Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Truyện ngắn trần thùy mai từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------

PHẠM THỊ THU HƢƠNG

TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------

PHẠM THỊ THU HƢƠNG

TRUYỆN NGẮN TRẦN THÙY MAI
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Văn Đức

Hà Nội-2015



Lời cảm ơn!
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong
Khoa Văn học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã chỉ bảo,
giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại Khoa.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến
PGS.TS Hà Văn Đức – người Thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo em rất tận tình, tạo
điều kiện để em có thể hoàn thành luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè và lãnh đạo, đồng
nghiệp tại Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ, tạo mọi điều
kiện để em hoàn thành luận văn!
Hà Nội, mùa thu 2015
Học viên

Phạm Thị Thu Hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 10
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 11
6. Ý nghĩa của luận văn ................................................................................. 11
7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 11
CHƢƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC – VĂN HÓA VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN TRẦN THÙY MAI................................. 12
1.1 Khái niệm văn hóa – văn học ................................................................ 12
1.1.1 Văn hóa ....................................................................................................12

1.1.2 Văn học ............................................................................................. 18
1.2 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ................................................... 19
1.2.1 Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa ......................................19
1.2.2 Văn học là sự kiến tạo và kết tinh các giá trị văn hóa ............................22
1.3 Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học .............. 24
1.3.1 Các cách tiếp cận trong nghiên cứu văn học ..........................................24
1.3.2 Đặc điểm và ưu thế của phương pháp tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa ..26
1.3.3 Biểu hiện của văn hóa trong văn học ......................................................28
1.4 Hành trình sáng tác của nhà văn Trần Thùy Mai ................................. 29
1.4.1 Vài nét về cuộc đời – sự nghiệp nhà văn .................................................29
1.4.2 Quan điểm sáng tác của Trần Thùy Mai .................................................32
1.5 Tiểu kết ................................................................................................. 35
CHƢƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
TRẦN THÙY MAI .................................................................................................. 36
2.1 Không gian và thời gian ........................................................................ 36
2.1.1 Không gian văn hóa.................................................................................36


2.1.2 Thời gian văn hóa ....................................................................................44
2.2 Con ngƣời văn hóa ................................................................................ 46
2.2.1 Văn hóa ẩm thực ......................................................................................47
2.2.2 Văn hóa tâm linh .....................................................................................50
2.2.3 Văn hóa ứng xử........................................................................................58
2.4 Tiểu kết ................................................................................................. 77
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN TRẦN
THÙY MAI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA .............................................................. 79
3.1 Biểu tƣợng văn hóa ............................................................................... 79
3.1.1 Khái niệm về biểu tượng văn hóa ............................................................79
3.1.2 Một số biểu tượng văn hóa trong truyện ngắn Trần Thùy Mai ...............82
3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 92

3.2.1 Nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật ..................................................92
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật ........................................................96
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu ........................................................................ 99
3.3.1. Sử dụng hiệu quả lớp từ ngữ địa phương và lớp từ ngữ tôn giáo ................99
3.3.2. Giọng điệu trữ tình, nhẹ nhàng rất Huế ...............................................102
3.4 Tiểu kết ............................................................................................... 107
KẾT LUẬN ............................................................................................................109
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 111


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi một dân tộc, một đất nước, một vùng đất trên thế giới đều có cho riêng
mình những bản sắc văn hóa không thể pha lẫn. Có thể nói, văn hóa chính là cơ sở
để nhận ra một dân tộc, một đất nước. Và văn học nằm trong văn hóa, là một trong
những yếu tố quan trọng nhất góp phần hình thành nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Văn học truyền tải văn hóa, lưu giữ văn hóa, kiến tạo văn hóa, bồi đắp tâm hồn và
nâng văn hóa lên những tầm cao mới. Mối quan hệ văn hóa – văn học là mối quan
hệ gắn bó khăng khít không thể tách rời.
Tiếp cận tác phẩm từ góc nhìn văn hóa không phải là một hướng tiếp cận quá
mới. Tuy nhiên, so với các hướng tiếp cận khác thì đây vẫn là một hướng tiếp cận
muộn hơn ở nước ta. Văn học từ góc nhìn văn hóa giúp chúng ta có khả năng khai
thác sâu giá trị nội tại của tác phẩm, có cái nhìn vừa bao quát, vừa sâu sắc toàn diện
đời sống văn hóa của cả cộng đồng dân tộc…
Truyện ngắn với những đặc điểm riêng, thế mạnh riêng đã giữ một vị trí
quan trọng trong văn học, biểu hiện rõ ràng, sâu sắc và tinh tế những giá trị văn hóa
của dân tộc, thời đại. Truyện ngắn với sự đa dạng, phong phú về ngôn ngữ, nhân
vật, tình tiết; nội dung truyền tải nhiều giá trị văn hóa tinh thần sâu sắc. Mối quan
hệ giữa truyện ngắn nói riêng và văn học nói chung với văn hóa luôn vận động, phát
triển theo từng thời kỳ, vì vậy mà mà luôn cần những nghiên cứu mới, tìm tòi, khám

phá theo dòng chảy văn hóa – văn học.
Truyện ngắn Việt Nam hiện đại với sự xuất hiện của nhiều cây bút mới, đặc
biệt sau 1986 với sự lên ngôi của những cây bút nữ đã đem đến cho văn học những
làn gió mới. Đối tượng phản ánh của văn học được khám phá, soi chiếu ở nhiều
bình diện, tầng bậc. Giữa một rừng hoa nhiều hương sắc thì truyện ngắn của Trần
Thùy Mai là một đóa hoa riêng với sắc màu không sặc sỡ nhưng nhẹ nhàng, tinh tế
và lan tỏa. Xuất hiện trên văn đàn từ vai trò là một cô giáo, sau đó là một biên tập
viên, Trần Thùy Mai đã thấu cảm được những vấn đề xã hội đương đại, những khổ

