Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận triết, hình thái kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.77 KB, 20 trang )

Lời nói đầu
Từ khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào thoái trào, chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, các thế lực đối nghịch của chủ
nghĩa Mác Lênin, của chủ nghĩa xã hội cũng có dịp vu cáo, xuyên tạc
hòng bác bỏ chủ nghĩa Mác Lênin. Trong đó lý luận hình thái kinh tế xã
hội là một điều lý luận bị công kích từ nhiều phía. Những con ngời cách
mạng luôn phải đấu tranh với các quan điểm thù địch nhằm bảo vệ sự
đúng đắn của chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và lý luận Mác về hình
thái kinh tế xã hội nói riêng.
Việt Nam là một trong bốn nớc còn tồn tại của hệ thống chủ nghĩa xã
hội trớc kia nhng Việt Nam luôn đi theo con đờng mà mình đã lựa chọn,
luôn xây dựng và bảo vệ những gì mà mình đã lựa chọn, luôn xây dựng
và bảo vệ những gì mà mình đã có dới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nớc
đi theo con đờng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Vấn đề là một nớc
nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế thấp kém, lại còn bị bọn thực dân rồi đế
quốc đàn áp bóc lột, nớc ta đã và đang dần dần từng bớc đi lên và phát
triển kinh tế dới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam. Nớc
ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những n ớc nghèo nhất
thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn cha phát triển xã hội truyền thống đổi
sang xã hội văn minh công nghiệp. Do đó khách quan phải tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nội dung, phơng thức là con đờng phát
triển nhanh có hiệu quả. Đối với nớc ta quá trình công nghiệp hoá còn
gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền
thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi cơ bản bộ mặt của xã hội trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là con đờng củng cố độc lập dân tộc, khắc phục lạc hậu, đói nghèo là quy
luật khách quan trong tiến trình phát triển của đất n ớc tạo ra một cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại, bảo đảm cho sự tăng tr ởng kinh tế nâng cao
đời sống vấn đề và văn hoá của nhân dân. Chúng ta cần biết rằng khi
hình thành quan niệm duy vật về lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
đã khẳng định tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài ng ời là sự thay


thế hình thái kinh tế xã hội cũ bằng hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn.
Việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội để xác định con đờng
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc cuộc đổi mới ở n ớc ta đã đang
nảy sinh nhiều vấn đề mới, đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và học thuyết hình thái kinh tế xã hội

1


nói riêng để tiếp tục làm sáng tỏ con đờng đi lên của chủ nghĩa xã hội ở
nớc ta và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc là một vấn đề
quan trọng cần phải thực hiện một cách đúng đắn nhanh chóng để đặt tới
một nền kinh tế phát triển mạnh xã hội ổn định, một xã hội có trình độ
khoa học ngày càng cao, hiện đại. Muốn thế chúng ta cần thay đổi hình
thái kinh tế xã hội, cụ thể hơn chúng ta cần phải thay đổi quan hệ sản
xuất, lực lợng sản xuất và phơng thức sản xuất bởi vì lực lợng sản xuất là
nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế xã hội. Sự hình thành
và phát triển của mỗi hình thái kinh tế xã hội xét đến cùng là do lực l ợng
sản xuất quyết định. Lực lợng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh
tế xã hội nối tiếp nhau từ thấp lên cao thể hiện tính liên tục trong sự phát
triển của xã hội loài ngời. Từ quan hệ sản xuất dẫn tới các mối quan hệ
khác trong xã hội từ đó tạo nên xã hội và quy luật xã hội. Mỗi hình thái
kinh tế xã hội lại có một kiểu qqh sản xuất của nó tơng ứng với một trình
độ nhất định của lực lợng sản xuất. Trong dự thảo báo cáo chính trị Đại
hội IX xác định: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, đa nớc ta trở thành một nớc công nghiệp; u
tiên phát triển lực lợng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hớng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực của
dân tộc gắn với vận dụng mọi nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả bền vững Do đó chúng
ta cần nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay để thấy rõ đ ợc thực trạng
của vấn đề đó.

Phần I:

2


Những thành tố cấu thành hình thái
kinh tế - xã hội
I. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Trên cơ sở cái t tởng của các nhà kinh điển, hình thái kinh tế xã hội đợc
hiểu nh sau:
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với
những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lợng sản xuất ở một
trình độ nhất định và với một kiến trúc thợng tầng đợc xây dựng trên
những quan hệ sản xuất đó.
Lực lợng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh
tế - xã hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, xét
cho đến cùng, đó là do lực lợng sản xuất quyết định. Lực lợng sản xuất phát
triển qua các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao.
Quan hệ sản xuất - quan hệ giữa ngời và ngời trong quá trình sản xuất là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội
khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó
ứng với một trình độ nhất định của lực lợng sản xuất. Quan hệ sản xuất, đó là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác,
đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Những quan hệ sản xuất là bộ xơng của cơ thể xã hộ hợp thành cơ sở hạ

tầng. Trên cơ sở những quan hệ sản xuất đó hình thành nên những quan điểm
về chính trị, pháp lý, triết học, .. và những thiết chế tơng ứng hợp thành kiến
trúc thợng tầng xã hội mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát
triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài những mặt cơ bản của xã hội đã nói ở trên còn có những quan hệ
dân tộc, quan hệ gia đình và các quan hệ xã hội khác.
II. Các thành tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội
Xã hội không phải là tổng số những hiện tợng, sự kiện rời rạc, những cá
nhân riêng lẻ. Xã hội là một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp, trong đó
có những mặt cơ bản nhất là lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thợng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác

