Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - ĐỀ BÀI PHÂN TÍCH NỘI DUNG QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.03 KB, 18 trang )

Tiểu luận triết học

Đề bài: Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lợng sản xuất?
- Chỉ rõ vai trò của quy luật đối với sự vận động và phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội?
- Cơ cấu nền kinh tế xã hội nớc ta trong thời kỳ đổi mới đã và đang đợc điều
chỉnh nh thế nào? Anh (chị) có ý kiến gì về vấn đề này?
- Khoa học hiện nay có vai trò gì đối với lực lợng sản xuất?

Bài làm
Bắt nguồn từ nhu cầu sống nên kể từ khi con ngời xuất hiện trên trái đất, xã hội
loài ngời đã trải qua năm phơng thức sản xuất đó là: PTSX Cộng sản nguyên thuỷ,
PTSX Chiếm hữu nô lệ, PTSX Phong kiến, PTSX T bản Chủ nghĩa và PTSX Chủ nghĩa
Cộng sản. Các hình thái kinh tế xã hội lần lợt thay thế và chuyển đổi lẫn nhau với xu hớng hình thái sau tiến bộ hơn hình thái trớc thể hiện ở nhu cầu ngày càng cao của con
ngời. Vậy đâu là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển đó? Động lực cho sự phát triển
tồn tại trong nội tại của hình thái kinh tế - xã hội hay nằm ở ý trí của một thế lực siêu
nhiên bên ngoài? Quá trình thay thế của các hình thái kinh tế xã hội diễn ra khách
quan hay chủ quan của con ngời?
Trong lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác đã chỉ ra sự tác động
qua lại giữa hai mặt đối lập trong trong hình thái kinh tế - xã hội là lực lợng sản xuất
(LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX) và diễn ra khách quan không theo ý kiến chủ
quan của con ngời. Theo Mác thì LLSX là cái luôn nhân tố cách mạng và phát triển,
QHSX xét trong một giai đoạn lịch sử nào đó là cái bất biến, có khi QHSX lạc hậu còn
kìm hãm sự phát triển của LLSX. Theo lý luận về nhận thức của C.Mác, Mác thừa nhận
khả năng nhận thức thế giới của con ngời và quá trình nhận thức gắn liền với quá trình
lao động, t duy nhận thức của con ngời không dừng lại ở một chỗ mà theo thời gian t
duy của con ngời càng phát triển, càng hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi phát
triển LLSX cũng nh các cơ sở của sản xuất. Từ sản xuất chủ yếu bằng hái lợm săn bắt
không đáp ứng đợc nhu cầu của đồi sống đến nay trình độ khoa học kỹ thuật đã đạt đợc
những thành tựu đáng kể trong nhiều lĩnh vực.


Hai mặt của phơng thức sản xuất là LLSX và QHSX không tồn tại độc lập mà tác
động qua lại biện chứng với nhau và đợc Mác và Ănghen khái quát thành quy luật về
sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Từ những lý luận trên đa
Mác - Ănghen vơn lên đỉnh cao trí tuệ của nhân loại về mặt lý luận. Lý luận về hình
thái kinh tế - xã hội nói riêng và t tởng triết học nói chung cảu chủ nghĩa Mác - Lê nin
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

1


Tiểu luận triết học

đã cung cấp cái nhìn khoa học về các hiện tợng xã hội. Qua đó loại bỏ đợc các t tởng
duy tâm trong lĩnh vực xã hội của các nhà t tởng của chủ nghĩa duy vật và duy tâm trớc
Mác.
Vậy để hiểu rõ về quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lợng sản xuất cũng nh vai trò của quy luật đối với sự vận động và phát
triển của các hình thái kinh tế xã hội, chúng ta sẽ đi vào chi tiết.
Lực lợng sản xuất (LLSX) là gì?
LLSX là toàn bộ các lực lợng đợc con ngời sử dụng trong quá trình sản xuất của
cải vật chất. Nó bao gồm ngời lao động với một thể lực, tri thức, kỹ năng lao động
nhất định và t liệu sản xuất, trớc hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất,
sức lao động của con ngời kết hợp với t liệu sản xuất, trớc hết là công cụ lao động,
tạo thành lực lợng sản xuất.
Từ thực trạng đó lý luận về LLSX của xã hội đợc C.Mác nêu lên và phát triển
một cách sâu sắc trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ "T bản" và chính trong bộ "T
bản" Mác đã trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của mình về các yếu tố cấu thành
LLSX của xã hội. Theo C.Mác thì LLSX bao gồm hai thành tố cấu thành là: Ng ời

lao động và t liệu sản xuất. Trong hai thành tố trên thì ngời lao động với sức khỏe
và vốn tri thức không ngừng đợc mở rộng là thành tố cơ bản của LLSX. Ngời lao
động là chủ thể của quá trình sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng của mình, sử dụng
t liệu lao động tác động vào đối tợng lao động để sản xuất ra của cải vật chất nhằm
đáp ứng nhu cầu của bản thân và xã hội. Trong quá trình lao động sản xuất nhận
thức của ngời lao động không ngừng đợc mài sắc, họ không chỉ biết sử dụng những
công cụ lao động sẵn có mà không ngừng sáng tạo ra các công cụ lao động tiên tiến
hơn, nâng cao năng suất lao động. Ngày nay, trong quá trình lao động sản xuất thì
đội ngũ các nhà khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất ngày càng đông,
tri thức khoa học trở thành một yếu tố không thể thiếu. Vì vậy, ng ời lao động là yếu
tố động, tiên tiến nhất và cách mạng nhất của LLSX. Theo C.Mác thì t liệu lao động
bao gồm tất cả những yếu tố vật chất mà con ngời sử dụng để tác động và đối tợng
lao động nh công cụ lao động, nhà xởng, phơng tiện lao động, cơ sở vật chất kho
tàng... thì vai trò quan trọng hơn cả thuộc về công cụ lao động. Công cụ lao động là
yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất của t liệu sản xuất. Mọi thời đại muốn đánh
giá trình độ sản xuất thì phải dựa vào t liệu lao động.
Lịch sử loài ngời đợc đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát triển của
LLSX trớc hết là công cụ lao động. Sau bớc ngoặt sinh học, sự xuất hiện công cụ
lao động đánh dấu một bớc ngoặt khác trong sự chuyển từ vợn thành ngời. Từ kiếm
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

