Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiểu luận môn học: Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.27 KB, 24 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC



TIỂU LUẬN MÔN HỌC
NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Tiểu luận













GV hướng dẫn : TS. Lại Tiến Dĩnh
HV thực hiện : Trần Văn Thanh
Lớp : Cao học Ngân hàng – Ngày 1
Khóa : K17





TP. Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2009

LỜI MỞ ĐẦU
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 2
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh

Trong thời gian vừa qua cơn bão tài chính đã bắt đầu từ M ỹ và lan tỏa đi khắp nơi, di
chứng cho đến tận bây giờ và có thể là hết năm 2009 nền kinh tế thế giới mới đi vào ổn
định như cũ được, một sức tàn phá ghê gớm đủ cho một Phố Wall, một Ngân hàng Lehman
Brothers, Ngân hàng IndyMac Bancorp Inc, Freddie Mac và Fannie M ae, Citigroup với
lịch sử tồn tại hàng trăm năm bổng chốc sụp đổ.
Kinh tế Việt Nam 2008 đã không còn nằm ngoài dòng chảy của kinh tế thế giới như
cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997. Lạm phát đã từng trở thành tâm điểm của điều
hành chính sách vĩ mô khi giá cả các mặt hàng lên tới mức đỉnh điểm. Nền kinh tế đang từ
mức phát triển quá nóng rồi đột ngột phải hãm phanh, lo ngại lạm phát vừa được đẩy lùi đã
phải đối phó với khả năng giảm phát khi cuối năm nền kinh tế thế giới đồng loạt rơi vào
suy thoái. Hàng loạt các công cụ điều hàng vĩ mô nền kinh tế, các chính sách tiền tệ được
đưa ra áp dụng từ thắt chặt đến nới lỏng, lãi suất lên rồi hạ đã làm cho nền kinh tế bị
nóng. Tuy nhiên, nhờ sự hạ nhiệt của khủng hoảng thế giới, hạ nhiệt của giá dầu mỏ, và sự
hợp lý trong việc thực thi chính sách nên nền kinh tế Việt Nam đã ngăn chặn được lạm
phát, nhưng lại đứng trước nguy cơ suy giảm, trì trệ nền kinh tế.
Trên thế giới, bắt đầu từ M ỹ đã tung ra các gói kích cầu 700 tỷ USD nhằm cứu vãng
các ngân hàng, các tập đoàn, cứu vãng nền kinh tế đất nước. Đầu tháng 12/08 Chính phủ
Việt Nam cũng đã công bố gói kích cầu 1 tỷ USD, rồi 6 tỷ USD đã làm dư luận rất xôn xao,
bàn tán về nguồn vốn, về lĩnh vực, về ngành nghề, về đối tượng được hưởng những ưu
đãi từ gói kích cầu ấy mang lại. Tuy nhiên, đến nay gói kích cầu ấy vẫn còn đang trong
tranh luận và xây dựng, chưa biết khi nào được áp dụng để kích thích nền kinh tế Việt Nam
tăng trưởng.

Xuất phát từ những lý do trên, bản thân đã chọn đề tài “Cho vay kích cầu đối với
các doanh nghiệp của các Ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua” để làm nội
dung nghiên cứu cho tiểu luận cá nhân của mình.
Cấu trúc bài viết: ngoài phần mở đầu và phần kết luận bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận: Phần này nêu và phân tích một số khái niệm cơ bản về hệ thống
Ngân hàng thương mại Việt Nam, tín dụng, quy trình tín dụng;
Phần 2: Thực trạng hoạt động cho vay kích cầu của các Ngân hàng thương mại đối với
doanh nghiệp năm 2008: Phần này tập trung đánh giá hoạt động tín dụng ngân hàng, những kết
quả đạt được và tồn tại, hạn chế, phân tích nguyên nhân trong quá trình cho vay kích cầu của
các Ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp trong năm 2008.
Phần 3: Những kiến nghị, giải pháp để nhằm nâng cao hiệu quả cho vay kích cầu: Phần
này đưa ra các kiến nghị, định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay kích cầu
trong năm 2009.
PHẦN I:
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 3
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm
Theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2004: “Tổ chức tín dụng là
doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật để hoạt động ngân hàng”.
Luật này cũng định nghĩa:
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các
loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Luật N gân hàng Nhà nước định nghĩa: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền
này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho

khách hàng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định (N guyễn Minh
Kiều, 2007:184).
Theo N guyễn Minh Kiều (2007: 225): “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó
tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
1.2. Nguyên tắc vay vốn
Việc vay vốn ngắn hạn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là cơ hội để ngân hàng
cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên, cấp tín dụng liên quan đến
việc sử dụng vốn huy động của khách hàng nên phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất
định. Nói chung, khách hàng vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo hai nguyên tắc:
- Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử
dụng vốn vay đúng mục đích thỏa thuận nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả
năng thu hồi nợ vay sau này.
- Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Đây là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay. Bản chất của quan hệ t ín
dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất
định vốn vay phải được hoàn trả, cả gốc và lãi.
1.3. Điều kiện vay vốn
Để giúp cho việc đảm bảo các nguyên t ắc vay vốn, ngân hàng chỉ xem xét cho vay khi
khách hàng thỏa mãn một số điều kiện vay nhất định. Theo quy chế cho vay khách hàng do
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành, các điều kiện vay vốn khách hàng cần có bao
gồm:
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 4
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
- Có đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự
theo quy định của pháp luật;
- Có mục đích vay vốn hợp pháp;
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết;
- Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả, phục vụ đời sống
khả thi và phù hợp với các quy định pháp luật;

- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng
dẫn của N gân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.4. Mục đích vay vốn
Theo quy chế cho vay khách hàng cũng như trong phần trình bày về các điều kiện vay
vốn, các NHTM khi cho vay yêu cầu khách hàng phải có mục đích vay vốn hợp pháp và
cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận.
1.5. Hồ sơ vay vốn
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho Tổ chức tín dụng một bộ hồ sơ vay vốn bao
gồm giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn. Thông
thường bộ hồ sơ vay vốn gồm:
- Giấy đề nghị vay vốn.
- Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng, chằng hạn như giấy phép
thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động.
- Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự án đầu tư.
- Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất.
- Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ vay.
- Các giấy tờ liên quan khác nếu cần thiết.
Sau khi nhận hồ sơ vay, ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định và ra quyết định cho vay.
1.6. Thẩm định và quyết định cho vay
Để có căn cứ ra quy ết định cho vay hay không cho vay, các TCTD đều có xây dựng quy
trình xét duy ệt cho vay theo nguy ên tắc đảm bảo tính độc lập và phân định rõ ràng trách
nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Khi thẩm định,
TCTD sẽ xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư, phương án sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống và khả năng hoàn trả
nợ vay của khách hàng để quyết định cho vay. TCTD quy định cụ thể và niêm yết công
khai thời hạn tối đa phải thông báo quy ết định cho vay hoặc không cho vay đối với khách
hàng. Trường hợp quyết định không cho vay, TCTD phải thông báo cho khách hàng bằng
văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay. Trường hợp quyết định cho vay, TCTD và
khách hàng sẽ ký kết hợp đồng tín dụng và thực hiện các khâu tiếp theo của quy trình tín
dụng.