3


tạo nên sự vận động của cơ thể xã hội. Chính tính toàn vẹn đó đợc phản ánh
bằng khái niệm hình thái kinh tế - xã hội.
1.
Lực lợng sản xuất
Lực lợng sản xuất biểu hiện quan hệ giữa ngời với giới tự nhiên. Trình
độ của lực lợng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài ngời.
Đó là kết quả của năng lực thực tiễn của con ngời trong quá trình tác động
vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của
loài ngời
Lực lợng sản xuất bao gồm:
- T liệu sản xuất: do xã hội tạo ra mà trớc hết là công cụ lao động
- Ngời lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao
động, biết sử dụng t liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
Trớc hết chúng ta đi nghiên cứu về t liệu sản xuất.
T liệu sản xuất bao gồm:

+ Đối tợng lao động: đất đai, tài nguyên,...
Đối tợng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ là một bộ
phận của giới tự nhiên đợc đa vào sản xuất. Ngoài những đối tợng lao động
có sẵn trong tự nhiên, con ngời còn sáng tạo ra bản thân đối tợng lao động
(ví dụ nh: các vật liệu mới, các loại cây trồng mới,...)
+ T liệu lao động: bao gồm công cụ lao động và những t liệu lao động
khác cần thiết cho việc vận chuyển bảo quản sản phẩm
T liệu lao động là yếu tố dẫn truyền sự tác động của con ngời vào đối tợng lao động.
Trong t liệu lao động, công cụ lao động là hệ thống xơng cốt của sản
xuất. Trong quá trình sản xuất thì công cụ lao động luôn luôn đợc cải tiến.
Nó là yếu tố động nhất và cách mạng nhất trong lực lợng sản xuất. Chính
trình độ phát triển của t liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động là thớc
đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài ngời, là cơ sở xác định trình độ phát
triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại
kinh tế.
Tuy nhiên t liệu lao động chỉ trở thành lực lợng tích cực cải biết đối với
đối tợng lao động khi chúng kết hợp với lao động sống. Chính con ngời với
trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã tạo ra t liệu lao động và sử dụng nó để
thực hiện sản xuất. T liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhng nếu
tách khỏi ngời lao động thì nó cũng không thể phát huy đợc tác dụng, bởi vì

4


các t liệu lao động không có vận động tự thân mà nó chỉ có nghĩa khi đợc kết
hợp với lao động sống,
Giữa các yếu tố của lực lợng sản xuất có sự tác động biện chứng: Sự
hoạt động của t liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu biết và
kinh nghiệm của con ngời, đồng thời bản thân những phẩm chất của con ngời, những kinh nghiệm, thói quen của họ đều phụ thuộc vào t liệu sản xuất
hiện có, phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng những t liệu lao động nào. Không có

nền đại công nghiệp thì không có ngời công nhân hiện đại. Sự phụ thuộc về
trình độ, kinh nghiệm, thói quen của ngời sản xuất vào kỹ thuật sản xuất là
một trong những biểu hiện sự phụ thuộc của nhân tố chủ quan vào nhân tố
khách quan, nhân tố con ngời sản xuất vào nhân tố vật chất của sản xuất.
Hơn nữa, con ngời không chỉ sử dụng những công cụ hiện có, mà còn sáng
chế ra những t liệu lao động mới. Những t liệu lao động này là lực lợng vật
chất của trí thức con ngời. Những trí thức khoa học, những kinh nghiệm, thói
quen của con ngời đều rất cần thiết để hoàn thiện kỹ thuật, phơng pháp sản
xuất.
Ví dụ: Khi công nghệ dệt còn cha phát triển thì ngời ta dệt vải bằng
khung cửi và những thói quen, kinh nghiệm của họ đều phụ thuộc vào chiếc
khung cửi đó. Do trình độ khoa học kỹ thuật phát triển trên cơ sở những trí
thức khoa học và kinh nghiệm về dệt vải mà con ngời chế tạo ra máy dệt và
khi đó những thói quen, kinh nghiệm mới lại đợc hình thành gắn liền với
chiếc máy dệt.
Nh vậy sự phát triển của lực lợng sản xuất là sự phát triển của t liệu lao
động thích ứng với bản thân con ngời với sự phát triển của văn hoá, khoa
học, kỹ thuật của họ.
Do ngày nay khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp mà thành
phần ngời cấu thành lực lợng sản xuất cũng thay đổi. Ngời lao động trong
lực lợng sản xuất không chỉ bao gồm ngời lao động chân tay, mà còn bao
gồm cả kỹ thuật viên và cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản
xuất.
2.
Quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái
sản xuất) đợc gọi là quan hệ sản xuất.
Cũng nh lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật
chất của xã hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con ngời.