2


Tiểu luận triết học

sống bằng săn bắt hái lợm sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên và dần
dần cải tạo tự nhiên. Từ sản xuất nông nghiệp lạc hậu chuyển lên cơ khí hoá sản

xuất. Sự phát triển LLSX trong giai đoạn này không chỉ giới hạn ở việc tăng một
cách đáng kể số lợng thuần tuý với các công cụ đã có mà chủ yếu là ở việc tạo ra
những công cụ hoàn toàn mới không sử dụng cơ bắp con ngời. Do đó con ngời đã
chuyển một phần công việc năng nhọc cho máy móc có điều kiện để phát huy các
năng lực khác của mình.
ở nớc ta từ trớc tới nay nền kinh tế chủ yếu là dựa vào ngành nông nghiệp, nh ng chỉ là ngành nông nghiệp nhỏ lẻ nên trình độ khoa học kỹ thuật còn kém phát
triển. Hiện nay chúng ta đang ở trong tình trạng kế thừa những LLSX vừa nhỏ bé
vừa lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong một thời gian khá dài,
những lực lợng ấy bị kìm hãm do nguyên nhân chủ quan cũng nh khách quan. Bởi
vậy Đại hội lần thứ VI của Đảng đặt ra nhiệm vụ là phải "Giải phóng mọi năng lực
sản xuất hiện có. Khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất n ớc, sử dụng có hiệu
quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ LLSX. Mặt khác chúng ta đang ở
trong giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật đang
chứng kiến những biến đổi cách mạng trong công nghệ. Chính điều này đòi hỏi
chúng ta lựa chọn một mặt tận dụng cái hiện có mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái
mới do thời đại tạo ra nhằm dùng chúng để phát triển các nguồn lực từ bên trong.
Nếu phân tích một cách khách quan thì rõ ràng LLSX của ta đang ứng với cả ba giai
đoạn phát triển của LLSX trong nền văn minh loài ngời. Thực tế hiện nay trong
nhiều ngành sản xuất công cụ thủ công vẫn đang là chủ yếu, lao động nặng đang
chiếm tỉ lệ cao, đến nay vẫn cha hoàn thành quá trình cơ khí hoá và thực tế cha biết
khi nào mới kết thúc. Cần khẳng định một vấn đề có tính quy luật là trong lịch sử
bao giờ cũng có sự đan xen của trình độ phát triển khác nhau trong từng yếu tố cấu
thành LLSX. Mặt khác, thấy đợc vai trò quan trọng của lao động tri thức trong nền
kinh tế hiện đại chúng ta cần có những chính sách cụ thể nhằm đào tạo và thu hút
những lao động có trình độ.
Mặc dù nền kinh tế còn trong tình trạng lạc hậu nhng chúng ta vẫn đang dần
dần đi lên đẩy nhanh tốc độ và tiếp cận với những khoa học tiên tiến, đặc biệt đối tợng lao động thấp kém đang bị loại dần, thay vào đấy là những đối t ợng lao động
với trình độ tay nghề cao. Chính vì lẽ đó mà sẽ không có câu trả lời đơn thuần về
việc chỉ nên phát triển loại t liệu sản xuất nào, công cụ gì và đối tợng lao động nào
là chính, bởi vì yếu tố nào cũng tác động trực tiếp đến nền kinh tế.

Quan hệ sản xuất (QHSX)

Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

3


Tiểu luận triết học

QHSX là mối quan hệ giữa con ngời với con ngời trong quá trình sản xuất ra
của cải vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Trong quá trình sản xuất, con ng ời
phải có những quan hệ, con ngời không thể tách khỏi cộng đồng. QHSX do con ngời tạo ra, nhng nó hình thành một các khác quan trong quá trình sản xuất, không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con ngời . Nhìn tổng thể quan hệ sản xuất gồm
ba mặt:
Quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất: tức là quan hệ giữa ngời đối với t liệu sản
xuất, nói cách khác t liệu sản xuất thuộc về ai.
Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất: tức là quan hệ giữa ngời với ngời
trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất nh phân công chuyên môn hoá và
hợp tác hoá lao động quan hệ giữa ngời quản lý với công nhân.
Quan hệ phân phối sản phẩm: tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một
mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả t liệu sản xuất để làm cho
chúng không ngừng đợc tăng trởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao
phúc lợi ngời lao động. Đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nớc xã hội chủ
nghĩa.
QHSX hình thành một các khách quan trong quá trình sản xuất. Ba mặt của
QHSX thống nhất biện chứng với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định t ơng đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của LLSX. Trong mối quan hệ
hợp thành QHXS thì quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trng cho QHSX trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và
quan hệ phân phối sản phẩm. Trong lịch sử có hai loại hình sở hữu cơ bản về t liệu

sản xuất: sở hữu t nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu t nhân là loại hình sở hữu mà
trong đó t liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít ngời, còn đại đa số không
có hoặc có rất ít t liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa ngời với ngời là quan hệ thống
trị ngời bóc lột ngời. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó t liệu sản
xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng. Do đó, quan hệ giữa ngời với ngời là
quan hệ bình đẳng, hợp tác cùng có lợi.
Trong quá trình cải tạo và củng cố QHSX vấn đề quan trọng mà đại hội VI nhấn
mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ
phân phối không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lý luận. Trong đó, phải đặc biệt
chú trọng đến chế độ sở hữu vì nó là nền tảng của QHSX. Nó là đặc trng để phân biệt
chẳng những các QHSX khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử
nh mức đã nói.

Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

4


Tiểu luận triết học

Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang một
mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho LLSX có điều kiện tiếp tục phát triển thuận
lợi và cải thiện đời sống vật chất của con ngời. Đó là tính lịch sử tự nhiên của các
quá trình chuyển biến giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong quá khứ và cũng là
tính lịch sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội t bản chủ nghĩa
sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Và xét riêng trong phạm vi một QHSX nhất định thì tính chất của sở hữu cũng
quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế

- xã hội nhất định QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các QHSX khác
ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng không đối lập mà còn phục vụ đắc
lực cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - xã hội mới.
Nếu suốt trong quá khứ, đã không có một cuộc chuyển biến nào từ hình thái
kinh tế - xã hội sang hình thái kinh tế - xã hội khác hoàn toàn là một quá trình tiến
hoá êm ả, thì thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội t bản chủ nghĩa hoặc trớc t
bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa trong thời đại ngày nay
càng không thể là một quá trình êm ả. Chủ nghĩa Mác - Lênin cha bao giờ coi hình
thái kinh tế - xã hội nào đã tồn tại kể từ trớc đến nay là chuẩn nhất. Trong mỗi hình
thái kinh tế - xã hội cùng với một QHSX thống trị, điển hình còn tồn tại những
QHSX phụ thuộc, lỗi thời nh là tàn d của xã hội cũ. Ngay ở cả các nớc t bản chủ
nghĩa phát triển nhất cũng không chỉ có một QHSX t bản chủ nghĩa thuần nhất.
Hiện tợng trên đều bắt nguồn từ phát triển không đều về LLSX không những giữa
các nớc khác nhau mà còn giữa các vùng và các ngành khác nhau của một n ớc. Việc
chuyển từ QHSX lỗi thời lên cao hơn nh C.Mác nhận xét: "Không bao giờ xuất
hiện trớc khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó cha chín
muồi..." phải có một thời kỳ lịch sử tơng đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện vật
chất trên.
Sau khi đã đa ra các khái niệm trên, vậy sau đây ta sẽ đi tìm hiểu Quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực l ợng sản xuất
là nh thế nào?
Trớc hết hãy tìm hiều xem QHSX và LLSX mâu thuẫn hay phù hợp?
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị năm 1859 C.Mác
viết "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con ngời ta có những quan hệ
nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những QHSX. Những quan
hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của LLSX vật chất của họ...".

Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố


5


Tiểu luận triết học

Ngời ta thờng coi t tởng này của C.Mác là t tởng về "Quy luật QHSX phù hợp với
tính chất và trình độ của LLSX".
Cho đến nay hầu nh quy luật này đã đợc khẳng định cũng nh các nhà nghiên
cứu triết học Mácxít. Khái niệm "phù hợp" đợc hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt,
mới hợp quy luật, không phù hợp là không tốt, là trái quy luật. Có nhiều vấn đề mà
nhiều lĩnh vực đặt ra với từ "phù hợp" này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm
nhiều dạng, thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng quan
hệ sản xuất và dạng những LLSX từ đó hình thành những mối liên hệ chủ yếu cơ
bản là mối liên hệ giữa QHSX và trình độ của LLSX. Nh ng mối liên hệ giữa hai yếu
tố cơ bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trớc
hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.
Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay "sự yên tĩnh"
giữa các mặt.
Phù hợp là một xu hớng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là
tuyệt đối. Chính đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển. Ta biết rằng
trong phép biện chứng cái tơng đối không tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa
chúng không có mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có
thể hiểu sự cân bằng nh một sự đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu nh sự
vận động. Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời còn không cân bằng không
phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm đợc sự phát triển chừng nào
ngời ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể
quan niệm đợc sự phát triển chừng nào ngời ta thừa nhận, nhận thức đợc sự phát
triển trong mâu thuẫn của LLSX và QHSX chừng nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn

không phù hợp giữa chúng.
Tuy nhiên quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình đi từ sự
không phù hợp đến sự phù hợp, nhng trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn
ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa LLSX với QHSX là trái tự nhiên, là
thủ tiêu sự vận động.
Tóm lại, có thể nói thực chất của quy luật về mối quan hệ giữa LLSX và QHSX
là quy luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái
yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái
niệm mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho
ta hiểu đợc sự vận động của qui luật kinh tế.
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

6


Tiểu luận triết học

Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX nh
thế nào?
LLSX và QHSX là hai mặt của phơng thức sản xuất, chúng không tồn tại tách
rời nhau mà thống nhất biện chứng với nhau. Trong hai mặt đó, LLSX là nội dung,
thờng xuyên biến đổi, phát triển; QHSX là hình thức xã hội của LLSX, tơng đối ổn
định. Sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa hai mặt đó tạo thành
quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX - quy luật cơ
bản nhất của sự vận động phát triển xã hội.
Trong quá trình phát triển xã hội thì đòi hỏi phải phát triển sản xuất, nâng cao
năng xuất lao động Để đáp ứng đợc yêu cầu đó con ngời không ngừng phải nâng
cao trình độ, cải tiến công cụ lao động, phân công lao động xã hội ngày càng sâu

sắc. Do đó, LLSX không ngừng đợc phát triển. Sự phát triển của LLSX đợc đánh
dấu bằng trình độ của LLSX. Trình độ của LLSX biểu hiện bằng trình độ của công
cụ lao động và trình độ của ngời lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động
xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Gắn liền với trình độ của LLSX là
tính chất của LLSX. Khi LLSX là công cụ thủ công, phân công lao động xã hội kém
phát triển thì LLSX có tính chất cá nhân. Khi LLSX đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại,
phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính chất xã hội.
Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định QHSX, làm cho QHSX biến đổi
phù hợp với nó. Khi một phơng thức sản xuất mới ra đời, khi đó QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX. Trong giai đoạn này thì QHSX tiên tiến tạo điều kiện
thúc đẩy LLSX phát triển. LLSX luôn phát triển, khi LLSX phát triển đến một trình
độ nhất định thì QHSX lại không còn phù hợp nữa. Khi đó QHSX lại trở thành rào
cản sự phát triển của LLSX. Yêu cầu khách quan của của sự phát triển LLSX tất yếu
sẽ dẫn đến thay thế QHSX cũ lạc hậu bằng QHSX mới phù hợp hơn với trình độ của
LLSX. Trong mọi hình thái KT-XH, thì QHSX thống trị đại diện cho quyền lợi của
giai cấp thống trị.Nó là cơ sở hạ tầng của mọi chế độ xã hội, trên đó hình thành nên
kiến trúc thợng tầng. Do đó quá trình thay đổi giữa các hình thái KT-XH diện ra
một cách không êm ả. Đó là quá trình đấu tranh lâu dài giữa các giai cấp, lực l ợng
tiến bộ của xã hội với giai cấp thống trị thể hiện qua các cuộc cách mạng xã hội.
Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX. QHSX khi đã đợc xác lập thì nó
độc lập tơng đối với LLSX và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội. QHSX
không thể biến đổi đồng thời đối với LLSX, nó thờng lạc hậu so với LLSX và nếu
QHSX phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của LLSX thì nó thúc đẩy sự phát
triển của LLSX. Nếu QHSX lạc hậu so với LLSX dù tạm thời thì nó cũng kìm hãm
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

