Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG ô NHIỄM đất ở ĐỒNG BẰNG SÔNG cửu LONG và các BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.27 KB, 24 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM ĐẤT Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ CÁC BIỆN
PHÁP KHẮC PHỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
I.

Tính cấp thiết của vấn đề.

Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu đất đai dân cư xây
dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Vậy đất đai đóng vai trò
quyết định cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
Các nhà khoa học của thế giới cũng như của Việt Nam đã cảnh báo rằng: cùng với ô
nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất cũng đang là 1 vấn đề đáng báo
động. ô nhiễm đất gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp, chất lượng nông sản
rồi thông qua các sản phẩm nông nghiệp như lương thực, rau quả…mà ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khỏe con người.
Ngày nay khi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang được đẩy mạnh, hoạt động
công nghiệp, nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ, mức độ sử dụng đất tăng lên rất cao, trong
khi đó các biện pháp bảo vệ đất chưa được chú ý dẫn đến tình trạng ô nhiễm đất ở 1 số
địa phương, 1 số vùng xảy ra vô cùng nghiêm trọng. trong đó phải kể đến Đồng Bằng
sông Cửu Long.
II.

Ý nghĩa.

Đề tài này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nguyên nhân gây ô nhiễm đất, thực trạng ô
nhiễm đất ở khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long, xem xét các biện pháp được đưa ra để
giải quyết tình trạng ô nhiễm của chính quyền các địa phương thuộc khu vực này và đưa
ra được các biện pháp của mình để cải thiện tình hình ô nhiễm đất tại đây.


B. NỘI DUNG.
I. Đặc điểm khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long.


1. Điều kiện tự nhiên
• vị trí địa lý

Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực nằm ở vị trí cực Nam của đất nước, diện tích tự
nhiên 3.973.429 ha (chiếm 12% diện tích cả nước); giáp với vùng Đông Nam Bộ và TP.
Hồ Chí Minh; phía Tây Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan; phía Đông
Nam là Biển Đông. Nếu xác định TP. Cần Thơ là trung tâm của khu vực sẽ có các điểm
cực trên đất liền, gồm: Điểm cực Tây 106o26′ (xã Mỹ Đức, Tx. Hà Tiên, Kiên Giang),
cực Đông 106o48′ (xã Tân Điền, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), cực Bắc 11o1′
(xã Lộc Giang, huyện Đức Hoà, tỉnh Long An), cực Nam 8o33′ (Mũi Cà Mau, huyện
Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau).
• Điều kiện tự nhiên.
Đồng bằng sông Cửu Long có hệ sinh thái rừng ngập mặn và ngập phèn đặc sắc rộng
khoảng 360.996ha, là nơi còn lưu giữ và bảo tồn nguồn động, thực vật quý hiếm của rừng


ngập mặn nhiệt đới; đồng thời tạo ra nhiều cảnh quan thiên nhiên, môi trường độc đáo
phục vụ cho nghiên cứu khoa học và du lịch.
Với bờ biển dài trên 700km, ôm một vùng lãnh hải rộng khoảng 360.000km2, gần 50 đảo
lớn nhỏ (Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du, Hòn Khoai…) và các bể trầm tích Cửu Long,
Nam Côn Sơn, Thổ Chu, Mã Lai… giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan, chứa hàng tỉ tấn
dầu khí cùng những đặc quyền kinh tế khác rất thuận lợi cho kinh tế biển và giao thương
kinh tế quốc tế. Đồng thời, Đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng có biên giới đất liền
giáp Campuchia dài khoảng 339,82km qua 4 tỉnh của Việt Nam (Long An, Đồng Tháp,
An Giang, Kiên Giang) và 5 tỉnh của Campuchia, giữ vị trí đặc biệt quan trọng về quốc
phòng – an ninh.


Đồng bằng sông Cửu Long được hình thành từ những trầm tích phù sa, bồi dần qua
những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành
những giồng cát dọc bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông, biển đã hình thành
những khu đất phù sa phì nhiêu dọc ven sông, một số giồng cát ven biển và đất phèn trên
trầm tích đầm ngập mặn trũng thấp, như: vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên –
Hà Tiên, Tây Nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau.
Cách đây khoảng 8.000 năm, vùng ven biển trải rộng dọc theo triền phù sa cổ thuộc trầm
tích Pleistocen từ Hà Tiên đến thềm bình nguyên Đông Nam Bộ. Sự hạ thấp của mực
nước biển một cách đồng thời với việc lộ ra từng phần vùng đồng bằng vào giai đoạn
cuối của thời kỳ trầm tích Pleistocen. Một mẫu than ở tầng mặt đất này được xác định
bằng C14 ( ) cho thấy nó có tuổi tuyệt đối là 8.000 năm. Sau thời kỳ băng hà cuối cùng,
mực mước biển dâng cao tương đối nhanh vào khoảng 3m đến 4m trong suốt giai đoạn
khoảng 1.000 năm (Blackwelder và những người khác, 1979) ( ), gây ra sự lắng tụ của
các vật liệu trầm tích biển ở những chỗ trũng thấp của châu thổ; tại đây những sinh vật
biển như hàu (Ostrea) được tìm thấy và việc xác định tuổi tuyệt đối của chúng bằng C14
cho thấy trầm tích này được hình thành cách đây khoảng 5.680 năm.
Dưới những ảnh hưởng của môi trường biển và nước lợ, thực vật rừng ngập mặn dày đặc
đã bao phủ toàn vùng này, chủ yếu là những cây đước (Rhizophora sp) và cây mắm
(Avicennia sp). Những thực vật chịu mặn này đã tạo thuận lợi cho việc giữ lại các vật liệu
lắng tụ, làm giảm sự xói mòn do nước hoặc gió, cung cấp sinh khối cho trầm tích châu
thổ, rồi những đầm lầy biển được hình thành. Tại vùng này, khoảng 5.500 năm trước


công nguyên, trầm tích lắng tụ theo chiều dọc dưới điều kiện mực nước biển dâng cao đã
hình thành những cánh đồng rộng lớn mang vật liệu sét. Sự lắng tụ kéo dài của các vật
liệu trầm tích bên dưới những cánh rừng Đước dày đặc đã tích lũy dần để hình thành địa
tầng chứa nhiều vật liệu sinh phèn (pyrit).
Mực nước biển dâng cao, bao phủ cả vùng hầu như không ổn định và bắt đầu có sự giảm
xuống cách đây vào khoảng 5.000 năm (Pons L. J. và những người khác, 1982) ( ). Sự hạ

thấp mực nước biển dẫn đến việc hình thành một mực nước biển mới, sau mỗi giai đoạn
như thế thì có một bờ biển mới được hình thành, và cuối cùng hình thành nên những dãy
cồn cát chạy song song với bờ biển hiện tại mà người ta thấy ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Một cồn cát chia cắt vùng Đồng Tháp Mười và vùng trầm tích phù sa được xác
định bằng C14 cho thấy có tuổi tuyệt đối vào khoảng 4.500 năm (Ngộ, 1988) ( ).
Sự hạ dần của mực nước kèm theo những thay đổi về môi trường vùng đầm lầy biển,
thực vật chịu mặn mọc dầy đặc (Rhizophora sp, Avicinnia sp) được thay thế bởi những
loài thực vật khác của môi trường nước ngọt như tràm (Melaleuca sp) và những loài thực
thực vật hoang dại khác (Fimbristylis sp, Cyperus sp). Sự ổn định của mực nước biển dẫn
đến một sự bồi lắng trầm tích ven biển khá nhanh với vật liệu sinh phèn thấp hơn (Pons
L. J. và những người khác, 1989).
Sông Cửu Long đóng vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình hình thành vùng châu
thổ, lượng nước cung cấp trung bình hàng năm khoảng 4.000 tỷ m³ và khoảng 100 triệu
tấn phù sa (Morgan F. R., 1961); những mảnh vỡ bị bào mòn từ lưu vực sông, mặc dù
một phần có thể dừng lại tạm thời dọc theo hướng chảy, cuối cùng được mang đến cửa
sông và được lắng tụ như một châu thổ (Morisawa, 1985). Những vật liệu sông được lắng
tụ dọc theo sông để hình thành những đê tự nhiên có chiều cao 3m đến 4m, một phần của
những vật liệu phù sa phủ lên trên những trầm tích pyrit thời kỳ Holocen với sự biến
thiên khá rộng về độ dày tầng đất và không gian vùng (Pons L. J. và csv, 1982). Các con
sông được chia cắt với trầm tích đê phù sa nhưng những vùng rộng lớn mang vật liệu
trầm tích biển chứa phèn tiềm tàng vẫn còn lộ ra trong vùng đầm lầy biển (Moormann,
1961). Tuy nhiên, độ chua tiềm tàng không xuất hiện trong vùng phụ cận của những
nhánh sông gần cửa sông mà tại đây ảnh hưởng rửa bởi thủy triều khá mạnh. Ngược lại,
vùng châu thổ sông Sài Gòn, nằm kế bên hạ lưu châu thổ sông Mekong, được biểu thị bởi
một tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm do lượng vật liệu phù du trong nước sông khá
thấp, châu thổ này bị chia cắt bởi nhiều nhánh sông thủy triều và do bởi những vành đai
thực vật chịu mặn thì rộng lớn hơn vành đai này ở vùng châu thổ sông Mekong. Kết quả
là trầm tích của chúng chứa nhiều axít tiềm tàng (Moormann và Pons, 1974).
2. Điều kiện kinh tế xã hội.
ĐBSCL có 13 đơn vị hành chính bao gồm: 1 thành phố trực thuộc trung ương