5


Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau:
- Quan hệ giữa ngời với ngời đối với việc sở hữu về t liệu sản xuất.
- Quan hệ giữa ngời với ngời đối với việc tổ chức quản lý.
- Quan hệ giữa ngời với ngời đối với việc phân phối sản phẩm lao
động.
Trong 3 quan hệ trên thì quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất là quan hệ
xuất phát, quan hệ cơ bản đặc trng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội.
Nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản
phẩm
Trong lịch sử có 2 loại hình thức sở hữu cơ bản là hình thức sở hữu cơ
bản về t liệu sản xuất: sở hữu t nhân và sở hữu công cộng.
Sở hữu t nhân là loại hình sở hữu mà trong đó t liệu sản xuất tập trung
vào trong tay một số ít ngời, còn đại đa số không có hoặc có rất ít t liệu sản
xuất. Do đó, quan hệ giữa ngời với ngời là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột
và bị bóc lột.
Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó t liệu sản xuât thuộc
về mọi thành viên trong cộng đồng. Do đó, quan hệ giữa ngời với ngời là
quan hệ bình đẳng, hợp tác và cùng có lợi.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản
xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó do quan hệ sở hữu
quy định và phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, có trờng hợp,
quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến
dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu
về t liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó tác

động trực tiếp đến lợi ích của con ngời, do đó nó tác động đến thái độ của
con ngời traong lao động sản xuất và đồng thời nó cũng tác động trở lại quan
hệ sở hữu về t liệu sản xuất và quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất:
Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là 2 mặt hợp thành của phơng
thức sản xuất.

6


Phơng thức sản xuất là cách thức con ngời thực hiện quá trình sản
xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài ngời.
Sản xuất vật chất luôn đợc tiến hành bằng một phơng thức sản xuất nhất
định. Mỗi xã hội đợc đặc trng bằng một phơng thức sản xuất.
Ví dụ: Xã hội t bản có phơng thức sản xuất TBCN, xã hội chủ nghĩa có
phơng thức sản xuất XHCN.
Phơng thức sản xuất quyết định tất cả các mặt của đời sống xã hội. Sự
vận động, phát triển, thay thế lẫn nhau của các phơng thức sản xuất quyết
định sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
Phơng thức sản xuất lại là sự thống nhất giữa lực lợng sản xuất ở một
trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tơng ứng. Trong đó lực lợng sản xuất
là nội dung của phơng thức sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
của phơng thức sản xuất.
Biện chứng giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất ở trong các phơng thức sản xuất đã trở thành quy luật khách quan thúc đẩy sự phát triển
của mọi nền sản xuất xã hội làm cho các phơng thức sản xuất, các hình thái
kinh tế - xã hội và toàn bộ đời sống xã hội không ngừng thay thế lẫn nhau và
phát triển từ thấp đến cao. Trong mối tơng quan giữa lực lợng sản xuất và
quan hệ sản xuất, lực lợng sản xuất tạo thành nội dung của phơng thức sản
xuất, nó trở thành yếu tố động thờng xuyên biến đổi, còn quan hệ sản xuất

với t cách là hình thức của phơng thức sản xuất là yếu tố tĩnh. So với lực lợng
sản xuất, quan hệ sản xuất biến đổi chậm hơn. Khi quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ trở thành
động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất
không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất, nó trở
thành xiềng xích trói buộc sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất:
Tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất trớc hết đợc thể hiện ở tính
chất và trình độ của công cụ sản xuất và sau đó là của toàn bộ quá trình sản
xuất. Tính chất của lực lợng sản xuất đợc biểu hiện ở tính có thể hay tính xã
hội của lực lợng sản xuất. Trình độ của lực lợng sản xuất đợc thể hiện ở trình
độ thơ sơ, lạc hậu hoặc hiện đại có tính chất cơ khí hoặc tự động hoá.
Khi lực lợng sản xuất vận động biến đổi đến một giai đoạn nào đó thì
quan hệ sản xuất sẽ không vận động biến đổi bằng kịp với sự phát triển của
lực lợng sản xuất. Quan hệ sản xuất trở nên lỗi thời và lạc hậu đối với sự phát
triển của lực lợng sản xuất, nó sẽ trở thành chớng ngại kìm hãm sự phát triển

7


của lực lợng sản xuất. Biểu hiện của sự xung đột giữa lực lợng sản xuất và
quan hệ sản xuất là sự kìm hãm sức sản xuất của xã hội, năng suất lao động
thấp, thu nhập của ngời lao động càng ngày càng giảm, đời sống xã hội bị
khủng hoảng. Lực lợng sản xuất muốn tiếp tục phát triển thì phải đấu tranh
phá bỏ quan hệ sản xuất đã lỗi thời và thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp
với lực lợng sản xuất đang phát triển. Trong tác phẩm: Bản thảo kinh tế triết
học năm 1844, Mác viết: lực lợng sản xuất có phát triển đợc hay không, phụ
thuộc vào việc nó có gạt bỏ đựoc hay không những quan hệ sản xuất đã lỗi
thời đang trở thành chớng ngại trói buộc sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Tính tất yếu khách quan của sự phát triển là nhu cầu giải phóng sức sản xuất