Thẩm định và quyết định cho vay là khâu rất quan trọng trong toàn bộ quy trình tín dụng.
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 5
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
1.7. Hợp đồng tín dụng
Việc cho vay của TCTD và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp
đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức
cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm,
phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận. Ngoài ra hợp đồng tín
dụng cũng cần nêu rõ quyền và nghĩa vụ của hai bên: Khách hàng và Ngân hàng.
1.8. Giới hạn và hạn chế cho vay
Trong hoạt động tín dụng, NHTM bị giới hạn cho vay theo quy định của Luật các TCTD
nhằm đảm bảo an toàn. Các giới hạn tín dụng khi cho vay ngắn hạn bao gồm:
- Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có
của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn ủy thác của
Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân.
- Trong trường hợp đặc biệt ngân hàng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho
vay theo quy định nêu trên khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng trường
hợp cụ thể.
- Việc xác định vốn tự có của các ngân hàng để làm căn cứ tính toán giới hạn cho vay
được thực hiện theo quy định của NHNN Việt Nam.
Ngoài ra, còn có một số hạn chế như ngân hàng không được cho vay không có bảo đảm,
cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối với những đối tượng
sau đây:
- Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại TCTD cho vay;
Thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại TCTD cho vay; Kế toán trưởng của TCTD
cho vay;
- Các cổ đông lớn của TCTD;
- Doanh nghiệp có một trong những đối tượng là Thành viên Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín
dụng; Người thẩm định, xét duyệt cho vay; Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội

đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám
đốc) sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó.
1.9. Những trường hợp không cho vay
Ngoài những hạn chế và giới hạn tín dụng trên, ngân hàng còn không được cho vay trong
những trường hợp sau:
- Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng
giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng;
- Người thẩm định, xét duyệt cho vay;
- Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám
đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc).
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 6
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
1.10. Các phương thức cho vay
Phương thức cho vay là cách thức thực hiện cấp tín dụng cho khách hàng của ngân
hàng.Hiện nay trong cho vay đối với doanh nghiệp, các NHTM có thể thỏa thuận với khách
hàng về sử dụng loại phương thức cho vay. Tùy theo đặc điểm chu chuyển vốn của khách
hàng, ngân hàng và khách hàng có thể thỏa thuận lựa chọn phương thức cho vay của mình
cho khách hàng tham khảo. Thực tiễn cho thấy, ngoài các phương thức cho vay phổ biến
như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay theo dự án đầu tư, còn có
nhiều phương thức cho vay khác dành cho những hoàn cảnh vay vốn khác nhau trong thực
hiện ở các ngân hàng khác nhau, như: Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay
thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp,
cho vay theo hạn mức thấu chi, cho vay ủy thác



























Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 7
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
PHẦN II:
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM NĂM 2008

2.1. Khái quát chung
2.1.1. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
Cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn từ cuối năm 2006 đến nay đang tàn phá thị
trường tài chính Mỹ và nhiều nước trên thế giới, để lại đằng sau nhiều ngân hàng, nhiều
quỹ đầu tư phá sản và nhiều tổ chức tài chính khác đang chìm ngập trong cơn bão tài chính.

Mọi việc bắt đầu vào cuối năm 2006 khi thị trường bất động sản Mỹ bắt đầu đóng băng và
sụt giảm giá trị rất lớn, dẫn đến cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở tại Mỹ, nợ xấu, nợ khó
đòi tăng nhanh và vỡ nợ. Đây được cho là nguy ên nhân chính dẫn đến khủng hoảng tài
chính tại Mỹ và lan rộng khắp nơi.
Điều lưu ý là cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại không đơn thuần chỉ là khủng
hoảng tín dụng nhà đất mà nguyên do sâu xa hơn được tích lũy thời gian dài: do bùng nổ tín
dụng, sự bùng nổ nợ tiêu dùng, nhận thức xu hướng phát triển tồn tại mãi, sự tôn sùng về
thị trường tự do không kiểm soát, sự sùng bái thị trường tài chính, kinh tế thị trường
Tác động của khủng hoảng tài chính M ỹ và thế giới đến nền kinh tế Việt Nam - PG S-
TS Trần Hoàng N gân - Trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang ảnh hưởng đến tất cả các nền kinh tế thế
giới, được cho là nhen nhóm từ ngày 9/8/2007- khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) buộc
phải thi hành biện pháp khẩn cấp nhằm cứu các ngân hàng trước nguy cơ sụp đổ do gánh
nặng của các khoản cho vay thế chấp khó đòi. Khởi đầu từ Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính
đã lan nhanh sang châu Âu và các khu vực khác.
Người ta còn nhớ đúng 8h 25 phút sáng 9/8/2007, FED buộc phải bơm hàng chục tỷ
USD ra thị trường. Và 70 phút sau đó, chính xác là 9h 35 phút, họ lại phải bơm thêm tiền
vào hệ thống này. Ở bên kia bờ Đại Tây Dương, Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng
hành động tương tự. Từ đó, chúng t a biết thêm một từ m ới thông dụng trong nền kinh tế:
"Cho vay thế chấp thứ cấp" - một phương thức cho vay tồi tệ ở M ỹ đã tạo nên những khoản
nợ rác, nợ độc hại, thậm chí là những khoản nợ "điên". Các nhà lãnh đạo N gân hàng Trung
ương đang tìm cách bác bỏ sự thật là những biện pháp cấp bách như những biện pháp thi
hành cách đây một năm, và vẫn phải liên tục áp dụng với mức độ ngày càng nhiều hơn kể
từ đó - chính là dấu hiệu cho thấy qui mô của tấn thảm kịch. Thời gian trôi qua chỉ càng
khẳng định thêm những mối lo ngại đó.
Những cơn chấn động trong năm qua đã làm hơn 100.000 nhân viên ngành tài chính
mất công ăn việc làm, để lại xác một vài ngân hàng được nhà nước ra tay cứu vớt. Cuộc
khủng hoảng đã khoét sâu vào uy tín của các Ngân hàng Trung ương, nhất là các thiết chế
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 8
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh

quản lý tài chính. Nó làm mất lòng tin vào ngân hàng. Tác động huỷ diệt của nó đang dần
dần làm ô nhiễm nền kinh tế thực. Nó đẩy nhanh cuộc khủng hoảng địa ốc tại Mỹ, Anh và
Tây Ban Nha. Các nước ở rất xa như New Zealand và Đan Mạch cũng đang bước vào suy
thoái. Cả những đảo quốc một thời được coi là thịnh vượng như Iceland cũng nghiêng ngả.
Nước Mỹ đang bị bao trùm bởi bóng ma đáng sợ này.
Thực tế là cuộc khủng hoảng đã ập đến một cách bất ngờ. Sau vài tháng, người ta lập
luận rằng điều tồi tệ nhất đã qua. Lại một sai lầm nữa. Rất nhiều người đã tưởng rằng xáo
trộn trong sự phát triển của nền kinh tế phương Tây sẽ diễn ra trong thời gian ngắn. M ột lần
nữa, lại sai. Giờ đây, không ai nghĩ rằng chặng cuối của đường hầm sẽ hiện ra trước năm
2010, nhất là trong bối cảnh bùng nổ thêm cuộc khủng hoảng lương thực và năng lượng.
Bùi Ngọc Hải -Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu - một năm nhìn lại -
gày 08/01/2009
2.1.2. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế của Việt
Nam
Tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu bùng phát tại Mỹ và lan rộng trên
thế giới với một loạt định chế tài chính lớn sụp đổ. Theo đánh giá của Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa có mối liên hệ trực tiếp với thị trường
tài chính thế giới nên mức độ ảnh hưởng không lớn.
Phản ứng đầu tiên của các ngân hàng trong nước là rút bớt tiền gửi ở nước ngoài về,
đóng bớt tài khoản thanh toán quốc tế. Các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam khẳng định
tiếp tục duy trì hoạt động và đảm bảo an toàn.
Một ảnh hưởng cụ thể từ cuộc khủng hoảng này được xét đến ở những biến động trên
thị trường ngoại tệ và xu hướng tăng lên của tỷ giá USD/VND. Trong tháng 10, cầu ngoại
tệ của các ngân hàng ngoại có dấu hiệu tăng mạnh, trong đó có nguyên nhân từ hoạt động
chuyển vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Một số ngân hàng nước ngoài cũng có hiện tượng
bán lại nợ cho các ngân hàng nội địa…
Ở những ảnh hưởng gián tiếp, cuộc khủng hoảng tài chính, và nối tiếp là suy thoái
kinh tế toàn cầu, đẩy nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trong nước vào khó khăn, dẫn
đến quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nhất định.