(Thành phố Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến
Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
Dân số: đến năm 2004 dân số toàn vùng đạt trên 17,076 triệu người, mật độ dân
số: tỷ lệ nữ giới chiếm 51,2%, tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị là 18,17%. Theo


thống kê về lao động việc làm, dân số trong độ tuổi lao động có việc làm thường xuyên
năm 2004 trong khu vực I chiếm 60,13%, KV II chiếm 13,11% và KV III
chiếm 26,76%.
Kinh tế các tỉnh vùng ĐBSCL phát triển nhanh và ổn định, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đúng hướng, hiệu quả sản xuất được nâng cao, tổ chức huy động tốt các nguồn lực đầu
tư; môi trường đầu tư được cải thiện rõ nét.
Nông, lâm, nghiệp phát triển khá ổn định và toàn diện, từng bước hình thành vùng sản
xuất tập trung, chuyên canh, phát huy lợi thế sản phẩm chủ lực của vùng (lúa gạo, thủy
sản, trái cây), thể hiện vai trò trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt thủy
sản cả nước.
Công nghiệp được chú trọng phát triển, đi dần vào khai thác các thế mạnh của vùng về
công nghiệp chế biến nông sản, bước đầu tập trung đầu tư phát huy lợi thế về công
nghiệp dầu khí, năng lượng, nhiệt điện và cơ khí. Các địa phương có lợi thế phát triển
công nghiệp trong vùng được Trung ương tập trung đầu tư xây dựng một số ngành công
nghiệp then chốt như: khí, điện, đạm, hóa chất. Nhiều tỉnh, thành đã tập trung quy hoạch
và xây dựng các khu, cụm công nghiệp. Ngành công nghiệp chế biến thủy sản, điện, khí
là ngành có giá trị sản xuất lớn của vùng với việc đầu tư phát triển các nhà máy phát điện
từ khí, chế biến sau khí như Trung tâm khí – điện – đạm Cà Mau, Trung tâm nhiệt điện Ô
Môn (Cần Thơ), đã khởi công xây dựng nhà máy điện Duyên Hải 1 (Trà Vinh), Nhà máy
nhiệt điện Long Phú (Sóc Trăng), cơ sở hạ tầng Trung tâm nhiệt điện Sông Hậu (Hậu
Giang), đường ống dẫn khí Lô B – Ô Môn (TP. Cần Thơ).
Thương mại, dịch vụ và du lịch phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu thụ và đời sống
nhân dân. Hoạt động xúc tiến thương mại giữa các tỉnh của ta và các nước ngày càng phát
triển. Về du lịch, các địa phương đã chú ý phát huy tiềm năng, thế mạnh, liên kết chặt chẽ

với thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong việc khai thác,
phát huy lợi thế vị trí địa lý vùng sông nước, phát triển ngày càng đa dạng và phong phú
các loại hình du lịch sinh thái, sông nước miệt vườn; đầu tư tạo ra nhiều điểm du lịch
mới. Các điểm du lịch tại đất mũi Cà Mau, du lịch biển ở Kiên Giang, Trà Vinh, Bạc
Liêu, Tiền Giang, Bến Tre, du lịch sinh thái Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang; du lich di
tích văn hóa ở An Giang và du lịch biển đảo Phú Quốc…
Kết cấu hạ tầng được đẩy mạnh đầu tư, hạ tầng giao thông có nhiều chuyển biến mạnh
mẽ, gắn kết với thủy lợi; toàn vùng cơ bản hoàn thành mục tiêu xây dựng cụm, tuyến dân
cư và nhà ở vùng ngập lũ, các đô thị được đầu tư, nâng cấp. Hệ thống giao thông rộng
khắp, toàn vùng có trên 10 tuyến quốc lộ với tổng chiều dài hơn 2.500 km, gần 70 tuyến
tỉnh lộ đã được nhựa hóa, hệ thống giao thông nông thôn đã được cải thiện đáng kể, các
địa phương đã mở mới 9.117 km, nâng cấp 23.218 km đường các loại, xây dựng 11.453
cầu (trong đó có cầu Cần Thơ, Rạch Miễu, Hàm Luông), khánh thành sân bay Cần Thơ,
đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân trong vùng.
=>Nhận xét chung về điều kiện kinh tế xã hội.
II. Thực trạng ô nhiễm đất ở Đồng bằng sông Cửu Long.


1. Một số khái niệm liên quan.
1.1.
Ô nhiễm đất.

Đất bị ô nhiễm là đất bị thay đổi tính chất, chứa những chất độc hại đối với sự sống
của con người và sinh vật.
Có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo các tác nhân
gây ô nhiễm.
Nếu theo nguồn gốc phát sinh thì có:
• Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt
• Ô nhiễm đất do các chất thải công nghiệp
• Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp

Nếu theo nhân gây ô nhiễm thì có :tác
• Ô nhiễm đất do tác nhân hóa học: ví dụ như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,
chất thải sinh hoạt và công nghiệp.
• Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: vi khuẩn, giun sán, ký sinh trùng…
• Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: các chất phóng xạ
Chất ô nhiễm đi vào đất nhiều nhưng đi ra rất ít, vì sau khi thấm vào trong đất, chất ô
nhiễm sẽ ở lại và lưu tồn trong đất. Yếu tố này phụ thuộc nhiều vào khả năng tự làm
sạch của đất.
1.2.
Khả năng tự làm sạch của đất.
Là khả năng tự điều tiết của đất trong hoạt động của môi trường đất thông qua một số
cơ chế đặc biệt để giảm thấp ô nhiễm từ ngoài vào, tự làm trong sạch và loại trừ các
chất độc hại cho đất. Mức độ làm sạch phụ thuộc vào các yếu tố như:
• Số lượng và chất lượng hạt keo trong đất, càng nhiều hạt keo (keo mùn) thì khả
năng tự làm sạch cao.
• Đất nhiều mùn, nhiều acid humic
• Trạng thái hiện tại của môi trường đất, đất chưa bị ô nhiễm hoặc ô nhiễm ít thì
khả năng tự làm sạch tốt hơn.
• Sự thoát nước và giữ ẩm
• Cấu trúc đất tốt.
• Các chủng loại vi sinh vật phong phú, số lượng nhiều sẽ giúp đất đào thải chất
độc chất ô nhiễm nhanh chóng.
• Khả năng oxy hóa tốt, chưa bị nhiễm mặn, nhiễm phèn
Môi trường đất có khả năng tự làm sạch cao hơn các môi trường khác (môi trường
nước và không khí) do môi trường đất có các hạt keo đất có đặc tính mang điện, tỷ lệ
diện tích hấp phụ lớn, khả năng trao đổi ion và hấp phụ chúng lớn mà các môi trường
khác không có. Nhưng nếu mức độ ô nhiễm vượt quá khả năng tự làm sạch của đất thì sự
nhiễm bẩn trở nên nghiêm trọng. Khi đó, khả năng lây truyền ô nhiễm từ môi
trường đất sang môi trường đất, nước mặt và nước ngầm và khuếch tán vào không khí
rất nhanh.

1.3.
Đất tốt và đất xấu.


Cùng điều kiện ngoại cảnh như nhau, có đất cây phát triển tốt và có năng suất cao; có
vùng đất cây mọc cằn cỗi, năng suất thấp. Chất lượng đất là một chỉ số môi trường,
qua đó chúng ta có thể biết được tình trạng chung về các tính chất cũng như quá trình
trong đất. Một số chỉ tiêu về đất:


Tính chất hóa học: độ chua, khả năng hấp thụ dinh dưỡng, hàm lượng muối.



Tính chất vật lý: độ rỗng giữa các hạt đất, hạt kết bền trong đất, khả năng giữ ẩm.



Tính chất sinh học: lượng và loại chất hữu cơ, số lượng và loại hình, chức năng
của các vi sinh vật; hoạt tính sinh học trong đất và hoạt động của enzym.

Cây trồng: năng suất, tình hình sinh trưởng của cây, sự phát triển của bộ rễ.
• Nước: chất lượng nước mặt và nước ngầm.


Đặc tính một số loại đất xấu
Khảo sát các hộ nông dân nhiều năm canh tác trên một diện tích đất nhất định, họ
đã mô tả về chất lượng đất tốt nếu đất có tầng đất mặt sâu và màu sẫm, đất tơi xốp, dễ
làm đất, đất ẩm và phơi nhanh khô, chứa nhiều mùn (chất hữu cơ), ít bị xói mòn và có
thể có nhiều động vật như giun. Trong đất, giun chiếm tỉ lệ trọng lượng lớn và số

lượng nhiều nhất. Trong quá trình sống giun đào đất và lấy xác bã lá mục, cây mục
làm thức ăn để bài tiết ra lượng mùn tới 50-380 tấn/ha/năm. Quá trình này biến các
chất hữu cơ phức tạp thành mùn, trong chất thải của giun có chứa N, K, P làm giàu cho
đất.
2. Thực trạng ô nhiễm đất.
Hiện nay môi trường đồng bằng sông Cửu Long đang gặp phải những thực trạng đáng
lo ngại, đó là:
Chế độ ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng Tháp,
An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long... kéo dài từ tháng 7 đến
tháng 12 hàng năm. Ngập lũ ở sinh sống của người dân, đến cơ sở hạ tầng, đến phát triển
kinh tế, y tế, giáo dục và


