Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận môn học giáo dục học hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.87 KB, 23 trang )

Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn đầu thế kỷ XXI, nước ta đang đứng trước thời cơ mới, nhân loại
đang từng bước đi vào sử dụng tri thức cho phát triển và đang hình thành nền kinh tế
dựa vào tri thức, sử dụng nhanh và gần như trực tiếp các thành tựu của khoa học công
nghệ vào phục vụ sản xuất đời sống. Đó là điều mà Các – Mác đã tiên đoán cách đây
150 năm về khả năng đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Theo đánh
giá của các nhà tương lai học, thế giới đang chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức,
trong đó khả năng hiểu biết của con người đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn
thông đã được ứng dụng ngày càng nhiều mặt của đời sống xã hội. Vấn đề đặt ra là
mỗi bước phát triển như vậy thì có ảnh hưởng gì đến giáo dục. Bài viết này sẽ tìm
hiểu “Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay và những
ảnh hưởng của nó đế giáo dục”.
PHẦN II: NỘI DUNG
2.1. Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
*Thế giới diễn ra sự chuyển đổi nền sản xuất:
Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công
nghiệp, tự động hóa và dịch vụ.
* Quản lý kinh tế theo xu thế nền kinh tế thị trường
* Thế giới xuất hiện nền kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức đánh dấu một bước phát triển vượt bậc về lực lượng sản xuất.
Các nhà kinh tế học tổng kết từ khi loài người ra đời đến nay đã trải qua 4 nền kinh tế:
nền kinh tế nguyên thủy(hoang sơ); nền kinh tế nông nghiệp; nền kinh tế công nghiệp;
nền kinh tế hậu công nghiệp, còn gọi là nền kinh tế tri thức.
Nền kinh tế tri thức có thể gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau như: kinh tế tri thức,
nền kinh tế dựa vào tri thức hay nền kinh tế hậu công nghiệp.

Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV


1


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

Kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri
thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất và nâng
cao chất lượng cuộc sống.
Đặc trưng của nền kinh tế tri thức: tri thức là lực lượng sản xuất, tri thức giữ vai trò
quyết định.
* Hội nhập, toàn cầu hóa về nền kinh tế
Đây là nét đặc trưng của kinh tế thế giới ngày nay.Các nước có khoa học kỹ thuậtcông nghệ cao thì đã, đang và sẽ làm chủ kinh tế.
2.2. Những ảnh hưởng đối với nền kinh tế Việt Nam
Những đặc trưng nêu trên đã tạo nhiềucơ hội cũng như thách thức cho nền
kinh tế nước ta:
* Cơ hội:
Các cơ hội cho sự trỗi dậy mạnh mẽ của Việt Nam là rất lớn. Đó là những cơ hội
khách quan, mang tính lịch sử - thời đại, đặt ra ngang nhau cho tất cả các nước.
Nhưng mặt khác, tùy theo trình độ và hoàn cảnh phát triển cụ thể của mỗi nước, các
cơ hội lại không có giá trị khách quan ngang nhau cho mọi nước. Riêng đối với các
nước đi sau như nước ta, xuất hiện một loại cơ hội đặc thù: khả năng thực hiện những
bước nhảy vọt cơ cấu mạnh mẽ (nhảy vọt công nghệ, nhảy vọt cấp độ sản phẩm).
Thực tiễn phát triển hiện đại ở nhiều nước đã chứng tỏ khả năng nhảy vọt này. Việc
Ấn Độ trở thành một thế lực lớn của nền kinh tế thông tin, Trung Quốc trở thành
cường quốc sản xuất hàng điện tử hay Estonia, một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ,
với 1,3 triệu dân, trở thành trung tâm phát triển công nghệ điện thoại miễn phí toàn
cầu Skype và nhờ bệ phóng đó, đã nhanh chóng gia nhập vào chuỗi giá trị gia tăng
toàn cầu ở khâu có giá trị gia tăng cao nhất để nhanh chóng đuổi kịp các nước Tây Âu
(trước hết là ở những lĩnh vực “nhảy vọt”) là những ví dụ điển hình. Những cơ hội to

lớn như vậy cũng đang đặt ra trước Việt Nam.
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

2


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

Trên thực tế, Việt Nam đang nỗ lực tận dụng loại cơ hội này. Những kết quả bước
đầu trong việc phát triển ngành viễn thông, tin học, một số ngành nông nghiệp dựa
vào công nghệ sinh học, tuy còn khiêm tốn, đã khẳng định xu hướng này và chứng tỏ
khả năng phát triển theo kiểu “nhảy vọt cơ cấu” nhờ tận dụng lợi thế đi sau.
* Về các thách thức:
Trước khi cơ hội có thể biến thành hiện thực, Việt Nam phải vượt qua hàng loạt
thách thức to lớn. Bản chất chung của những thách thức này là Việt Nam không dễ
dàng vượt qua được những yếu kém của chính mình trong khi phải đồng thời cạnh
tranh với các đối thủ mạnh hơn trong một môi trường mới mẻ và nhiều rủi ro. Hình
ảnh một vận động viên điền kinh nhỏ con, ốm yếu, phải tham gia cuộc chạy đua với
các vận động viên khỏe hơn, lại xuất phát trước trong tư thế vừa đua vừa "huých"
nhau diễn đạt khá rõ tính chất của sự thách thức đang đặt ra cho Việt Nam.
Cách tiếp cận đến khái niệm “phát triển” của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế như vậy - vượt qua thách thức là điều kiện tiên quyết để biến cơ may thành
hiện thực phát triển. Trong nền kinh tế hội nhập, điểm "yếu kém" cũng chính là điểm
"xung yếu". Sức còn đang yếu mà phải vượt qua các trở ngại quá lớn, thì đó chính là
thách thức. Tổ hợp cả hai nội dung này tạo thành điểm “nút” phát triển mà chính sách
cần đột phá để tháo gỡ và vượt lên.
Theo cách tiếp cận này, phải mổ xẻ kỹ những thách thức mà nền kinh tế nước ta
đang đối mặt.
Trên thực tế, rất khó liệt kê đầy đủ các thách thức, dù chỉ là những thách thức lớn