- Xuất khẩu sẽ gặp khó khăn lớn và giảm cả số lượng và giá cả… do tổng cầu thế giới
giảm và cạnh tranh trên các thị trường sẽ khó khăn, giảm thu ngoại tệ cho quốc gia, giảm
sản xuất trong nước, giảm GDP, thất nghiệp tăng,…Tuy nhiên nếu có chính sách đúng thì
vẫn có điều kiện tăng xuất khẩu và nhảy vào thị trường mới, khi các doanh nghiệp các nước
đang gặp khó khăn và phá sản
- Du lịch quốc tế vào VN giảm, kéo t heo dịch vụ giảm giảm nguồn thu ngoại tệ cho cán
cân vãng lai
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 9
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
- Đầu tư nước ngoài FDI, FII, ODA giảm, giải ngân chậm…giảm nguồn thu ngoại tệ, thị
trường BĐS tiếp tục khó khăn, nợ quá hạn của NH sẽ tăng
- Kiều hối giảm mạnh, đặc biệt là kiều hối “đầu tư”.
- Ảnh hưởng nhất định đến cán cân thanh toán vãng lai, cán cân vốn, và cán cân tổng thể
- Lãi suất vay USD tăng, chi phí trả nợ nước ngoài tăng
- Hệ thống NHTM gặp khó khăn trong thanh toán quốc tế và chi phí chuyển tiền tăng do
phải tránh bão.
- Thị trường chứng khoán tiếp tục diễn biến phức tạp, do vốn nước ngoài rút.
- Vấn đề việc làm, an sinh xã hội là bài toán khó…
(Trần Hoàng Ngân, 2008)
2.2. Thực trạng về hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam đối với doanh nghiệp
năm 2008
2.2.1. Đánh giá chung về hoạt động ngân hàng trong năm 2008
Năm 2008, thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có
về lãi suất, tỷ giá. Đ ây cũng là một năm đáng nhớ trong hoạt động của các ngân hàng, khi
phải trải qua những khó khăn không nhỏ.
a/ NHNN liên tục thay đổi các công cụ điều hành
Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần
sang nới lỏng một cách thận trọng những t háng cuối năm. Đi cùng với quá trình này là t ần
suất điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của NHNN, tập trung ở các lãi suất chủ
chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá.

Tính chung cả năm, NHNN đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có t ần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ
bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).
Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên
độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3% ; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều
chỉnh mạnh, vào tháng 6/08 và cuối tháng 12/08.
Một công cụ được NHNN sử dụng đến, cũng là một sự kiện nổi bật trong năm 2008,
là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc (17/3). Đi cùng với kế hoạch này, nhà
điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng
12/08 giảm xuống còn 4,5%.
b/ Thực hiện cơ chế cho vay theo trần lãi suất
Lần đầu tiên kể từ 01/12/05, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng, từ 8,25% lên 8,75%
vào 01/2/08. Đặc biệt, trong lần điều chỉnh ngày 19/5/08 (lên 12% ) và ngày 10/6/08 lên
14%/năm, lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng của nó, trở thành một cơ sở để xác
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 10
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của các NHTM , thay vì xơ cứng và mờ nhạt
trước đó.
Cụ thể, ngoài sự điều chỉnh trên, NHNN chính thức áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt
động cho vay của các TCTD (không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật
Dân sự).
Từ thời điểm đó, hoạt động cho vay của các các ngân hàng có sự thay đổi căn bản;
khái niệm “lãi suất cho vay tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng nghĩa với những mức lãi
suất cho vay từ 22% - 25% trước đó được loại bỏ cùng với các loại phí thu thêm; trần lãi
suất huy động thỏa thuận giữa các thành viên Hiệp hội N gân hàng Việt Nam có từ những
năm trước cũng bị xóa bỏ.
c/ Lãi suất huy động và cho vay biến động chưa từng có
Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm 2008 của NHNN gắn liền với sự căng thẳng về
thanh khoản của các NHTM. Lãi suất huy động VND có kỳ hạn biến động mạnh nhất từ

trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5/08 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt
trong tháng 6/08. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới
43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên
19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm.
Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều NHTM cầm chừng, doanh
nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng t iêu dùng
gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục
tăng dưới 1% /tháng; cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế
30%).
Ngược lại, từ cuối tháng 7/08, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của NHNN với
nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt
thoái trào. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm 2008, gắn với những điều chỉnh các lãi suất
chủ chốt của NHNN, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều
chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh
mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm.
d/ Nợ xấu ngân hàng có xu hướng gia tăng
Khó khăn của nền kinh tế, trong hoạt động của mỗi ngân hàng đang dần thể hiện ở xu
hướng gia tăng của nợ xấu. Nếu trong năm 2007, đa số thành viên khối quốc doanh chỉ trên
dưới 3%, khối cổ phần phổ biến dưới 2%, thì năm nay dự kiến sẽ có nhiều trường hợp có
nợ xấu trên 5%.
Cuối năm 2008, một số ngân hàng lớn đã chính thức công bố tỷ lệ nợ xấu thực tế hoặc
mục tiêu kiểm soát từ 5% đến hơn 6%. Tuy nhiên, nhiều thành viên chưa có động lực để
công bố và cập nhật số liệu liên quan. Dự kiến từ đầu năm 2009, bức tranh về nợ xấu của hệ
thống ngân hàng sẽ rõ ràng hơn.
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 11
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
Liên quan đến vấn đề nợ xấu, sự suy giảm mạnh của thị trường bất động sản và chứng
khoán là những lo ngại nổi bật trong năm 2008, ảnh hưởng đến chất lượng và quan hệ t ín
dụng của các ngân hàng thương mại. Riêng làn sóng giải chấp chứng khoán cầm cố cũng là
một điểm nổi bật trong năm khó khăn này. Hiện các NHTM vẫn phải đau đầu với bài toán