đặc biệt là tác động đến sức khỏe của cộng đồng dân cư.
Chế độ ngập mặn ở ĐBSCL chịu sự chi phối của chế độ bán nhật triều trên biển
Đông và chế độ nhật triều biển Tây vịnh Thái Lan, tập trung ở các tỉnh Kiên Giang,
Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang... với tổng diện tích
khoảng 1,4-1,5 triệu ha. Những năm gần đây, quá trình chuyển dịch cơ cấu canh tác
nông nghiệp lúa nước truyền thống sang nuôi tôm nước mặn đã làm cho diễn biến
xâm nhập mặn gia tăng nhanh chóng, tạo nên các áp lực mới đối với hệ canh tác
nước ngọt ở khu vực ĐBSCL.
Đặc biệt ĐBSCL còn có vùng đất phèn khá lớn tập trung ở Đồng Tháp Mười, Tứ
giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau... với diện tích khoảng 1,5 triệu ha. Tác động của
các hoạt động canh tác nông-lâm-ngư đã diễn ra quá trình lan truyền phèn có tác
động đến môi trường đất và nước.
Trong cơ cấu kinh tế của ĐBSCL hiện nay, khu vực nông-lâm-ngư chiếm 48%,
khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22%; khu vực dịch vụ chiếm 30%. Điều đó
cho thấy kinh tế ở đây vẫn chủ yếu là nền kinh tế phụ thuộc sinh thái, trong đó trạng
thái và chất lượng môi trường nước, môi trường đất và các hệ sinh thái có tính chất
quyết định đến các chất lượng và sản lượng các sản phẩm nông- lâm- ngư. Là vùng

sản xuất nông nghiệp lớn nhất toàn quốc, thế nhưng, ĐBSCL lại đang phải đối mặt
với một số vấn đề môi trường cần giải quyết để bảo đảm sự phát triển bền vững
trong khu vực.
Quá trình sử dụng đất trong canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công
nghiệp, đô thị hóa... làm biến đổi đất, suy thoái đất gây ô nhiễm môi trường. Diện
tích nuôi trồng thủy sản tăng lên rất nhanh. Năm 2000 là 445.300 ha, đến năm 2006
đã là 699.200 ha, với tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng 1.171.001 tấn, chiếm trên
70% sản lượng nuôi trồng và trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả
nước. Diện tích trồng lúa cả năm giảm dần: Năm 2000 là 3.945.800 ha, đến năm
2006 là 3.773.200 ha (trồng lúa mùa, lúa đông xuân và lúa hè thu).
Các hệ sinh thái đất ngập nước bị tác động cả về quy mô và chất lượng các hệ
sinh thái trong khu vực. Sự cố cá chết hàng loạt ở An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ,
tôm chết kéo dài ở Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng... gây thiệt hại kinh tế
lớn đến phát triển kinh tế - xã hội ở đây. Tổng lượng bùn thải và chất thải nuôi trồng
thủy sản ở ĐBSCL khoảng 456 triệu m3/năm. Đặc biệt, trong nông nghiệp hàng năm
sử dụng khoảng 2 triệu tấn phân bón hóa học, 500.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật và
các chế phẩm nuôi trồng thủy sản... gây tác động nhiều mặt tới môi trường và sức
khỏe con người.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, rừng tràm ngập úng ở khu vực ĐBSCL đã bị suy
giảm do quá trình khai hoang phát triển canh tác nông nghiệp, phá rừng nuôi
trồng thủy sản. Đến nay, diện tích đất lâm nghiệp trong khu vực chỉ còn khoảng
356.200 ha - trong đó, rừng tự nhiên chỉ chiếm khoảng 15% và còn lại 85% là rừng
trồng tái sinh. Tại vùng biển và ven biển có đến 260 loài cá được ghi nhận và rất
nhiều loại nhuyễn thể, giáp xác... sinh sống. Tuy nhiên hệ sinh thái ở đây đã bị suy
giảm nghiêm trọng.


Sau nhiều năm cải tạo đến nay diện tích đất phèn còn khoảng 1,6 triệu ha (41%). Trong
đó, khoảng 886.000 ha đất thuần phèn và 658.000 ha đất phèn mặn. Đất phèn
tiềm tàng có diện tích 613.000 ha, phân bố trên những vùng tiêu nước khá thuận lợi

nên thích hợp với lúa nước. Vì thế, 72% diện tích đất phèn tiềm tàng được sử dụng
cho nông nghiệp, 5% cho rừng và một phần là đất hoang. Đất phèn hoạt động tập
trung chủ yếu ở vùng có khả năng tiêu nước kém. Tuy vậy, cũng có đến 62% diện tích
được sử dụng cho nông nghiệp, 11% cho rừng và phần còn lại là đất hoang. Đất phèn
mặn tập trung ven biển, với 46% diện tích nông nghiệp, 17% rừng, 10% nuôi tôm và
phần còn lại chưa được sử dụng. Đây thực sự là nguồn ô nhiễm chua phèn đáng lưu ý
đối với nước mặt ĐBSCL.
ĐBSCL có khoảng 790.000 ha đất mặn (20%) trong tổng số gần 2 triệu ha tự
nhiên bị ảnh hưởng mặn, phân bố chủ yếu dọc bờ biển Đông và vùng BĐCM. Trong
đó, đất bị mặn dưới 2 tháng khoảng 100.000 ha (đều đã được sử dụng cho nông
nghiệp), đất mặn từ 2- 4 tháng 520.000 ha (88% sử dụng cho nông nghiệp, 9% cho rừng
và 3% đất hoang), và đất mặn quanh năm chiếm khoáng 170.000 ha (34% cho
rừng, 25% nuôi tôm và 36% đất hoang). Trước đây khi công trình thuỷ lợi chưa phát
triển diện tích bị ảnh hưởng mặn 1g/l trở lên khoảng 2,1 triệu ha. Nếu tính với độ mặn
0,4g/l (tiêu chuẩn cho phép của nước sinh hoạt) thì phạm vi ảnh hưởng mặn còn rộng
hơn. Đến nay do công trình thuỷ lợi phát triển, nhiều vùng ven biển được ngọt hoá nên
diện tích bị ảnh 1,5 triệu ha. Tuy nhiên ranh giới hưởng mặn giảm đáng kể, chỉ còn
khoảng 1,3 mặn trên sông chính, sông Vàm Cỏ Tây và các kênh nối thông ra biển lại
có xu thế gia tăng.
• Vấn đề sử dụng đất ở ĐBSCL.
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm phần đất nằm trong phạm vi tác động của các
nhánh sông Cửu Long (thượng và hạ châu thổ) và phần đất nằm ngoài phạm vi tác
động đó (đồng bằng phù sa ở rìa).
Phần thượng châu thổ là một khu vực tương đối cao (2 – 4m so với mực nước
biển), nhưng vẫn bị ngập nước vào mùa mưa. Phần lớn bề mặt có nhiều vùng trũng
rộng lớn. Vào mùa mưa, chúng chìm sâu dưới nước, còn vào mùa khô chỉ là những
vũng nước tù đứt đoạn. Đây là vùng đất rộng, dân còn thưa, chưa được khai thác
nhiều.
Phần hạ châu thổ thấp hơn, thường xuyên chịu tác động của thuỷ triều và sóng
biển. Mực nước trong các cửa sông lên xuống rất nhanh, những lưỡi nước mặn ngấm

dần vào trong đất. Ngoài các giống đất ở hai bên bờ sông và các cồn cát duyên hải,
trên bề mặt đồng bằng cao 1 – 2m còn có các khu vực trũng ngập nước vào mùa mưa
và các bãi bồi trên sông.
• Thực trạng đất trồng lúa.
Năng suất lúa trên đất phèn ở đồng bằng cao, ngang bằng các nước có trình độ
thâm canh nông nghiệp cao (Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản). Sản lượng thóc trong
12 năm tăng từ 9,5 triệu tấn lên 17,5 triệu tấn. Bên cạnh đó, để phù hợp với điều kiện
sinh thái, tăng khả năng thâm canh và cơ cấu cây trồng vật nuôi được đẩy mạnh.
Nhiều diện tích trước đây trồng lúa không đạt hiệu quả được chuyển sang nuôi trồng thủy
sản đạt hiệu quả cao hơn với mô hình như: lúa và cá, lúa và tôm nước ngọt, cây


ăn quả…
Ở vùng ngập sâu, không thích hợp với cây lúa, đã được thế chỗ bằng cây tràm, kết
hợp với nuôi trồng thủy sản tự nhiên và dự trữ điều tiết nước. Ở vùng đất ngập nông
thích hợp trồng cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị cao, đem lại hiệu quả kinh tế
cao hơn trồng lúa.
Với diện tích đất trồng lúa mỗi năm bị mất lên đến hơn 50.000 ha, trong khi đó về
lâu dài nguy cơ giảm tích đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và một số vùng
ven biển rất cao khi phải đối mặt với hiện tượng nước biển dâng do ảnh hưởng của sự
biến đổi khí hậu toàn cầu, làm diện tích đất trồng lúa bị ngập mặn tới 70-80% nếu
mực nước biển dâng cao thêm 1m. Những năm gần đây diện tích đất nông nghiệp ở
đồng bằng sông Cửu Long ngày càng bị thu hẹp dần, thay vào đó là các khu công
nghiệp, khu đô thị và dân cư mới. Một ví dụ cụ thể đối với tỉnh Cà Mau, năm 2000
toàn tỉnh có hơn 200.000 ha đất trồng lúa nhưng hiện tại chỉ còn trên 80.000 ha do
chuyển đổi sang đất xây dựng và các mục đích khác.

Biểu đồ tỉ lệ đất ngập nước bị ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao
hơn ở một số quốc gia , trong đó có Việt Nam.
1. Nguyên nhân ô nhiễm.

1.1 Ô nhiễm tự nhiên.
1.1.1. Nhiễm phèn và nhiễm mặn.
Diện tích 1.600.263 ha, là nhóm đất chiếm diện tích lớn nhất và phức tạp nhất ở
đồng bằng sông Cửu Long. Đất phèn phân bố ở các vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác
Long Xuyên và bán đảo Cà Mau. Vùng Đồng Tháp Mười, phần lớn đất phèn hình
thành từ trầm tích sét nặng có độ thấm cao, khi bị oxy hóa dễ dàng xuất hiện khoáng
Jarosite. ở Tứ giác Long Xuyên đất phèn tương đối đồng đều về nguồn gốc hình thành
và độc tố, ít có những biến động lớn trong cùng một khu vực. Đất phèn vùng bán đảo
Cà Mau hình thành trên trầm tích sông biển hỗn hợp chứa Pyrite bị phủ một lớp trầm


tích sông mỏng bên trên, do đó lượng chất độc không cao, đất thường bị nhiễm mặn
vào mùa khô bởi nước biển tràn vào sông rạch.
1.1.1.1.
Nhiễm phèn.
Phèn được sinh ra có thể do nguyên nhân oxy hóa phèn tiềm tàng (FeS) tại chỗ để
tạo thành acid H2SO4, chứa nhiều độc chất Al3+, Fe2+, SO42-; hay cũng có thề do nước
phèn đi từ nơi khác gây nhiễm phèn cho MTST đất. Quá trình thứ nhất gọi là quá trình
phèn hóa (sulphate acidification) và quá trình thứ hai là quá trình nhễm phèn
(contamination of acid sulphate). Dù nguyên nhân nào thì trong dung dịch đất, lượng
độc chất Al3+, Fe2+, SO42-rất cao và pH môi trường xuống thấp, khả năng trao đổi và
điệm của môi trường đất bị phá vỡ, không thể tự làm sạch được nửa, nên cả môi
trường bị ô nhiễm nặng.
Môi trường đất chỉ được coi là ô nhiễm khi toàn bộ phản ứng môi trường pH<5
trong đó Al3+ >130 ppm, Fe2+ >300 ppm và SO42->0.1%. Cây trồng và vật nuôi cũng
như con người bị ảnh hưởng trầm trọng.
1.1.1.2.
Đất mặn.
Ô nhiễm mặn chỉ có thể do mặn muối hoặc mặn kiềm. mặn do kiềm ít xảy ra mà
chủ yếu do mặn muối từ nước biển. trong nước biển nhiều muối NaCl, Na 2SO4, CaCl2,

