Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

GIÁO TRÌNH PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG KHOA ĐIỀU KHIỂN TÀU BIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.42 KB, 66 trang )

Mẫu 1

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI
BỘ MÔN: LUẬT HÀNG HẢI
KHOA: KHOA ĐIỀU KHIỂN TÀU BIỂN

BÀI GIẢNG
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

TÊN HỌC PHẦN
MÃ HỌC PHẦN
TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
DÙNG CHO SV NGÀNH

: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
: 11401
: ĐẠI HỌC CHÍNH QUY
: ĐIỀU KHIỂN TÀU BIỂN

HẢI PHÒNG - 2010


MỤC LỤC

2


STT

Khái niệm về nhà nước và pháp luật.



TRANG
6

Nguồn gốc của Nhà nước và pháp luật

6

Sự ra đời của Nhà nước và pháp luật

6

1.1.2. Nguồn gốc của pháp luật.
1.2 Bản chất, các kiểu và hình thức Nhà nước

7

1.2.1.

Bản chất Nhà nước

8

1.2.2.

Các kiểu và hình thức Nhà nước

9

1.2.3.


Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

10

Bản chất, các kiểu và hình thức pháp luật

15

1.3.1.

Các kiểu pháp luật

15

1.3.2.

Bản chất của pháp luật

15

1.3.3.

Các hình thức pháp luật

16

Pháp luật xã hội chủ nghĩa

18


Bản chất, vai trò và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội
chủ nghĩa

18

2.1.1.

Sự ra đời, bản chất của pháp luật XHCN

18

2.1.2.

Vai trò của pháp luật XHCN

19

2.1.3.

Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN

20

Quy phạm pháp luật XHCN

21

Khái niệm quy phạm pháp luật


21

2.2.2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật
2.2.3. Phân loại quy phạm pháp luật

22

2.2.4.

Áp dụng quy phạm pháp luật

23

2.3.

Văn bản quy phạm pháp luật XHCN

24

2.3.1.

Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật

24

2.3.2.

Các loại văn bản quy phạm pháp luật

25


2.3.3.

Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

27

Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa

28

2.4.1.

Khái niệm quan hệ pháp luật

28

2.4.2.

Thành phần của quan hệ pháp luật

29

2.4.3.

Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật

32

Pháp chế xã hội chủ nghĩa


32

2.5.1.

Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa

32

2.5.2.

Những yêu cầu cơ bản của pháp chế XHCN

33

2.5.3.

Các biện pháp tăng cường pháp chế XHCN

34

Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý

35

2.6.1.

Khái niệm vi phạm pháp luật

35


2.6.2.

Trách nhiệm pháp lý

36

1.
1.1.
1.1.1

1.3.

2.
2.1.

2.2.
2.2.1.

2.4.

2.5.

2.6.

NỘI DUNG

8

23


3


3.

Hệ thống các ngành luật Việt Nam

38

Hệ thống pháp luật

38

3.1.1.

Khái niệm hệ thống pháp luật

38

3.1.2.

Căn cứ phân định các ngành luật

38

3.1.3.

Hệ thống pháp luật Việt Nam


39

Một số ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật

39

Luật Nhà nước

39

3.1.

3.2.
3.2.1.

3.2.2. Luật Hành chính
3.2.3. Luật Hình sự

41

3.2.4.

Luật Tố tụng Hình sự

47

3.2.5.

Luật Dân sự


50

3.2.6.

Luật Lao động

54

45

4


YÊU CẦU VÀ NỘI DUNG CHI TIẾT
Tên học phần: Pháp luật đại cương.

Loại học phần : 1

Bộ môn phụ trách giảng dạy : Luật hàng hải

Khoa phụ trách: ĐKTB.

Mã học phần: 11401

Tổng số TC: 2

TS tiết

Lý thuyết


Thực hành/ Xemina

Tự học

Bài tập lớn

Đồ án môn học

30

30

0

0

0

0

Điều kiện tiên quyết:
Đã trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào trường Đại học Hàng hải Việt nam và là sinh viên khoa Điều
khiển tàu biển và các ngành khác của trường Đại học Hàng hải Việt nam.
Mục tiêu của học phần:
Môn học Pháp luật hàng hải trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về pháp luật nói chung
và những kiến thức cần thiết của luật Hàng hái nói riêng để vận dụng trong công tác sau này trong quá
trình sản xuất vận tải biển trong và ngoài nước, đặc biệt trong thương mại quốc tế bằng đường biển.
Nội dung chủ yếu:
-


Nguồn gốc của Nhà nước và pháp luật.