1


đau của con người để rồi truyền tải vào những trang văn một phong cách riêng.
Truyện ngắn Trần Thùy Mai dưới sự soi rọi của cái nhìn văn hóa mang một vẻ đẹp riêng,
gợi mở những hướng tiếp cận sâu hơn về mặt nội dung và tư tưởng nghệ thuật.
Cho đến thời điểm hiện tại, những công trình nghiên cứu truyện ngắn Trần
Thùy Mai nói riêng và truyện ngắn nói chung từ góc nhìn văn hóa vẫn chưa nhiều
và cũng rất ít các công trình tiếp cận được sâu bản chất của vấn đề. Xuất phát từ
những yêu cầu cấp thiết trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Truyện ngắn
Trần Thùy Mai từ góc nhìn văn hóa”, hi vọng sẽ góp một cách nhìn mới, nhận ra
những giá trị văn hóa tiềm ẩn dưới những trang viết của Trần Thùy Mai.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Khoa nghiên cứu về văn hóa đã được hình thành và phát triển rất lâu trên
thế giới, hướng nghiên cứu văn hóa học nảy sinh từ những năm 50 ở Anh với
trường phái Birmingham (R. Williams, R.Hoggart), ở Đức với trường phái
Frankfurt (D. Kellner), những năm 70 ở Pháp với R.Barthes sau đó lan sang Úc,
Canada, Mĩ… sau đó là những nghiên cứu trọng tâm hơn của E.B. Tylor trong cuốn
Văn hóa nguyên thủy xuất bản tại London năm 1871 đến những nghiên cứu của
Kroeber và C.Kluckhohn năm 1952, đưa ra những quan điểm về văn hóa trong cuốn
sách: Văn hóa – tổng luận phê phán các quan điểm và định nghĩa (Culture: a

critical review of concepts and definitions). Đặc biệt là những nghiên cứu của
M.Bakhtin về văn hóa văn học trong những công trình tiêu biểu của ông như Sáng
tác của François Rabelais và văn hóa dân gian thời Trung cổ và Phục hưng (1965)
đã khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa văn hóa và văn học. Phương pháp nghiên
cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ngày càng nhận được sự quan tâm nghiên cứu và
đã có sức hút rất lớn với nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa, văn học như F.de
Saussure, Mikhail Epstein, V. Skhlovsi, Yuri Lotman...
2.2. Ở Việt Nam, khuynh hướng tiếp cận văn học từ văn hóa thì xuất hiện đã
lâu, thậm chí từ phê điểm trung đại: khi Phạm Quý Thích bình luận Kiều là Nhất
phiếu tài tình thiên cổ lụy, Tân thanh đáo để vị thùy thương; Trần Trọng Kim
nghiên cứu Truyện Kiều từ quan điểm Phật giáo, Hoài Thanh khảo sát từ luồng gió

2


mới của văn hóa phương Tây phần “Một thời đại thi ca” trong Thi nhân Việt
Nam,… Tuy nhiên nhìn nhận phương pháp nghiên cứu này một cách hệ thống, chỉ
ra được lịch sử các quan niệm về phương pháp, nội dung cụ thể của phương pháp,
và sự vận dụng phương pháp ra sao vẫn là một vấn đề rộng mở đối với các nhà
nghiên cứu văn học của Việt Nam.
Trong những thập kỉ gần đây, tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên
hiệp quốc UNESCO đã rất chú tâm đến việc giữ gìn và phát huy truyền thống, bản
sắc văn hóa của từng dân tộc. Mỗi quốc gia đều nhận thức được giá trị quan trọng
của văn hóa, coi văn hóa là nền tảng, động lực phát triển, văn hóa được coi trọng và
gắn với nhiều ngành trong xã hội, vì vậy mà nghiên cứu văn học cũng không nằm
ngoài xu thế ấy. Đặc biệt, khi bộ môn văn hóa học và nhân học văn hóa xuất hiện ở
Việt Nam thì văn hóa bắt đầu được coi như một nhân tố chi phối văn học.
Những năm đầu thế kỉ XX ở nước ta, hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn
hóa đã được nhiều học giả, các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Từ việc đưa ra
những quan điểm về mặt nhận thức, lí luận dựa theo lý thuyết phương Tây áp dụng

vào thực tiễn Việt Nam đến việc thực nghiệm trên một số tác phẩm của các tác gia
tiêu biểu, giới nghiên cứu đã tạo nên một bức tranh nghiên cứu văn hóa – văn học
dưới sự soi rọi của ánh sáng văn hóa. Năm 1985, trong công trình Tìm hiểu phong
cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nhà văn hóa học – GS. Phan Ngọc đã sớm
nhận ra và vận dụng những yếu tố văn hóa xã hội để tìm ra những đặc trưng của
phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Năm 1994, trong cuốn sách Văn hóa
Việt Nam và cách tiếp cận mới, GS. Phan Ngọc cũng đã đưa ra những quan điểm về
văn hóa, cách tiếp cận văn hóa trong văn học, gợi mở nhiều hướng nghiên cứu khác
nhau cho các học giả sau này. Và khi một số công trình của M.Bakhtin được dịch và
giới thiệu ở Việt Nam thì hướng đi này càng được thuyết phục. Đến năm 1995, GS.
Trần Đình Hượu với công trình Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại nghiên
cứu văn học Việt Nam từ Nho giáo đã chỉ ra được đặc điểm của giai đoạn văn học
kể từ đầu Lê đến cuối Nguyễn, mối quan hệ giữa Nho giáo và văn học Việt Nam
trung đại và đưa ra những hình mẫu nhà nho (hành đạo, ẩn dật, tài tử) như là một

3


giả thuyết làm việc. Điều này, về sau, được GS.TS Trần Ngọc Vương cụ thể hóa
bằng một cái nhìn loại hình học trong Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam (1995).
Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực đã thấy
được và lý giải những biểu tượng đa nghĩa, lấp lửng trong thơ Hồ Xuân Hương
bằng tín ngưỡng phồn thực, còn PGS.TS Trần Nho Thìn trong Văn học trung đại
Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (2003) đã đi một bước tiến mới khi đưa ra quan
điểm nghiên cứu văn học trung đại từ những phạm trù cơ bản của văn hóa trung đại
để tránh hiện đại hóa văn học dân tộc. Như vậy, các tác giả như: GS. Đặng Thai
Mai, GS. Đào Duy Anh, GS. Nguyễn Văn Huyên, nhà phê bình văn học Hoài
Thanh, GS. Phan Ngọc, GS. Trần Đình Hượu, GS. Phạm Vĩnh Cư, GS. Trần Đình
Sử,… đã đặt những nền móng đầu tiên cho việc nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn
hóa khi xem tác phẩm như một cấu trúc văn hóa, kí hiệu văn hóa, văn bản của văn hóa