CaSO4,MgCl2, NaHCO3; vùng trũng nhiều hữu cơ có cả Na2CO3 nhưng chủ yếu là
NaCl.
Môi trường đất được xem là ô nhiểm mặn khi nồng độ tổng số muối tan >0,3%,
trong đó muối Cl- >0,15% và Na+ có hàm lượng trên 10 mEq/100gr, sau 24 giờ bị
ngập nước mặn và bị bốc mặn lên mặt.
Các yếu tố tự nhiên gây nhiễm phèn và nhiễm mặn ở ĐBSCL:
 Lịch sử hình thành đất ở ĐBSCL (tiềm năng sẵn có)
 Khí hậu:
Sự phân bố mưa ở ĐBSCL không đều, mùa mưa trùng với mùa lũ và mùa khô
trùng với mùa kiệt của sông Cửu Long.
Điều đáng chú ý là ở ĐBSCL có 2 đỉnh mưa: đỉnh thứ nhất, vào các tháng 6 - 7 và
đỉnh thứ hai vào các tháng 9 - 10. Những trận mưa đầu mùa thường thường sự chảy
tràn lớn xuống các dòng sông rạch và kênh mương cuốn theo rác rến, các độc chất
trong đất gây ô nhiễm. Ở các vùng đất có sự hiện diện của phèn tiềm tàng (lớp pyrite),
do mùa khô kéo dài, đất nứt nẻ, mực nước ngầm hạ thấp tạo điều kiện thuận lợi cho
phèn tiềm tàng trở thành phèn hoạt động (dạng jarosite). Nước mưa đầu mưa hòa tan
phèn làm độ pH của nước kinh rạch hạ thấp. Giữa hai đỉnh mưa, có một thời kỳ khô hạn
ngắn, trong dân gian gọi là Hạn Bà Chằn, kéo dài khoảng 10 ngày từ cuối tháng 7
đến đầu tháng 8, nguyên nhân là do ảnh hưởng các luồng gió xoáy nghịch trên cao.
Vào cuối mùa mưa là thời kỳ lũ lụt tràn về hằng năm, mưa lớn vào tháng 9, tháng 10.
• Gió:
Mùa mưa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam, phổ biến khi các luồng áp thấp
nhiệt đới xuất hiện trên lục địa Châu Á (từ tháng 5 đến tháng 10). Mùa nắng gió mùa
Đông Bắc lại chiếm ưu thế do sự hiện diện của các trung tâm áp cao từ vùng Sibêri Mông Cổ di chuyển xuống. Tốc độ gió cao nhất vào tháng 2, tháng 3, khoảng 2 - 3,3
m/s, tốc độ gió thấp nhất vào tháng 10 là 1,5 - 2 m/s. Khoảng tháng 12 là giai đoạn


chuyển mùa, gió thổi ngược chiều dòng chảy sông Cửu long (hướng Tây Bắc - Đông
Nam) đẩy nước mặn theo triều vào sâu trong nội địa (mùa gió chướng) gây khó khăn
trong sản xuất nông nghiệp.

• Chế độ thủy văn:
Vì tất cả dòng chảy trên sông Cửu Long đều có cửa ra là biển nên tính chất thủy
văn vùng ĐBSCL mang tính chất vùng cửa sông chịu ảnh hưởng của thủy triều và các
yếu tố khí tượng khu vực Đông Nam Á chi phối.
Nguồn nước cung cấp cho dòng chảy trong sông chủ yếu là mưa. Thủy triều ở
biển Đông truyền rất sâu vào đất liền và chi phối đáng kể chế độ thủy văn đồng bằng.
Về mùa khô, triều tiến nhanh vào đất liền mang theo một khối lượng nước mặn khá lớn,
về mùa lũ thủy triều cũng là một yếu tố làm dâng cao mực nước trong hệ thống
sông và ngăn cản sự thoát lũ ra biển
Thuỷ triều biển Đông gia tăng biên độ khi tiến sát đến cửa sông và bắt đầu giảm
dần khi truyền sâu vào đất liền. Đặc biệt về mùa kiệt, ảnh hưởng của triều trong hệ
thống sông rất lớn. So với các sông chính trên thế giới, mức độ truyền triều vào sông
Cửu Long khá sâu, có thể lên đến 350 km. Nguyên nhân chính do sự tiết giảm biên độ
truyền triều là do ảnh hưởng của lực ma sát dòng chảy với địa hình tự nhiên của dòng
sông, các chướng ngại vật trên đường đi và cả ảnh hưởng của áp lực gió trên bề mặt
dòng sông.
1.1.2. Gley hóa.
Quá trình gley hóa trong môi trường đất là quá trình phân giả chất hữu cơ trong điều
kiện ngập nước, yếm khí, nơi tích lũy nhiều xác bã sinh vật, sản sinh ra nhiều chất độc
dưới dạng CH4, H2S, N2O, CO2, FeS…đó là những chất gây độc cho sinh thái môi
trường nói chung.
1.2.
Ô nhiễm nhân tạo.
1.2.1. Tàn tích chiến tranh.
Từ năm 1961-1972 quân đội Mỹ đã tiến hành rãi trên 76,9 triệu lít chất diệt cỏ và
phát quang xuống một diện tích bằng 24-27% tổng diện tích lãnh thổ Nam ViệtNam
mà trong đó chủ yếu là Chất độc màu da cam là các chất có chứ thành phần Dioxin.Hệ
sinh thái rùng ngập nước ở khu vực Tây Nam Bộ (rừng Tràm và rừng ngập mặn) đã bị
tàn phá rất nặng nề trong những năm chiến tranh. Diện tich rừng ngập mặn đã bị tàn
phá với trên 13.520 ha.Hậu quả của chiến tranh hóa học ngoài việc gây thiệt hại trực

tiêp cho con người và tài nguyên môi trường, còn gây hậu quả cho nhiều thế hệ nối
tiếp hết sức thương tâm và lâu dài đối với con người ở đây.
Cà Mau, Bạc Liêu là một trong những vùng bị nhiễm dioxin. Qua kết quả phân
tích mẫu đất ta cũng thấy được sự thay đổi trong thành phần đất như trong những khu
vực bị nhiễm dioxin thì hàm lượng các ion Fe3+, Fe2+, Al3+, SO42-, Cl- cao hơn so với
các khu vực không bị nhiễm dioxin, cũng bị nhiễm dioxin, chúng xâm nhập vào môi
trường đất làm hàm lượng Cacbon,
Nitơ, Photpho, Kali trong đất biền động, làm thay đổi đặc tính của môi trường.
• Hàm lượng Mg2+ ở đất rừng tái sinh (trên đất đã nhiễm dioxin) cao hơn so với
vùng đất ở vùng rừng nguyên sinh.
• Lượng Al3+ trong đất trồng rừng, hàm lượng Fe3+, Al3+ trong đất thoái hóa do


dioxin đã giảm dần khi đất ngập triều định kỳ hay đất có rừng che phủ.
• Hàm lượng mùn ở đất hoang hóa cao hơn ở vùng đất rừng trưởng thành do có
nhiều xác cây.
• Độ pH trên vùng đất bị nhiễm dioxin khoảng 4-5.
Nguyên nhân của hiện tượng trên là do khi rải chất độc dioxin lên môi trường,
diện tích rừng bị che phủ không còn, do đó mà dưới tác động của ánh nắng mặt trời,
các trầm tích Pirit có trong đất sẽ oxi hóa tạo thành axit Sunphuric làm chua đất. Ngoài
ra, nguyên nhân khác làm cho đất trở nên chua hơn là do hàm lượng mùn
trong đất tăng lên làm xuất hiện các axit hữu cơ như: axit acetic, axit puteric và H2S
tăng lên, đồng thời quá trình hòa tan các ion Fe3+, Fe2+, Al3+, Mg2+ diễn ra nhanh
chóng làm cho môi trường đất bị thoái hóa mạnh.
1.2.2. Dân cư, xã hội.
Dân số tăng nhanh, tài nguyên suy giảm, môi trường ô nhiễm...đã gây áp lực ngày
càng lớn đến phát triển kinh tế- xã hội, đến tài nguyên, môi trường và ảnh hưởng đến
đời sống và sức khỏe của nhân dân. Tổng lượng rác thải sinh hoạt ở ĐBSCL ở khu
vực đô thị đã là 606.267 tấn/năm, lượng nước thải sinh hoạt khoảng 102 triệu m3
/năm... hầu hết chưa được xử lý triệt để gây ô nhiễm môi trường và tác động xấu đến