giải quyết các khoản vay bất động sản. Bởi họ vẫn chưa tìm ra đối tác để mua lại các khoản
nợ đó. Trong khi tình trạng nợ xấu và khả năng không trả được nợ đã xuất hiện.
e/ Một loạt nghiệp vụ cho vay bị siết chặt
Năm 2007, thị trường ngân hàng chứng kiến sự bùng nổ về tăng trưởng tín dụng (tăng
51,39%), trong đó tăng trưởng mạnh ở các nghiệp vụ cho vay đầu tư bất động sản, chứng
khoán và tín dụng tiêu dùng. Bước sang năm 2008, đây là những nghiệp vụ chính bị siết
chặt.
Chính sách thắt chặt tiền tệ và khó khăn thanh khoản trong nửa đầu năm là nguyên
nhân đầu tiên khiến nhiều ngân hàng buộc phải “đóng cửa” đối với những nghiệp vụ này.
Bên cạnh đó, sự sụt giảm nhanh và mạnh của thị trường chứng khoán, bất động sản dẫn đến
nguy cơ rủi ro tín dụng, các ngân hàng thận trọng; lãi suất cho vay quá cao cũng là một rào
cản đối với các nhu cầu.
Riêng với tín dụng tiêu dùng, cơ chế cho vay theo lãi suất trần là một trở ngại, bởi cho
vay loại này thường có lãi suất cao hơn. Đây cũng là một lý do để nhiều ý kiến đề xuất
Ngân hàng Nhà nước mở lại cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận, bỏ cơ chế trần hiện
nay.
Nguồn vneconomy
g/ Thực hiện các biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông
hàng hoá, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.
Mở rộng tín dụng có hiệu quả, áp dụng lãi suất cho vay hợp lý trong điều kiện doanh
nghiệp, hộ sản xuất đang gặp khó khăn về sản xuất, kinh doanh; xử lý kịp thời các vướng
mắc về nợ vay và tiếp cận tín dụng của khách hàng.
Bố trí vốn và áp dụng lãi suất hợp lý theo chính sách ưu tiên khách hàng của mình đối
với nông nghiệp và nông t hôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản xuất hàng tiêu
dùng, sản xuất hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu và sử dụng nguyên liệu trong nước, tạo
nhiều việc làm cho người lao động.
Cho vay mua lúa, gạo và các chương trình tín dụng khác theo chỉ đạo của Chính phủ
và hướng dẫn của NHNN; bố trí đủ vốn để giải ngân các hợp đồng tín dụng đã ký kết đối
với các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, các dự án được đầu tư theo chủ trương kích cầu đầu
tư của Chính phủ.

Thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các khoản vay không trả nợ đúng hạn
của hộ nông dân bị thiệt hại do thiên tai, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản
phẩm, hàng hoá và đối với các khoản vay không trả nợ đúng hạn do tác động của cuộc
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 12
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
khủng hoảng tài chính thế giới làm cho sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, chậm tiêu thụ
và xuất khẩu sản phẩm; tiếp tục xem xét cho vay mới đối với các nhu cầu vốn vay có hiệu
quả và đảm bảo khả năng trả nợ; thực hiện việc nhận bảo lãnh, cho vay vốn đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Miễn, giảm lãi vốn vay theo quy định tại quy chế cho vay của TCTD đối với khách
hàng. Điều chỉnh áp dụng lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống theo mức lãi
suất cho vay hiện hành; không phạt do quá hạn trả nợ vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá do tác động của
khủng hoảng tài chính thế giới.
Đẩy mạnh việc mở rộng tín dụng đối với khu vực nông nghiệp và nông thôn; các
NHTM khác dành tỷ lệ vốn thích hợp để mở rộng tín dụng đối với khu vực nông nghiệp,
nông thôn. Xây dựng phương án huy động vốn để đảm bảo có thêm vốn cho vay hộ nghèo,
học sinh, sinh viên và các đối tượng chính sách khác.
Nguồn: Vneconomy
Theo Tổng cục T hống kê, mặc dù tốc độ tăng GDP năm 2008 chỉ là 6,23%, thấp hơn
2,25% so với năm 2007 và thấp hơn 0,77% so với kế hoạch điều chỉnh nhưng trong bối
cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, tốc độ tăng như vậy cũng là một thành tựu lớn, tạo
điều kiện thuận lợi để giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
2.2.2. Những kết quả chủ yếu đạt được
a/ Điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả
- Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, chính sách tiền tệ thông qua điều hành lãi suất tiền
gửi và lãi suất dự trữ bắt buộc kịp thời, đúng quy luật của kinh t ế thị trường đã giúp ngân
hàng vượt qua được thời kỳ sóng gió. Đến bây giờ cơ bản các ngân hàng hoạt động ổn định,
lãi suất huy động và lãi suất cho vay của hệ thống NHTM cổ phần đã dần trở lại gần như
cuối năm 2007. Nền t ài chính quốc gia đứng vững, bảo đảm cho sự ổn định về kinh tế,

chính trị và xã hội. Đó là mối quan hệ nhân quả của chính sách tiền tệ đúng, đó cũng là cơ
sở để khẳng định năm 2008 chúng ta đã thành công nhiều hơn thất bại
- Chính sách thắt chặt, linh hoạt thực hiện thời gian qua vừa thể hiện tính khoa học
trong quy luật, vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Việc giữ được an toàn hệ thống thậm
chí lành mạnh hơn trong bối cảnh khó khăn như vậy thể hiện năng lực, trí tuệ, bản lĩnh của
Lãnh đạo hệ thống N gân hàng.
b/ Đáp ứng có hiệu quả các nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu tăng trưởng ở mức hợp lý
Để góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý trong
điều kiện thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, NHNN đã thực hiện linh hoạt, đồng bộ các
giải pháp nhằm hỗ trợ vốn cho các nhu cầu sản xuất, kinh doanh, đồng thời kiểm soát chặt
chẽ quy mô, chất lượng tín dụng. Cụ thể:
- Chỉ đạo các TCTD điều chỉnh kế hoạch kinh doanh và cơ cấu tín dụng phù hợp với
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 13
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của ngành đi đôi với kiểm
soát chặt chẽ chất lượng tín dụng; ưu tiên vốn cho lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu
các mặt hàng thiết yếu, nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án đầu tư
khả thi, có hiệu quả và có khả năng trả nợ đúng hạn; tăng cường cho vay và thực hiện có
hiệu quả chính sách cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, học sinh, sinh viên và các đối tượng
chính sách khác.
- Quy định chặt chẽ điều kiện cho vay và khống chế tổng dư nợ cho vay, chiết khấu
giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ
chức tín dụng. Ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng theo hướng chỉ cho vay đối với nhu cầu nhất thiết phải sử dụng vốn vay bằng
ngoại tệ, hạn chế tình trạng đôla hoá.
- Chỉ đạo, hướng dẫn các TCTD hỗ trợ vốn cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh gặp
khó khăn, như: kinh doanh, nhập khẩu xăng dầu; các dự án nguồn điện cấp bách; sản xuất
hàng may mặc; thu mua, tiêu thụ cá tra, cá ba sa và lúa gạo hàng hoá vùng đồng bằng sông
Cửu Long; tiêu thụ cà phê ở T ây N guyên; các lĩnh vực bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh…
- Thành lập Tổ công tác xử lý khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhỏ và vừa