7



Tiểu luận triết học

sự phát triển của LLSX. Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với LLSX
vì nó qui định mục đích của sản xuất, qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và
quản lý xã hội, qui định phơng thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà ngời
lao động đợc hởng. Do đó nó ảnh hởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó
tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất,
áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc
tế.
Việc đẩy QHSX lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là
một hiện tợng tơng đối phổ biến ở nhiều nớc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc
của t tởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội
thuần nhất bất chấp quy luật khách quan. Về mặt phơng pháp luận, đó là chủ nghĩa
duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngợc lại của QHSX đối với
sự phát triển của LLSX. Sự lạm dụng này biểu hiện ở "Nhà nớc chuyên chính vô sản
có khả năng chủ động tạo ra QHSX mới để mở đờng cho sự phát triển của LLSX".
Nhng khi thực hiện ngời ta đã quên rằng sự "chủ động" không đồng nghĩa với sự
chủ quan tùy tiện, con ngời không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của QHSX
mà mình muốn có. Ngợc lại QHSX luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi
trạng thái của LLSX, bởi QHSX với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
QHSX chỉ có thể mở đờng cho LLSX phát triển khi mà nó đợc hoàn thiện tất cả về
nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX.
Vai trò của quy luật đối với sự vận động và phát triển của các hình thái KTXH là nh thế nào?
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc tr ng
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX và với một kiến trúc
thợng tầng tơng ứng đợc xây dựng trên những QHSX ấy.
Kiến trúc thợng tầng (KTTT) là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cùng với những thiết chế xã hội tơng ứng nh nhà nớc, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội đợc hình thành trên cơ

sở hạ tầng đó.
Cơ sở Hạ tầng (CSHT) của XH là toàn bộ những QHSX hợp thành một cơ cấu
kinh tế của xã hội ở trong từng giai đoạn phát triển lịh sử nhất định.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa KTTT và CSHT thì CSHT quyết định
KTTT, CSHT nh thế nào thì sẽ sinh ra kiến trúc thợng tầng nh thế ấy. Khi CSHT
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

8


Tiểu luận triết học

mất đi thì KTTT do nó sinh ra cũng sẽ mất đi, những biến đổi căn bản trong CSHT
thì sớm hay muộn cũng dẫn đến sự biến đổi bên trong KTTT. CSHT quyết định
KTTT nhng sự phụ thuộc của KTTT vào CSHT không phải là sự phụ thuộc tuyệt
đối, KTTT có thể tác động trở lại CSHT, so với CSHT thì KTTT có tính độc lập t ơng đối. Chức năng xã hội của KTTT là duy trì và bảo vệ CSHT đã sinh ra nó đồng
thời đấu tranh để xoá bỏ CSHT đã lỗi thời lạc hậu.
Tính độc lập tơng đối của KTTT đối với CSHT đợc biểu hiện ở chỗ không phải
bất cứ sự biến đổi nào ở trong bản thân KTTT cũng đều có nguyên nhân trực tiếp từ
CSHT, nh sự tác động qua lại của các bộ phận của KTTT hoặc tính kế thừa của các
bộ phận t tởng của KTTT đối với xã hội trớc cũng gây ra những biến đổi nhất định
trong bản thân KTTT. Vì vậy Ănghen khẳng định, chỉ suy cho đến cùng thì CSHT
mới quyết định KTTT. Các yếu tố của KTTT đều có khả năng tác động lại đối với
CSHT, nhng ở mức độ tác động khác nhau, hoặc có tính chất trực tiếp hoặc có tính
chất gián tiếp. Bộ phận tác động mạnh mẽ và trực tiếp nhằm biến đổi cơ sở hạ tầng
là nhà nớc. Nhà nớc tác động đến CSHT không những dựa trên hệ t tởng mà nó còn
dựa vào các thiết chế vật chất. Sự tác động của nhà n ớc có thể làm thúc đẩy CSHT
của xã hội phát triển, ngợc lại nó cũng có thể kìm hãm sự phát triển của CSHT của

xã hội. Điều đó phụ thuộc vào bản chất, vai trò, vị trí của Nhà n ớc có còn phù hợp
với các tiến trình phát triển khách quan của xã hội nữa hay không.
Vậy Mối quan hệ giữa các thành tố và động lực của sự phát triển của xã hội
đợc biểu hiện nh thế nào?
Theo định nghĩa về hình thái KT-XH của C.Mác thì có ba thành tố cấu thành
hình thái KT-XH, các thành tố này liên quan mật thiết với nhau. Nguồn gốc sâu xa
của sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH là ở sự phát triển của LLSX.
Chính sự phát triển của LLSX làm thay đổi QHSX. Đến kợt mình, QHSX thay đổi
sẽ làm cho kiến trúc thợng tầng thay đổi theo và do đó mà các hình thái KT-XH vận
động, phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái KT-XH này lên hình thái KT-XH khác
cao hơn.
Tuy nhiên, con đờng phát triển của môi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các
quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện phát triển cụ thể của môi dân
tộc, nh về điều kiện tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về tác động
quốc tếVì vậy, lịch sử phát triển nhân loại vừa tuân theo những quy luật chung,
vừa rất phong phú, đa dạng.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH là sự
phát triển của LLSX.
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