ra khỏi các quan hệ sản xuất cũ. Điều đó diễn ra một cách thờng xuyên liên
tục trong mọi phơng thức sản xuất
Khi quan hệ sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới ra đời tơng
ứng với lực lợng sản xuất đang phát triển, nó sẽ tạo ra những địa bàn thuận
lợi cho sự phát triển của sức sản xuất xã hội, làm cho năng suất lao động
không ngừng tăng. Khi quan hệ sản xuất cũ bị gạt bỏ cũng có nghĩa là một
phơng thức sản xuất cũ đã bị bỏ qua và một phơng thức sản xuất mới ra đời,
nền sản xuất của xã hội đợc phát triển lên một trình độ cao hơn.
Trong quyển thứ nhất của bộ T bản, Mác đã chứng minh về mặt thực
tiễn: Phơng thức sản xuất của chế độ cộng sản nguyên thuỷ do lực lợng sản
xuất ở trình độ thấp kém, ngời ta phải thực hành chế độ làm chung ăn chung,
mọi tài sản đều thuộc về nội bộ công xã và nh vậy quan hệ sản xuất của chế
độ công sản nguyên thủy đợc dựa trên cơ sở của chế độ sở hữu xã hội (sở
hữu cộng đồng) về t liệu sản xuất, không có tình trạng ngời bóc lột ngời. Khi
lực lợng sản xuất phát triển dẫn tới sự xuất hiện của nhiều ngành nghề khách
nhau, hình thức lao động cá thể tỏ ra phù hợp hơn so với hình thức lao động
công xã. Đó là nguyên nhân dẫn tới sự xoá bỏ quan hệ sản xuất bình đẳng trớc đó. Quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở của chế độ chiếm hữu t nhân về t liệu
sản xuất ra đời đã xoá bỏ phơng thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ và hình
thành phơng thức sản xuất của chế độ chiếm hữu nô lệ. Lực lợng sản xuất
của chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển đến một giai đoạn noà đó lại xuất hiện
nhu cầu giải phóng nô lệ, đa họ trở thanh nông nô tự do và nh vậy phơng
thức sản xuất của chế độ phong kiến tỏ ra u việt hơn phơng thức sản xuât của
chế độ chiếm hữu nô lệ. Lực lợng sản xuất của chế độ phong kiến tiếp tục
vận động và phát triển đến giới hạn cuối cùng đã dẫn tới những mâu thuẫn

8


sâu sắc với quan hệ sản xuất chật hẹp của nó. Đó là nguyên nhân dẫn tới sự
ra đời của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa.

Vào những năm 40 của thế kỷ 19, Mác đã dự báo sự xung đột giữa lực
lợng sản xuất càng ngày càng có tính xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất
dựa vào nền tảng của sơ hữu t nhân t bản chủ nghĩa. Sự xung đột nói trên dẫn
tới các cuộc khủng hoảng của nền sản xuất T bản chủ nghĩa. Mác dự báo sự
ra đời tất của của phơng thức sản xuất cao nhất trong lịch sử - phơng thức
sản xuất của chế độ cộng sản văn minh với giai đoạn đầu là thời kỳ quá độ và
giai đoạn tiếp theo là thời kỳ chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất của chủ nghĩa
cộng sản nhng những cơn biến động của lịch sử, của xã hội hiện đại thấy
rằng phơng thức sản xuất ở các nớc t bản phát triển đã trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau với nhiều lần điều chỉnh cơ cáu của quan hệ sản xuất.
Nguyên nhân làm tăng tuổi thọ của chủ nghĩa t bản đợc biểu hiện trớc hết ở
chỗ họ đã mở rộng tới mức tối đa biên độ dao động của chế độ sở hữu t liệu
sản xuất. Nhờ đó, họ đã khắc phục đợc những nhợc điểm của nền kinh tế thị
trờng đó là sự phân hoá lợi ích của ngời lao động. Khái niệm bần cùng hoá
tuyệt đối giai cấp vô sản ở thời kỳ Các Mác đã đợc điều chỉnh thành khái
niệm bần cùng hoá tơng đối. Vai trò điều tiết của các nhà nớc t bản ở thời
kỳ hiện đại là lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ để tăng năng
suất lao động, giảm tối đa cờng độ lao động, phát triển phúc lợi xã hội và
làm tăng giá trị gia tăng về lợi ích kinh tế đối với mọi thành viên trong xã
hội. Những khắc phục nói trên xét cho đến cùng là điều chỉnh lại khoảng
cách giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất, làm cho chúng phù hợp tơng đối. Đó là những nguyên nhân cơ bản tạo ra động lực mói cho sự phát
triển của nền kinh tế ở các nớc t bản hiện nay.
3. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Khái niệm cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ
sản xuất với t cách là cơ sở kinh tế của các hiện tợng xã hội.
Cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội cụ thể, trừ xã hội nguyên thuỷ, đều bao
gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn d của xã hội cũ và quan
hệ sản xuất mầm mống của xã hội tơng lai.

- Quan hệ sản xuất thống trị: là quan hệ sản xuất giữ vai trò chủ
đạo, chi phối các kiểu quan hệ sản xuất còn lại

9


- Quan hệ sản xuất tàn d: là kiểu quan hệ sản xuất do hình thái
kinh tế - xã hội trớc đó để lại, chúng vẫn còn phát huy tác dụng
với t cách là những thành tố của cơ sở hạ tầng của xã hội
- Quan hệ sản xuất mầm mống: là kiểu quan hệ sản xuất đại diện
cho phơng thức sản xuất tơng lai, nó đã đợc xuất hiện trong thời
kỳ quá độ nhng cha phải là yếu tố khẳng định.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo,
chi phối các quan hệ sản xuất khác, quy định xu hớng chung của đời sống
kinh tế xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể đ ợc đặc trng
bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất
tàn d và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Nh vậy, xét trong phơng thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức
phát triển của lực lợng sản xuất, nhng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội
thì các quan hệ sản xuất hợp thành trên cơ sở kinh tế của xã hội, tức cơ sở
hiện thực, trên đó hình thành kiến trúc thợng tầng tơng ứng.
4. Kiến trúc thợng tầng
Kiến trúc thợng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cùng với những thiết chế xã hội tơng ứng nh là nhà nớc, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,... đợc hình
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Trong kiến trúc thợng tầng có nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có đặc điểm
riêng, có quy luật phát triển riêng nhng chúng liên hệ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau. Tất cả các yếu tố đều hình thành, phát triển trên cơ sở hạ tầng,
song yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những
yếu tố nh chính trị, pháp quyền có quan hệ trực tiép với cơ sở hạ tầng; còn