-

Bản chất, các kiểu và hình thức Nhà nước.

-

Bản chất, các kiểu và hình thức pháp luật.

-

Văn bản quy phạm pháp luật XHCN.

-

Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa.

-

Pháp chế xã hội chủ nghĩa.

-

Một số ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật.

Nội dung chi tiết:
PHÂN PHỐI SỐ TIẾT

TÊN CHƯƠNG MỤC

TS

LT

Chương 1. Khái niệm về nhà nước và pháp
luật.

9

8

1.1. Nguồn gốc của Nhà nước và pháp luật

2

2

4

4

2

2

1.1.1 Sự ra đời của Nhà nước và pháp luật
1.1.2.Nguồn gốc của pháp luật.
1.2 Bản chất, các kiểu và hình thức Nhà nước
1.2.1. Bản chất Nhà nước
1.2.2. Các kiểu và hình thức Nhà nước

1.2.3. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
1.3. Bản chất, các kiểu và hình thức pháp luật
1.3.1. Các kiểu pháp luật
1.3.2. Bản chất của pháp luật
5

Xemina

BT

KT
1


1.3.3. Các hình thức pháp luật
Chương 2. Pháp luật xã hội chủ nghĩa

11

2.1. Bản chất, vai trò và các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật xã hội chủ nghĩa

1

10

1

2.1.1. Sự ra đời, bản chất của pháp luật XHCN

2.1.2. Vai trò của pháp luật XHCN
2.1.3. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
XHCN
2.2. Quy phạm pháp luật XHXN

2

2.2.1. Khái niệm quy phạm pháp luật
2.2.2.Cơ cấu của quy phạm pháp luật
2.2.3. Phân loại quy phạm pháp luật
2.2.4. Áp dụng quy phạm pháp luật
2.3. Văn bản quy phạm pháp luật XHCN

2

2.3.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
2.3.2. Các loại văn bản quy phạm pháp luật
2.3.3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
2.4. Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa

2

2.4.1. Khái niệm quan hệ pháp luật
2.4.2. Thành phần của quan hệ pháp luật
2.4.3. Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quan hệ pháp luật
2.5. Pháp chế xã hội chủ nghĩa

2


2.5.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
2.5.2. Những yêu cầu cơ bản của pháp chế
XHCN
2.5.3. Các biện pháp tăng cường pháp chế XHCN
2.6. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp


1

2.6.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
2.6.2. Trách nhiệm pháp lý
Chương 3. Hệ thống các ngành luật Việt Nam

10

3.1. Hệ thống pháp luật

2

3.1.1. Khái niệm hệ thống pháp luật
3.1.2. Căn cứ phân định các ngành luật
3.1.3. Hệ thống pháp luật Việt Nam
3.2. Một số ngành luật cơ bản trong hệ thống
pháp luật
3.2.1. Luật Nhà nước
3.2.2. Luật Hành chính
6

8


1


3.2.3. Luật Hình sự
3.2.4. Luật Tố tụng Hình sự
3.2.5. Luật Dân sự
3.2.6. Luật Lao động
Nhiệm vụ của sinh viên: Lên lớp đầy đủ và chấp hành mọi quy định của Nhà trường.
Tài liệu tham khảo:
1. Phạm Thanh Tân - Bài giảng pháp luật đại cương - Đại học hàng hải 2003
2. Lý luận chung về nhà nước và pháp luật - Đại học Luật Hà Nội 1998
3. Hiến pháp Việt Nam - Nhà xuất bản chớnh trị quốc gia, Hà Nội 1995
4. Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam - Nhà xuât bản quốc gia, Hà Nội.1995
5. Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam -Nhà xuất bản công an nhân dân.2000
Hình thức và tiêu chuẩn đánh giá sinh viên:
- Thi viết rọc phách.
- Thời gian làm bài: 60 phút.
Thang điểm: Thang điểm chữ A, B, C, D, F.
Điểm đánh giá học phần: Z = 0,2X + 0,8Y.
Bài giảng này là tài liệu chính thức và thống nhất của Bộ môn Luật hàng hải , Khoa Điều khiển
tàu biển và được dùng để giảng dạy cho sinh viên.
Ngày phê duyệt: 29/03/2010
Trưởng Bộ môn: ThS. Bùi Thanh Sơn (ký và ghi rõ họ tên)