nhất, tiêu biểu nhất cho các lĩnh vực. Nhóm thách thức liên quan đến bối cảnh quốc tế
hiện đại có 2 thách thức cụ thể:
Thách thức thứ nhất nằm trong quan hệ giữa một bên là tốc độ vận động cao, tính
khó dự đoán và dễ bị tổn thương của nền kinh tế hiện đại và một bên là năng lực phản
ứng chính sách hạn chế và tham vọng phát triển nhanh bền vững của Việt Nam.
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

3


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

Thách thức thứ hai gắn với tình huống phát triển đặc thù: vừa mới chuyển sang
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã phải cạnh tranh ngay với những
đối thủ khổng lồ là Trung Quốc và Ấn Độ, là những đối thủ mà các nền kinh tế đi
trước Việt Nam không hề gặp phải khi họ ở vào trạng thái giống Việt Nam hiện nay.
Yêu cầu chuyển đổi thể chế nhanh, nâng cấp mạnh mẽ các điều kiện nền tảng của
quá trình phát triển theo các đòi hỏi của thế giới hiện đại trong khi nền kinh tế của ta
còn nghèo, năng lực có hạn, lại phải giải quyết hệ nhiệm vụ phát triển "kép": chuyển
đổi sang thị trường, hội nhập quốc tế và xây dựng nền kinh tế hiện đại trong một thời
gian có hạn.
2.3. Những ảnh hưởng của nền kinh tế trong thời đại ngày nay đối với giáo
dục
2.3.1. Thời cơ:
Xã hội ngày nay tạo những điều kiện thuận lợi thúc đẩy giáo dục phát triển, thể
hiện:
Các nước đều đề cao vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển
kinh tế xã hội. Các nước đều khẳng định rằng, giáo dục là quốc sách hàng đầu, giáo
dục là chìa khóa bước vào tương lai, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển.

Kinh tế các nước hiện nay đang ở chiều hướng phát triển, thành tựu khoa học kỹ
thuật-công nghệ tạo điều kiện để hiện đại hóa nhà trường, hỗ trợ về cơ sở vật chất,
phương tiện dạy học hiện đại, từ đó giúp nâng cao chất lượng giảng dạy, hiệu quả giáo
dục.
Kinh tế phát triển tạo điều kiện và cơ hội học tập của con người ngày ngày càng
được đáp ứng.
Kinh tế hội nhập sẽ tạo điều kiện cho sự chia sẻ kinh nghiệm về giáo dục giúp cho
các nước phát triển giáo dục. Các quốc gia có thể hợp tác trong lĩnh vực giáo dục
thông qua hình thức khác nhau, chẳng hạn hội thảo các chuyên gia qua trực tuyến,...
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

4


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

2.3.2. Thách thức:
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật-công nghệ hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ
khoa học kỹ thuật có trình độ cao giữ vai trò tổ chức, điều khiển qúa trình sản xuất.
Con người-sản phẩm của ngành giáo dục-đào tạo với những yêu cầu mới: Phải đáp
ứng với nền kinh tế mới cả về phẩm chất và năng lực, tức là phải năng động, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm; có trình độ cao về học vấn, trình độ chuyên môn, khả năng quản
lý, khả năng kinh doanh, khả năng quản lý kinh tế thị trường.
Giáo dục phải gắn với kinh tế xã hội: Đòi hỏi giáo dục phải phù hợp với sự đổi
mới kinh tế, thích ứng với điều kiện kinh tế hiện nay. Phải đa dạng hóa mục tiêu đào
tạo, đa dạng hóa phương thức đào tạo, đa dạng hóa nội dung đào tạo.
Đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đào tạo trong tất cả các loại hình trường để đáp
ứng nhu cầu về trình độ nhân lực.
Giáo dục giải quyết những vấn đề toàn cầu: dân số, môi trường, năng lượng, sắc

tộc,...
Đòi hỏi phải coi trọng giáo dục đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc
Đòi hỏi giáo dục phải được đổi mới toàn diện về mục tiêu, nội dung, phương
pháp, hình thức,...để đáp ứng yêu cầu xã hội.
2.3.3. Liên hệ với giáo dục việt nam
Trong điều kiện hiện nay, giáo dục việt Nam có những thời cơ, thuận lợi, song
cũng không ít khó khăn, thách thức:
2.3.3.1. Thời cơ:
Việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi yêu cầu rất cao về nguồn nhân lực có năng lực về thị
trường, về kinh doanh, về đổi mới và sáng tạo khoa học - công nghệ, sản phẩm mới.
Từ đó, đặt ra nhiều vấn đề mới trong phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học - công
nghệ nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đối với
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