các yếu tố nh triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ có quan hệ gián tiếp.
Kiến trúc thợng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm hệ t tởng và thể chế của giai cấp thống trị, tàn d của các quan điểm xã hộ trớc để
lại; quan điểm và tổ chức của các giai cấp mới ra đời; quan điểm t tởng và tổ
chức của các tầng lớp trung gian. Song đặc trng là sự thống trị về chính trị t
tởng của giai cấp thống trị.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thợng tầng mang tính giai cấp. Đó
chính là cuộc đấu tranh về mặt chính trị t tởng giữa các giai cấp đối kháng,
trong đó, đặc trng là sự thống trị về mặt chính trị- t tởng của giai cấp thống
trị. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà

10


nớc, giai cấp thống trị mới thực hiện đợc sự thống trị của mình về tất cả các
mặt của đời sống xã hội.
Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nớc
thì hệ t tởng cùng những thể chế thì giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị. Nó
quy định và tác động trực tiếp đến xu hớng của toàn bộ đời sống tinh thần
của xã hội và quyết định cả tính chất, đặc trng cơ bản của toàn bọ kiến trúc
thợng tầng.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái
kinh tế - xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thợng tầng song kiến trúc
thợng tầng có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thợng tầng trớc
hết thể hiện ở chỗ: mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thợng
tầng tơng ứng với nó. Tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của
kiến trúc thợng tầng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh
tế thì cũng giữ địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã

hội. Các mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu
thuẫn trong lĩnh vực chính trị, t tởng. Cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị, t tởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố
của kiến trúc thợng tầng nh nhà nớc, pháp quyền, triết học, tôn giáo đều trực
tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thợng tầng còn
thể hiện ở chỗ: cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thợng tầng cũng thay đổi
theo. Các Mác viết: Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thợng tầng
đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng.
Sự thay đổi của kiến trúc thợng tầng không chỉ diễn ra trong giai đoạn
thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác,
mà còn diễn ra trong quá trình biến đổi của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Trong các yếu tố của kiến trúc thợng tầng có những yếu tố thay đổi nhanh
chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng nh chính trị, pháp quyền; nhng
cũng có yếu tố thay đổi chậm nh tôn giáo, nghệ thuật,...Trong xã hội có giai
cấp, thay đổi căn bản kiến trúc thợng tầng phải thông qua đấu tranh giai cấp,
thông qua cách mạng xã hội
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thợng tầng, kiến trúc thợng tầng
phải phù hợp với cơ sở hạ tầng nhng kiến trúc thợng tầng lại có tính độc lập

11


tơng đối trong quá trình vận động, phát triển và có tác động tích cực trở lại
cơ sở hạ tầng.
Tất cả các yếu tố của kiến trúc thợng tầng đều tác động đến cơ sở hạ
tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác
động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nớc là yếu tố tác động mạnh
nhất đối với cơ sở hạ tầng vì nó là bộ máy quyền lực tập trung của giai cấp
thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác nhau của kiến trúc thợng tầng nh triết
học, đạo đức, tôn giáo,... cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhng bị nhà nớc,

pháp luật chi phối.
Sự tác động của các yếu tố kiến trúc thợng tầng đối với cơ sở hạ tầng thờng diễn ra theo nhiều xu hớng khác nhau. Trong đó, chức năng của kiến
trúc thợng tầng thống trị là xây dựng, củng cố, phát triển và bảo vệ cơ sở hạ
tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ
kinh tế đó. Mỗi giai cấp chỉ có thể giữ vững đợc sự thống trị về kinh tế chừng
nào xác lập và củng cố đợc sự thống trị về chính trị, t tởng.
Sự tác động của kiến trúc thợng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo
hai chiều. Nếu kiến trúc thợng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu tác
động ngợc lại sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm tiến bộ xã hội.
Ví dụ trong xu hớng hội nhập hiện nay nếu chúng ta thực hiện chính
sách bế quan toả cảng, đóng cửa với thế giới bên ngoài thì chắc chắn sẽ
kìm hãm sự phát triển của kinh tế và tiến bộ xã hội và chẳng chóng thì chày,
chính sách đó sẽ bị loại bỏ để thay bằng chính sách hội nhập, mở cửa.
Hay các t tởng tam tòng tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử chỉ phù hợp với chế độ phong kiến. Ngay nay khi công cuộc giải
phóng phụ nữ phát triển mạnh và bình đẳng nam nữ đã đạt đợc nhiều tiến bộ
mà vẫn duy trì và coi đó là thớc đo đánh giá phẩm chất của ngời phụ nữ thì
rõ ràng không phù hợp vì nó đi ngợc lại quy luật tự do của con ngời.
Tuy kiến trúc thợng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển
kinh tế, nhng không làm thay đổi đợc xu hớng phát triển khách quan của xã
hội. Xét cho đến cùng nhân tố kinh tế quyết định kiến trúc thợng tầng, kinh
tế quyết định chính trị. Nếu kiến trúc thợng tầng kìm hãm sự phát triển kinh
tế thì sớm hay muốn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thợng tầng cũ
sẽ đợc thay thế bằng kiến trúc thợng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế
phát triển.