7


CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1.1. NGUỒN GỐC CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Muốn hiểu rõ được nguồn gốc và bản chất của Pháp luật cũng như sự phát triển của chúng
thì không thể tách rời việc xem xét, tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và phát
triển của Nhà nước. Bởi lẽ, Nhà nước và Pháp luật là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện khi xã
hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định, chúng luôn vận động, phát triển và sẽ tiêu
vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa.
1.1.1. Sự ra đời của nhà nước và pháp luật.
1.1.1.1. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ và tổ chức thị tộc, bộ lạc.
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch sử, đó là một xã
hội không có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật. Nhưng những nguyên nhân dẫn đến sự ra
đời của nhà nước và pháp luật lại nảy sinh chính trong lòng xã hội đó. Vì vậy, việc nghiên cứu về
xã hội cộng sản nguyên thuỷ sẽ là cơ sở để giải thích nguyên nhân làm phát sinh ra nhà nước và
pháp luật, tạo điều kiện để hiểu rõ bản chất của chúng.
Ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém
dẫn đến năng suất lao động thấp, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào nhau cùng
chung sống, cùng lao động và hưởng thụ. Trong xã hội mọi người đều bình đẳng, không ai có tài
sản riêng hoặc bất cứ đặc quyền đặc lợi nào. Cơ sở tế bào của xã hội không phải là gia đình mà là
thị tộc- tổ chức xã hội đầu tiên trong lịch sử được hình thành trên cơ sở huyết thống.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lí các công việc
của thị tộc, nhưng quyền lực ở đây chỉ là quyền lực xã hội chưa mang tính giai cấp và hệ thống
quản lí còn rất đơn giản. Để tổ chức và quản lí thị tộc, đã xuất hiện hình thức Hội đồng thị tộc,
đây là tổ chức có quyền lực cao nhất của thị tộc thể hiện ý chí chung của tất cả mọi thành viên
trong việc quyết định các vấn đề có liên quan. Hội đồng thị tộc bầu ra những người đứng đầu thị
tộc như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự..v.v. để thực hiện quyền lực và quản lí các công việc chung
của thị tộc. Những người này có quyền lực rất lớn nhưng quyền lực đó lại không dựa vào bộ máy
cưỡng chế đặc biệt mà lại dựa vào uy tín và sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc. Họ cũng
không có một đặc quyền, đặc lợi nào mà cùng sống cùng lao động và hưởng thụ như mọi thành
viên khác. Họ cũng có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu uy tín của họ không còn nữa.
Tổ chức thị tộc phát triển cùng với các điều kiện tác động khác (hôn nhân ngoại tộc) dẫn
đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc. Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại,
còn bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc. Tổ chức quyền lực trong bào tộc cũng như trong bộ lạc, đều

dựa trên nguyên tắc tương tự như ở tổ chức thị tộc tuy thể hiện sự tập trung cao hơn.
Tóm lại, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã có quyền lực nhưng đó là quyền lực xã hội,
xuất phát từ xã hội và phục vụ cho lợi ích chung của cả cộng đồng. Các quy tắc xử sự của con
người trong xã hội là các tập quán và các tín điều tôn giáo, đó là các chuẩn mực tuyệt đối thiêng
liêng mà mọi người đều tuân theo một cách tự nguyện.
1.1.1.2. Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã tạo điều kiện cho sự thay đổi phương thức
sản xuất cộng sản nguyên thuỷ và đòi hỏi sự phân công lao động tự nhiên phải được thay thế
bằng sự phân công lao động xã hội. Lịch sử đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội lớn, mà
mỗi lần xã hội lại có những bước tiến mới từng bước làm tăng nhanh quá trình tan rã của chế độ
cộng sản nguyên thuỷ.
*Lần phân công lao động xã hội thứ nhất:
8