9


Tiểu luận triết học

Theo lý luận của C.Mác thì quá trình thay thế từ hình thái KT-XH này lên hình
thái KT-XH khác cao hơn là một quá trình lịch sử tự nhiên, nó không phụ thuộc vào
ý trí của con ngời mà nó còn quyết định ý thức của con ngời. Nguyên nhân của sự

phát triển đó là do sự phát triển của LLSX. Do đó, quy luật sự phù hợp giữa QHSX
với tính chất và trình độ của LLSX có tính phổ biến trong lĩnh vực xã hội.
Lý luận của chủ nghĩa Mác cũng chỉ rõ qua trình lịch sử - tự nhiên của sự phát
triển xã họi chẳng những diễn ra theo con đờng phát triển tuần tự, mà còn bao hàm
cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, hoặc một số hình thái KT-XH nhất
định. Nhng không phải là nôn nóng đốt cháy giai đoạn mà cần thiết phải có giai
đoạn quá độ hợp lý đối với các nớc tiến lên chủ nghĩa xã hội từ nền tảng nền sản
xuất nhỏ lẻ, lạc hậu.
Sau khi đã phân tích quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lợng sản xuất, cũng nh chỉ rõ vai trò của quy luật đối với sự vận động
và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. Ta đi tìm hiểu và phân tích cơ cấu nền
kinh tế xã hội nớc ta trong thời kỳ đổi mới đã và đang đợc điều chỉnh nh thế nào?
Sự chuyển dịch Cơ cấu nền kinh tế nớc ta trong thời kỳ đổi mới
Việc xây dựng QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX
luôn luôn là yêu cầu tất yếu đặt ra cho mọi chế độ xã hội. Đối với nớc ta cũng vậy.
Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản từ điểm xuất phát thấp
kém cả về LLSX và QHSX nên việc xây dựng từng bớc QHSX mới để thúc đẩy
LLSX phát triển ngày càng quan trọng.
Trớc đây do nhận thức sai lầm về mô hình xã hội chủ nghĩa, do cách làm duy ý
chí, nóng vội chủ quan và muốn đốt cháy giai đoạn và coi sở hữu toàn dân là mục
đích nên chúng ta đã mau chóng thiết lập chế độ công hữu về t liệu sản xuất. Từ đó
dẫn đến việc chỉ chú trọng phát triển nền kinh tế với hai thành phần chủ yếu là kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Trong khi đó các thành phần kinh tế khác đều bị
coi là phi xã hội chủ nghĩa, bị kìm hãm và xoá bỏ. Tình trạng này đã làm nảy sinh
những mâu thuẫn với LLSX còn thấp kém lạc hậu kìm hãm sự phát triển của nền
kinh tế.
Từ thực tiễn đời sống, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã rút ra một bài
học là không thể nóng vội trong việc giải quyết vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể. Đại hội cho rằng việc cải
tạo xã hội chủ nghĩa phải là một nhiệm vụ thờng xuyên liên tục trong suốt thời kì

quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy đại hội VI đã đặt nền móng cho sự phát triển
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

10


Tiểu luận triết học

một nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta, kiên quyết từ bỏ ý định xoá bỏ nhanh
chóng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể mà đại hội trớc đó đã ghi
vào nghị quyết phải căn bản hoàn thành.
Có thể nói rằng, giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nớc ta và cũng là sự vận
dụng quan điểm của Lênin một cách đúng đắn. Lê nin đã khẳng định rằng trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế bao gồm nhiều đặc điểm và tính
chất của kết cấu kinh tế của xã hội cũ, đồng thời lại xuất hiện những đặc điểm và
đặc tính của kết cấu kinh tế xã hội mới, chúng tồn tại đan xen với nhau. Từ đó,
Lênin rút ra đặc điểm kinh tế mang tính phổ biến trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là nền kinh tồn tại nhiều thành phần kinh tế, mặc dù ở mỗi n ớc, mỗi
thời kỳ khác nhau, số lợng các thành phần kinh tế có thể nhiều ít khác nhau.
Từ chế độ sở hữu về t liệu sản xuất, có thể hiểu cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tổng thể các thành phần kinh tế cùng
tồn tại trong môi trờng hợp tác và cạnh tranh, tơng ứng với những LLSX khác nhau.
Mỗi thành phần kinh tế lại có loại hình sản xuất với quy mô và trình độ công nghệ
nhất định, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế và cơ
chế phân phối thích hợp. Điều quan trọng là mỗi thành phần đóng một vai trò kinh
tế xác định và chỉ khi nào phát huy đợc vai trò đó thì toàn bộ cơ cấu mới có tác
dụng thúc đẩy đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, làm cho dân giàu, n ớc
mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bớc tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Nh vậy, chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đại hội VI là rất
đúng đắn, đồng thời nó cũng phù hợp với quy luật về sự phù hợp của QHSX với
tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Vì sao chúng ta lại có thể khẳng định
nh vậy về sự cần thiết khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kì quá
độ ở nớc ta?
Cần giải thích rằng trớc hết đó là vì ở nớc ta đang trong thời kỳ quá độ, LLSX
còn đa dạng và không đồng đều về tính chất và trình độ phát triển. Đó là do hai
nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất là do nguồn gốc lịch sử để lại. ở nớc ta, hầu hết các cuộc cách mạng là
không triệt để, cùng với những cuộc chiến tranh kéo dài khiến cho LLSX lạc hậu,
năng suất lao động - tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ của LLSX - còn thấp.
Chế độ phong kiến và chế độ thực dân nửa phong kiến đã để lại hậu quả nặng nề:
nền sản xuất tiểu nông, tự cấp, tự túc với những công cụ lao động thô sơ, thủ công,
cha đủ tái sản xuất giản đơn. Ngời lao động chủ yếu là nông dân, hoạt động chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm và phụ thuộc chặt chẽ vào thời tiết. Hơn thế nữa những thế lực
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