và đặt trong tương quan so sánh với văn hóa.
Tiếp sau bước đi có tính chất mở đầu đó, đã có nhiều học giả mạnh dạn áp
dụng phương pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa cho các công trình nghiên
cứu của mình. Có thể kể ra đây một số công trình nghiên cứu thành công trong việc
tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa như: Văn học trung đại Việt Nam dưới góc
nhìn văn hóa, PGS.TS Trần Nho Thìn, Nhà xuất bản (Nxb) Giáo dục, 2003; Bản
sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, PGS.TS. Nguyễn Bá Thành, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2004; Thơ Mới từ góc độ văn hóa – văn học, Luận án Tiến sĩ, Hoàng
Thị Huế, Học viện Khoa học Xã hội, 2007; Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn
hóa, PGS.TS Lê Nguyên Cẩn, Nxb Thông tin và Truyền thông, 2011; Văn chương
Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa, Luận án Tiến sĩ, Đỗ Thị Ngọc Chi, Học viện Khoa
học Xã hội, 2013;…
2.3. Cho đến nay, với trên ba mươi năm cầm bút, Trần Thùy Mai đã cho ra
đời 12 tập truyện ngắn và xác định được chỗ đứng riêng của mình trong lòng công
chúng yêu văn học. Sáng tác của Trần Thùy Mai cũng nhận được nhiều sự quan tâm
của giới phê bình, nghiên cứu văn học. Đã có nhiều bài viết, bài báo và một số công
trình khoa học nghiên cứu về truyện ngắn Trần Thùy Mai. Tuy nhiên, vấn đề

4


nghiên cứu về truyện ngắn của Trần Thùy Mai còn khá khiêm tốn và rời rạc. Hầu
hết những bài viết về Trần Thuỳ Mai mới chỉ dừng lại ở nhận xét khái quát, sơ bộ
và bộc bạch ấn tượng, cảm xúc về một tập truyện hay một tác phẩm cụ thể nào đó.
Tuy vậy, cũng đã có một số bài viết chỉ ra được dấu ấn riêng trong sáng tác của nữ
nhà văn này. Đặc biệt ở phần nghiên cứu sâu, có thể thấy một số luận văn, luận án
đã có những đóng góp nhất định trong việc phân tích, nhận định về nội dung và
nghệ thuật tác phẩm của Trần Thùy Mai như: Đề tài Ngôn ngữ trong truyện ngắn
Trần Thùy Mai, Luận văn Thạc sĩ, Nguyễn Thị Thanh Bình, Trường Đại học Vinh,
2008, đề tài bước đầu đã có những phân tích, đánh giá, nhận định sâu sắc về ngôn

ngữ trong truyện Trần Thùy Mai; Đề tài Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Trần Thùy
Mai, Luận văn Thạc sĩ, Phùng Thu Phương, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010 đã nghiên cứu những đối tượng thẩm mĩ
chủ yếu trong truyện ngắn Trần Thùy Mai như: tình yêu, cảm hứng lịch sử, màu sắc
văn hóa Huế và phân tích sâu một số thủ pháp nghệ thuật trong truyện ngắn Trần
Thùy Mai như: thủ pháp xây dựng nhân vật, nghệ thuật xây dựng cốt truyện, ngôn
ngữ, giọng điệu; Luận văn cùng tên Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Trần
Thùy Mai, Luận văn Thạc sĩ, Lê Thị Thanh Hiệp, Trường Đại học Đà Nẵng, 2011
cũng đã có những nghiên cứu cơ bản về nghệ thuật trong truyện Trần Thùy Mai, từ
đó đưa ra được những đặc trưng khái quát về phong cách nghệ thuật của Trần Thùy
Mai; Đề tài gia đình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai, Y Ban và Nguyễn Thị Thu
Huệ, Luận văn Thạc sĩ, Lê Thị Huệ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014 đã nghiên cứu một khía cạnh sâu hơn của vấn đề,
đề tài về gia đình cũng là một đề tài quen thuộc được khai thác nhiều và tác giả luận
văn đã biết lồng ghép, so sánh hết sức khéo léo đề tài gia đình trong truyện ngắn của
ba nhà văn nữ tiêu biểu; Đề tài Nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai,
Luận văn Thạc sĩ, Nguyễn Thị Trang Nhung, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
2014 đã đi sâu vào tìm hiểu một trong những hình tượng tiêu biểu của truyện ngắn
Trần Thùy Mai – đó là nhân vật người phụ nữ mang những đặc trưng của người phụ

5


nữ Huế dịu dàng – nhẹ nhàng cũng như những đức tính của người phụ nữ Việt
Nam;…
Về các bài viết trên các báo, tạp chí, đã có rất nhiều tác giả, nhà nghiên cứu
văn học đã dành những đánh giá sâu sắc cho nữ tác giả Trần Thùy Mai cũng như
truyện ngắn của Trần Thùy Mai:
Tác giả Hồ Thế Hà là người đã dành nhiều bài nghiên cứu về tác phẩm của
Trần Thùy Mai, tiêu biểu như bài viết Truyện ngắn Trần Thuỳ Mai - những giấc mơ