5


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

giáo dục, giải quyết vấn đề cạnh tranh trong giáo dục, thương mại hoá giáo dục, công
bằng giáo dục, phúc lợi xã hội trong giáo dục và dịch vụ giáo dục cũng như sở hữu trí
tuệ, thị trường khoa học – công nghệ, đào tạo và sử dụng nhân tài.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hoá đã và đang diễn
ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Tốc độ phát minh khoa học ngày
càng gia tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng rút ngắn. Sự cạnh tranh về
công nghệ cao diễn ra quyết liệt. Truyền thông về khoa học - công nghệ diễn ra sôi
động.
Nhờ toàn cầu hóa, chúng ta tiếp cận được những thành tựu của cuộc cách mạng

khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ điện tử và tin học. Công nghệ điện tử và
tin học làm cho tác phong của con người khẩn trương hơn, linh hoạt hơn để theo kịp
với tốc độ của máy móc, nhịp độ gia tăng của thông tin, của tri thức-đòi hỏi giáo dục
phát triển.
Nhiều tri thức và công nghệ mới ra đời đòi hỏi quá trình giáo dục phải được tiến
hành thường xuyên, liên tục, suốt đời để người lao động có thể thích nghi được với
những biến đổi mới của khoa học - công nghệ. Giáo dục - đào tạo và khoa học công
nghệ phải được "chuẩn hoá", "hiện đại hoá", và hội nhập quốc tế.
Quá trình hội nhập với các trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đang diễn ra
ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội thuận lợi cho nước ta có thể nhanh chóng tiếp cận với
các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại, tận dụng các kinh
nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển làm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước
ta với các nước khác. Hợp tác quốc tế được mở rộng tạo điều kiện tăng đầu tư của các
nước, các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp nước ngoài, tăng nhu cầu tuyển dụng
lao động qua đào tạo, tạo thời cơ để phát triển giáo dục.
Sau hơn 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế xã hội,
sự ổn định chính trị làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Sự
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

6


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

đóng góp về nguồn lực của nhà nước và nhân dân cho phát triển giáo dục ngày càng
được tăng cường.
Toàn cầu hóa, đặc biệt là toàn cầu hóa kinh tế, tạo cơ hội cho những tổ chức, cá
nhân có năng lực phát huy được tiềm năng của mình, đem lại lợi ích cho cá nhân và
cho cả xã hội.

Những người Việt Nam ở nước ngoài với nhiều tiềm năng đang hướng về Tổ quốc
và dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
2.3.3.2. Thách thức
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới có
thể làm cho khoảng cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn
hơn, nước ta có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo cho giáo
dục cơ hội phát triển mà còn chứa đựng nhiều hiểm họa, đặc biệt là nguy cơ xâm nhập
của những giá trị văn hóa và lối sống xa lạ làm xói mòn bản sắc dân tộc. Khả năng
xuất khẩu giáo dục kém chất lượng từ một số nước có thể gây nhiều rủi ro lớn đối với
giáo dục Việt Nam, khi mà năng lực quản lý của ta đối với giáo dục xuyên quốc gia
còn yếu, thiếu nhiều chính sách và giải pháp thích hợp để định hướng và giám sát chặt
chẽ các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài.
Toàn cầu hóa kinh tế cũng đem đến tác động tiêu cực trong phát triển kinh tế. Đó
là việc đặt mục tiêu kinh tế lợi nhuận lên trên hết, do đó nảy sinh một số tổ chức, cá
nhân làm giàu bất chính bằng bất cứ giá nào. Điều đó góp thêm làm suy giảm nền đạo
đức xã hội, làm cho quan hệ giữa người với người trở nên lạnh lùng, xa lạ, "không
tình, không nghĩa" và đây thực sự là một nguy cơ của sự suy thóai đạo đức, lối sống
con người Việt Nam hiện nay.
Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách
giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền ngày

Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

7


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

càng rõ rệt. Điều này có thể làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo

dục giữa các vùng miền và giữa các đối tượng người học.
Yêu cầu phát triển kinh tế trong thập niên tới không chỉ đòi hỏi số lượng mà còn
đòi hỏi chất lượng cao của nguồn nhân lực. Để tiếp tục tăng trưởng vượt qua ngưỡng
các nước có thu nhập thấp, Việt Nam phải cấu trúc lại nền kinh tế, phát triển các loại
sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Quá trình này đòi
hỏi đất nước phải có đủ nhân lực có trình độ. Mặc dù gần 63% dân số nước ta trong
độ tuổi lao động, nhưng trình độ của lực lượng lao động này còn thấp so với nhiều
nước trong khu vực, cả về kiến thức lẫn kỹ năng nghề nghiệp. Đất nước còn thiếu
nhân lực trình độ cao ở nhiều lĩnh vực. Cơ cấu đội ngũ lao động qua đào tạo chưa hợp
lý. Nhu cầu nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng với cơ
cấu hợp lý tạo nên sức ép rất lớn đối với giáo dục.
Khoa học, Công nghệ thông tin phát triển mạnh cũng là một nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống ở con người Việt Nam hiện nay:
Toàn cầu hóa đang đưa lối sống phương Tây vào nước ta. Chính việc tiếp thu lối
sống đó một cách thiếu định hướng mà dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực
đạo đức dân tộc. Các công nghệ thông tin hiện đại đang truyền bá khắp thế giới lối
sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí,
sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực,... Lối sống đó đang phần nào tác động đến
một bộ phận nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên sống ở các khu đô thị lớn.
Do bị kích động bởi việc tiếp xúc với những thước phim hành động có tính bạo lực
qua mạng Internet mà nhiều thanh, thiếu niên đã có những hành động mang tính bạo
lực, hung hãn, gây nên những hậu quả đau lòng. Cùng với tâm lý sùng hàng ngoại, lối
sống tự do kiểu phương Tây cũng đang xâm nhập khá mạnh vào đời sống người Việt
Nam, đặc biệt là trong thanh niên và cả một bộ phận trong tầng lớp trí thức. Một số
nam nữ thanh niên ở các thành phố lớn muốn có tự do cá nhân cao, không muốn lập
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