trong quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng trên địa bàn Thành phố Hà Nội và Hồ Chí
Minh.
c/ Một số chỉ tiêu tiền tệ, tín dụng đạt được năm 2008
- Tổng phương tiện thanh toán ước tăng 16-17% và dư nợ tín dụng ước tăng 21-22%
so với cuối năm 2007. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 5,4% và tỷ giá giao dịch của
các ngân hàng thương mại tăng 8-9% so với cuối năm 2007.
- Lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng giảm nhanh trong những tháng cuối
năm từ mức 23-24%/năm xuống dưới 12,75%/năm, trong đó mức lãi suất cho vay thấp nhất
là 8,5%/năm.
- Vốn tín dụng đầu tư vào khu vực dân doanh tăng 35-37%, khu vực doanh nghiệp
nhà nư ớc tăng 12-14%, lĩnh vực xuất khẩu tăng 35-37%, khu vực sản xuất tăng 34-36%,
khu vực nông nghiệp và nông thôn tăng 30%; cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách
khác tăng 40-42%.
- Tổng dư nợ tín dụng ước đạt 490 ngàn tỉ đồng, tăng 20,6% so cùng kỳ (năm 2007
tăng 76,9%). Trong đó, dư nợ của khối ngân hàng cổ phần chiếm 47,1% tổng dư nợ và tăng
11,8% so cùng kỳ. Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ đạt 142 ngàn tỉ đồng, chiếm 29% tổng dư
nợ, tăng 24,5% so cùng kỳ. Dư nợ tín dụng bằng VND tăng 19,2% so cùng kỳ.
- Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ tăng nhanh và cao hơn tiền đồng chủ yếu do nhu cầu
vay vốn ngoại tệ gắn liền nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Trong năm, lãi suất cho vay ngoại tệ
luôn thấp hơn tiền đồng. So cùng kỳ, dư nợ tín dụng trung dài hạn chiếm 41% tổng dư nợ,
tăng 20%; dư nợ tín dụng ngắn hạn tăng 21%.
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 14
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
Kết quả hoạt động ngân hàng năm 2008 đã góp phần quan trọng trong việc kiềm chế
thành công lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng hợp
lý và ngăn ngừa tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với kinh tế
Việt Nam nói chung và hoạt động tiền tệ, ngân hàng nói riêng. Ghi nhận đóng góp của
ngành Ngân hàng, vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã tặng Bằng khen cho 10 tập thể trong
Ngành, trong đó có Hiệp hội ngân hàng và sáu NHTM.
d/ Thực hiện kích cầu nền kinh tế

Giảm lãi suất cơ bản, giảm tỷ lệ dự trữ, giảm lãi suất tín phiếu bắt buộc nằm trong gói
giải pháp của Chính phủ kích cầu đầu tư tiêu dùng, có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn ngân hàng, tái cơ cấu kinh
doanh, duy trì việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu.
Các quyết định mới đây nhất của NHNN như giảm lãi suất cơ bản thêm 1% và cắt
giảm thêm 2% dự trữ bắt buộc được coi là động lực quan trọng thúc đẩy các NHTM hạ lãi
suất và đẩy mạnh cho vay. Đáng chú ý, cùng với các điều chỉnh về lãi suất, chính sách cho
vay và đặc biệt với cho vay tiêu dùng tại các NHTM cũng bắt đầu hé m ở biểu hiện nới
lỏng. Ngoài nhóm khách hàng truyền thống và ưu đãi, một số NHTM cổ phần công bố sẵn
sàng cho các cá nhân có nhu cầu vay mua, xây dựng và sửa chữa nhà ở với lãi suất ưu đãi.
Các khoản vay tín chấp với giá trị lên tới hàng trăm triệu đồng đã được một số ngân hàng
áp dụng cho khách hàng. Tuy không quan tâm tới mục đích vay của người tiêu dùng nhưng
mục tiêu của các ngân hàng khá rõ rệt: tham gia kích cầu mà đối tượng nhắm tới là người
dân. Dịch vụ này cũng được coi là cú đột phá vào nguồn vốn tiềm ẩn trong người dân.
e/ Thực hiện kích cầu qua chính sách tài khóa
Hiện Chính phủ đã chỉ đạo giãn nộp thuế thu thuế thu nhập cá nhân đến tháng 5/2009.
Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính tập trung triển khai ngay nhóm 9 giải pháp về miễn
giảm thuế, trong đó giảm 30% số thuế TNDN phải nộp của quý IV/2008 và số thuế TNDN
phải nộp năm 2009 đối với thu nhập từ hoạt động SX, kinh doanh của các DNNVV.
Ngoài ra, sẽ dãn thời hạn nộp thuế TNDN trong thời gian 9 tháng đối với số thuế
phải nộp năm 2009 của các DNNVV và của DN SX, gia công, chế biến nông - lâm - thủy
sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử
2.2.3. Những hạn chế, tồn tại
a/ Về chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ đã “phanh” gấp quá, thắt chặt quá, mở quá nhanh, do “giật mình”
trước những biến động của thị trường nên đã dùng các liều thuốc quá mạnh, dẫn đến thiệt
hại cho doanh nghiệp, ngân hàng và nền kinh tế. Liên tục thay đổi các công cụ điều hành,
lãi suất thay đổi liên tục làm cho thị trường ngân hàng luôn đặt trong tình trạng nóng. Điều
đó thể hiện sự bị động trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, thiếu những dự
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 15

GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
đoán, dự báo mang tính chiến lược để thực thi những quyết định đúng, giảm thiểu những
ảnh hưởng không t ốt đến nền kinh tế.
Trong điều hành chính sách tiền tệ, một số biện pháp thắt chặt không áp dụng, hoặc có
liều lượng hơn đối với ngân hàng hoạt động ở vùng nông thôn cũng không ngoài mục đích
tăng cường vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế hộ nông
dân. Tuy nhiên một số biện pháp khác thì lại đang thắt chặt lại tín dụng cho nông nghiệp -
nông thôn đi ngược lại xu hướng các nước trong khu vực và chưa phù hợp với định hướng
nói trên của NHNN cũng như của Thủ tướng Chính phủ.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại; kết quả kiềm chế lạm phát và ổn định
kinh tế vì mô chưa vững chắc; một số vấn đề xã hội bức xúc như: thiếu đói, dịch bệnh, vệ
sinh an toàn thực phẩm, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường chậm được khắc phục.
b/ Vốn nhiều, giải ngân thấp
Nguồn vốn khả dụng của các NHTM thời điểm trước khi các quyết định mới đây của
NHNN ban hành vẫn được khẳng định đang tiếp tục dư cung. Chỉ tính đến cuối tháng
10.2008, vốn khả dụng của hệ thống các NHTM thừa khoảng 90.000 tỷ đồng. Song cho đến
hết tháng 9/08, dự nợ tín dụng tiêu dùng toàn hệ thống chỉ đạt khoảng 79.700 tỷ đồng và
chiếm khoảng 6,54% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế. Dư nợ cho vay tiêu dùng trên
đầu người tại Việt Nam hiện chỉ đạt khoảng 921.000 đồng/người.
Dù Ngân hàng dư thừa vốn khả dụng và ngay cả khi chính sách cho vay tiêu dùng
mềm dẻo hơn, việc khách hàng có nhu cầu tiếp cận được nguồn vốn vẫn không phải dễ.
Chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro với phần nhiều các hợp đồng cho vay dựa trên quan hệ t ín
chấp và đặc biệt khi các ngân hàng t hiếu một hệ thống thông tin khách hàng, quan hệ t ín
dụng hoàn thiện vẫn là những nguyên nhân khiến các NHTM dè dặt khi cho vay tiêu dùng.
c/ Quan hệ tín dụng với doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế
Trên thực tế, quan hệ tín dụng ngân hàng với các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn nhiều
hạn chế. Một điều tra gần đây của Tổng cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, cho thấy, chỉ có trên 32% số doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tiếp cận được với
nguồn vốn ngân hàng (chủ yếu là NHTM), trong khi có hơn 35% số doanh nghiệp khó tiếp
cận và trên 32% số doanh nghiệp không có khả năng tiếp cận vốn ngân hàng. Tỷ lệ hồ sơ