huyền thoại đã chỉ ra được vẻ đẹp cổ tích, thần thoại trong truyện ngắn Trần Thuỳ
Mai: "Phần lớn truyện của Trần Thuỳ Mai đã được tư duy theo kết cấu bất ngờ, lôi
cuốn người đọc ở những chi tiết vừa ảo, vừa thực; cái khoảnh khắc, cái vĩnh hằng,
những điểm mạnh và những điểm nhẹ đan xen nhau, có cảm giác như mọi tồn tại
trên đời đều dễ vỡ. Thế nhưng, đọc xong, nó lại có sức bền lâu trong tâm trí" [11,
11]. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong “Truyện ngắn hôm nay” đã đánh giá
Trần Thùy Mai là “cây bút có sức bền với thể loại truyện ngắn”. Lê Mỹ Ý trong một
bài báo đăng trên Tạp chí Người đương thời số tháng 5 – 2007 đã khẳng định: Từ
tập truyện đầu tiên cho tới bây giờ, chị Mai bao giờ cũng giữ được cho mình một
giọng văn, ngôn ngữ, phong cách trong sáng. Trong sáng đến mức luôn có ánh
sáng kỳ ảo giữa cuộc đời. Hoàng Nguyên Vũ cho rằng: Những trang viết của Trần
Thùy Mai chứa đựng những cuộc đời nhỏ, có cuộc đời thoáng qua, có cuộc đời gặp
lại một lần rồi hun hút, có cuộc đời trong những giấc mơ miên viễn. Tác giả Lý
Hạnh trong bài viết đăng trên báo Công an Nhân dân số tháng 3 năm 2008 ấn tượng
với tình yêu trong truyện ngắn Trần Thùy Mai: Trần Thùy Mai viết về tình yêu
không phải để câu khách.
Phan Diễm Phương với bài viết “Nét hấp dẫn của truyện ngắn Trần Thuỳ
Mai” đã cảm nhận và phát hiện về sự chuyển biến trong tiếp cận hiện thực đời sống
của ngòi bút Trần Thuỳ Mai: "Thoạt tiên, cuộc sống hiện ra có phần đơn giản và có
tính chất bề mặt qua câu chuyện kể. Nhưng rồi sau đó, một số truyện của Trần Thuỳ
Mai có vẻ lắng vào chiều sâu hơn. Chị đã cố gắng hướng ngòi bút của mình vào các
trạng thái tâm tưởng của nhân vật" [75; 5]. Tác giả cũng đã cho rằng: đâu đâu trên

6


mỗi dòng truyện, người đọc cũng tìm thấy tấm lòng bao dung, nhân hậu của nhà
văn. Dẫu con người chưa dễ gì vượt qua được "những giới hạn khắt khe" thì thái độ
của chị với cuộc đời, với con người vẫn là tin yêu.
Tác giả Mai Văn Hoan đã có sự khám phá thú vị về truyện ngắn Trần Thùy

Mai trong bài viết nhan đề “Trần Thùy Mai và những giấc mơ hoang tưởng”, bên
cạnh việc khẳng định đề tài chủ đạo trong truyện ngắn Trần Thùy Mai là đề tài tình
yêu, tác giả đã đặc biệt quan tâm đến các thủ pháp nghệ thuật, từ cách xây dựng cốt
truyện đến xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu, cách kể chuyện theo ngôi thứ
nhất.
Tác giả Minh Hiền trong bài viết nhan đề “Trần Thùy Mai và tác phẩm vượt
biên giới”, đăng trên Báo Thừa Thiên Huế ngày 27/1/2012 đã có những nhận định
xác đáng dành cho văn chương của nữ nhà văn đất Huế này:
“Giữa thời đại ồn ào náo nhiệt, vậy mà Trần Thùy Mai cũng như văn chương
của chị luôn giữ được sự tĩnh lặng, trong veo, nhiều khi rất buồn. Văn của chị
không ồn ào nhưng lại có sức lan tỏa. Không thu hút người đọc bằng những cốt
truyện lạ, không chạy theo thị hiếu, không những pha rượt đuổi gay cấn, truyện của
chị đầy ắp những chi tiết giản dị, cốt truyện đơn giản. Chị tập trung khai thác, thể
hiện thế giới nội tâm nhân vật. Đề tài quen thuộc trong truyện của chị là tình yêu và
lịch sử, đặc biệt là phần lịch sử gắn liền với kinh đô Huế xưa. Mỗi câu chuyện như
một lời kể nhẹ nhàng, chậm rãi, đầy tình cảm cứ chuyên chở vào hồn người những
trăn trở, nghĩ suy và day dứt. Trong nghệ thuật, Trần Thùy Mai chỉ có một tôn chỉ:
Sự chân thành. Chị không tỏ ra mình mới hay cũ, thời thượng hay không mà chỉ
muốn góp một dòng nước ngầm chảy sâu vào từng ngõ ngách của tâm hồn con
người”.
Tác giả Hoàng Thị Huế đã có những phân tích và đánh giá sâu sắc về sự quy
chiếu của văn hóa Huế trong truyện ngắn Trần Thùy Mai ở bài viết “Cảm thức văn
hóa Huế trong truyện ngắn Trần Thùy Mai” in trên Tạp chí sông Hương năm 2011:
“Dẫu viết về những vùng đất khác nhau hay về vùng đất Huế, cảm thức văn hóa
Huế vẫn in đậm trong những trang văn của Trần Thùy Mai, như một nét riêng, sức

7


mạnh làm nên tên tuổi của nhà văn. Văn hóa Huế thấm sâu sự lựa chọn từng chi tiết

trong tác phẩm của nhà văn, trong ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu đến quan niệm
nghệ thuật về con người. Tất cả đều mang đậm nét đặc trưng của văn hóa, con
người xứ Huế. Đó là những con người giàu tình nặng nghĩa, tha thiết yêu cuộc sống,
yêu thiên nhiên, đất nước, có một đời sống nội tâm phong phú, nặng tâm linh, với
một vẻ dịu dàng, kín đáo, trang đài, quý phái của cung đình và sức sống mãnh liệt.
Trong những sinh hoạt, lối sống, ứng xử hàng ngày, những giá trị chuẩn mực của
một thời vẫn được nâng niu, gìn giữ”.
Một số bài nghiên cứu đã có những phân tích, nhận định sâu hơn, cụ thể hơn
với những tác phẩm của Trần Thùy Mai, tiêu biểu như:
Viết về tập Trò chơi cấm, Hồ Thế Hà đã có cái nhìn bao quát qua bài viết
“Thế giới truyện ngắn Trần Thuỳ Mai qua Trò chơi cấm” (in trong Tìm trong trang
viết, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1998). Tác giả đã bước đầu nêu lên một cách khá hệ
thống và chi tiết các thủ pháp nghệ thuật chính của tập truyện như: kết cấu, cốt
truyện, không gian và thời gian nghệ thuật. Nhận xét về giọng văn trong Trò chơi
cấm, Hồ Thế Hà viết: “Giọng văn tâm tình, mềm mại gắn với những phản ứng tâm
thức kín đáo của nhân vật đã tạo nên giá trị nhân bản của truyện ngắn Trần Thuỳ
Mai. Đó là nét làm nên sức hấp dẫn của nhà văn mang đậm bản sắc Huế”, “giọng
văn thủ thỉ tâm tình và thấm đẫm chất thơ, quyến rũ bởi chất huyền thoại”, qua đó
thấy được chất triết lý về cuộc sống của con người thời hiện đại trong truyện ngắn
Trần Thùy Mai.
Nhận xét về tập truyện Mưa đời sau, tác giả Minh Phương có bài: “Đọc sách:
Mưa đời sau” trên Báo Nhân dân - số 305 với những nhận định khá sâu sắc về thế
giới nhân vật trong tập truyện: “Ngòi bút Trần Thuỳ Mai hướng tới phát hiện vẻ đẹp
phẩm cách và lòng hướng thiện của những nhân vật trong truyện” và đặc biệt nhân
vật của chị được “Khéo léo khắc họa diễn biến tâm lí với lối kết hợp tự nhiên, bất
ngờ, lôi cuốn”. Bên cạnh đó, tác giả Minh Phương cũng đã có một vài nhận xét ban
đầu về giọng văn và kết cấu tác phẩm, những dấu hiệu góp phần định hình phong
cách tác giả.