11


Tiểu luận triết học

ngoại xâm lại luôn tìm cách thi hành chính sách ngu dân, khiến cho yếu tố quan
trọng nhất của lực lợng sản xuất là ngời lao động không thể phát huy đợc thế mạnh
của mình. Chúng ta đã duy trì chế độ kinh tế tập trung quan niêu bao cấp một thời
gian dài, nó chỉ thích hợp với điều kiện chúng ta có chiến tranh chống ngoại xâm.
Thứ hai là giao lu khoa học kĩ thuật và kinh tế của nớc ta với quốc tế. Chúng
ta đang sống trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nên

xu thế mở cửa đẻ đón nhận những thành tựu của thế giới là tất yếu Tận dụng tốt
đợc những phát minh, thành tựu, kinh nghiệm quý báu của các nớc khác, cùng với
nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, trình độ nhận thức của ngời lao động Việt
nam, chúng ta sẽ có cơ sở vững chắc về LLSX để tiến kịp các nớc khác trên thế giới
và thực hiện sự phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội.
Nh vậy do hai nguyên nhân trên mà LLSX của nớc ta còn đa dạng và không
đồng đều về tính chất và trình độ phát triển. Sự không đồng đều đó không chỉ diễn
ra giữa các vùng trên đất nớc, giữa các ngành mà thậm chí ở ngay trong nội bộ một
ngành. Chính vì thế chúng ta không thể nóng vội mà đòi hỏi xây dựng một quan hệ
sở hữu về t liệu sản xuất là công hữu xã hội chủ nghĩa về t liệu sản xuất nh trớc Đại
hội VI mà tất yếu phải duy trì nền kinh tế với nhiều thành phần.
Nếu làm nh trớc Đại hội VI thì chúng ta rõ ràng đã đẩy QHSX đi quá xa so với
trình độ của LLSX. Bởi theo quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và
trình độ phát triển của LLSX, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa phải có b ớc đi và
hình thức thích hợp. Kinh nghiệm thực tế đã chỉ ra rằng: LLSX bị kìm hãm không
chỉ trong trờng hợp QHSX lạc hậu, mà ngay cả khi QHSX phát triển không đồng
bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của LLSX. Từ tình hình
thực tế của nớc ta đòi hỏi chúng ta phải coi trọng những hình thức kinh tế trung
gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Trong mỗi b ớc đi của
quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất, tạo
ra LLSX mới, để trên cơ sở đó tiếp tục đa QHSX lên hình thức và quy mô mới thích
hợp để thúc đẩy LLSX phát triển.
Bên cạnh đó cũng phải thấy rằng sự cần thiết khách quan duy trì nền kinh tế
nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay là do kinh tế là cơ sở của xã hội nên trong quá
trình đi lên xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải xây dựng một nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên LLSX hiện đại và QHSX phù hợp.
Mà muốn có đợc LLSX hiện đại, Đại hội đảng VI đã chỉ rõ: muốn phát triển
mạnh mẽ LLSX, đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu t theo ngành
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà

Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

12


Tiểu luận triết học

và theo vùng, phải xác định cơ cấu thành phần kinh tế - Trích văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB sự thật, Hà Nội, 1987, tr.55.
Nớc ta là nớc có dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào. Nhiều ng ời có sức lao
động, mong muốn làm việc, nhng cha có đợc việc làm và cũng có nhiều ngời cha sử
dụng hết thời gian lao động có thể mà khả năng thu hút sức lao động của khu vực
kịnh tế nhà nớc lại hạn chế. Cũng không thể đa những ngời làm ăn cá thể vào các tổ
chức kinh tế tập thể trong một thời gian ngắn và có những ngành, nghề nếu dựa vào
làm ăn tập thể không đảm bảo hiệu quả. Trong khi nguồn vốn của nhà n ớc và tập
thể còn hạn hẹp thì nguồn vốn d thừa trong nhân dân lại chỉ đa vào tiêu dùng hoặc
cất giữ. Vì thế phải có chính sách mở đờng cho ngời lao động tự tạo ra việc làm,
khuyến khích mọi ngời đa vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tiêu dùng để tích
luỹ, mở rộng tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội.
Xuất phát từ sự đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhng lại rất quan trọng
trong nhân dân, cả về sức lao động, tiền vốn và kĩ thuật, khả năng tạo việc làm,
đảng ta đã chủ trơng đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể,
cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác.
Hơn thế nữa, xã hội cũ để lại không ít các thành phần kinh tế. Vì vậy trong thời
kỳ quá độ không thể bỗng chốc cải biến chúng nhanh chóng đợc mà cần phải tiếp
tục phát triển các thành phần này để sản xuất và đời sống không bị gián đoạn. Nó
phù hợp với lợi ích của ngời lao động và có vai trò quan trọng trong việc xác lập và
phát triển hệ thống kinh tế mới. Và sau nhiều năm cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng QHSX mới, đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới. Các thành phần

kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan, đan xen với nhau, tạo nên đặc điểm kinh tế
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta.
Nh vậy, có thể thấy rằng quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và
trình độ phát triển củaỹLL là quy luật phổ biến, cơ bản của đời sống xã hội. Chúng
ta không thể xoá bỏ một hình thức QHSX nào đó khi mà LLSX tơng ứng với nó vẫn
còn đang tồn tại, đang còn cần thiết cho xã hội. Nếu vội vàng xoá bỏ những hình
thức kinh tế này khi chúng đang còn là một tất yếu kinh tế thì đó là một điều dại
dột và tự sát. Nh Lê nin đã nói dại dột bởi điều đó chống lại quy luật khách
quan, tự sát vì nó sẽ dần dần đa nền kinh tế đến chỗ tiêu cực, LLSX xã hội sẽ bị
phá hoại nghiêm trọng.
Qua quá trình phân tích nh trên cho thấy sự tồn tại và phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần là một tất yếu kinh tế khách quan và có nhiều lợi ích kinh tế to
lớn trong thời kì quá độ. Nó vừa phù hợp với lý luận của Lê nin về đặc điểm kinh tế
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