12



III. Nhân tố quyết định trong các nhân tố cấu thành hình thái
kinh tế - xã hội
Trong 3 nhân tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội xã hội ta thấy:
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là sự phát triển của lực lợng sản xuất. Chính lực lợng sản xuất quyết
định làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lợt mình, quan hệ sản xuất thay đổi
sẽ làm cho kiến trúc thợng tầng thay đổi theo và do đó các hình thái kinh tế xã hội vận động, phát triển từ thấp đế cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này
lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn.
LêNin đã viết: Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan
hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực
lợng sản xuất thì ngời ta mới có cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển
của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên.
Nh vậy trong các thành tố cấu thành hình thái kinh tế - xã hội thì thành
tố quyết định nhất đó chính là lực lợng sản xuất.

Phần II:

13


Vận dụng lý luận vào thực tiễn
Những lập luận về con đờng phát triển bỏ qua một hình thái kinh tế
xã hội đã trình bày ở trên là cơ sở lý luận chung để nhận thức con đ ờng
phát triển ở nớc ta. Chúng ta có cơ sở khoa học để tin tởng rằng, con đờng quá độ lên chủ nghĩa ở nớc ta cả trong điều kiện này vẫn là tất
yếu và có khả năng thực hiện.
Sự lãnh đạo của Đảng ta, một Đảng giàu tinh thần cách mạnh, sáng
tạo, gắn bó với quần chúng là nhân tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trong những thời điểm phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế có sự khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ. Đảng ta vẫn vừng vàng lãnh đạo nhân dân ta thực
hiện đờng lối đổi mới, vợt qua những hiểm nghèo đa công cuộc xây dựng

chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nớc của nhân dân ta tiến lên một cách
vững vàng.
Chúng ta đang sống thời đại của cách mạng khoa học kỹ thuật và
công nghệ hiện đại, cuộc cách mạng này vừa tạo ra thời cơ thuận lợi cho
phép một quốc gia đã chứng minh. Đó là công cuộc đổi mới công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc. Nói đến tốc độ của quá trình tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là nói đến cuộc chạy đua về mặt thời gian và
thời đại ngày nay. Là thời thời đại quá độ của chủ nghĩa t bản tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Các dân tộc sớm hat muộn đều tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Định hớng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế là đã bao hàm một sự
cam kết về cấp độ, đảm bảo nhanh hơn mọi quá trình tự phát và do đó lực
lợng sản xuất phải đợc phát triển mạnh hơn. Nếu chúng ta tận dụng đợc
thời cơ và vợt qua đợc thách thức thì có thể tạo ra đợc những cơ sở đó
thực hiện sự phát triển rút ngắn bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa trên con đờng đi tới chủ nghĩa xã hội.
Trớc mắt chúng ta phải định hớng và vạch ra một chơng trình cụ
thể trên một lĩnh vực, định hớng lên chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình
lâu dài nên Đảng ta đã xác định nhiệm vụ trớc mặt là đổi mới nền kinh
tế, xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trờng có sự quản lý nhà nớc. Thực hiện quá trình đổi mới là cả
một quá trình lâu dài nên Đảng và nhà nớc ta đã chủ trơng thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nông thôn là một phơng hớng cấp bách.
Nghị quyết Đại hội VIII ghi rõ : Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại

14


hoá đã xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
sự phát triển của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nớc mạnh. Xã hội công bằng

văn minh từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đ a nớc ta cơ bản trở
thành một nớc công nghiệp.
Để đẩy nhanh sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, chúng ta
cần phải nắm vững tình hình kinh tế thế giới, vận dụng thành quả của các
nớc đã phát triển, phải mở cửa giao lu với các nớc bên ngoài, chớp lấy
thời cơ thuận lợi, khắc phục khó khăn, đề phòng cảnh giác cao độ với các
nớc t bản không để cho họ lợi dụng tiềm năng kinh tế của n ớc ta. Chúng
ta đã đạt đợc một số thành quả bớc đầu, nhng cũng phải thừa nhận rằng,
công cuộc đổi mới của chúng ta còn không ít khuyết điểm và những mặt
yếu kém trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng: tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế quá thấp. Nớc ta thiếu huy động vốn trong dân. Trong phát triển
kinh tế nhiều thành phần, việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới
vừa lúng túng vừa có tình trạng buông lỏng cha phát huy tốt nhiều tiềm
năng. Giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất nhằm tháo gỡ các vớng mắc về
cơ chế. Chính sách để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp nhà nớc nâng cao hiệu quả hoạt động. Cơ chế thị tr ờng còn sơ
khai, vai trò quản lý vĩ mô của nhà nớc đối với nền kinh tế còn yếu. Hệ
thống quản lý kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi luật pháp cơ
chế chính sách cha đồng bộ nhất quán và tác động cùng chiều để thúc
đẩy và hớng dẫn nền kinh tế phát triển mạnh mẽ nâng cao hiệu quả và
đúng hớng. Tình hình xã hội còn nhiều mặt tiêu cực tệ nạn tham nhũng
buôn lậu lãng phí của công cha đợc ngăn chặn, thậm chí tiếp tục tăng. Sự
phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp trong nhân dân ngày càng mở
rộng. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nớc ta cần phát triển gắn
liền với sự phát triển của kinh tế trí thức, đ a đất nớc thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu, rút ngắn khoảng cách giữa nớc ta với các nớc không những chậm
đợc thu hẹp mà còn có nguy cơ mở rộng hiện nay GDP bình quân đầu
ngời nớc ta bằng 1/12 mức bình quân chung. Trong các nớc thuộc Đông
Nam á nớc ta có tốc độ tăng GDP còn kém so với một số nớc nh Singapo,
Malayxia Philipin, Thái Lan, Việt Nam chỉ đứng thứ 5. Trong điều kiện