8



Tập Quỷ trong trăng cũng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu. Tác giả Lê Mỹ Ý trong bài đăng trên Báo Lao động miền Trung với nhan đề
“Cuộc hành hương bên bờ xa vắng” đã nêu lên nhận xét: “Giữa mê lộ ám ảnh, giác
độ tình yêu được soi xét từ nhiều điểm chiếu. Dù ở điểm chiếu nào, truyện ngắn của
chị cũng hiện hữu một niềm say đắm miên man của ý niệm thuần khiết. Đấy là ý
niệm để tác giả vén lên một luồng sáng mong manh, đi sâu vào những ngóc ngách
nhỏ nhoi, tìm ra đời sống hơn là đời sống, nhận thức ra tia sáng hằng hữu, bất biến
trong tình yêu”. Sức hấp dẫn của tập truyện này còn được Lê Mỹ Ý đánh giá ở
giọng văn nhẹ nhàng với thứ ngôn ngữ tự nhiên. Tác giả Nguyễn Thị Kim Huệ với
bài viết Quỷ trong trăng và thế giới đậm cá tính phương Tây thì phát hiện ra: “Quỷ
trong trăng là một thế giới của nhân vật nữ đang tồn tại thật với bản ngã của chính
mình, dù họ phải trả bằng chính cuộc đời của họ. Thế nhưng, họ không nuối tiếc
hay hối hận cho những lựa chọn của mình, bởi họ là những phụ nữ phương Đông
dịu dàng bao dung nhưng lại tiềm tàng sự nổi loạn, tự do và bất chấp kể cả cái chết
cho tình yêu”. Và Nguyễn Thị Kim Huệ gọi đây là thế giới nữ đậm cá tính phương
Tây. Trên Báo Thanh niên (2001) và Quảng Nam chủ nhật (2002) các tác giả Ngô
Thị Kim Cúc và Bảo Anh cũng đã viết về những tư tưởng sâu kín đầy bao dung và
nhân ái, về cái phần quỷ - phần người trong Quỷ trong trăng...
Tập truyện Mưa ở Strabourg cũng đã được giới thiệu trên bài viết “Em ơi,
phía ấy mưa rơi” đăng trên tuanvietnam.vn với nhận định Trần Thùy Mai “táo bạo
trong việc thể hiện nững khoảng trống trong tâm hồn của người phụ nữ ngày nay, ẩn
chứa ở đó là những khát khao rất đời”. Bên cạnh việc tiếp tục khắc họa đậm nét số
phận người phụ nữ thì ở tập truyện này xuất hiện nhiều hơn những mặt trái ti tiện,
đớn hèn.
Như vậy, có thể thấy, dành nhiều ưu ái và những đánh giá cao cho truyện
ngắn Trần Thùy Mai, tuy nhiên cũng rất ít công trình nghiên cứu một cách cụ thể, đi
sâu về góc độ văn hóa trong truyện ngắn Trần Thùy Mai. Tuy nhiên, những công
trình nghiên cứu, bài viết về truyện ngắn Trần Thùy Mai là tư liệu gợi mở cho

chúng tôi khi đi sâu tìm hiểu những giá trị văn hóa trong truyện ngắn Trần Thùy Mai.

9


3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài “Truyện ngắn Trần Thùy Mai từ góc nhìn văn hóa” được triển khai nhằm
những mục đích chính sau:
- Khẳng định mối quan hệ giữa văn hóa - văn học, những phương thức biểu đạt của
văn hóa trong văn học.
- Làm rõ căn nguyên tồn tại của chất văn hóa trong sáng tác của nhà văn.
- Khẳng định nét độc đáo về tư tưởng, nội dung, nghệ thuật của sáng tác Trần Thùy
Mai soi chiếu từ góc độ văn hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: truyện ngắn Trần Thùy Mai và các giá trị văn hóa biểu hiện
trong tác phẩm văn học.
- Phạm vi nghiên cứu: tám tập truyện ngắn của Trần Thùy Mai gồm:
+ Thị trấn hoa quỳ vàng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1994.
+ Thập tự hoa, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2003.
+ Biển đời người, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003.
+ Đêm tái sinh, Nxb Thuận Hóa Huế, 2004.
+ Mưa đời sau, Nxb Văn Nghệ, 2005.
+ Mưa ở Trasbourg, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2007.
+ Một mình ở Tokyo, Nxb Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, 2008.
+ Trăng nơi đáy giếng, Nxb Thanh Niên, 2010.
Truyện ngắn Trần Thùy Mai nổi bật ở rất nhiều mảng đề tài liên quan tới văn
hóa và lịch sử, tuy nhiên trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình, luận văn sẽ
chỉ tập trung làm nổi bật những giá trị thuộc về văn hóa trong truyện ngắn Trần
Thùy Mai. Những giá trị lịch sử trong truyện sẽ được đề cập đến trong những lần
nghiên cứu sau.