Đó là việc con người thuần dưỡng được động vật tạo ra nghề chăn nuôi gia súc phát triển
mạnh mẽ, làm xuất hiện ngày càng nhiều những gia đình chuyên làm nghề chăn nuôi, và dần dần
chăn nuôi đã trở thành một ngành kinh tế độc lập tách khỏi ngành trồng trọt. Sau lần phân công
lao động xã hội đầu tiên, xã hội đã có những biến đổi sâu sắc: chăn nuôi, trồng trọt phát triển tạo
ra những sản phẩm lao động dư thừa và phát sinh khả năng chiếm đoạt sản phẩm dư thừa đó. Xã
hội nảy sinh một nhu cầu về sức lao động, cho nên các tù binh trong chiến tranh thay vì bị giết đã
được giữ lại để bóc lột sức lao động thành những nô lệ. Như vậy, chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội
phân chia thành kẻ giàu người nghèo, phá vỡ chế độ quần hôn, thiết lập nên các gia đình cá thể
với địa vị độc tôn của người chồng đã trở thành những yếu tố đe dọa sự tồn tại của tổ chức thị
tộc.
* Lần phân công lao động xã hội thứ hai:
Việc con ngưòi tìm ra kim loại cải tiến các công cụ sản xuất và chế biến những sản phẩm
của trồng trọt, chăn nuôi, tạo ra một ngành nghề mới tách khỏi nông nghiệp, đó là thủ công
nghiệp. Sau lần phân công lao động xã hội này thì nô lệ đã trở thành một bộ phận chủ yếu cấu
thành của xã hội, họ không còn là những kẻ phụ giúp đơn thuần mà đã trở thành một lực lượng xã

hội với số lượng ngày càng tăng. Xã hội bị phân hoá sâu sắc, sự phân biệt giữa kẻ giàu và người
nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngày càng rõ nét, mâu thuẫn giai cấp hình thành và ngày càng gia
tăng.
* Lần phân công lao động xã hội thứ ba:
Khi các ngành sản xuất đã tách biệt thì xuất hiện nhu cầu trao đổi hàng hoá và dẫn đến sự
ra đời của thương nghiệp. Sự phân công này nảy sinh ra một nhóm người không còn tham gia vào
sản xuất nữa, đó là thương nhân mà Mác gọi là “những kẻ kí sinh, những kẻ ăn bám xã hội và bóc
lột cả hai…” Thương nghiệp ra đời đã kéo theo sự xuất hiện của đồng tiền, chế độ cầm cố và cho
vay nặng lãi… dẫn đến sự bần cùng hoá của đại đa số và tập trung của cải trong tay thiểu số
người.
Như vậy qua ba lần phân công lao động xã hội đã làm đảo lộn xã hội thị tộc từ một xã hội
thuần nhất thành một xã hội có sự phân chia giai cấp.Với sự xuất hiện của tư hữu và gia đình đã
làm rạn nứt xã hội thị tộc thì sự ra đời của tầng lớp nô lệ và chủ nô thực sự đã tạo ra trong xã hội
thị tộc những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà được. Đứng trước hoàn cảnh mới – một xã
hội do toàn bộ những điều kiện kinh tế quyết định sự tồn tại của nó đã phân chia thành các giai
cấp đối lập, đấu tranh gay gắt với nhau, tổ chức thị tộc đã trở thành bất lực không còn phù hợp
nữa thì xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức trấn áp được các xung đột giai cấp. Tổ
chức đó chính là nhà nước và sự xuất hiện của nhà nước là yêu cầu khách quan. Nhà nước không
phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, tựa
hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm
trong vòng “trật tự”.
So với tổ chức thị tộc trước kia thì nhà nước có hai đặc trưng cơ bản là phân chia dân cư
theo lãnh thổ và thiết lập quyền lực công cộng.
Quyền lực công cộng của nhà nước khác với quyền lực xã hội trong chế độ cộng sản
nguyên thuỷ ở chỗ: quyền lực đó không thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội mà chỉ thuộc
về giai cấp thống trị, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Để thực hiện quyền lực đó cần có
một lớp người đặc biệt và bộ máy cưỡng chế bao gồm quân đội, cảnh sát, toà án… để sử dụng
một thứ công cụ đặc biệt mà xã hội trước kia chưa hề biết đến, đó là Pháp luật. Cho nên cùng với
sự ra đời của nhà nước thì pháp luật cũng xuất hiện.
1.1.2. Nguồn gốc của pháp luật

Những nguyên nhân làm phát sinh ra nhà nước cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến
sự ra đời của pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, những tập quán và tín điều tôn giáo
đã là những quy phạm xã hội rất phù hợp để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội lúc đó, bởi vì
9