sức khỏe của nhân dân trong khu vực Nguồn gây ô nhiễm này chủ yếu là chất thải chưa
qua xử lý của người và động vật, nước thải bệnh viện, nước thải sinh hoạt... trong đó
nguy hại lớn nhất là chất thải chưa được xử lý khử trùng của các bệnh viện truyền nhiễm.
Rất nhiều vi khuẩn và ký sinh trùng tiếp tục sinh sôi nảy nở trong đất, bám vào các cây
trồng nông nghiệp và truyền vào cơ thể người, động vật. Các bãi rác làm ô nhiễm đất
,nước và không khí, tiêu tốn năng lượng, chiếm một diện tích đất lớn. Sự đốt rác tạo ra
khí độc theo gió đi rất xa, tro có thể còn chứa chất độc lại dùng để lấp các nơi trũng hay
trồng cây.
1.2.3. Hoạt động nông nghiệp.
• Phân bón:
Phân bón hóa học:
Phân hóa học được rải trong đất nhằm gia tăng năng suất cây trồng. Nguyên tắc là
khi người ta lấy đi của đất các chất cần thiết cho cây thì người ta sẽ trả lại đất qua hình
thức bón phân.
Đây là loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích hợp sẽ có
hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2 lưỡi, sử dụng không
đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất. Nếu bón quá nhiều phân hoá
học là hợp chất nitơ, lượng hấp thu của rễ thực vật tương đối nhỏ, đại bộ phận còn lưu
lại trong đất, qua phân giải chuyển hoá, biến thành muối nitrat trở thành nguồn ô
nhiễm cho mạch nước ngầm và các dòng sông. Cùng với sự tăng lên về số lượng sử
dụng phân hoá học, độ sâu và độ rộng của loại ô nhiễm này ngày càng nghiêm trọng. Để
tăng năng suất cây trồng, người ta thường bón thêm phân đạm vô cơ (N), lân
(P2O5), và Kali (K2O); trong đó đáng chú ý nhất là phân đâm, một loại phân mang lại
hiệu quả rõ rệt nhất cho năng suất cây trồng nhưng cũng dễ gây ô nhiễm cho môi
trường đất do tồn dư của nó.Ta biết rằng, cây chỉ sử dụng hữu hiệu tối đa 30% lượng
phân bón vào đất, còn lại phần bị rửa trôi, phần nằm lại trong đất, gây ô nhiễm môi


trường. phần lớn nitrat phân bón dư thừa được giữ lại trong đất,chúng ngấm xuống
nước ngầm dưới dạng NO3

-. Trong đất nó làm tăng tính chua vì dạng acid HNO3 rất
phổ biến.
Một dạng phân hóa học khác gây ô nhiễm môi trường đất là phân lân, với lượng
lân cao, sẽ gây chua cho môi trường sinh thái đất.Mặt khác các dạng phân hóa học đều
là các muối cả acid (hoặc là muối kép hoặc là muối đơn). Vì vậy khi hòa tan thường
gây chua cho môi trường đất.
Sự tích lũy cao các chất hóa chất dạng phân bón cũng gây hại cho MTST đất về
mặt cơ lý tính. Khi bón nhiều phân hóa học làm đất hở nên chặt hơn, độ trương co
kém, kết cấu vững chắc, không tơi xốp mà nông dân gọi là đất trở nên “chai cứng”,
tính thoáng khí kém hơn đi, vi sinh vật ít đi vì hóa chất hủy diệt vi sinh vật.
 Phân hữu cơ:
Phần lớn nông dân bón phân hữu cơ chưa được ủ và xử lí đúng kĩ thuật nên gây
nguy hại cho môi trường đất.nguyên nhân là do trong phân chứa nhiều giun sán, trứng
giun, sâu bọ, vi trùng và các mầm bệnh khác..khi bón vào đất, chúng có điều kiện sinh
sôi nảy nở, lan truyền môi trường xung quanh, diệt một số vi sinh vật có lợi trong đất
Bón phân hữu cơ quá nhiều trong điều kiện yếm khí sẽ làm quá trình khử chiếm
ưu thế; sản phẩm của nó chứa nhiều acid hữu cơ làm môi trường sinh thái đất chua,
đồng thời chứa nhiều chất độc như H2S, CH4, CO2. Sư tích lũy cao các hóa chất dạng
phân hóa học sẽ gây hại cho môi trường sinh thái đất về mặt cơ lý tính , đất nén chặt ,
độ trương co kém, không tơi xốp, tính thoáng khí kém, vi sinh vật cũng ít đi vì hóa
chất hủy diệt sinh vật.
 Thuốc trừ sâu:
Nông dược chiếm một vị trí nổi bật trong các ô nhiễm môi trường. Khác với các
chất ô nhiễm khác, nông dược được rải một cách tự nguyện vào môi trường tự nhiên
nhằm tiêu diệt các ký sinh của động vật nuôi và con người hay để triệt hạ các loài phá
hại mùa màng
Bản chất của nó là những chất hóa học diệt sinh học nên đều có khả năng gây ô
nhiễm môi trường đất. Đặc tính của thuốc trừ sâu bệnh là tính bền trong môi trường
sinh thái nên nó tồn tại lâu dài trong đất, sau khi xâm nhập vào môi trường, thời kì
“nằm” lại đó, các nhà môi trường gọi là “thời gian bán phân giải”. “nửa cuộc đời

này”được xác định như là cả thời gian nó trốn vào trong các dạng cấu trúc sinh hóa
khác nhau hoặc các dạng hợp chất liên kết trong môi trường sinh thái đất. Mà các hợp
chất mới này thường có độc tính cao hơn nó.
Tác hại khác của thuốc trừ sâu bệnh là sự xâm nhập của nó vào môi trường sinh
thái đất làm cho cơ lí tính đất giảm sút, mức độ gây hại này giống như phân bón hóa
học. Vì có khả năng diệt khuẩn cao nên thuốc trừ sâu bệnh đồng thời cũng diệt nhiều
vi sinh vật có lợi trong môi đất. Trong các loài côn trùng số lượng côn trùng gây hại
chỉ chiếm 1%, còn lại 99% côn trùng là cần thiết cho quan hệ hữu ích không những có
lợi mà còn không thể tách rời được trong sinh quyển.
Tiêu diệt hệ động vật làm mất cân bằng sinh thái, thuốc trừ sâu bị rửa trôi xuống thủy
vực làm hại các động vật thủy sinh như ếch, nhái…Như vậy vô tình chúng ta làm tăng


thêm số lượng sâu hại vì đã diệt mất thiên địch của chúng ,vì vậy nó làm cho hoạt tính
sinh học đất bị giảm sút.
 Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Những năm qua, rừng ngập mặn ven biển bị tác động làm suy giảm mạnh mẽ do
các nguyên nhân: phá rừng làm ruộng rẫy, phá rừng lấy đất nuôi trồng thủy sản, phá
rừng lấy củi, gỗ.
Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng lên rất nhanh. Năm 2000 là 445.300 ha, đến
năm 2006 đã là 699.200 ha .Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn, diện tích nuôi cá tra ở ĐBSCL năm 2000 là 1.650ha, năm 2005 tăng vọt lên
5.000ha và hiện nay khoảng 5.900ha.
Những tổn thất rừng ngập mặn kéo theo hàng loạt các biến đổi về môi trường,
sinh thái trong khu vực. Thảm rừng ngập mặn có độ che phủ cao trở nên trơ trọi, bị
chia cắt phân tán thành nhiều thảm nhỏ và thay bằng các vuông tôm, kinh mương đào
đắp, sên vét bùn đất để lấy mặt nước nuôi tôm; môi trường đất bị ô nhiễm do quá trình
phèn hóa gia tăng ở quy mô lớn; đất đai bị phát quang làm gia tăng quá trình rửa trôi
do mưa, gia tăng quá trình lan truyền phèn trong môi trường đất, nước và các hệ sinh
thái; giảm đi quá trình bồi tụ phù sa do mất rừng.

Quá trình chuyển dịch nuôi trồng thủy sản diễn ra quy mô lớn ở vùng mặn hóa
ven biển cũng đã làm gia tăng tình trạng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển. Tác
động làm suy giảm rừng ngập mặn ven bi thái rừng ngập mặn. Nuôi cá bè trên sông rạch,
nuôi thâm canh thủy sản vùng ngọt hóa đã gây nên các tác động đến chất lượng môi
trường nước ở đây. Xâm nhập mặn gia tăng vào mùa khô trên các sông lớn (sông Tiền,
sông Hậu và sông rạch ven biển).Hiện nay, ĐBSCL đang có xu hướng chuyển diện tích
đất nông nghiệp sang làm sân golf nhưng với đặc thù của cỏ sân golf - Cỏ mặt sân golf
cần một lượng nước khổng lồ và lượng hóa chất trừ sâu để nuôi dưỡng cỏ khổng lồ thì nó
ảnh hương rấtển tiếp tục diễn ra ảnh hưởng đến các hệ sinh lớn đối với môi trường đất.
1.2.4. Hoạt động công nghiệp.
 Ô nhiễm đất do nước thải:
Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ ở khu vực ĐBSCL đã có bước phát triển rất
nhanh chóng cũng đã có nhiều tác động đến môi trường. Đến năm 2006, toàn vùng có
14.258 cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ đang hoạt động. Năm 2007, có 151 khu
công nghiệp và cụm công nghiệp sản xuất tập trung. Tổng lượng chất thải rắn sinh
hoạt khoảng 606.267 tấn/năm, nước thải sinh hoạt 102 triệu m3/năm, chất thải rắn
công nghiệp 47,2 triệu m3/năm, rác thải y tế 3.800 tấn/năm. Các nguồn thải này hầu
hết chưa được xử lý triệt để đang gây ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Nguồn nước trên sông Tiền, sông Hậu và các cửa sông thông ra biển... đã có các dấu
hiệu nhiễm bẩn chất hữu cơ và vi sinh. Quan trắc môi trường nước cho thấy các chỉ
tiêu bị nhiễm bẩn là: BOD, COD, Coliform, H2S, NH4, phèn sản xuất công nghiệp, đô
thị và các khu dân cư, nguồn thải nuôi trồng thủy sản, sản
xuất nông nghiệp... chưa xử lý triệt để vẫn tiếp tục thải vào hệ thống sông rạch trong
khu vực. Nguồn nước ngầm được khai thác và sử dụng cho sinh hoạt đời sống, sản
xuất công nghiệp, canh tác nông- lâm- ngư... chưa được kiểm soát chặt chẽ, gây tác
động làm sụt giảm mực nước ngầm ở một số nơi, nhiễm bẩn tầng nước ngầm.