8



Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

gia đình sớm hoặc chủ trương sống độc thân suốt đời, nhưng lại có quan niệm khá
thoải mái trong quan hệ nam nữ. Từ đó dẫn đến những kiểu sinh họat tình dục bừa bãi
giữa nam và nữ, kể cả sinh họat tình đục tập thể, làm băng họai những nguyên tắc luân
lý sơ đẳng, tạo nên lối sống xa lạ với truyền thống phương Đông và dân tộc. Đó chính
là biểu hiện của sự xuống cấp về lối sống của một bộ phận thanh niên Việt Nam, là
biểu hiện của quan niệm "lệch chuẩn", đối lập với quan niệm đạo đức truyền thống tốt
đẹp của người Việt Nam. Toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế sẽ đưa lại sự hưởng thụ
các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại với một giá rẻ hơn, tiện nghi phong
phú hơn. Song mặt khác, chính sự giao thoa về văn hóa, sự tràn ngập của hàng hóa đó
đã tạo ra khả năng về sự tha hóa nhân cách, đạo đức, làm rối loạn các giá trị truyền
thống của dân tộc".
Như vậy, có thể nói, toàn cầu hóa đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới lối sống và những
giá trị đạo đức của người Việt Nam. Những sản phẩm văn hóa độc hại từ nước ngoài
đưa vào nước ta đã tác động tiêu cực tới đời sống tinh thần, văn hóa của một bộ phận
nhân dân. ảnh hưởng của lối sống thực dụng đã làm xuất hiện tâm lý “chạy theo đồng
tiền", coi “tiền là trên hết", không cần biết đến đạo lý phải trái, đánh mất nhân cách và
nhân tính. Không ít trường hợp vì tiền và danh lợi mà chà đạp lên tình đồng chí, đồng
nghiệp, bạn bè, tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò. Tình trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tội, chạy án đã trở nên khá phổ biến. Sự tác động của kinh tế thị trường,
nhiều lĩnh vực xã hội đã xuất hiện khuynh hướng "thương mại hóa". Chẳng hạn như
giáo dục, vốn trước đây thuộc lĩnh vực bao cấp của Nhà nước, đang có khuynh hướng
" thương mại hóa" với những biểu hiện như dạy thêm, học thêm tràn lan, mua bằng,
bán điểm, "đổi tình lấy điểm", lạm thu, mở tràn lan các lớp đào tạo tại chức, liên kết
đào tạo với nước ngoài,... nhằm mục đích thu lợi, không đảm bảo chất lượng giáo dục.
Điều này góp phần làm môi trường sư phạm xuống cấp, đạo lý thầy trò suy thóai, lối

Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV


9


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

sống thiếu hoài bão, thiếu lý tưởng xuất hiện trong một bộ phận học sinh, sinh viên,
giáo viên.
Ngoài ra, hiện nay giáo dục phải giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu, đó là:
Vấn đề chiến tranh và hoà bình;
Vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái;
Hệ thống tín dụng quốc tế: Hệ thống tín dụng quốc tế có liên quan đến mọi quốc
gia, được tất cả các nước quan tâm. Nền kinh tế thế giới đang bị đe doạ đẩy tới bờ vực
thẳm của những cuộc khủng hoảng tài chính. Hiện nay, trên thế giới có quá nhiều con
nợ, nhất là các nước đang phát triển không có khả năng trả nợ,…nếu các nước này
đang phá sản thì mọi quốc gia khác cũng chịu những tổn thất nặng nề và không thể
lường trước được.Vấn đề thương mại quốc tế cũng ngày càng trở nên gay gắt. Những
vấn đề toàn cầu nghiêm trọng khác như vấn đề dân số, lương thực, khai thác đại
dương…ngày càng được đặt ra và thừa nhận là cấp bách.
2.3.3.3. Thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay
a)Thành tựu đạt được
Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ đào
tạo, các loại hình và phương thức giáo dục;
Quy mô giáo dục tăng nhanh, nhất là ở bậc đại học và đào tạo nghề, bước đầu đáp
ứng nhu cầu của xã hội;
Công bằng xã hội trong giáo dục về cơ bản được đảm bảo;
Công tác xã hội hoá giáo dục đã đem lại kết quả bước đầu;
Các điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được cải thiện.
b)Những yếu kém của giáo dục nước ta:

* Chất lượng và hiệu quả giáo dục nói chung còn thấp
Nhìn chung chất lượng giáo dục còn thấp. Chất lượng giáo dục thấp và không
đồng đều giữa các vùng, miền; quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

