lê Đình Khả và Lê Quang Phúc, 1993 [12], đã so sánh tiềm
năng bột giấy giữa Keo lai, Keo lá tràm và Keo tai tượng cho thấy hiệu suất
bột giấy của Keo lá tràm đứng hàng thứ hai sau Keo lai cũng như Logan. A.F,
1981 [32] đã nhận xét “Keo lá tràm vẫn được coi là loài để sản xuất ra loại
bột giấy tuyệt hảo và rất phù hợp với việc trồng rừng làm nguyên liệu giấy ở
các nước đang phát triển…”.
Nghiên cứu về tính chất gỗ Keo lá tràm của Hoàng Thúc Đệ, 1994 cho
thấy: Keo lá tràm ở tuổi 5 đến tuổi 6 thì tỷ lệ gỗ lõi chiếm 30 - 35%. Khối
lượng gỗ lõi là 0,427 g/cm3 nhẹ hơn gỗ giác (0,504 g/cm3) vì phần giữa gỗ lõi
có một bộ phận chuyển sang thời kỳ xốp, mềm và nhẹ. Đây là vấn đề đáng
quan tâm vì tỷ lệ gỗ lõi tăng theo tuổi mà trong sản xuất giấy gỗ lõi có tỷ lệ
bột giấy thấp và tốn hoá chất tẩy rửa, nhưng tỷ lệ gỗ lõi càng cao lại phù hợp
với công nghệ đồ gia dụng, mỹ nghệ và trong xây dựng.
1.3.2.2. Các nghiên cứu về lĩnh vực cải thiện giống Keo lá tràm
Nhờ có nhiều ưu điểm nên Keo lá tràm nhanh chóng trở thành một
trong những loài cây chủ yếu để trồng rừng sản xuất ở nước ta. Như đã trình
bày ở phần trên, quá trình cải thiện giống Keo lá tràm đã được tập thể cán bộ,
công nhân viên của phòng Nghiên cứu giống thuộc Viện Lâm nghiệp tiền
thân của Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng hiện nay thực hiện từ những
năm 1991 trở lại đây thông qua một loạt các đề tài và dự án. Từ năm 1991 1995 đề tài cấp nhà nước “Xây dựng cơ sở khoa học cho việc cung cấp nguồn
giống cây rừng được cải thiện - mã số KN 03 - 03” và kế tiếp từ 1996 - 2000
là đề tài cấp nhà nước “Chọn giống và nhân giống cho một số loài cây rừng chủ


17

yếu - mã số KH 08 - 04” đều do Giáo sư Lê Đình Khả làm chủ nhiệm đã nghiên
cứu từng bước có hệ thống về lĩnh vực cải thiện giống Keo lá tràm. Hiện nay về
lĩnh vực này vẫn được kế tục bằng đề tài cấp ngành “Nghiên cứu chọn, tạo giống
có năng suất và chất lượng cao cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu” kéo dài
5 năm từ 2001 - 2005, ngoài ra còn phải kể đến các dự án và các cơ quan khoa
học ở nước ngoài như Sida - SAREC và SKOG - FORSK của Thuỵ Điển,
CSIRO và ACIAR của Australia .v.v. cũng hợp tác với các đề tài trong lĩnh vực
cải thiện giống Keo lá tràm. Quá trình kể trên có thể tóm tắt như sau:
Trong các năm 1982 - 1984, các lô hạt của một số loài Keo vùng thấp
trong đó có Keo lá tràm đã được đưa vào trồng thử có tính chất thăm dò ở một
số địa phương nước ta. Kết quả cho thấy Keo lá tràm là một trong những loài
sinh trưởng nhanh chỉ sau Keo tai tượng (Lê Đình Khả, Nguyễn Hoàng
Nghĩa, 1991). Đến năm 1990 - 1991 thông qua dự án UNDP, một bộ giống
gồm 39 xuất xứ của 5 loài Keo vùng thấp gồm Keo lá tràm (A.
auriculiformis), Keo tai tượng (A. mangium), Keo lá liềm (A. Crasscicarpa),
Keo nâu (A. aulacocarpa), Keo quả xoắn (A. cincinnata) đã được xây dựng
tại Đá Chông (Ba Vì, Hà Nội), Đông Hà (Quảng Trị) và Đại Lải (Vĩnh Phúc).
Kết quả nghiên cứu trong giai đoạn đầu tại Ba Vì cho thấy Keo lá tràm là loài
có sinh trưởng nhanh nhất, đặc biệt là các xuất xứ Coen River và Mary River
(Lê Đình Khả, Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1991).
Sau đó trong các năm 1992 - 1994 một số khảo nghiệm khác được thực
hiện tại Sông Mây, Bầu Bàng (Đồng Nai), Măng Giang (Gia Lai) và Bãi Bằng
(Phú Thọ). Đến nay một số khảo nghiệm vẫn còn được duy trì, một số khảo
nghiệm không còn nữa (Lê Đình Khả và cộng sự, 2001) [15]. Kết quả những
khảo nghiệm đã cho thấy trong 5 loài Keo khảo nghiệm thì chỉ có 3 loài sinh
trưởng nhanh là Keo lá tràm, Keo tai tượng và Keo lá liềm. Mặt khác, sinh
trưởng của các xuất xứ đã có sự khác biệt rõ rệt. Những xuất xứ tốt nhất có
thể tích cây bình quân gấp đôi những xuất xứ kém nhất. Kết quả cho thấy một



×