Nước thải xả ra sông Vàm Cỏ Đông.
 Ô nhiễm đất vì chất phế thải

Nguồn chất thải rắn có rất nhiều, chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn của
ngành khai thác mỏ, rác ở đô thị, chất thải nông nghiệp và chất thải rắn phóng xạ.
Chủng loại của chúng rất nhiều, hàm lượng các nguyên tố độc trong chúng cũng
không giống nhau; tỷ lệ nguyên tố độc hại trong chất thải rắn công nghiệp thường cao
hơn; rác thành thị chứa các loại vi khuẩn gây bệnh và ký sinh trùng; chất thải rắn nông
nghiệp chứa các chất hữu cơ thối rữa và thuốc nông nghiệp còn lưu lại...; chất thải
phóng xạ có chứa các nguyên tố phóng xạ như Uranium, Strontium, Caesium... những
chất thải rắn này được vứt bừa bãi, ngấm nước mưa, và rỉ ra nước gây ô nhiễm đất,
sông ngòi, ao hồ và nguồn nước ngầm, nguồn nước ô nhiễm này lại được dùng để tưới
đồng ruộng sẽ làm thay đổi chất đất và kết cấu đất, ảnh hưởng tới hoạt động của vi
sinh vật trong đất, cản trở sự sinh trưởng của bộ rễ thực vật và ảnh hưởng tới sản lượng
cây trồng.
 Ô nhiễm đất do khí thải.
Các chất khí độc hại trong không khí như ôxit lưu huỳnh, các hợp chất nitơ... kết
tụ hoặc hình thành mưa axit rơi xuống đất làm ô nhiễm đất. Một số loại khói bụi có
hại ngưng tụ cũng là nguyên nhân của ô nhiễm đất. Ví dụ, các vùng đất gần các nhà
máy sản xuất hoá chất Photpho, Flo, luyện kim dễ bị ô nhiễm vì khói bụi, hàm lượng
flo chứa trong khoáng chất photpho sử dụng ở các nhà máy phân hoá học thường là 2
– 4%, nếu khí thải không được xử lý thích đáng, có thể làm cho một vùng hàng ngàn
km2 đất xung quanh bị ô nhiễm flo nặng. Ở gần các xưởng luyện kim, vì trong khí thải có
chứa lượng lớn các chất chì, cadimi, crom, đồng... nên vùng đất xung quanh sẽ
bị ô nhiễm bởi những chất này. Đất ở hai bên đường, thường có hàm lượng chì tương
đối cao là sản phẩm của khí thải động cơ.
1.2.5. Ô nhiễm do dầu.
Các hoạt động thăm dò khai thác dầu khí có nguy cơ gây sự cố môi trường. Các
hoạt động nuôi trồng thủy sản, canh tác nông nghiệp, sản xuất công nghiệp, sinh hoạt
và đời sống... có các nguồn thải chưa xử lý triệt để tác động ra vùng ven biển, cửa
sông làm cho chất lượng môi trường bị suy giảm. ĐBSCL hiện có ít nhất 81 vị trí xói
lở bờ sông, bờ biển và 37 khu bồi lắng có nguy cơ gây sự cố môi trường. Sự cố tràn



dầu vào bờ biển diễn ra kéo dài năm 2007 tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng,
Trà Vinh, Tiền Giang... đã gây thiệt hại kinh tế và môi trường ở khu vực ven biển. Sự tích
đọng của những chất ô nhiễm dầu trong đất chủ yếu kìm hãm quá trình
vận chuyển, bay hơi và phân hủy sinh học, quá trình ở lại và lưu chuyển được biết khi
nhiên liệu động cơ bị rò rỉ từ những thùng chứa và chảy tràn vào trong đất. Tác động
của lực hấp dẫn kéo các chất lỏng theo chiều đi xuống, ngược lại với lực giữ lại các
chất lỏng đó hoặc là sẽ hấp thụ trên hạt khoáng hoặc là nằm trong lỗ hổng cấu trúc của
đất. Dầu là chất khó bị phân hủy bởi các vi sinh vật sống trong đất. Tuy nhiên, đất lại
là môi trường không thể pha loãng các chất thải mà ngược lại các chất này tích lũy lâu
dài trong đất, cho nên dầu có tác hại lâu dài trong môi trường đất. Ở những khu đất bị
nhiễm dầu, các tinh thể dầu sẽ che lấp các khe hở và mao quản của đất, làm tắc cắc
đường dẫn nước trong đất dẫn đến sự cằn cỗi của đất trong khu vực. Vì nguyên nhân
này mà các vi sinh vật trong đất không có khả năng tồn tại và phát triển do dầu ngăn cản
khả năng hô hấp và phá hủy môi trường cung cấp thức ăn cho vi sinh vật trong đất
bị ô nhiễm.
1.2.6. Ô nhiễm do các yếu tố ngoại lai.
• Chất thải của súc vật:
Những chuồng trại chăn nuôi gia súc như trại heo, trại gà, phân gia súc không
được thu gom, xử lí bảo đảm kĩ thuật và vệ sinh môi trường thì sẽ là hiểm họa cho
môi trường đất. Vì lượng lớn các chất thải này làm đất mất khả năng tự làm sạch của
nó thì sự nguy hại là khó lường. lúc này sự ô nhiễm đã trở nên trầm trọng. các cơ quan
hoạt động môi trường đất đều bị tê liệt. chất thải, vi trùng từ đó mà lan ra khắp nơi:
trong nước ngầm,trong nước suối trong hay bay vào không khí.
Một điều đáng lưu ý là chăn nuôi ở vùng ĐBSCL phát triển rất mạnh, theo thống kê trong
vùng có khoảng 2,6 triệu đầu lợn, 260.000 trâu bò (cả bò sữa), gần 40 triệu
con gia cầm, đặc biệt là vịt (thủy cầm- là tác nhân lây truyền H5N1 trong giai đoạn vừa
qua). Số chất thải rắn do chăn nuôi đưa thẳng vào sông rạch khoảng 22.500 tấn/ngày
đêm, chất thải lỏng (kể cả nước rửa chuồng trại) chừng 40.000 m3/ngày đêm
• Tàn tích của rừng:

Sau khi thu hoạch gỗ, phần bỏ đi chiếm một lượng lớn. Tàn tích này khi nằm lại
trong môi trường đất sẽ phân hủy tạo mùn cho đất, nhưng khả năng này phụ thuộc
nhiều vào điều kiện môi trường và tỉ lệ C/N của tàn tích rừng. Nếu điều kiện phân giải
tạo mùn ít thì khả năng chuyến hóa thành chất thành những chất khó tiêu và gây chua
nhiều hơn.
Nếu tàn tích rừng bị vùi lấp trong điều kiện yếm khí lâu dài, thì hoặc tạo ra cá
đầm lầy than bùn phèn. Điều đó có nghĩa là tạo ra môi trường đất axit.
• Tàn tích thực vật:
Khi cơ thể sinh vật chết đi và nằm trong môi trường đất sẽ phân hủy tạo thành
mùn cho đất. Nếu điều kiện phân giải tạo mùn cho đất ít thì khả năng chuyển hóa
thành mùn ít, đồng thời các vật liệu này chuyển hóa thành các dạng mùn khó tiêu và
gây chua cho đất.
Do chất thải động vật của các loại gia cầm: trâu bò, gà là các nguyên tố vi lượng
rất cần cho đất (N, K, P, Ca) nhưng khi nồng độ quá nhiều sẽ gây hại cho thực vật trên


đất.
Các chất độc thoát ra trong đất tự nhiên thường là các khí độc sinh ra trong quá
trình phản ứng hóa học do có sự thay đổi của các yếu tố môi trường trong đất, các
phản ứng này có thể nảy sinh ra do hoạt động của núi lửa. Các phản ứng sinh khí độc
còn có thể xuất hiện do yếu tố khí hậu như nắng, mưa, nhiệt độ, độ ẩm của đất thay
đổi một cách đột ngột.
III.
Ảnh hưởng của ô nhiễm đất.
Quá trình mặn xâm nhập gia tăng đã tác động các hệ sinh thái nông nghiệp truyền
thống, lúa nước, cá đồng, cây ăn trái, cây công nghiệp... trong khi khả năng thực thi
các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội trong khu vực chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn. Các dự án thủy lợi trong vùng mặn hóa, vùng luân canh lúa-tôm, vùng ngăn mặn
xổ phèn... chưa phát huy được tác dụng trong thực tiễn đang trở thành nỗi trăn trở của
các cấp chính quyền, các ngành quản lý và người dân. Chất thải nuôi trồng thủy sản

ven biển, đặc biệt là chất thải nuôi tôm, ngày càng nhiều làm gia tăng áp lực tới môi
trường và độ bền vững của hệ thống canh tác thủy sản với bảo vệ hệ sinh thái rừng
ngập.
Quá trình sử dụng đất trong canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công
nghiệp, đô thị hóa…ở đồng bằng sông Cửu Long làm biến đổi đất và làm suy thoái
nghiêm trọng. Diện tích thủy sản tăng lên rất nhanh. Năm 2000 là 445.300 ha đến năm
2006 đã là 699.200 ha, đồng thời diện tích trồng lúa cả năm giảm dần: năm 2000 là
3.945.800 ha, đến năm 2006 là 3.773.200 ha (lúa mùa, đông xuân và hè thu).
Trong nông nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long có diện tích canh tác trên 2,9 triệu
ha, nguồn nước tưới chủ yếu là nước ngọt trên kênh rạch do sông mekong chảy đến và
nước mưa. Nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng do phát triển tăng vụ trong trồng
trọt (lúa đông xuân, hè thu), chăn nuôi…trong khi đó chưa thể kiểm soát chặt chẽ
được về số lượng và chất lượng nước cho canh tác nông nghiệp. Việc sử dụng nước
còn tùy tiện, lã Diện tích nuôi tôm trong rừng ngập mặn là một tác nhân ảnh hưởng rất
nghiêm trọng tới công tác quản lý quy hoạch và khai thác bền vững tài nguyên ven biển ở
khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nuôi tôm đem lại lợi ích kinh tế nhanh nhưng hậu
quả là làm giảm thảm rừng ngập mặn. Làm biến đổi môi trường đất, nước và môi trường
sinh thái.Những tổn thất về rừng ngập mặn kéo theo hàng loạt biến đổi về môi trường,
sinh thái khu vực:ng phí, hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất.
- Độ che phủ của rừng giảm, bị chia nhỏ bởi các vuông tôm, môi trường đất bị ô
nhiễm bởi quá trình phèn hóa gia tăng với quy mô lớn, đất đai bị phát quang sẽ tăng
quá trình rửa trôi do mưa, lan truyền phèn trong đất, nước và các hệ sinh thái;
- Giảm đi quá trình bồi tụ phù sa do mất rừng, đa dạng sinh học bị suy giảm
nhanh chóng do không còn điều kiện thích hợp để các loài sinh vật sinh sống và cư
trú. Sự biến đổi môi trường vi khí hậu, sạt lở bờ biển và cửa sông.. làm mất cân bằng
sinh thái trong khu vực. Hậu quả thấy trước tiên là nạn tôm chết hàng loạt ở các khu
ven biển.
Ngoài ra, các nguồn chất thải sau nuôi trồng chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn thải bỏ ra
các kênh rạch với số lượng hàng năm khoảng 456,6 triệu m3 bùn thải và chất thải nuôi
trồng thủy sản gây nên các tác động xấu đến chất lượng nước, ô nhiễm môi trường đất