13


Tiểu luận triết học

nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện sự vận dụng
đúng đắn của quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là một tất yếu khách quan mà
còn đem lại lợi ích to lớn bởi vì:
Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, tức là tồn tại nhiều hình thức QHSX
phù hợp với tình trạng thấp kém và không đồng đều của LLSX. Sự phù hợp
này đến lợt nó lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trởng
kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế

và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nớc ta.
Chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chúng ta mới có thể khai
thác, huy động và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành
phần kinh tế trong nớc, tạo điều kiện khai thác sức mạnh về vốn, khoa học và
công nghệ mới trên thế giới.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần giúp chúng ta có khả năng giải quyết
một số lợng lớn công ăn việc làm cho nhân dân một vấn đề bức xúc trong
xã hội nớc ta, nhằm thực hiện dân chủ trong kinh tế. Bên cạnh đó còn huy
động đợc mọi tiềm năng về vốn, kĩ thuật trong nhân dân và phát huy những
thế mạnh vốn có của con ngời Việt Nam, đẩy nhanh sự phát triển của LLSX.
Nền kinh tế nhiều thành phần có tác dụng tích cực bởi nó tạo ra sự đa dạng
về quy mô và trình độ sản xuất, phù hợp với hiện trạng về cơ sở vật chất và
trình độ kĩ thuật của nớc ta. Đồng thời nó còn tạo ra môi trờng thuận lợi cho
sự liên kết và liên doanh với các cá nhân, tổ chức ngoài nớc.
Nó tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, nh
những cầu nối và trạm trung gian cần thiết để đa nớc ta từ sản xuất nhỏ
đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa.
Lẽ tất nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, các thành phần này cũng có những
mặt tiêu cực của nó. Vì thế các chính sách của nhà n ớc đa ra phải phù hợp, khéo léo
làm giảm bớt những tác động tiêu cực đó, đồng thời tận dụng đợc những u điểm của
nó.
Từ Đại hội VI đến nay, chúng ta luôn luôn nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định
rằng nớc ta có các thành phần kinh tế sau:

Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

14



Tiểu luận triết học

Kinh tế nhà nớc: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu Nhà n ớc về t
liệu sản xuất chủ yếu, gồm các đơn vị kinh tế mà toàn bộ vốn thuộc về Nhà
nớc hoặc phần của nhà nớc chiếm tỉ lệ khống chế giữ vai trò định hớng nền
kinh tế phát triển theo đinh hớng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế hợp tác: là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm các đơn
vị kinh tế do những ngời lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh.
Kinh tế t bản nhà nớc: là thành phần mà chủ thể là các nhà t bản và nhà nớc
cũng góp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ: là thành phần dựa trên chế độ t hữu về t liệu sản xuất
và lao động của bản thân ngời sản xuất
Kinh tế t bản t nhân: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ t hữu t bản chủ
nghĩa và bóc lột lao động làm thuê.
Sự chuyển hoá của các thành phần kinh tế này trong quá trình đi lên chủ nghĩa
xã hội diễn ra dới nhiều hình thức, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
LLSX, thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả. Trong tiến
trình hội nhập của đất nớc ta, nhân tố con ngời là một nhân tố cực kỳ quan trọng,
hơn bao giờ hết chúng ta phải đổi mới về t duy, về phơng thức làm việc, tích cực
đóng góp những ý tởng táo bạo để cùng với những t liệu phơng thức sản xuất giúp
đất nớc ngày một lớn mạnh và phát triển.
Nh vậy, Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ phát triển
của LLSX là quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài ngời. LLSX, một mặt của
phơng thức sản xuất là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của
xã hội, quy định khuynh hớng phát triển từ thấp đến cao. QHSX, mặt thứ hai của
phơng thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử. Những
QHSX lỗi thời đợc xoá bỏ và thay thế bằng những kiểu QHSX mới cao hơn và hình
thái kinh tế xã hội mới cao hơn ra đời. Nh vậy sự xuất hiện sự phát triển của hình

thái kinh tế - xã hội, sự chuyển biến từ hình thái đó lên hình thái cao hơn đ ợc giải
thích trớc hết bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất
và trình độ phát triển của LLSX. Vì thế hiểu rõ và vận dụng quy luật là điều rất cần
thiết.
Sự phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay là sự vận
dụng đúng đắn và sáng tạo quy luật này. Từ khi đợc khẳng định, chủ trơng chiến lợc
này đã đi sâu vào cuộc sống, góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo ra sự chuyển
biến mạnh mẽ, và vững chắc nền kinh tế nớc ta, khắc phục về căn bản khủng hoảng
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

15


Tiểu luận triết học

kinh tế xã hội, đẩy lùi lạm phát, đa nền kinh tế nớc ta tăng trởng và phát triển
nhanh, cải thiện đời sống nhân dân thêm từng bớc.
Nhận thức sâu sắc đợc sự tồn tại khách quan đặc trng của nền kinh tế quá độ ở
nớc ta, chúng ta phải đa ra những giải pháp, những chính sách phù hợp, kịp thời
nhằm thực hiện tốt chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của đảng ta.
Những giải pháp đó có thể khái quát lại nh sau:
Thứ nhất, là giải phóng mọi lực lợng sản xuất, mọi tiềm năng đã bị kìm hãm trớc
đây của các thành phần kinh tế nhằm khai thác và đ a chúng vào sử dụng một cách
sáng tạo, và có hiệu quả theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, là đa ra những chính sách nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho các thành phần kinh tế trớc đây bị coi là phi xã hội chủ nghĩa tích cực đầu t vào
sản xuất, tham gia phát triển kinh tế xã hội.
Thứ ba, là thành phần kinh tế nhà nớc phải đợc củng cố vững chắc, và tiếp tục