10


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

lượng. Những năm gần đây, việc cho phép thành lập mới các trường cao đẳng, đại học
có phần dễ dãi, trong khi các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật và đội ngũ giảng
viên không đảm bảo, dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, nhất là các trường ngoài công
lập và các trường của địa phương. Hệ thống giáo dục thiếu đồng bộ, chưa liên thông,
mất cân đối giữa các cấp học, ngành học, cơ cấu, trình độ, ngành nghề, vùng, miền.
Việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống, về truyền thống văn hoá, lịch sử dân tộc, về
Đảng, về quyền lợi và nghĩa vụ công dân cho học sinh, sinh viên chưa được chú ý
đúng mức cả về nội dung và phương pháp; giáo dục phổ thông mới chỉ quan tâm nhiều
đến "dạy chữ", chưa quan tâm đúng mức đến "dạy người", kỹ năng sống và "dạy nghề"
cho thanh thiếu niên.
Chất lượng nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Nhà trường chưa quan
tâm đúng mức hoặc chưa có biện pháp hữu hiệu giáo dục trách nhiệm người công dân,
người lao động chân chính cho học sinh, sinh viên. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã
chỉ rõ: " Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào
tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo
theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô
với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh
vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được

yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục
còn bất cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục
còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội".
* Đội ngũ giáo chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng
Người thầy đóng vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo, nhưng thực tế
khi quy mô học sinh, sinh viên tăng nhanh đã gây nên sự bất cập giữa quy mô phát
triển giáo dục với đội ngũ giáo viên, nhất là ở bậc mầm non và bậc đại học.
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

11


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

Có hiện tượng vừa thiếu, vừa thừa giáo viên do không có sự đồng bộ về loại hình.
Rất nhiều địa phương có tổng biên chế giáo viên đủ, thậm chí thừa, nhưng lại thiếu
những loại hình giáo viên như ngoại ngữ, âm nhạc, kỹ thuật. Sự hẫng hụt về giáo viên
trình độ cao ở các trường đại học ngày càng gia tăng, tuổi trung bình của giáo viên
cao.
* Nội dung giáo dục còn thiếu thiết thực; chương trình, phương pháp giáo dục
chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa
Nội dung giáo dục ở các cấp học từ mầm non đến sau đại học còn có nhiều bất
cập. Có chỗ vừa quá tải đối với học sinh, sinh viên, có chỗ vừa chưa đáp ứng được
những thay đổi theo xu thế của thời đại. Sức lực của học sinh dành cho học tập là có
giới hạn, nhưng số môn học và nội dung từng môn học ngày càng tăng lên. Theo xu
hướng đó, càng học lên cao hơn, thi cử càng gắt gao hơn, việc học thêm, luyện thi lại
căng thẳng, nặng nề hơn.
Chương trình giáo dục còn nặng nề, chưa bám sát yêu cầu của cuộc sống năng
động. Nhiều phần trong chương trình đào tạo đại học và chuyên nghiệp đã lạc hậu.

Phương tiện giảng dạy, thí nghiệm, thực tập, nghiên cứu thiếu thốn và cũ kỹ. Chương
trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hoá; nhà trường
chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp, chưa chú trọng phát huy
tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên; thi cử còn nặng nề, tốn kém.
Phổ cập giáo dục trung học cơ sở nhiều nơi chưa vững chắc.
Thực tiễn phát triển giáo dục nước ta hiện nay cho thấy ba mâu thuẫn đang tồn tại
cần được giải quyết:
Một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nhanh quy mô và gấp rút nâng cao chất
lượng của giáo dục với khả năng đáp ứng hạn chế của nền kinh tế và năng lực còn yếu
của hệ thống giáo dục.
Hai là, mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin, tri thức tăng nhanh trong khi thời
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

12


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

gian dành cho giáo dục có hạn đang ngày càng trở nên gây cấn. Mâu thuẫn này đặt ra
cho giáo dục bài toán về đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, tận dụng tối đa
chính những thành tựu của KHCN để đổi mới giáo dục.
Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới giáo dục đang ngày càng gay gắt với yêu
cầu giữ sự ổn định tương đối cho hệ thống.
Phương pháp giảng dạy chưa được cải tiến, phổ biến vẫn là lối dạy thầy truyền
đạt, trò tiếp thu thụ động. Điều đó diễn ra không chỉ ở giáo dục phổ thông mà ngay cả
ở đại học và sau đại học.
* Cơ cấu ngành nghề, vùng miền, trình độ còn mất cân đối, không hợp lý. Quản
lý giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập
Công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém và là nguyên nhân chủ yếu của

nhiều yếu kém khác. Cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới
trên các lĩnh vực của đất nước. Đạo đức và năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý
giáo dục còn thấp. Công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu.
Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hoá những quan điểm của Ðảng thành cơ chế,
chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong việc tham mưu với Ðảng về những
vấn đề phức tạp mới nảy sinh; thiếu những quyết sách đồng bộ, hợp lý ở tầm vĩ mô để
thúc đẩy phát triển giáo dục; một số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí,
xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất
nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Những tác động mặt trái của cơ chế thị trường
và những khó khăn của đất nước đã ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp phát triển giáo
dục.
Quản lý giáo dục yếu kém cả trong xây dựng thể chế, chỉ đạo điều hành, kiểm tra
giám sát và xử lí vi phạm. Cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự
đổi mới trên các lĩnh vực của đất nước. đạo đức và năng lực của một bộ phận cán bộ
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

13


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

quản lý giáo dục còn thấp. Công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng được
yêu cầu. Còn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà
nước về giáo dục và đào tạo, giữa cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và các cơ
quan chủ quản, giữa quản lý giáo dục và đào tạo theo ngành và theo lãnh thổ. Tổ chức
quản lý đào tạo nghề qua hơn 25 năm đổi mới chưa ổn định do việc nhập tách.
Công tác kế hoạch và tài chính giáo dục còn yếu. Việc tổ chức khảo thí và kiểm
định chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu.