chúng phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế xã hội của chế độ cộng sản nguyên thuỷ. Khi chế
độ tư hữu xuất hiện và xã hội đã phân chia thành giai cấp thì những tập quán đó không còn phù
hợp nữa, cần thiết phải có một quy phạm mới để thiết lập cho xã hội một “trật tự”. Quy phạm đó
chỉ thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp thông trị, đó là quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật
của các nước được hình thành từng bước phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước.
Nhưng nhìn chung ở thời kì sơ khai ,giai cấp thống trị đều tìm cách vận dụng tập quán để phục vụ
lợi ích giai cấp bằng cách thay đổi nội dung và nâng chúng lên thành các quy phạm pháp luật.
Mặt khác hệ thống pháp luật của mỗi nước còn được hình thành từ một nguồn khác, đó là các văn
bản do các cơ quan nhà nước ban hành nhằm củng cố chế độ chính trị và qui định đặc quyền cho
giai cấp thống trị.
Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị, nó hoàn toàn khác với các qui phạm xã hội (bao gồm chủ yếu là các tập quán) thể
hiện ý chí của tất cả mọi người. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, pháp luật là công cụ sắc bén
để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước
ban hành ra pháp luật và đảm bảo được thực hiện, cả hai đều là sản phẩm của đấu tranh giai cấp.
Tóm lại, nhà nước và pháp luật cùng xuất hiện ở những giai đoạn phát triển kinh tế nhất
định, giai đoạn gắn liền với sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, phân chia xã hội
thành giai cấp. Sự tồn tại và phát triển của nhà nước và pháp luật gắn liền sự tồn tại và phát triển
của giai cấp và đấu tranh giai cấp. Lịch sử đã trải qua các kiểu nhà nước và pháp luật: chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa. Sự thay thế kiểu nhà nước pháp luật này bằng kiểu
nhà nước pháp luật khác tiến bộ hơn là một qui luật tất yếu của sự thay thế hình thái kinh tế xã
hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn.
1.2. BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC, CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC VÀ HÌNH THỨC NHÀ
NƯỚC.

1.2.1. Bản chất của nhà nước.
Nhà nứơc là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lí đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
những mục đích của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị đó trong xã hội.
Nhà nước là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là sản phẩm của chế độ kinh tế nhất
định. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng quy định sự phát triển của nhà nước. Tuy nhiên, sự biến đổi
của nhà nước không phải chỉ phụ thuộc vào sự biến đổi của cơ sở kinh tế mà còn được qui định
bởi các điều kiện và yếu tố khác như: tương quan lực lượng giai cấp, mức độ gay gắt của các mâu
thuẫn xã hội, các đảng phái chính trị, các quan điểm chính trị. Ngược lại nhà nước cũng tác động
mạnh mẽ đến cơ sở kinh tế, đến những điều kiện và quá trình phát triển của sản xuất xã hội cũng
như đến các hiện tượng xã hội khác.
Bản chất của nhà nước còn được thể hiện trong các chức năng của nó, bao gồm chức năng
đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà
nước trong nội bộ đất nước như: bảo đảm an toàn trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối,
bảo vệ chế độ chính trị …
Chức năng đối ngoại thể hiện những mặt hoạt động của nhà nước trong quan hệ với các
quốc gia khác như: phòng thủ đất nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia, thiết lập quan hệ với các nhà
nước khác…
Để bảo vệ lợi ích cho mình, giai cấp thống trị ngoài việc thiết lập bộ máy nhà nước với
những cơ quan đặc biệt (quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù…) còn thiết lập hoặc sử dụng nhiều tổ
chức chính trị xã hội khác, trong đó đáng chú ý nhất là đảng phái chính trị. Tuy nhiên so với các
tổ chức khác trong xã hội, nhà nước với bản chất đặc thù có những đặc điểm riêng biệt sau đây:

10


-Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt. để thực hiện quyền lực đó, Nhà nước có
một lớp ngưòi đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lí, họ tham gia vào các cơ quan nhà nước và
hình thành một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị.
-Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính không phụ thuộc vào

chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp, giới tính…
-Nhà nước có chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lí thể hiện quyền độc lập tự
quyết của nhà nước về những chính sách đối nội và đối ngoại.
-Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lí bắt buộc đối với mọi công dân.
Những đặc điểm nói trên nói lên sự khác nhau giữa nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội
khác, đồng thời cũng phản ánh vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội .
1.2.2. Kiểu nhà nước và hình thức nhà nước
1.2.2.1. Kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là tổng thể các dấu hiệu cơ bản, đặc thù của nhà nước, thể hiện bản chất giai
cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất
định. Xác định kiểu nhà nước là xác định những dấu hiệu chủ yếu nhất trên cơ sở bản chất giai
cấp và cơ sở kinh tế của nhà nước.
Trong lịch sử của xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội: chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế xã hội đó
là bốn kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước
tư sản và kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản tuy có đặc điểm riêng nhưng đều
thuộc kiểu nhà nước của giai cấp bóc lột. Cơ sở kinh tế của nó là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
và chế độ người bóc lột người, các nhà nước đó đều là công cụ thống trị của thiểu số giai cấp bóc
lột với đại đa số nhân dân lao động. Đối lập với kiểu nhà nước nói trên là kiểu nhà nước xã hội
chủ nghĩa với bản chất hoàn toàn khác,có nhiệm vụ thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Sự thay thế một kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn là một tất yếu
lịch sử. Cơ sở khách quan của sự thay thế đó là sự vận động của các qui luật kinh tế xã hội – cách
mạng là con đường dẫn đến sự thay thế đó. Các cuộc cách mạng khác nhau đã đem nhà nước
phong kiến thay thế nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước tư sản thay thế nhà nước phong kiến,
nhà nước xã hội chủ nghĩa thay thế nhà nước tư sản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước
mới tiến bộ nhất và cũng là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử, sau khi hoàn thành sứ mạng
của mình nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ tiêu vong và sẽ không còn kiểu nhà nước nào khác nữa.
1.2.2.2. Hình thức nhà nước

Hình thức nhà nước là cách tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức chính thể,
hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị là ba mặt của vấn đề hình thức nhà nước.
* Hình thức chính thể: là cách tổ chức và trình tự thành lập các cơ quan cao nhất của nhà
nước cùng với những mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là
chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà.
+ Chính thể quân chủ là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập
trung toàn bộ (hoặc một phần) vào tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc truyền ngôi
hoặc được bầu suốt đời. Tuỳ thuộc vào phạm vi quyền lực của người đứng đầu nhà nước: Vua,
Quốc trưởng…, người ta phân biệt chính thể quân chủ chuyên chế hoặc quân chủ lập hiến.
+ Chính thể cộng hoà là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc
về một cơ quan được bầu ra trong một thời hạn nhất định. Chính thể cộng hoà được chia thành
11


cộng hoà đại nghị và cộng hoà tổng thống, hoặc cộng hoà dân chủ và cộng hoà quí tộc (nhà nước
xã hội chủ nghĩa thuộc dạng chính thể cộng hoà dân chủ).
* Hình thức cấu trúc nhà nước: là sự cấu tạo quốc gia thành các đơn vị hành chính lãnh thổ
và xác lập những mối quan hệ giữa các đơn vị ấy với nhau cũng như giữa trung ương với địa
phương. Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất và hình thức
nhà nước liên bang.
+ Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cô quan quyền lực và cơ
quan hành chính thống nhất từ trung ương đến địa phương (Việt Nam, Pháp, Lào…)
+ Nhà nước liên bang là nhà nước có hai hay nhiều nước thành viên hợp lại trong đó cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất chung cho toàn liên bang, đồng thời mỗi nhà nước thành viên
lại có cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của mình (Mĩ, Nga…).
* Chế độ chính trị: là tổng thể các phương pháp và thủ đoạn mà các cơ quan nhà nước sử
dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Trong lịch sử các giai cấp thống trị đã sử dụng nhiều
phương pháp và thủ đoạn để thực hiện quyền lực nhà nước, nhưng tựu chung chúng được phân
thành hai loại chính là: phương pháp dân chủ và phương pháp phản dân chủ.
+ Phương pháp dân chủ có thể biểu hiện dưới những hình thức khác nhau như: dân chủ thực

sự và dân chủ giả hiệu, dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế, dân chủ trực tiếp và dân chủ gián
tiếp.
+ Phương pháp phản dân chủ thể hiện tính chất độc tài trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước, khi chế độ phản dân chủ phát triển đến mức độ cao thì trở thành tàn bạo, quân phiệt, phát
xít.
Tóm lại, hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị có liên quan
mật thiết với nhau, ba yếu tố này có tác động qua lại lẫn nhau tạo thành khái niệm nhà nước.
1.2.3. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.2.3.1. Bản chất của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới, ra đời từ cách mạng
tháng 8 năm 1945 mang bản chất tốt đẹp là xoá bỏ áp bức bóc lột, phục vụ lợi ích của nhân dân
lao động.
Vấn đề bản chất của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện rõ trong
Hiến pháp 1992. Đó là “nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân và nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức” (Điều 2). Tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân là những thuộc tính cơ bản xuyên
suốt thể hiện bản chất của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là nhà nước mà
mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, một nhà nước do dân lập ra, dân giám sát và tham gia vào
hoạt động của bộ máy nhà nước. Thể hiện rõ nét bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa trên tinh thần
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực.
Tóm lại, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất của giai cấp công
nhân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động, có sự gắn bó mật
thiết giữa lợi ích của giai cấp với lợi ích của dân tộc, phấn đấu cho một xã hội công bằng, văn
minh.
Bản chất của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn được thể hiện ở chức
năng, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước .
1.2.3.2. Chức năng của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ chủ yếu để thiết lập và thực thiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bản chất của nhà nước qui định
các chức năng cơ bản của nhà nước trong mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể.