10


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp luận nghiên cứu khoa học như quy nạp, diễn dịch,
thống kê, luận văn chủ yếu sử dụng những phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
sau:
- Phương pháp tiếp cận văn hóa - văn học.
- Phương pháp loại hình học.
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học.
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
- Luận văn đưa ra những luận điểm mang tính chất lí luận về văn hóa, văn học, mối
quan hệ giữa văn hóa – văn học và phương pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn văn
hóa.
- Chứng minh những giá trị văn hóa phản ánh trong nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm văn học.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn cung cấp cơ sở lí luận, là ví dụ điển hình cho việc nghiên cứu tác phẩm
văn học từ góc nhìn văn hóa. Từ đó luận văn là tư liệu tham khảo cho sinh viên
ngành văn học, cho các nhà nghiên cứu, gợi mở những hướng nghiên cứu tiếp theo
trong phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu trúc với 03 chương như sau:
Chương 1: Mối quan hệ giữa văn học – văn hóa và hành trình sáng tác của nhà văn
Trần Thùy Mai
Chương 2: Những giá trị văn hóa trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Trần Thùy Mai từ góc nhìn văn
hóa.


11


CHƢƠNG 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC – VĂN HÓA
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN TRẦN THÙY MAI

1.1 Khái niệm văn hóa – văn học
1.1.1 Văn hóa
Văn hóa là một trong những “điều kiện cần” không thể thiếu được cho sự trường
tồn của mỗi một dân tộc, một đất nước. Bởi vậy mà nghiên cứu về văn hóa, các
phương diện của văn hóa và đưa ra các khái niệm về văn hóa,… đã được nhiều nhà
nghiên cứu tiến hành tìm hiểu từ rất lâu. Văn hóa là nền tảng cho mọi ngành khoa
học, từ xã hội học, tâm lý học, văn học, toán học, vật lý học, hóa học, sinh học, âm
nhạc, ngôn ngữ học, v.v… Vì văn hóa liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và
tinh thần của con người nên khái niệm văn hóa có nội hàm rất rộng và với nhiều
cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là
Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn trong cuốn sách Culture, a critical review of
concept and definitions (Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và
định nghĩa) đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các
công trình nổi tiếng thế giới [65; 2]. Còn theo GS. Phan Ngọc, tính đến hiện nay trên
thế giới đã có khoảng hơn 400 định nghĩa về văn hóa [29; 7].
Trong thời kỳ Cổ đại ở Trung Quốc, văn hóa được hiểu là cách thức điều
hành xã hội của tầng lớp thống trị dùng văn hóa và giáo hóa, dùng cái hay, cái đẹp
để giáo dục và cảm hóa con người. Văn đối lập với vũ, vũ công, vũ uy dùng sức
mạnh để cai trị. Nghĩa gốc của văn hóa theo chữ Hán là tổng xưng của “văn trị” và
“giáo hóa” [71; 5].
Ở phương Tây, từ “văn hóa” trong tiếng Anh và tiếng Pháp (culture), tiếng
Đức (Kultur) có nguồn gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo, colui,

cultus với hai nghĩa: “(1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng”

12


[78; 1]. Các nhà khoa học phương Tây đã dựa trên những cách tiếp cận khác nhau
để định nghĩa về văn hóa:
- Các tiếp cận theo phương pháp miêu tả: các nhà nghiên cứu theo phương
pháp miêu tả quan tâm định nghĩa văn hóa theo những gì mà nó bao hàm, điển hình
là định nghĩa của nhà nhân loại học Anh: Edward Burnett Tylor (1832 - 1917): “văn
hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp
gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những
khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên
của xã hội” [78; 1].
- Cách tiếp cận theo phương pháp lịch sử: các nhà nghiên cứu văn hóa theo
phương pháp lịch sử chú trọng vào các quá trình kế thừa xã hội, truyền thống, tất cả
đều dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định nghĩa
tiêu biểu cho cách tiếp cận này là của Edward Sapir (1884 - 1939) - nhà nhân loại
học, ngôn ngữ học người Mỹ: “văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là
những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức
hợp của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống” [78; 2].
- Cách tiếp cận giá trị: các nhà nghiên cứu văn hóa theo phương pháp tiếp
cận giá trị nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị, một ví dụ trong cách định nghĩa
về văn hóa theo tiếp cận giá trị là của William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà xã
hội học người Mỹ coi văn hóa là “các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm
người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử,...)” [78; 2].
- Cách tiếp cận theo phương pháp tâm lý học: cách tiếp cận này nhấn mạnh
vào quá trình thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen,
hành vi ứng xử của con người trong cuộc sống. William Graham Sumner (1840 1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và
cộng sự của ông đã có cách định nghĩa văn hóa theo phương pháp tâm lý học:

“Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính
là văn hóa, hay văn minh... Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường
kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa” [78; 3].

13


- Cách tiếp cận cấu trúc: cách tiếp cận cấu trúc quan tâm khía cạnh tổ chức
cấu trúc của văn hóa, điển hình là định nghĩa của Ralph Linton (1893 - 1953) - nhà
nhân loại học người Mỹ: “a. Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều
có tổ chức của các thành viên xã hội; b. Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà
các thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế
thừa” [78; 3].
- Cách định nghĩa nguồn gốc: cách định nghĩa này soi chiếu văn hóa từ góc
độ nguồn gốc của nó, tiêu biểu là định nghĩa của nhà xã hội học người Mỹ gốc Nga
Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968): “Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ
tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô
thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của
nhau” [78; 4].
Các cách tiếp cận trên tuy khác nhau nhưng chúng đều dựa trên những
nguyên tắc chung đó là dựa trên mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
dựa trên hình thái kinh tế xã hội và những nguyên tắc hoạt động của triết học Mác
như nguyên tắc thực tiễn để nêu lên một định nghĩa về văn hóa. Mỗi cách tiếp cận
đều cho thấy một khía cạnh ưu việt riêng. Tuy nhiên, cách tiếp cận văn hóa dựa trên
giá trị học là một phương pháp tiếp cận đã có từ lâu đời và cho đến nay vẫn thể hiện
được vai trò quan trọng, nổi trội của nó. “Cách tiếp cận này không chỉ thâm nhập
vào triết học mà còn có cả lý luận văn hóa, mỹ học, đạo đức học cùng nhiều bộ môn
khoa học khác và đã dấy lên những cuộc tranh luận đến tận bây giờ. Quá trình phát
triển của tiếp cận giá trị học đã thể hiện sự tìm kiếm bản chất của văn hóa theo ba
cấp độ đối tượng: cấp độ vật chất, cấp độ chức năng và cấp độ hệ thống. Tương ứng

với cấp độ vật chất của đối tượng là định nghĩa mô tả văn hóa như thế giới các đồ
vật được con người sáng tạo và sử dụng trong quá trình lịch sử. Trong một công
trình nghiên cứu về văn hóa của mình, Iu.V.Brômlây và R.C.Pađôlưi đã khẳng định:
Văn hóa trong ý nghĩa rộng rãi nhất của từ này, đó là tất cả những cái đã và đang
được tạo ra bởi nhân loại” (dẫn theo Phạm Quang Tùng [73; 2]).