Nhà nước chưa có biện pháp giúp đỡ một cách có hiệu quả cho những học sinh
nghèo có chí và có năng lực học lên cao. Trong các trường đại học và chuyên nghiệp
tỷ lệ học sinh, sinh viên xuất thân từ nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, các dân
tộc ít người chưa tương xứng. Khoảng cách giữa trình độ phát triển giáo dục giữa các
vùng trong cả nước chưa được thu hẹp. Giáo dục các dân tộc ít người vẫn còn khó
khăn.
Chính sách học bổng, học phí, tín dụng học tập và các giải pháp trợ giúp khác
(việc phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh, thực hiện chế độ cử tuyển, xây dựng ký túc xá v.v..)
đã có cải tiến, nhưng vẫn còn bất hợp lý, nhất là đối với con em nông dân, công nhân
nghèo và các đối tượng chính sách.
* Cơ sở vật chất , phương tiện giáo dục còn nghèo nàn lạc hậu chưa đáp ứng
Nhìn chung, cơ sở vật chất của ngành Giáo dục vẫn còn trong tình trạng nghèo
nàn, lạc hậu. Trang thiết bị, phòng thí nghiệp phục vụ giảng dạy và học tập còn thiếu
thốn, tình trạng dạy chay còn phổ biến. Số lượng máy tính còn ít, ở các vùng khó
khăn, nhiều học sinh không có đủ sách giáo khoa.
Điều kiện phục vụ việc dạy và học của các trường học còn kém, rất ít trường đạt
chuẩn so với yêu cầu của một nhà trường. Cơ sở vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu đảm
bảo chất lượng đào tạo còn nhiều bức xúc và cần có chương trình mục tiêu đầu tư để
giải quyết.
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

14


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

Từ những đặc điểm thời đại và yêu cầu đòi hỏi đổi mới của xã hội Việt nam ngày
nay, cùng với những yếu kém của ngành Giáo dục nước ta như đã nêu thì tất yếu phải
đổi mới giáo dục.

2.3.3.4. Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục đào tạo thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
a) Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo
Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp giáo dục - đào tạo là tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện nền giáo dục xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân, dân tộc, khoa học và hiện
đại. Thực hiện giáo dục toàn diện ở tất cả các bậc học. Chú trọng giáo dục chính trị, tư
tưởng, nhân cách, lối sống, nâng cao khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành.
Trên cơ sở giáo dục nhân cách, thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền
văn hoá và con người Việt Nam.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã
hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ
hoá và hội nhập quốc tế phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy
mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập
suốt đời.
b) Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục - đào tạo
Quan điểm thứ nhất: Nắm vững nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục và đào
tạo là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có thể lực, trí lực và tình cảm lành mạnh, có kỹ năng lao
động giỏi, có ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm thứ hai: Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa của sự nghiệp giáo dục đào tạo (về nội dung, phương pháp và chính sách đối với giáo dục).

Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

15


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục


Quan điểm thứ ba: Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận
thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là nhân tố quyết định
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.
Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là chính sách đầu tư và
chính sách tiền lương, chính sách cán bộ. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo
dục.
Quan điểm thứ tư: Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của
toàn dân. Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các đoàn
thể nhân dân, các gia đình và cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Khuyến khích phong trào toàn dân học tập và toàn dân chăm lo phát triển giáo dục.
Quan điểm thứ năm: Phát triển giáo dục - đào tạo gắn liền với nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội gắn với những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng, an
ninh. Coi trọng ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.
Thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn
với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
Quan điểm thứ sáu: Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Tạo cơ
hội và điều kiện để ai cũng được học. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp
đỡ để có điều kiện học tập. Khuyến khích những người học giỏi để phát triển tài năng.
Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hoá các loại hình giáo
dục - đào tạo, trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý giáo dục, từ nội dung chương
trình, quy chế học, thi cử, bằng cấp, tiêu chuẩn giáo viên, tạo cơ hội cho mọi cá thể
lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình. Phát triển các trường
bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một
số bậc học như mầm non, phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề,
đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện
đại hoá hình thức và phương pháp dạy học.
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