đó, việc tìm ra con đờng hợp lý đa ra những giải pháp thích ứng để đạt
mục tiêu đã xác định có ý nghĩa và càng quan trọng. Dự thảo báo cáo

15


chính trị Đại hội IX xác định con đờng công nghiệp hoá ở nớc ta cần và
có thể rút ngắn thời gian so với những nớc đi trớc. Vừa có những bớc đi
tuần tự vừa có những bớc nhảy vọt. Đại hội III của Đảng đã xác định Sự
kết hợp giữa tuần tự và nhảy vọt . Sự kết hợp tuần tự và nhảy vọt trong
điều kiện hiện nay vẫn phải là kết hợp công nghệ nhiều tầng, một mặt sử
dụng cải tiến và nâng dần công nghệ hiện đại theo trình độ thế giới . Khi
khoa học đã thực sự trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp những yếu tố
của kinh tế trí thức đã xuất hiện sự phát triển các hoạt động kinh tế chủ
yếu dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ chúng
ta cần đổi mới kinh tế làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển
của lực lợng sản xuất thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển trải qua hai
cuộc chiến tranh lớn và thời kỳ bao cấp kéo dài lực l ợng sản xuất nớc ta
còn thấp, kém năng suất lao động thấp, lao động thủ công vẫn chiếm đa
số 80% dân làm nông nghiệp do đó cần phải phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị tr ờng, có sự quản lý của
nhà nớc, cần nâng cao trình độ dân trí tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ
tầng đợc tốt hơn. Trong sự nghiệp phát triển đó nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta. Con ngời không chỉ là chủ thể
của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu đóng vai trò quyết
định sự phát triển của lực lợng sản xuất mà nó còn là chủ thể của quá
trình lịch sử, của tiến bộ xã hội bằng hoạt động lao động sản xuất con
ngời đã cải tạo tự nhiên để thỏa mãn những yêu cầu của mình. Đồng thời
cải tạo cả bản thân con ngời. Trong hoạt động lao động trinh phục tự
nhiên và trên cơ sở đó sáng tạo nên những điều kiện đảm bảo cho sự sinh

tồn của bản thân mình sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Con ng ời
chinh phục cải tiến tự nhiên không phải với t cách là những cá nhân riêng
lẻ mà với t cách là những thành viên của cộng đồng xã hội. Phát triển
con ngời về thực chất là phát triển nhân cách con ngời. Đầu t cho con ngời là đầu t cho phát triển. Đầu t cho giáo dục và đào tạo, khoa học công
nghệ là đầu t theo chiều sâu đáp ứng đòi hỏi của phát triển và đón tr ớc
yêu cầu của phát triển trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, những nỗ lực bền bỉ của
toàn dân ta, với những con ngời phát triển cả về trí lực và khổ lực, cả về
khả năng lao động và tính tích cực chính trị xã hội, về đạo đức, tình
cảm trong sáng cần phải bồi dỡng nguồn nhân lực để phát huy năng lực
nội sinh của nhân tố con ngời, chăm lo thờng xuyên tới việc giải quyết

16


việc làm cho ngời lao động nâng cao trình độ dân trí đáp ứng nhu cầu vật
chất và tinh thần ngày một cao của nhân dân thực hiện dân giàu, n ớc
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin lấy sự
phát triển con ngời làm thớc đo tiến trình phát triển và tiến bộ của xã hội
loài ngời, sự phát triển con ngời đã trở thành tiêu chí ngày càng quan
trọng trong việc xếp hàng các nớc trên thế giới, đánh giá tiến bộ kinh tế
xã hội của một nớc dựa vào trình độ phát triển của lực lợng sản xuất,
dựa trên cơ sở yếu tố mang tính nhân văn nh mức thu nhập, trình độ học
vấn Đảng ta chủ tr ơng gắn kết mọi kế hoạch xây dựng và phát triển đất
nớc với kế hoạch đầu t cho sự phát triển con ngời Việt Nam toàn diện.
Từ hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ơng khoá VIII Đảng
đã đề ta: u tiên phát triển lực lợng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ việc
tất yếu phải giải phóng năng lực sản xuất, thúc đẩy kinh tế bằng phát
triển kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo định h ớng cơ chế

thị trờng có sự quản lý của nhà nớc. Ngày nay lực lợng đã mang tính
quốc tế hóa vì vậy đòi hỏi chúng ta phải biết tận dụng sáng tạo quy luật
sự phù hợp của sản xuất vơi tính chất và trình độ lực lợng sản xuất,
chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế. Chúng ta phải tập trung vào nhân lực là nhân tố cơ bản của
sự phát triển kinh tế xã hội, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, công nhân
lành nghề. Cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong đó lực l ợng cán bộ
khoa học kỹ thuật đóng vai trò là yếu tố chủ thể của lực lợng sản xuất xã
hội.
Trong thời kỳ hiện nay để phát huy những khả năng tiềm tàng về
vật t, lao động tất yếu, thực hiện nhiều ngành nghề do đó đòi hỏi. Vốn là
khâu quan trọng.
Đi đôi với việc phát triển về vốn chúng ta phải xây dựng một cơ sở
hạ tâng thật tốt. Đối với nớc ta là một nớc bị chiến tranh tàn phá nặng
nay phải xây dựng cơ sở hạ tầng để phù hợp với kiến trúc th ợng tầng. Cơ
sở vật chất của ngành giao thông vận tải là một trong những khâu quan
trọng nhất của kết cấu hạ tầng nó là cửa mở đối với toàn bộ nền kinh tế
xã hội. Vì vậy sự yếu kém của kết cấu hạ tầng là nguyên nhân hạn chế sự
phát triển kinh tế xã hội vừa là hậu quả của một nền công nghiệp ch a
phát triển bên cạnh đó việc mở rộng giao lu quốc tế tiếp cận và vận dụng
những giá trị mới của văn minh nhân loại đây là một vấn đề rất quan