14


Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất,
tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống
giá trị, truyền thống và đức tin” [53; 3].
Ở nước ta, khái niệm về văn hóa cũng đã xuất hiện từ rất lâu, hơn 600 năm
trước, Nguyễn Trãi đã dùng “văn hiến” để khẳng định độc lập, chủ quyền của dân
tộc trong bản tuyên ngôn độc lập “Bình Ngô đại cáo”: “Như nước Đại Việt ta từ
trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam
cũng khác”. Chính cái “nền văn hiến”, cái “phong tục” tự ngàn đời ấy là cơ sở đanh
thép, vững vàng để chúng ta khẳng định quyền tự chủ với quân cướp nước. Từ xa
xưa, văn hóa đã có một sức mạnh vô hình và là cơ sở tồn tại hết sức quan trọng với
mỗi một quốc gia, dân tộc. Các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu ở nước ta cũng đã
cố gắng đưa ra những khái niệm về văn hóa phù hợp với tiêu chí chung của nhân
loại và tiêu chí của quốc gia, dân tộc.
Trong công trình Xã hội học Văn hóa do Viện Văn hóa và Nhà xuất bản
(Nxb) Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, Đoàn Văn Chúc định nghĩa rằng:
Văn hóa – vô sở bất tại: Văn hóa - không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất
cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào
có con người nơi đó có văn hóa [5; 18].
Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ

Giáo dục và Đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, xuất
bản năm 1998, thì lại định nghĩa: "Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do
con người sáng tạo ra trong lịch sử" [51; 58].
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nxb Đà Nẵng và Trung
tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì văn hóa được định nghĩa là: “Văn hóa là
tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình lịch sử. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do

15


con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội…” [48; 77].
Theo Wikipedia tiếng Việt: “Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của
con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất
của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa,
quần áo, các phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó
là một phần của văn hóa” [81; 1].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một cách hiểu về văn hóa như sau: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [30; 55]. Với cách hiểu
này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra.
Còn cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một
lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là
thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển,
quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư
tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự
tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân

tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [73; 3].
Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con
người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng, sức
chiến đấu của mỗi người, mỗi dân tộc.
Trong tác phẩm Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt
Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội [40, 24]. Như vậy với cách định nghĩa này thì nội hàm của khái niệm văn hóa
bao gồm: Thứ nhất, đó là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo

16


ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người và vì con người. Thứ hai, những giá
trị mà con người sáng tạo ra đó phải mang tính nhân tính. Điều đó có nghĩa là có
những giá trị do con người sáng tạo ra nhưng nó không phải là giá trị văn hóa bởi vì
nó không mang tính người, nó hủy hoại cuộc sống của con người do đó không được
cộng đồng chấp nhận như: bom nguyên tử, các vũ khí giết người hay chủ nghĩa
khủng bố; một vấn đề nổi cộm trong giai đoạn hiện nay.
Có thể nói, khó có thể đưa một định nghĩa hay khái niệm về văn hóa. Dựa
trên những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, dựa trên những cách tiếp cận khác nhau
phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình mà các nhà khoa học, nhà nghiên cứu
có thể lựa chọn một định nghĩa hay khái niệm có nội hàm gần nhất với vấn đề
nghiên cứu của mình. Tuy khác nhau nhưng các định nghĩa về văn hóa đều thống
nhất ở một điểm, coi văn hóa là cái do con người sáng tạo ra, cái đặc hữu của con người.
Mọi thứ văn hóa đều là văn hóa thuộc về con người, các thứ tự nhiên không thuộc về
khái niệm văn hóa. Văn hóa là đặc trưng căn bản, phân biệt con người với động vật, cũng
là tiêu chí căn bản để phân biệt sản phẩm nhân tạo và sản phẩm tự nhiên.
Tóm lại, văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát

triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa
được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con
người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện
trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như
trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Những năm gần đây, nhận thức về vai trò quyết định của văn hóa ở nước ta
được nâng cao, đúng với giá trị đích thực của nó, ngay từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ
IV, Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã khẳng định: văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân
tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người,
với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế -

17


xã hội, vừa là một trong những mục tiêu của chúng ta [72; 2]. Các chính sách về
văn hóa của Đảng ta thể hiện quan điểm: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
thể hiện trình độ của dân tộc, văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy Đảng và nhà nước ta đang chủ trương xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.1.2 Văn học
Văn học theo nghĩa rộng là thuật ngữ “gọi chung mọi hành vi ngôn ngữ nói - viết và
các tác phẩm ngôn ngữ. Nó bao gồm các tác phẩm mà ngày nay có thể xếp vào loại
chính trị, triết học, tôn giáo” [72; 2]. Với nghĩa rộng, văn học đồng nghĩa với văn
hóa. Còn văn học theo nghĩa hẹp chỉ khái niệm văn hóa - nghệ thuật mà ta quen
dùng hiện nay. Nó bao gồm các tác phẩm ngôn từ có tính chất được sáng tác bằng
hư cấu, tưởng tượng. Như vậy văn học theo nghĩa hẹp không bao gồm các tác phẩm
chính trị, triết học, tôn giáo. Văn học theo nghĩa hẹp chính là văn chương. Văn học