16



Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

c) Các giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo
Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung,
phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến
cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu
vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế
hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân, vì dân,
đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học
tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo
tư tưởng của Đại hội X đề ra.
Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục
Đây là giải pháp cơ bản tạo tiền đề cho phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục
lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển trong ngân sách Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực cho giáo dục. Ngân
sách này phải được sử dụng tập trung ưu tiên cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên,
đào tạo cán bộ cho một số ngành trọng điểm, bồi dưỡng nhân tài, trợ giúp cho giáo
dục ở những vùng khó khăn và diện chính sách. Tích cực huy động các nguồn lực
ngoài ngân sách. Xây dựng quỹ giáo dục quốc gia, quỹ khuyến học, quỹ tín dụng đào
tạo. Nhà nước quy định cơ chế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công tác đào tạo và
đào tạo lại. Các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và các
viện nghiên cứu lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với ngành nghề đào tạo.
Khuyến khích và tạo điều kiện để cho người Việt Nam ở nước ngoài và người
nước ngoài giúp đỡ, đầu tư vào lĩnh vực giáo dục - đào tạo theo quy định của Nhà
nước. Sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của nước ngoài để xây dựng cơ sở vật
chất cho giáo dục.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các
cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ tích cực góp phần phát triển giáo dục. Kết hợp

Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

17


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

giáo dục xã hội, giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường, xây dựng môi trường giáo
dục lành mạnh. Nâng cao vai trò của hệ thống thông tin đại chúng như báo chí, xuất
bản, phát thanh và truyền hình, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, phục vụ phát triển sự
nghiệp giáo dục. Thể chế hoá chủ trương xã hội hoá giáo dục - đào tạo.
Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học
Đội ngũ giáo viên là nhân tố cơ bản quyết định chất lượng của giáo dục và được
tôn vinh. Vì vậy, cần xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về
chất lượng, tâm huyết phấn đấu cho sự nghiệp giáo dục.
Trước hết, cần củng cố và đầu tư tập trung nâng cấp các trường sư phạm, trong đó
có một số trường đại học sư phạm trọng điểm. Tăng cường thực hiện chương trình bồi
dưỡng giáo viên, bồi dưỡng chuẩn hoá, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ
giáo viên.
Ở đại học cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ kế cận. Khắc phục tình
trạng hẫng hụt cán bộ. Nâng cao địa vị xã hội và địa vị kinh tế của đội ngũ giáo viên,
không bố trí những người kém phẩm chất đạo đức làm giáo viên, kể cả làm giáo viên
hợp đồng.
Tiếp tục đổi mới, nội dung phương pháp giáo dục - đào tạo và tăng cường cơ sở
vật chất các trường học
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh thực hiện đồng bộ các giải pháp
phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung
phương pháp giảng dạy và học tập, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại,
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ

hoá và hội nhập quốc tế.
Chuẩn hoá ở đây được thể hiện trước hết chuẩn hoá về chương trình, nội dung
giáo dục - đào tạo; chuẩn hoá về sách giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo, chuẩn
hoá về quy trình giáo dục - đào tạo; chuẩn hoá về mục tiêu, nội dung, phương pháp
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

18


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

giáo dục - đào tạo; chuẩn hoá về đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục, chuẩn hoá về
cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ giảng dạy và học tập ở các cấp, các loại hình trường
lớp khác nhau... Việc xác định các tiêu chí để đánh giá về chất lượng giáo dục - đào
tạo và chuẩn hoá giáo dục - đào tạo theo các tiêu chí cụ thể, hợp lý là điều kiện cơ bản
để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo.
Hiện đại hoá giáo dục - đào tạo cần tập trung vào yêu cầu hiện đại hoá về các nội
dung và quy trình đào tạo gắn với đổi mới phương pháp dạy và học, tăng cường
phương tiện hiện đại cho công việc dạy và học (công nghệ thông tin, viễn thông, nối
mạng...). Hiện đại hoá giáo dục - đào tạo là quá trình đổi mới nội dung và phương
pháp dạy và học theo xu hướng hiện đại hoá nhằm phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ
và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và
tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân, nâng cao trình độ giáo dục đào tạo của đất nước ngang tầm với trình độ chung của khu vực và thế giới.
Xã hội hoá giáo dục - đào tạo là huy động và tổ chức lực lượng của toàn xã hội
tham gia vào quá trình giáo dục - đào tạo, đồng thời tạo điều kiện và cơ hội để mọi
người dân được hưởng thụ các thành quả của giáo dục - đào tạo đem lại, xây dựng
được phong trào toàn dân học tập suốt đời, thực hiện đa dạng hoá các loại hình giáo
dục - đào tạo. Mặt khác, nâng cao vai trò định hướng, chỉ đạo và quản lý của Nhà
nước trong quá trình xã hội hoá. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả, xây dựng một số cơ sở

giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hoá đầu đàn, đội ngũ doanh
nhân và lao động lành nghề. Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu của xã hội. Quan
tâm phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn…
Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo

Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

19


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục theo tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục – đào tạo.
Quy hoạch và phát triển giáo dục - đào tạo phải được đặt trong quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của từng địa phương. Tăng cường công tác
dự báo và kế hoạch hoá sự phát triển giáo dục. Có chính sách điều tiết quy mô và cơ
cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục tình trạng
mất cân đối và lãng phí trong đào tạo. Gắn đào tạo với sử dụng. Xây dựng quan hệ
chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước và giáo dục - đào tạo với cơ quan quản lý
nhân lực và việc làm.
Nhà nước thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý
và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh trong giáo dục - đào tạo, chống bệnh thành tích. Đổi mới tổ chức và hoạt động,
đề cao và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, nhất là trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý giáo dục theo hướng

làm tốt chức năng quản lý nhà nước, xây dựng, hoàn thiện các chính sách, cơ chế về
giáo dục - đào tạo, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện mục tiêu, chương trình và chất
lượng. Xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục như tình trạng dạy
thêm, học thêm, thi cử, tuyển sinh, đánh giá kết quả học tập và cấp chứng chỉ, văn
bằng.
Đổi mới cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp, chấn chỉnh và nâng cao năng
lực của bộ máy quản lý giáo dục. Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục một cách
toàn diện, đặc biệt chú trọng về công tác chuyên môn.
Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên
cứu để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, sử dụng tối ưu nguồn năng lực hiện có
về đội ngũ khoa học và cơ sở vật chất kỹ thuật. Nâng cao năng lực của các đại học
Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