và dịch bệnh phát sinh.
Việc lạm dụng phân bón không chỉ đe dọa sức khỏe con người, mà còn làm mất ổn
định hệ sinh thái nông nghiệp. Kiểu canh tác dùng nhiều phân vô cơ, kết hợp với việc
ngưng quay vòng của chất hữu cơ trong đất trồng, tạo nên một đe dọa nghiêm trọng
trong việc giữ phì nhiêu của đất. Là do sự tích lũy liên tục các chất tạp (kim loại, á
kim) có trong phân hóa học và sự biến đổi cấu trúc của đất. Thành phần chất hữu cơ
của đất bị giảm nhanh và khả năng giữ nước và thoát nước của đất bị thay đổi. Chất mùn
không còn quay về đất. Sự nghèo mùn làm phá hủy cấu trúc của đất, giảm phức
hợp hấp thụ sét mùn nên giảm độ phì của đất. Phân động vật và thực vật không quay
về với đất mà chất đống sẽ ô nhiễm mực thủy cấp sau khi lên men amoniac. Hoặc
chúng bị đem thiêu đốt bỏ, không về đất được. Sự đốt rác có nghĩa là thay đổi ô nhiễm
điạ phương của đất bằng sự ô nhiễm không khí ở diện rộng hơn nhiều. Môi trường đất ô
nhiễm thì các loại sinh vật trong đất sẽ ảnh hưởng có loài sẽ chết
như giun đất, kéo theo sự sinh trưởng kém của thực vật giun đất chết làm cho suy
giảm độ thoáng khí của đất rễ cây hút nước kém làm ảnh hưởng tới quá trình quang
hợp dẫn đến ảnh hưởng tới môi trường sống của chúng ta. Cây có vai trò rất lớn đến
việc giữ môi trường trong sạch, nếu môi trường đất bị ảnh hưởng dẫn đến nhiều ảnh
hưởng khác không tốt.
Đất ngập nước, đặc biệt là vùng lầy than bùn là nơi lưu trữ khí nhà kính dưới dạng
các khí Carbon, Metan nhiều hơn cả lượng khí này có trong toàn bộ bầu khí quyển.
Thật không khó để tưởng tượng rằng điều gì sẽ xảy đến cho chúng ta một khi những
khí này bị thoát ra qua việc phá hủy những vùng đất ngập nước.
Quá trình xâm mặn và lan truyền phèn ở đất khiến cho các nhà đầu tư tỏ ra chán
nản, chuyển sang tìm cơ hội nơi khác khi nhìn thấy bãi đất hoang vu này. Do đó, năng
lực thu hút đầu tư tại các khu công nghiệp ĐBSCL là rất thấp và tốc độ thu hút đầu tư
còn chậm.
Trong sản xuất công nghiệp, lượng nước thải chưa được xử lý triệt để, tiếp tục
thải ra nguồn tiếp nhận là các sông, kênh rạch làm suy giảm chất lượng nước mặt. Gây

nên các dịch bệnh cho nuôi trồng thủy sản và sức khỏa người dân: các bệnh sốt xuất
huyết, sốt rét, bệnh giun sán ký sinh trùng, suy dinh dưỡng trẻ em, ngộ độc thức ăn….
Kim loại nặng được quan tâm nhiều vì chúng được sử dụng rộng rãi trong một số
hoạt động công nghiệp trên hầu hết các quốc gia. Mặt khác, chúng được coi là các yếu
tố vi lượng cần thiết cho cây trồng và súc vật. Tuy nhiên chúng được coi là chất ô
nhiễm đến môi trường nếu chúng tồn tại ở nồng độ vượt quá mức nhu cầu sử dụng của
sinh vật. Hiện nay vấn đề kim loại nặng đã được quan tâm đúng mức và các vấn đề về
môi trường đã được coi trọng.
Theo kết quả của các nhà thí nghiệm trong nhà kính đã chứng minh rằng ô nhiễm
kim loại nặng trong đất ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng cùa cây lúa non trồng
tên cát sạch và ngay cả trên đất nguyên dạng.
*Ảnh hưởng của Pb2+ và Cd2+ :
Ở nồng độ khác nhau thì những ảnh hưởng của chúng tới cây lúa cũng khác nhau
và được biều hiện qua sự thay đổi pH của dung dịch. Cụ thể là nồng độ Pb2+và Cd2+
càng cao thù pH càng cao, mặt khác pH dung dịch cũng tăng theo thời gian sau khi


gieo trồng.
Ảnh hưởng của Cd mạnh hơn hẳn Pd. Cụ thể như sau : nồng độ Pd > 0,5 ppm,
phạm vi ảnh hưởng của cây lúa tăng 50%. Còn Cd > 0,25 ppm đã ảnh hưởng lên đến
60 % cây lúa.
Tỉ lệ chết của cây lúa tăng khi nồng độ kim loại nặng tăng.
*Ảnh hưởng của Hg2+ và As3+ lên sự sinh trưởng cùa lúa non có thể tham khảo ở
giáo trình Độc chất học môi trường cơ bản của Lê Huy Bá.
- Sự cố lan rộng và tràn dầu vào các tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu
Long, gây thiệt hại nghiêm trọng cho người dân. Tại Bến Tre dầu loang đã làm chết
khỏang một ngàn tấn nghêu được nuôi tại các sân nghêu nằm trong huyện Bình Ðại và
Ba Tri. Tại Bạc Liêu, tôm nuôi tại huyện Ðông Hải cũng bị ảnh hưởng vì các váng
dầu. Tại Cà Mau, các cửa biển cũng có dầu nổi làm tôm cá đánh bắt được đều bị dầu bám
khó làm sạch.

IV.
Quan điểm và phương hướng giải quyết ô nhiễm tại Đồng bằng sông Cửu
Long.
Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật
về bảo vệ môi trường; xây dựng chiến lược liên vùng, liên ngành trong khai thác, bảo vệ
tài nguyên đất trên cơ sở qui hoạch tài nguyên đất toàn khu vực.
Các tỉnh tìm giải pháp bổ sung nhân tạo nguồn nước dưới đất ở một số địa phương đã bị
hạ thấp nhiều do khai thác quá mức như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau; tăng cường quản
lý trong khai thác nước ngầm, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc xả nước thải, bảo vệ
nguồn nước; đẩy mạnh hoạt động điều tra, giám sát tài nguyên và môi trường biển; phân
vùng, phân cấp quản lý biển ven bờ, cấp phép sử dụng biển để bảo đảm phát triển bền
vũng vùng biển và ven bờ biển.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nay, nhiều vấn đề bức xúc về môi trường đất,
nước, hệ sinh thái rừng tại ĐBSCL trong quá trình sử dụng đất vào mục đích nông
nghiệp, nuôi thủy sản, công nghiệp và đô thị hóa vì đã làm biến đổi thành phần đất và
nước, gây suy thoái, ô nhiễm môi trường.
Mỗi năm toàn vùng sử dụng 2 triệu tấn phân hóa học, 500.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật
và chế phẩm nuôi thủy sản. Quá trình đào đắp trong nuôi thủy sản làm xì phèn, xâm nhập
mặn. Chất thải nuôi thủy sản, chất thải sản xuất, sinh hoạt chưa được xử lý triệt để cũng
góp phần gây ô nhiễm môi trường. Trong vài chục năm gần đây, hệ sinh thái rừng ngập
mặn ven biển, rừng tràm ngập úng bị suy giảm rất nhanh. Hiện diện tích rừng toàn vùng
chỉ còn 356.200 ha, trong đó rừng tự nhiên chỉ chiếm 15%, còn lại là rừng tái sinh, rừng
trồng. Tính đa dạng sinh học tại vùng rừng ngập măn và rừng tràm bị suy giảm rất
nghiêm trọng. Trước đây, rừng có 239 loài cây, 36 loài thú, 182 loài chim đầm lầy, 34 loài
bò sát, 6 loài lưỡng cư, nay tổng cộng chỉ còn vài chục loài. Tại vùng biển và ven biển
trước đây có 260 loài cá, rất nhiều loài nhuyễn thể, giáp xác nhưng nay còn rất ít. Ngoài
ra, 118 vị trí bờ sông, biển, khu bồi lắng có khả năng gây sự cố môi trường.
Trong khi đó, mạng lưới tổ chức môi trường các địa phương còn yếu và thiếu, đặc biệt ở
cấp huyện, xã. Vì vậy, công tác quản lý, giám sát môi trường chưa chặt chẽ, đồng bộ.