vay vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa được ngân hàng chấp thuận cho vay chỉ vào khoảng
30 - 40%. Thực trạng trên cần được xem xét từ cả hai phía: phía các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, và, phía các ngân hàng.
d/ Gói kích cầu chậm triển khai và định hướng chưa hợp lý
Có một thực trạng hiện nay rất nhiều doanh nghiệp đang lao đao chống chọi với “bão
lũ’, nhiều doanh nghiệp đã giảm phân nửa công suất do bán hàng không được, số khác bắt
đầu sa thải công nhân Trong thời điểm Tết Nguy ên đán không còn bao xa, hàng loạt công
nhân lao động bị nợ lương, mất việc, không có tiền về quê tụ họp với gia đình trong
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 16
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
những ngày tết, những bước chân lầm lũi về quê vẫn còn những giọt nước mắt chia ly
không hẹn ngày trở lại Trong khi đó, gói kích cầu của Chính phủ vẫn còn đang trên giấy,
ngay cả việc công bố 1 tỷ USD từ đầu tháng 12/08 hay 6 tỷ USD giữa tháng 12/08 của
Chính phủ cũng vẫn chưa rõ ràng, chưa tìm ra nguồn, chưa có giải pháp cụ thể.
Ngày 23/12, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch-Đầu tư Võ Hồng Phúc cho biết, gói kích cầu
17.000 tỷ đồng (tương đương 1 tỷ USD) của Chính phủ chỉ sử dụng để hỗ trợ lãi suất cho
vay các dự án và chương trình đầu tư với lãi suất ưu đãi được thực hiện trong hai năm 2009
và 2010. Các dự án kết cấu hạ tầng giao thông quy mô lớn, các dự án đường bộ cao tốc,
một số sân bay, cảng biển; các dự án đầu tư ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, xây dựng
quỹ nhà xã hội cho người nghèo có thu nhập thấp, doanh nghiệp vừa và nhỏ… sẽ được hỗ
trợ 4% lãi suất cho vay trong hai năm 2009 và 2010. Dự kiến bù lãi suất cho các dự án cơ
sở hạ tầng giao thông và hạ tầng các khu kinh tế khoảng 50% (tương đương 7.170 tỷ đồng),
các dự án cho khu vực nông nghiệp, nông t hôn khoảng 25% (3.585 tỷ đồng), nhà xã hội
khoảng 5% (717 tỷ đồng), các doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 20% (2.868 tỷ đồng).
Tuy nhiên, việc sử dụng gói kích cầu để hỗ trợ vào các dự án và chương trình đầu tư
là chưa phù hợp, không phải ngay lúc này, không thể giải được “cơn nóng” của thực trạng
nền kinh tế nước ta hiện tại. Hàng loạt doanh nghiệp tại các khu công nghiệp đang điêu
đứng do không có đầu ra như các ngành may mặc, dày da mà hệ lụy rõ nhất là lực lượng
lao động mất việc, nợ lương, thất nghiệp gây nên bao cảnh “màng trời chiếu đất” là
những đối tượng cần được quan tâm trước nhất, ưu tiên trước của gói kích cầu này, không

phải là dự án.
Tuy nhiên, một điều Chính phủ cũng nên xem xét vì kích thích trong bối cảnh lạm
phát cơ bản vẫn còn cao khiến cho hiệu quả của gói kích cầu ở Việt Nam có thể khác với
các nước và rủi ro cao.
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Nguyên nhân chính yếu nhất đó là hệ quả của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Việt Nam
cũng đang gặp khủng hoảng kép. Chồng lên khủng hoảng riêng của chúng ta là tác động
ghê gớm của khủng hoảng tài chính bùng phát vào giữa tháng 9-2008 ở M ỹ, lan rất nhanh
và biến thành khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Khủng hoảng toàn cầu làm cho giá của nhiều
mặt hàng giảm đáng kể (do cầu giảm trên toàn thế giới): giá dầu từ 147 đô la Mỹ/thùng
xuống dưới 40 đô la M ỹ/thùng, giá sắt thép, phân bón, vật liệu xây dựng, lương thực, vận
tải cũng giảm mạnh. Cũng nhờ sự giảm giá đó mà lạm phát ở nước ta đã dịu bớt (chứ
không hoàn toàn do thành tích của các giải pháp đầu năm 2008).
- Khả năng dự đoán, dự báo tình hình kinh tế thị trường của Việt Nam còn kém, thiếu
tính khoa học, năng lực điều hành còn hạn chế nên các chính sách tiền tệ luôn bị động, chạy
theo những biến động của thị trường, dùng những liều thuốc quá mạnh dẫn đến việc thắt
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 17
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
quá chặt và mở quá nhanh, các công cụ điều tiết luôn thay đổi, lãi suất luôn biến động, làm
cho nền kinh tế thật sự nóng.
- Nhìn ra thế giới, các nền kinh tế hiện đang đang tung ra những gói kích cầu để cứu
nền kinh tế, ta cũng làm, nhưng khi thực hiện thì lại loay hoay tìm nguồn, tìm giải pháp nên
mất tính cấp thời. Điều này cho thấy năng lực điều hành nền kinh tế của ta còn hạn chế,
chưa theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới.
































Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 18
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
PHẦN III:
NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG TÁC
CHO VAY VỐN KÍCH CẦ U ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CỦA HỆ

THỐNG NHTM VIỆT NAM TRONG NĂM 2009

1. Đào tạo năng lực đội ngũ phân tích, dự báo thị trường
Cần có kế hoạch dài hơi cho việc đào tạo đội ngũ các nhà làm công tác phân tích, dự
báo thị trường mang tính chuyên nghiệp, hiện đại để thực hiện các cuộc khảo sát, phân
tích, dự báo nhằm đưa ra những con số có tính thời sự, khoa học giúp các nhà lãnh đạo ra
quyết định.
Bên cạnh đó, các chính sách nên tham khảo ý kiến các chuyên gia đầu ngành trong
lĩnh vực tài chính - ngân hàng để có những quyết sách phù hợp với thị trường, với nền kinh
tế trong từng giai đoạn ngắn hạn và dài hạn. Chính phủ cũng nên tham khảo ý kiến các
chuyên gia, hiệp hội doanh nghiệp, tạo cơ hội tiếp cận nguồn vốn, tiếp cận chính sách của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân.
2. Xây dựng một thể chế chính sách tiền tệ thích hợp
Nhiệm vụ đầu tiên ngân hàng cần làm là tham mưu một thể chế chính sách tiền tệ
thích hợp hiệu quả đáp ứng nhu cầu ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, kích
cầu đầu tư tiêu dùng. Khi có chính sách, có định hướng rõ ràng ngành ngân hàng cần huy
động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống bao gồm NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần, ngân
hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
3. Tiếp tục thực hiện điều hành lãi suất, tỷ giá linh hoạt
Tiếp tục thực hiện chính sách điều hành lãi suất, tỷ giá cho linh hoạt phù hợp vừa đảm
bảo mục tiêu kích cầu tiêu dùng vừa đảm bảo an toàn hệ thống, duy trì được vốn cho nền
kinh tế. Thời gian tới, để hỗ trợ vốn kịp thời cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ
sẽ đưa ra gói giải pháp kích cầu bằng cách hỗ trợ khoảng 4% lãi suất với tổng trị giá 17.000
tỷ đồng.
Để cứu được các doanh nghiệp, ngành ngân hàng nên có chính sách giảm lãi cho
doanh nghiệp. Điều này tuy làm ngân hàng giảm lãi song sẽ cứu được doanh nghiệp và đảm
bảo được chính sự "khỏe mạnh" về năng lực tài chính của ngân hàng. Tiêu chí chung của
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh phải có lợi nhuận nhưng truyền thống của người Việt
Nam chỉ ra rằng cả ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế cần phải có sự đùm bọc, chung
sức, hỗ trợ, chia sẻ để cùng vượt qua khó khăn.