nằm trong văn hóa, trở thành một phần quan trọng của văn hóa. Văn học được coi là
“một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con người.
Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể hiện nội
dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ” [81; 1]. Văn học là một hình thái ý
thức xã hội thẩm mĩ, nó bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một quan
điểm, lập trường đối với đời sống. Nhưng văn học không phản ánh hiện thực trong
ý nghĩa khách quan, phổ quát của chủng loại, của sự vật như cái giếng, con đường,
cái ao… mà nó quan tâm là một hệ người kết tinh trong sự vật. Ví dụ, nói đến mây,
văn học không phản ánh nó giống như một hiện tượng địa lí mà nói đến nó như một
bộ phận của cuộc sống con người, của thế giới người, mang nội dung quan hệ con
người. Vì mây cho núi lên trời/ Vì chưng gió thổi, hoa cười với trăng (Ca dao); Văn
học nói đến hoa không phải với tư cách 1 bộ phận sinh sản của cây mà nhìn hoa như
một con người, coi hoa là hiện thân của cái đẹp, của sự nảy nở tươi tắn: Hoa cười
ngọc thốt đoan trang (Truyện Kiều, Nguyễn Du)…
Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích sáng tác của văn
chương, đến vấn đề viết để làm gì, đến ý nghĩa văn hóa - xã hội của nó. Văn học là

18


một hoạt động tinh thần không chỉ của người sáng tạo mà của cả người tiếp nhận,
thưởng thức. Nó mang những chức năng có ý nghĩa xã hội rộng lớn bởi "chức năng
là sự biểu hiện ra bên ngoài các đặc tính của một khách thể nào đó trong một hệ
thống các quan hệ nhất định" [82; 3]. Tác phẩm văn học là sự biểu hiện về năng lực,
trình độ, phẩm chất tinh thần của chủ thể trong sự sáng tạo, phản ánh hiện thực đời
sống khách quan, xã hội, con người, dựng nên "hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan". Vì vậy, văn học có chức năng phản ánh hiện thực. Văn học là biểu
hiện cái quan hệ mang tính người của con người trong quá trình chiếm lĩnh, đồng
hóa hiện thực bên ngoài và bên trong nó dưới hình thức nghệ thuật của ngôn từ. Cái
quan hệ người ấy trong cuộc sống nhân loại thật phong phú, nhiều cung bậc, hình

thái khó đếm bởi sự vận động không ngừng, bất tận. Văn học giúp người đọc hiểu
biết cái nội dung, cái hình thức, cái hay, cái đẹp; giúp họ thư giãn tâm hồn, tạo trạng
thái cân bằng tâm lí, tinh thần. Vì vậy, văn học có chức năng thưởng thức, thư giãn,
giải trí. Văn học giúp người đọc hiểu biết nhiều mặt về đời sống, chịu sự tác động
nhiều cung bậc, đa diện vào nhận thức, tư tưởng, tâm lí, tình cảm, vì vậy mà văn
học trau dồi mặt tình cảm, hiểu biết cho con người. Văn học có vô vàn chức năng:
"văn dĩ tải đạo", văn thơ làm vũ khí chiến đấu chống lại cường quyền, chức năng
"mua vui", chức năng nhận thức, giáo dục, chức năng thẩm mĩ.... Chức năng văn
học chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài của chỉnh thể và giá trị toàn vẹn thuộc thế giới
nghệ thuật trong những sự tiếp nhận nghệ thuật khác nhau. Số lượng các chức năng
của văn học có bao nhiêu tùy thuộc vào cách nhìn, cách lí giải của từng người. Bắt
đầu có những xu hướng tìm một chức năng cơ bản có ý nghĩa khái quát, sâu xa nhất
như ý kiến cho rằng chức năng văn học là "giữ gìn, phát triển, truyền đạt sự sống,
chất người cho con người" [82; 4].
1.2 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
1.2.1 Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa
Sự phát triển và ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa vào tất cả các ngành khoa
học khác trong đó có văn học đã góp phần khẳng định vai trò và sự gắn kết không

19


thể tách rời giữa văn học và văn hóa. Trong quá trình phát triển lịch sử của mình,
cũng như nhiều ngành khoa học khác, nghiên cứu văn học đã góp phần to lớn trong
việc nhận thức về vai trò của văn hoá trong sáng tạo và tiếp nhận văn học, cũng như
trong đời sống xã hội. Văn học nằm trong văn hóa, là một bộ phận của văn hóa.
Nghiên cứu văn học luôn luôn phải đặt nó trong mối quan hệ với văn hóa (cái
chung) với tư cách là toàn bộ sáng tạo vật chất và tinh thần của nhân loại. Trong
công trình Mĩ học sáng tạo ngôn từ, Nxb Nghệ thuật, Maxcova, 1989, tr. 329,
M.Bakhtin xác định: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa.

Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa của một thời đại
trong đó nó tồn tại”. Văn học được coi là sự “tự ý thức văn hóa” [54; 2], có nghĩa là
trong văn học, luôn bộc lộ rõ nét bản chất của văn hóa một đất nước, và những tác
phẩm văn học luôn mang trong mình những biểu hiện văn hóa đặc trưng của một
vùng quê, một đất nước, mặc dù người viết có hay không ý thức cần phải truyền tải
văn hóa vào sáng tác của mình. Bởi văn học là sự hiển đạt văn hóa một cách hiển
nhiên. Hay nói theo PGS.TS Trần Lê Bảo: “…nhà văn – chủ thể sáng tác phải là
con đẻ của một cộng đồng, thuộc về một cộng đồng nhất định, muốn hay không anh
ta cũng đã tiếp nhận những thành tố văn hóa của cộng đồng mình, những lối tư duy,
những mô thức ứng xử trong đó chứa đựng nội hàm văn hóa tâm lý riêng của thời
đại cũng như những ngưng tụ giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng. Vì vậy
nhà văn dù sáng tạo tới đâu, viết ra hay nói ra vấn đề gì thì cũng vẫn thể hiện tâm
thái văn hóa và những kết cấu tâm lý văn hóa độc đáo của dân tộc mình” [54; 4].
Cũng theo PGS.TS Trần Lê Bảo, “Văn học chẳng những là một bộ phận của văn
hóa, chịu sự chi phối ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà còn là một trong những
phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa. Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi
trường văn hóa thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời
thể hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân
tộc. Cùng với hệ thống giá trị văn hóa là những mô thức văn hóa riêng của một cộng
đồng dân tộc, văn học đã tự giác tiếp nhận và thể hiện những giá trị và mô thức mà
cả cộng đồng tôn trọng và tuân thủ” [54; 5].

20


×