Cán bộ địa chính các địa phương được giao quản lý môi trường nhưng chưa được đào tạo
nên lúng túng. Hiện các tỉnh chưa có thanh tra viên chuyên trách về môi trường. Công tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý hành vi vi phạm còn sơ sài, một số nơi xử phạt chưa phù hợp
với qui định của pháp luật; chưa thực hiện toàn diện các nội dung luật định về bảo vệ môi
trường.
Các giải pháp đề xuất để phòng chống, khắc phục ô nhiễm đất ở Đồng
bằng sông Cửu Long.
 Biện pháp phòng chống các chất độc trong đất ngập nước:
Để hạn chế hiện tượng ngộ độc trên vùng đất ngập nước, yếm khí, biện pháp hữu
hiệu nhất là làm cho đất được luân phiên thoáng khí. Sự oxi hóa trong đất xảy ra làm
cho nồng độ các chất độc giảm xuống dưới ngưỡng độc của sinh vật (ngoại trừ đất
phèn tiềng tàng).
 Biện pháp phòng chống đất phèn:
Để hạn chế phát sinh nhiễm phèn, cũng như các tác hại của các chất độc có trong
đất phèn, có thể áp dụng một số biện pháp như sau:
• Giữ nước để ngăn ngừa sự oxi hóa các vật liệu chứa khoáng pyrit trong đất
phèn tiềm tàng.
• Đối với đất phèn hoạt động, cần phải tiêu rửa chất độc ra bên ngoài bằng các
nguồn nước khác. Việc tiêu rửa chất độc ra bên ngoài bằng các nguồn nước
khác. Vấn đề này cần chú ý tới vùng hạ lưu
• Trong canh tác cây trồng cũng như việc nuôi trồng thủy sản, việc sử dụng để
trung hóa các axit trong đất và làm cố định các chất độc khác trong đất tỏ ra
hiệu quả đối với những vùng đất phèn nhẹ và phèn trung bình. Việc kết hợp
dung vôi và tiêu rửa bằng nước ngọt sẽ đẩy nhanh quá trình thiêu rửa độc chất
trong đất.
• Một số kĩ thuật như làm đất, lên danh sách để trồng các loại cây chịu phèn cũng
như được áp dụng ở vùng đất phèn Đồng Tháp Mười.
 Biện pháp cải tạo đất mặn:
Để hạn chế độc chất trong vùng đất mặn, việc ngăn đê, ngăn mặn tràn vào đồng

ruộng, đôi khi có thể là một sai lầm vì chúng ta làm mất đi sinh thái đặc trưng của
rừng ngập mặn ven biển.
Bên cạnh đó ta có thể thực hiện chương trình cải tạo đất mặn thành đất trồng trọt
cho năng suất cao không kém các loại đất bình thường khác. Tùy theo điều kiện thủy
văn, thủy địa chất, tùy theo độ măn và hóa, lí tính của từng loại cụ thể mà có thể phân
chia đất mặn theo các mức độ cải tạo đất như sau :
• Thành đồng cỏ chăn nuôi gia súc bằng cách gieo các hạt cỏ chịu mặn có giá trị
thực ăn cho gia súc.
• Bằng các biện pháp kỹ thuật canh tác: cày sâu không lật, xới đất nhiều lần, cắt
đứt mao quản làm cho muối không thể bốc lên mặt.
• Trồng các loại lúa chịu mặn hoặc cây chịu mặn giỏi như cói, lác, rừng ngập
mặn.
• Bằng cách áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp. Điều này đặc biệt thích hợp với
V.


các loại đất ngập mặn khó cải tạo (đất kiềm mặn có độ thấm nước kém, mực
nước ngầm nông ). Các biện pháp cải tạo kết hợp đó là: Biện pháp thủy lợi,biện
pháp nông lý, biện pháp nông hóa, biện pháp sinh học.
Sử dụng dòng điện : cho dòng điện một chiếu vào trong đất. Do hiện tượng
điện phân người ta thu được các anion và các cation của muối tan trong đất ở
anod và katot.
• Sử dụng đất mặn nuôi tôm – kết hợp trồng lúa theo đúng kĩ thuật.
 Hoạt động nông nghiệp:
Khống chế việc sử dụng nông dược hoá học, hạn chế sử dụng các thuốc có độc
tính cao, khả năng tồn tại lớn, phát triển các loại thuốc nông nghiệp mới có hiệu quả
cao, độc tính thấp, lượng tồn trữ ít. Nên tích cực áp dụng rộng rãi các kỹ thuật sinh
học phòng trị sâu hại, lợi dụng các loài chim có ích, côn trùng có ích và một số vi sinh
vật gây bệnh để chống lại các loại sâu hại.
Quy hoạch phát triển nông- lâm- ngư đảm bảo an ninh lương thực và bảo vệ hệ

sinh thái đất ngập nước đặc thù ở ĐBSCL. Phát triển sản xuất công nghiệp, các khu,
cụm công nghiệp phải gắn liền với quy hoạch môi trường trong mối quan hệ chiến
lược phát triển vùng ĐBSCL.
Phải đầu tư để hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi, từ đó quy hoạch vùng sản xuất tập
trung quy mô lớn. Các tỉnh ĐBSCL cần kết hợp lại, thiết lập trật tự cho vùng nuôi tôm
sú; vùng nuôi cá tra, cá ba sa. Từng vùng phải có quy hoạch cụ thể. Nuôi tập trung
mới áp dụng được khoa học kỹ thuật tiên tiến, cho năng suất cao, xử lý được môi
trường, giảm dịch bệnh, tăng chất lượng hàng hóa; thu hoạch và tiêu thụ thuận lợi.
Chuyển dịch mạnh để tiến tới xóa bỏ độc canh cây lúa, đa dạng hóa các sản phẩm.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước của các cấp chính quyền tại địa phương, đặc
biệt là chính quyền cơ sở và cơ quan chuyên ngành lâm nghiệp, môi trường trong
công tác bảo vệ và phát triển hiệu quả hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển ở khu vực
ĐBSCL.
Tăng nhanh diện tích phủ xanh của thảm rừng ngập mặn phòng hộ ven biển, bảo
vệ rừng ngập mặn khỏi nạn bị chặt phá làm củi, gỗ, nuôi trồng thủy sản. Theo dõi
giám sát chất lượng thảm rừng ngập mặn đã bị suy giảm và các hệ sinh thái rừng ngập
mặn để kịp thời xử lý các vấn đề gây tổn thất đến tài nguyên nước, tài nguyên đất và
tài nguyên sinh học, đảm bảo cho độ ổn định của hệ sinh thái này.
 Hoạt động công nghiệp:
Trong sản xuất công nghiệp ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…, cần tăng cường công tác thẩm định, kiểm tra thanh
tra việc thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, đảm bảo các nguồn thải được xử lý phải
đáp ứng tiêu chuẩn môi trường quy định trước lúc thải ra môi trường. Kiên quyết xử
lý các doanh nghiệp, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và các hành vi vi
phạm Luật Bảo vệ môi trường.
Khống chế các chất thải rắn, lỏng, khí. Mở rộng và phát triển công nghệ tuần hoàn
kín hoặc xử lý chất thải để giảm hoặc loại bỏ các chất gây ô nhiễm; khi lợi dụng nước
thải để tưới ruộng, cần nắm được thành phần chất ô nhiễm, hàm lượng và trang thái,
khống chế số lượng nước tưới hoặc thực hiện xử lý cần thiết.



 Biện pháp khắc phục ô nhiễm dầu trong đất: bằng rất nhiều cách
• Cày xới lên và xử lí tầng đất ô nhiễm để nó co thể tiếp xúc với không khí làm

cho dầu bay hơi hay vi sinh vật bị phân hủy.
• Xử lí đất bằng hóa chất
• Trồng cây ưa dầu, có khả năng chịu được nồng độ dầu
• Thì nghiệm bằng cách khác nhau, chon ra một phương pháp thích hợp
• Bốc lớp đất bị ô nhiễm dầu (lớp mỏng đi xử lí)
• Tạo cho đất khả năng tự làm sạch, hoạc tiếp xúc với không khí hoăc vi sinh vật
hoặc rửa trôi chuyển hóa tự nhiên.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận.
Để đồng bằng sông Cửu Long có thể phát triển bền vững, đảm bảo được nguồn tài
nguyên đất cho an ninh lương thực là điều thiết yếu. Tuy còn nhiều vấn đề về ô nhiễm
đất trong quá trình phát triển kinh tế xã hội chung của vùng nhưng tin rằng cùng với
những biện pháp khoa học kỹ thuật đúng đắn, có sự kết hợp của chính quyền các cấp
và đội ngũ các nhà khoa học môi trường, nông dân…sẽ góp phần đẩy lùi ô nhiễm đất,
nâng cao chất lượng canh tác, năng suất cây trồng vật nuôi, để đồng bằng sông Cửu
Long xứng đáng là vựa lúa của cả nước.
Theo như em đánh giá bài tiểu luận này khá đầy đủ về mặt nội dung tuy chưa phải là
hoàn thiện nhưng nó cung cấp được những thông tin cơ bản để người đọc có thể hiểu hơn
về tình trạng ô nhiễm đất ở khu vực ĐBSCL.
Bài tiểu luân do thời gian có hạn nên còn chưa tìm hiểu kỹ được các chính sách của địa
phương, chưa tìm kiếm được những thông tin đầy đủ. Bài làm chắc chắn còn nhiều chỗ
sai sót. Mong cô sửa và góp ý để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
I.

Kiến nghị
Đầu tiên em cũng như các bạn còn lại cám ơn cô vì trong kỳ học vừa qua cô đã giảng dạy

cho chúng em rất tận tình. Cung cấp cho chúng em những kiến thức cần thiết phục vụ cho
chuyên nghành sau này. Trong bài tiểu luận này cô cũng đã tạo điều kiện cho chúng em
được nói nên suy nghĩ và yêu cầu của mình, em rất cám ơn.
Em cũng không có ý kiến gì nhiều, do môn học này thi theo hình thức là thi vấn đáp và
theo như cô đã nói thì đề cương là khá dài. Vậy nên trước khi thi em mong cô sắp xếp 1
buổi dạy phụ đạo để giúp lớp em ôn tập tốt hơn.
Trong quá trình học em cũng xin có một ý kiến nhỏ đó là về phần bài thuyết trình buổi
trước cô giao, có nững bạn làm ít, có bạn làm nhiều, nhưng mà khi cô cho điểm hình như
chưa đúng với công sức mà các bạn bỏ ra. Theo như cô nói thì là do phần trả lời ở trong
giờ học, tuy nhiên em nghĩ thì nên xem xét cả phần các bạn đã chuẩn bị từ nhà.
Đó là những suy nghĩ, ý kiến của em. Một lần nữa em xin cám ơn cô và mong cô sẽ chỉ
dạy lớp DH1QD2 trong các môn chuyên nghành khác.
II.


------HẾT-----



×