4. Kiểm soát chặt chẽ chất l ượng tín dụng.
Ngành ngân hàng cần cố gắng làm lành mạnh hơn nữa hệ thống bao gồm cả về vốn,
chất lượng tín dụng, đổi mới công nghệ, năng lực quản trị ngân hàng. Mặc dù nợ xấu tăng
chưa tới mức báo động và các ngân hàng đều trích lập dự phòng rủi ro, nhưng không thể
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 19
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
chủ quan mà phải tính toán xử lý nợ để không ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Thực
hiện tăng trưởng tín dụng phù hợp với mức độ kiểm soát lạm phát. Việc tăng vốn có lộ trình
và việc thành lập m ới ngân hàng thời gian tới tuy không hạn chế, nhưng phải xem xét cẩn
trọng để ngân hàng được thành lập phải hoạt động có hiệu quả.
4. Tiếp tục kí ch cầu tiêu dùng
Để giảm bớt tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng toàn cầu, cần thực hiện kích cầu
tiêu dùng và gia tăng hàng hóa trên thị trường nội địa thông qua chính sách tín dụng mềm
dẻo hơn. Lãi suất cơ bản tiếp tục giảm cùng một số biện pháp nới lỏng chính sách thắt chặt
tín dụng. Tuy nhiên, lãi suất cho vay cần được giảm thêm và đầu năm tới phải về mức
ngang mức như năm 2006 thì người tiêu dùng mới có cơ hội tiếp cận vốn vay ngân hàng để
mua, sửa chữa nhà cũng như ôtô, để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh
doanh.
5. Gói kích cầu nền kinh tế cần có ngay giải pháp
Đầu tháng 12/2008, Chính phủ đã công bố ý tưởng năm giải pháp và gói kích thích 1
tỉ đô la M ỹ. Đến giữa tháng 12/2008 gói kích thích được nâng lên 6 tỉ đô la Mỹ, tuy bản
thân gói giải pháp và gói kích thích chính xác là gì thì vẫn chưa rõ. Chính phủ cần có ngay
những giải pháp cấp bách để kích thích hoạt động sản xuất, kinh doanh. Chính phủ sớm
quyết định và công bố cụ thể gói kích cầu vì trong bối cảnh hiện nay, để kéo dài có thể
khiến giới doanh nhân thất vọng, gây ảnh hưởng tâm lý xấu.
Muốn vận dụng hiệu quả gói kích cầu cần có kế hoạch cụ thể “kích” vào đâu, kích
như thế nào. Trước khi phân bổ phải có những quy tắc cụ thể, không phải ban phát tùy tiện,
tránh lợi ích cục bộ. Hiện nay, giải pháp kích cầu còn quá chung chung. Không thể chần
chừ, vì chống suy thoái phải làm ngay, nếu để càng chậm càng kém tác dụng. Kích cầu vốn
là cấp bách, nhưng nếu không gắn với một chiến lược căn cơ, lâu dài mà chỉ như một "thời

điểm trú đông", thì hiệu quả không cao.
Người dân đã đợi khá lâu quyết định cuối cùng về gói kích cầu. Nếu để doanh nghiệp
sắp phá sản mới cứu sẽ rất khó. Giải pháp không đặc biệt cũng không thể đáp ứng. Phải
nhanh chóng dọn đường các thủ tục thì việc giải ngân gói kích cầu mới nhanh được. Bên
cạnh đó, thị trường chứng khoán cũng không thể để đóng băng mãi được, doanh nghiệp
không thể huy động vốn thì ý nghĩa sự ra đời thị trường là không có. Nên tính toán mở
thêm nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư chiến lược cần được mua giá ưu đãi hơn. Chúng ta
cần biện pháp quyết liệt, tốc độ phải nhanh, không thể như mọi khi được nữa.
Chính phủ nên đi vay thêm để kích cầu. 1 tỷ USD để kích cầu là quá ít. N ếu là 6 tỷ
USD cũng không nhiều so với yêu cầu hiện nay. Doanh nghiệp hiện có hàng không bán
được, nhà đầu tư có tiền không biết đầu tư vào đâu nên biện pháp quan trọng nhất là Nhà
nước phải đầu tư vào nơi vừa hút được vốn dư thừa, vừa dùng được hàng tồn đọng, tạo ra
việc làm. Điểm trọng yếu ấy, có thể là trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, may mặc, dày da, cơ
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 20
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
sở hạ tầng, đường, điện, y tế Thị trường bất động sản liên quan đến khoảng 60% thế chấp
ngân hàng, quan hệ trực tiếp với 50 ngành kinh tế cũng không thể để nó đóng băng được.
Đó là nơi cần tập trung, không nên bù lãi cho tất cả các nơi.
* Chỉ kích cầu thôi chưa đủ:
- Chống suy thoái khó hơn chống lạm phát nhiều. Việt Nam đang có nguy cơ vừa đình
trệ vừa lạm phát. Trong biện pháp chống lạm phát những tháng đầu năm đã chất chứa khả
năng gây đình đốn. Giờ đã đình đốn thật. Nay chống suy thoái thì trong các giải pháp tung
tiền ra có yếu tố gây lạm phát. Do đó, ngoài việc đem tiền ra kích cầu, Chính phủ cần tính
giảm thêm dự trữ bắt buộc. Tỷ giá là vấn đề không nên tránh né nữa. Với lạm phát, VND đã
giảm giá khoảng 20% trong khi chúng ta mới cho nới biên độ khoảng 3%, theo tôi nên điều
chỉnh mạnh hơn, 5% chẳng hạn.
- Kích cầu phải đi đôi với cải cách hành chính, thủ tục đầu tư thì mới hiệu quả.
- Mục tiêu cần phải đạt được không phải chỉ là kích cầu, mà còn phải song song tiến
hành cải cách như: công khai minh bạch thông tin đầu tư, cải cách hành chính, mở rộng
không gian hoạt động cho doanh nghiệp tư nhân hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh,