20


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

quốc gia và đại học khu vực. Xây dựng một số trường đại học quốc gia lớn, một số
trung tâm đào tạo kỹ thuật có chất lượng và uy tín cao. Quản lý tốt nội dung, chương
trình và chất lượng đào tạo của các trường đại học mở, đại học dân lập, và các loại
hình không chính quy. Đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công
lập, bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập và các trung
tâm giáo dục cộng đồng. Có lộ trình cụ thể cho việc chuyển một số cơ sở giáo dục đào tạo công lập sang dân lập, tư thục, xoá bỏ hệ bán công. Hiện đại hoá một số
trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã
hội. Khuyến khích phát triển hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề ngoài công lập, kể cả trường do nước ngoài đầu tư. Mở rộng hợp lý
quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Từng bước xúc tiến việc nối mạng thông tin quốc tế (Internet) ở trường học”.

Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học giáo dục nhằm giải đáp những vấn đề
lý luận và thực tiễn đặt ra trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo hiện nay.
Tổ chức hoạt động của Hội đồng Quốc gia Giáo dục có hiệu quả tốt và phân cấp
quản lý hợp lý giữa quản lý ngành, địa phương và các cơ sở giáo dục...
Tăng cường mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quan hệ trao đổi và
hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo, từng bước hiện đại hoá nền giáo dục - đào tạo
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Cùng với những giải pháp chiến lược trên, nhiệm vụ cấp bách trước mắt trong
những năm tới cần giải quyết dứt điểm là hoàn thiện chương trình sách giáo khoa, cải
tiến chế độ thi cử, sớm có giải pháp hạn chế những bất cập trong tuyển sinh cao đẳng,
đại học như năm 2015 vừa qua, khắc phục tình trạng “thương mại hoá” giáo dục, ngăn
chặn những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục (văn bằng, công nhận học hàm, học vị,
chấn chỉnh công tác quản lý hệ thống trường học cả công lập và ngoài công lập).

Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

21


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

PHẦN III: KẾT LUẬN
Ngày nay, thế giới đang có sự biến động sâu sắc về nhiều mặt. Về phương diện
kinh tế, các quan hệ kinh tế quốc dân đan quyện vào nhau và chi phối nền kinh tế của
tất cả các nước. Bối cảnh quốc tế mới vừa tạo ra thời cơ mới tương đối thuận lợi, đồng
thời cũng đặt ra những thách thức mới đối với nền kinh tế của các quốc gia. Thời cơ
mới là một nhân tố hết sức quan trọng, như một luồng gió mới sẽ có tác động rất lớn
đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Sự diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới đòi hỏi từng quốc gia phải có tư duy mới, biết tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn

có, phát huy thế mạnh của mình để hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Đối với nước ta, việc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là việc làm hết
sức cần thiết, ghánh nặng được đặt trên “vai” ngành Giáo dục-Đào tạo. Nếu không
quan tâm đến điều này, nền kinh tế Việt Nam không thể phát triển như hiện nay.
Trong thế kỷ XXI, hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ trở
thành nước công nghiệp phát triển trong những năm tới.
Tóm lại, chúng ta cần nắm vững xu hướng vận động và phát triển nền giáo dục
dưới tác độngcủa cách mạng khoa học và công nghệ thế giới cũng như xu thế hội nhập
khu vực và quốc tế hiện nay để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thác, phấn đấu xây
dựng một nền giáo dục Việt Nam tiên tiến, có bản sắc dân tộc đậm nét và tính định
hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng, xứng đáng ngang tầm và đáp ứng đầy đủ yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.
.................................................... ....................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ PGS.TS Phan Minh Tiến, Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiên đại;
2/ Th.sỹ Đỗ Thúy Mùi, Xu hướng phát triển kinh tế thế giới.

Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

22


Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
và những ảnh hưởng của nó đến giáo dục

MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu...........................................................
Phần II: Nội dung.......................................................
2.1. Những đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày


1
1

nay...............................................................................................
2.2. Những ảnh hưởng đối với nền kinh tế Việt Nam......................
2.3. Những ảnh hưởng của nền kinh tế trong thời đại ngày nay đối

1
2
4

với giáo dục......................................................................................
2.3.1. Thời cơ...................................................................................
2.3.2. Thách thức..............................................................................
2.3.3. Liên hệ với giáo dục việt nam................................................
2.3.3.1. Thời cơ................................................................................
2.3.3.2. Thách thức...........................................................................
2.3.3.3. Thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay.............................
2.3.3.4. Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục đào tạo thời kỳ đẩy

4
5
5
5
7
10

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa................................................
Phần III: Kết luận.............................................................................


15
22

Học viên: Hoàng Văn Liêm – Lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa XXIV

23



×