tăng cờng phát triển nhằm giữ vững vai trò chủ đạo đối với các thành phần kinh tế
khác. Và luôn luôn phải đề cao tính định hớng xã hội chủ nghĩa cho tất cả các thành
phần kinh tế.
Đi cùng với tất cả các giải pháp trên cần phải thực hiện xoá bỏ một cách triệt để
cơ chế tập trung, chỉ huy, quan liêu bao cấp, và chuyển sang cơ chế thị tr ờng có sự
quản lý và điều tiết của nhà nớc bằng những chính sách, đờng lối, pháp luật, kế
hoạch phù hợp với tình hình và quá trình phát triển của đất nớc, thế giới.
Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất quy QHSX phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Trên thực tế bất cứ ở đâu và vào lúc nào
cũng không thể có đợc sự phù hợp tuyệt đối giữa QHSX với tính chất và trình độ
phát triển của LLSX. Nhng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù
hợp. Trong quan hệ giữa LLSX và QHSX nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát
từ chúng. Tuy nhiên chính bản thân các QHSX lại có mối quan hệ chặt chẽ với
LLSX. Vấn đề đặt ra là ta sử dụng mối quan hệ ấy nh thế nào cho phù hợp. Đặc biệt
quan hệ giữa LLSX và QHSX lại có nhiều lộn xộn trong việc nghiên cứu, sử dụng
và phát triển các phơng thức sản xuất tức là quá trình "Đa dạng hoá" cụ thể hơn là
quá trình "phù hợp hoá" các loại phơng thức sản xuất vào điều kiện thực tế hiện nay
của nớc ta. Nếu chúng ta sử dụng đúng các quy luật trên cộng với điều hoà quan hệ
LLSX với QHSX thì không lâu sau nớc ta sẽ tiến nhanh cùng với các nớc phát triển
tiến nhanh trên con đờng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã chọn.
Nh đã thấy ở trên, thì lực lợng sản xuất đóng góp tích cực vào nền kinh tế, nó là
nhân tố quyết định tới sự phát triển cũng nh hội nhập của một đất nớc. Với vai trò
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

16


Tiểu luận triết học


quan trọng nh vậy, LLSX luôn đợc u tiên trong chiến lợc phát triển của Đảng và
Nhà nớc, và Khoa học cũng nh vậy, nó thực sự là yếu tố tích cực ảnh hởng trực tiếp
tới LLSX.
Vậy Khoa học hiện nay có vai trò gì đối với lực lợng sản xuất?
Các cuộc cách mạng khoa học lần lợt xảy ra và đã tạo ra những bớc nhảy vọt
lớn trong lực lợng sản xuất. Vị trí của khoa học trong lực lợng sản xuất ngày càng
rõ rệt. Các cuộc cách mạng thực chất là đã mở ra kỷ nguyên mới cho sản xuất tự
động hoá với việc phát triển và ứng dụng điều khiển học vào vô tuyến điện tử. Khoa
học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn cho kỹ thuật sản xuất, tạo ra
những ngành sản xuất mới, kết hợp khoa học kỹ thuật thành một thể thống nhất, đ a
đến những phơng pháp công nghệ mới đem lại hiệu quả cao trong sản xuất; phát
hiện và đề ra hàng loạt những phơng pháp khai thác các nguồn năng lợng mới, chế
tạo những vật liệu mới mà trớc kia loài ngời cha biết tới; tạo ra sự thay đổi trong
chức năng của ngời sản xuất. Con ngời không còn thao tác trực tiếp trong hệ thống
kỹ thuật mà chủ yếu là sáng tạo và điều khiển quá trình đó một cách tự động; tri
thức khoa học trở thành một tất yếu trong hoạt động của ng ời sản xuất thay cho thói
quen và kinh nghiệm thông thờng; tri thức khoa học đợc vật chất hoá, đợc kết tinh
vào mọi nhân tố của lực lợng sản xuất, từ đối tợng lao động, t liệu lao động, kỹ
thuật, phơng pháp công nghệ đến tri thức của con ngời lao động - Khoa học hoá
sản xuất.
Do khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp mà thành phần ngời cấu thành
lực lợng sản xuất không chỉ bao gồm ngời lao động chân tay, mà còn bao gồm cả kỹ
thuật viên, kỹ s và cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất. Nhờ có
khoa học mà năng suất lao động đã nhảy vọt cùng đó là giảm đợc sức lao động của
con ngời, những công việc nặng nhọc dần dần đợc các loại máy móc hiện đại thay
thế. Nh vậy, ta thấy rõ đợc vai trò quan trọng của Khoa học, nó thúc đẩy và đa nền
kinh tế theo hớng hiện đại hoá, và ở đấy đòi hỏi con ngời phải luôn luôn nâng cao
trình độ tay nghề, trình độ khoa học thì mới cập nhật đợc những xu thế phát triển
mới, nhng Khoa học cũng đã tích cực vào việc giải phóng sức lao động cho con ng ời, làm đời sống càng ngày càng đợc cải thiện và hoàn thiện hơn.

Việc hội nhập và phát triển kinh tế nớc nhà hơn bao giờ hết đợc Đảng và Nhà Nớc
quan tâm, để vận dụng chủ Nghĩa Mác - Lênin vào, thì đòi hỏi con ngời phải phát huy
đợc tính sáng tạo của mình, phải biết vận dụng một cách tốt nhất giữa QHSX và LLSX.
Vậy, Triết học mang lại cho cá nhân chúng ta những nhận thức nhất định, việc áp dụng
nó vào thực tiễn là điều vô cùng khó khăn, tuỳ vào khả năng của mỗi ngời. Riêng đối
Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

17


Tiểu luận triết học

với bản thân tôi, việc tìm hiểu và phân tích đề tài này vô cùng hữu ích, mang lại cho tôi
những nhận thức đúng đắn, tích cực và hơn bao giờ hết tôi thấy đợc vai trò của mình
trong việc thúc đẩy nền kinh tế nớc nhà, tuy đóng góp đó là nhỏ bé nhng mỗi thành
viên có trình độ, có năng lực thì đất nớc mới phát triển và hội nhập đợc.

Học viên : Đinh Thị Thanh Hoà
Lớp
: Cao học K14, Chuyên ngành xây dựng đờng ôtô và đờng thành phố

18



×