tạo vị thế bình đẳng giữa các doanh nghiệp, làm tiền đề cho nền kinh tế tiếp tục phát triển.
Đi kèm với đó, là xây dựng cơ chế kiểm soát minh bạch với khoản tiền hỗ trợ, đánh giá
hiệu quả cụ thể của các doanh nghiệp sau khi nhận các khoản hỗ trợ.
6. Ngành nghề và khu vực thực hiện kí ch cầu
Trong thời điểm hiện nay, người bị tác động trực tiếp và nhiều nhất bởi khủng hoảng
tài chính và suy giảm kinh tế là tầng lớp bình dân và người thu nhập thấp, phần lớn là lao
động ở nông thôn và lao động trong các ngành xuất khẩu, đặc biệt, lao động trong các làng
nghề hiện đang rất khó khăn. Ngoài ra, một lực lượng lớn lao động trong khu vực doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) bị thua lỗ, hiện cũng đang lao đao. Vì vậy, lĩnh vực
cần cứu giúp là doanh nghiệp tư nhân, làng nghề, khu vực nông nghiệp, và những đối tượng
bị tổn thương là người nghèo, công nhân. Đầu tư cho doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
vừa và nhỏ, sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm, sẽ giải quyết được nạn thất nghiệp, hỗ trợ
được cho người nghèo.
Đây là gói tài chính của Chính phủ để trợ giúp nhằm chống đỡ sự suy sụp, bởi thế
phải đầu tư vào những lĩnh vực ngắn hạn. N ếu đầu tư vào lĩnh vực dài hạn sẽ không có hiệu
quả. Không nên kích cầu vào khu vực Nhà nước vì lĩnh vực này đầu tư t ốn kém nhất nhưng
kém hiệu quả nhất, tránh "nước chảy chỗ trũng", nghĩa là nguồn vốn sẽ lại được về các tập
đoàn nhà nước vốn được ưu đãi khá nhiều, vốn dễ tiếp nhận luồng vốn tín dụng, nguồn vốn
ODA trong khi hiệu quả kinh tế và công ăn việc làm ít hơn nhiều so với khu vực tư nhân.
Gói kích cầu nên phân bổ chính cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực kinh tế tư
nhân và nông thôn, chi cho an sinh xã hội. N ếu đầu tư vào khu vực kinh tế quốc doanh sẽ
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 21
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
kém hiệu quả vì tuy khối doanh nghiệp này mang lại 40% GDP song chỉ tạo công ăn việc
làm cho 6% lao động.
Với mức độ ảnh hưởng trực tiếp đến công nhân lao động làm thuê do khủng hoảng tài
chính, những ngành nghề cần kích vốn như thóc, trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, dệt may,
dày da, giấy, chế biến gỗ, vận tải, xây dựng, bưu chính viễn thông, thương mại, dịch vụ tài
chính, nhà hàng khách sạn
Nhiều doanh nghiệp đã giảm phân nửa công suất do bán hàng không được, số khác

bắt đầu sa thải công nhân Do vậy, Chính phủ cần có ngay những giải pháp cấp bách để
kích thích hoạt động sản xuất, kinh doanh. Về gói kích cầu, trong bối cảnh doanh nghiệp
làm ăn sa sút, lương thưởng sẽ giảm, biện pháp tốt nhất là tặng trực tiếp tiền cho người lao
động (như Thái Lan và Trung Quốc đang làm).
Cách làm là căn cứ vào danh sách đăng ký lao động tại các địa phương, Nhà nước rót
tiền xuống các quỹ bảo hiểm xã hội, doanh nghiệp sẽ đến nhận tiền về phát cho người lao
động. Ít hay nhiều tùy vào ngân sách, nhưng mức hỗ trợ, có thể, là không nên phân biệt vị
trí công tác. Có tiền, dù nhiều hay ít, người lao động cũng sẽ rất phấn khởi dùng để mua
sắm cho gia đình vào dịp tết sắp đến và điều này sẽ kích thích ngược lại hoạt động sản xuất
kinh doanh. Người lao động lâu nay đóng góp rất lớn cho sự tăng trưởng của đất nước thì
nay họ gặp khó khăn, Nhà nước nên có trách nhiệm với họ.
Về địa bàn, cần tập trung vào hai đầu tàu kinh tế là Đông Nam Bộ và Đông Bắc Bộ.
Hai khu vực kinh tế trọng điểm này có sức lan tỏa rất lớn đến các vùng miền khác trong cả
nước.
Về phương pháp hỗ trợ, có thể bằng nhiều cách, ngoài miễn giảm thuế, còn có tín
dụng, trợ giúp lãi suất…
Đối với những doanh nghiệp khó khăn về vốn, Thủ tướng hãy giao cho chủ tịch
UBND tỉnh, thành phố được quyền quy ết định gia hạn thuế cho họ, nhưng không quá 12
tháng. Biện pháp này giống như cho nợ ngân sách có điều kiện và doanh nghiệp sẽ cam kết
trả nghiêm túc. Bên cạnh đó, thiết nghĩ nên hạ tiếp lãi suất cơ bản xuống, khoảng 3% là
được. Để bù cho chỗ thiếu hụt do giảm lãi suất của các NHTM , NHNN sẽ trả một khoản
tiền cho các khoản dự trữ bắt buộc giống như trả lãi suất.
Tuy nhiên, doanh nghiệp không nên thụ động trông chờ vào gói kích cầu của Chính
phủ. Để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, các cấp, các ngành sớm
chủ động thực hiện đồng bộ và có hiệu quả 5 nhóm giải pháp trọng tâm của Chính phủ
nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội. Bên cạnh
đó, chương trình cải cách hành chính cần tiếp tục đẩy m ạnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh. Để đẩy mạnh phát trển
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 22

GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
Hy vọng, với chuyển biến tích cực của nền kinh tế, nỗ lực của Chính phủ, NHNN, các
NHTM, doanh nghiệp và người dân trong việc ngăn chặn đà suy giảm kinh tế đất nước,
với những ý kiến đề xuất và giải pháp thực hiện đã đề ra sẽ đóng một phần nhỏ trong nỗ lực
chung của nền kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả gói kích cầu, tăng trưởng nền kinh tế
nước nhà.

































Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 23
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
KẾT LUẬN

Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tín dụng ở Mỹ và toàn cầu, nền kinh
tế Việt Nam phải thực hiện hàng loạt chính sách vĩ mô nhằm kiềm hạn lạm phát. Tuy nhiên,
vấn đề nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt hiện nay là tình hình suy giảm nền kinh tế.
Để nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, vấn đề kích cầu đầu tư và tiêu dùng được xem
là nhóm giải pháp thu hút sự chú ý của toàn xã hội, đặc biệt là của giới doanh nghiệp. Sẽ
kích cầu như thế nào để tạo ra tăng trưởng trong khi chúng ta phải đối mặt với rất nhiều
nguy cơ từ chính sự kích cầu đó nếu không có những phương án phòng xa. Việc thực hiện
gói kích cầu có hiệu quả sẽ mang lại cho nền kinh tế động lực mới để thăng hoa và phát
triển.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài em đã trình bày một số lý luận cơ bản về tín
dụng, thực trạng hoạt động tín dụng, hoạt động cho vay kích cầu và một số mặt tích cực và
hạn chế trong việc triển khai gói kích cầu, trong việc thực hiện cho vay kích cầu của
NHTM Việt Nam đối với các doanh nghiệp, từ đó phân tích nguyên nhân để đưa ra một số
đề xuất về giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả triển khai gói kích cầu
trong thời gian tới (2009).
Tuy nhiên do thời gian quá ngắn, khả năng bản thân còn hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được sự hướng dẫn, nhắc nhỡ và đóng góp của các bạn học
viên và Tiến sỹ Lại Tiến Dĩnh để đề tài được hoàn chỉnh hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
















Cho vay kích cầu đối với các doanh nghiệp của các NHTM giai đoạn hiện nay Trang 24
GVHD: Lại Tiến Dĩnh HVTH: Trần Văn Thanh
TÀI LIỆU THAM KHẢO

- N guyễn Minh Kiều (2007) Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại, TP . Hồ Chí Minh: Nhà xuất
bản thống kê.
- Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX ngày 12 tháng 12 năm 1997.
- Luật số 20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật các tổ chức tín dụng.
- Trần Hoàng N gân , 2008, Tác động của khủng hoảng t ài chính Mỹ và thế giới đến nền
kinh tế Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh
- Tạp chí Ngân hàng.
- Thời báo Ngân hàng.

- Tạp chí thị trường t ài chính tiền tệ.
- Kết quả hoạt động ngân hàng năm 2008, định hướng nhiệm vụ năm 2009 của ngân hàng
nhà nước Việt Nam
- www.sbv.gov.vn
- www.vneconomy.vn
- www.tapchicongsan.org.vn
- www.thanhnien.com.vn
- www.tuoitre.com.vn
- www.chinhphu.vn




×