17


trọng. Nền kinh tế nớc ta thị trờng chủ yếu trớc đây là các nớc đông Âu
là Liên Xô cũ nhng thị trờng các nớc XHCN tan rã thì chúng ta đã mất đi
một thị trờng lớn đó là một thiệt thòi lớn đối với chúng ta nhất là trong
thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế hiện nay. Vì đòi hỏi nhà nớc phải có
chính sách yêu tiên cho xuất khẩu và chế độ yêu đãi đối với hàng xuất

khẩu. Tạo môi trờng tự do sáng tạo cho mọi sáng kiến cá nhân là viếc
nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật. Mở cửa thu hút vốn đầu t nớc ngoài,
biết vận dụng, tận dụng nguồn vốn một cách hợp lý, có hiệu quả, thu hút
thị trờng các nớc hội nhập.
Trong sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc thì chúng ta càng
đề phòng các tệ nạn, các hoạt động phản động phá hoại nền kinh tế n ớc
ta, các tệ nạn tham nhũng quan liêu làm ảnh hởng đến nền kinh tế, làm
suy thoái kinh tế trong thời kỳ phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bất kỳ một nớc nào muốn thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đều phải biết kết hợp các yếu tố trong xã hội nh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, phát triển công nghiệp xây dựng
kết cấu hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ, phát triển hợp lý các vùng
lãnh thổ, phát triển nguồn lực con ngời, phát triển kinh tế dịch vụ, kinh tế đối
ngoại. Trong thời đại hiện nay giai cấp công nhân là lực lợng trung tâm của
xã hội là giai cấp vừa đại diện cho nền sản xuất mới vừa là lực lợng cơ bản và
chủ lực làm ra của cải vật chất cho xã hội, lực lợng chính trong việc thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, cần phải đội ngũ hoá lực lợng
sản xuất nâng cao trình độ tri thức khoa học cho họ để đáp ứng yêu cầu của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh đó có những điều kiện nh
thị trờng vốn đầu t, vốn sản xuất, môi trờng cạnh tranh tạo sự phát triển.
Việt Nam là một nớc có điểm xuất phát kinh tế thấp do chịu ảnh hởng của
chiến tranh, kinh tế phát triển muộn. Muốn phát triển nhanh nền kinh tế
muốn rút ngắn khoảng cách lạc hậu cần phải phát huy các điểm sau:
Phải sử dụng lợi thế nớc phát triển muộn về công nghiệp.
Tranh chiến tranh, tạo ra khung cảnh hoà bình để làm kinh tế để cần
phải ổn định về mặt chính trị t tởng.
Phải xác định đợc đúng mô hình phát triển công nghệ và kinh tế thị trờng.
Xây dựng các quy hoặc các ngành sát hợp với thực tiễn của ngành và
địa phơng phải thờng xuyên xem xét và điều chỉnh.


18


Bám sát thực tế phát hiện, tổng kết và nhân rộng các mô hình điển
hình tiêu biểu cho trí tuệ và sức mạnh của nhân tài.
Xem xét để giải quyết và tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trờng hàng
hoá và dịch vụ lao động , tiền công tiền lơng đầy đủ và bất động sản thị trờng
vốn tiền tệ tín dụng.
Cụ thể hoá luật pháp nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nớc .

19


Kết luận
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là một tất yếu lịch
sử nó nhằm tới mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó làm thay đổi
bộ mặt kinh tế và xã hội đó chính là sự đổi mới với hình thái kinh tế xã hội .
Nói cách khác sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc thúc đẩy sự
phát triển không ngừng và ngày càng tiến bộ của lực lợng sản xuất, quan hệ
sản xuất, kết cấu thợng tầng, đó là một sự thay đổi mới hàng loạt các vấn đề
cả về lý luận thực tiễn, về kinh tế và chính trị xã hội. Nó bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh điều kiện mới.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhằm mục tiêu biến đổi
nớc ta thành một nớc công nghiệp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp sự phát triển sản xuất,
nguồn lực con ngời đợc phát huy mức sống vật chất tinh thần đợc nâng cao
quốc phòng và an ninh ổn định vững chắc làm cho dân giàu nớc mạnh xã hội
công bằng và văn minh.
Nh vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình lâu dài để tạo ra sự
chuyển đổi cơ bản toàn bộ bộ mặt nớc ta về kinh tế chính trị và quốc phòng

an ninh. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay với chỉ là bớc đầu
của những thành tựu khiêm tốn mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt đợc xác
đáng khích lệ.
Việc Đảng và nhà nớc chọn con đờng tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là hết sức đúng đắn. Bằng sự thông minh sáng tạo cần cù của con ngời. Việt Nam sẽ cất cánh trở thành con rồng Châu á chúng ta sẽ hoàn thành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc đa đất nớc Việt Nam sánh vai cùng
các cờng quốc năm châu cùng bạn bè quốc tế trên con đờng phát triển.

20



×