12


* Các chức năng đối nội:
+ Chức năng tổ chức và quản lí kinh tế.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không những là tổ chức có quyền lực chính
trị bao trùm toàn xã hội mà còn là chủ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Do đó,
tổ chức và quản lí kinh tế là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay tổ chức và quản lí kinh tế bao gồm những nội dung chủ yếu sau
đây:
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lí, phù hợp với điều kiện thực tế để đảm
bảo sự tăng trưởng ổn định.
- Tiếp tục xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận
hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách. Xây dựng, phát triển đồng bộ một thị trường hoàn chỉnh cả sức lao động, vốn, tiền tệ thông
suốt trong cả nước và với thị trường quốc tế.
- Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học, công nghệ để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế
xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền .
+ Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự chống đối của các
lực lượng thù địch, phá hoại và các âm mưu phản cách mạng khác.
Mặc dù đã bị đánh đổ nhưng các giai cấp và lực lượng thù địch vẫn không ngừng phá hoại
thành quả cách mạng hòng làm suy yếu chính quyền nhân dân. Do đó, giữ vững an ninh quốc gia,
đảm bảo sự ổn định chính trị của đất nước, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc những
thành quả cách mạng phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước luôn luôn là một chức năng quan
trọng cuả nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Chức năng tổ chức và quản lí văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải phát huy nhân tố con người với nền
giáo dục và khoa học công nghệ tiên tiến, nền văn hoá hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc, chức

năng này của nhà nước thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Nhà nước xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại mang đậm sắc
thái dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại vừa kế thừa và phát huy giá trị của nền văn
hiến các dân tộc Việt Nam.
- Nhà nước coi “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” (diều 35-Hiến pháp 1992).
Xác định mục đích của việc quản lí và phát triển nền giáo dục là nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Từ đó nhà nước thống nhất quản lí hệ thống giáo dục về mục tiêu,
chương trình, nội dung, kế hoạch…
- Trên cơ sở xác định vai trò then chốt của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước, nhà nước đầu tư phát triển đồng bộ các nghành khoa học, xây dựng một nền
khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại.
* Các chức năng đối ngoại
+ Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
“Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân”
(điều 44-Hiến pháp 1992). Đây là chức năng chủ yếu thường xuyên của nhà nước ta, điều đó xuất
phát từ sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động với âm mưu phá hoại chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện diễn biến hoà bình. Đòi hỏi nhà nước ta phải luôn luôn nêu cao cảnh giác,
13


đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, các lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, nhà nước xây dựng lực lượng quân đội nhân dân và công an nhân dân chính qui, tinh nhuệ
kết hợp với việc xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân tạo nên sức mạnh của toàn dân trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
+ Chức năng củng cố và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước.
Củng cố và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước là một trong những chức
năng quan trọng của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính
sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế với tất cả các nước trên thế giới,

không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi trong quan hệ.
Các chức năng của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động lẫn nhau, trong đó các chức năng đối nội giữ vai trò chủ đạo, có ý nghĩa quyết
định đối với các chức năng đối ngoại. Nhưng việc thực hiện tất cả các chức năng đối ngoại sẽ tác
động mạnh mẽ đến kết quả của việc thực hiện các chức năng đối nội.
1.2.3.3. Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc thống nhất tạo
thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Bộ máy nhà nước ta có đặc điểm vừa là tổ chức hành chính, vừa là tổ chức quản lí kinh tế.
Do đó trong bộ máy nhà nước, bên cạnh các cơ quan cưỡng chế như quân đội, cảnh sát, toà án…
còn có các cơ quan quản lí kinh tế, văn hoá, giáo dục. Tuy nhiên, tất cả các cơ quan trong bộ máy
nhà nước đều chịu sự kiểm tra giám sát của các cơ quan quyền lực, chịu trách nhiệm báo cáo
công tác trước các cơ quan quyền lực. Trong bộ máy nhà nước ta, một mặt đảm bảo sự thống nhất
quyền lực, nhưng mặt khác có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lực đó.
* Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: (được ghi nhận trong Hiến pháp
1992) gồm những nội dung cơ bản sau đây:
+ Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước .
Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, được xác định trong
điều 4-Hiến pháp 1992: “ Đảng Cộng sản Việt nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực
lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở chỗ Đảng
định ra đưòng lối, chính sách, chủ trương, trên cơ sở đó nhà nước thể chế hoá thành các biện pháp
cụ thể để tổ chức thực hiện. Đảng thực hiện giám sát, kiểm tra và chỉ đạo hoạt động của nhà
nước.
+ Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực.
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của nhà nước là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân

nên nguyên tắc chỉ đạo việc tổ chức hoạt động của bộ maý nhà nước là đảm bảo sự thống nhất về
quyền lực, không có sự phân tách đối chọi nhau giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quyền lực nhà nước cao nhất thống nhất vào Quốc hội (cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân),
đồng thời có sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước vì không một cơ quan
nào có thể thực thi nổi cả ba quyền lực đó. Quốc hội là cơ quan duy nhất nắm quyền lập pháp,
đồng thời cũng có một số thẩm quyền thuộc quyền hành pháp và tư pháp. Chính phủ nắm quyền
hành pháp có vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp và tư pháp. Toà án, Viện kiểm sát có
14


chức năng trung tâm của quyền tư pháp. Để đảm bảo quán triệt được nguyên tắc này, bộ máy nhà
nước phải được không ngừng hoàn thiện, xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ cũng như
mối quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, phát huy đầy đủ cả ba quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp, đảm bảo thống nhất quyền lực nhà nước.
+ Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của nhân dân vào quản lí nhà nước.
Nguyên tắc này cũng được xác định cụ thể trong Hiến pháp “Công dân có quyền tham gia
quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước và địa phương,
kiến nghị với các cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý” (điều 53Hiến pháp 1992). Hình thức tham gia của nhân dân vào quản lí nhà nước rất đa dạng, vừa gián
tiếp thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội và Hội đồng nhân dân, vừa trực tiếp tham gia làm
việc trong các cơ quan nhà nước.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều 6-Hiến pháp 1992 qui định “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của
nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Thực hiện nguyên tắc
này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có nghĩa là kết hợp sự điều hành tập trung
thống nhất của trung ương và cơ quan nhà nước cấp trên với hoạt động tự chủ, năng lực sáng tạo
của địa phương và cơ quan nhà nước cấp dưới. Kết hợp giữa quyết định tập thể với trách nhiệm
cá nhân, tránh biểu hiện lệch lạc của cả hai khuynh hướng: tập trung quan liêu và phân tán cục
bộ.
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tổ chức

và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nguyên tắc này đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước phải tiên hành theo đúng qui định của pháp luật, mọi cán bộ, nhân
viên nhà nước phải triệt để tôn trọng pháp luật khi thi hành quyền hạn và nhiệm vụ của mình.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi sự tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lí nghiêm minh những hành vi
vi phạm pháp luật.
* Các cơ quan trong bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước bao gồm một hệ thống cơ quan trong đó mỗi cơ quan là một bộ phận của
hệ thống có địa vị pháp lí riêng, có qui chế riêng về tổ chức và hoạt động, cùng góp phần thực
hiện quyền lực nhà nước.
Theo Hiến pháp 1992, tổ chức bộ máy nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam gồm các cơ quan sau: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
+ Quốc hội.
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam” (điều 83-Hiến pháp 1992). Quốc hội là cơ
quan nhà nước duy nhất ở nước ta do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp, bỏ phiếu kín. Quyền hạn của Quốc hội bao gồm:
- Quyền lập hiến và lập pháp.
- Quyền quyết định những công việc quan trọng nhất của đất nước.
- Quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội bao gồm: Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc của
Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội: Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban kinh tế và ngân sách, Uỷ ban quốc
phòng và an ninh, Uỷ ban văn hoá và giáo dục …, và đại biểu Quốc hội.
Hoạt động chủ yếu của Quốc hội thông qua các kì họp thường xuyên, mỗi năm hai lần do
Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập. Nhiệm kì của Quốc hội là 5 năm.
15


+ Chủ tịch nước
“ Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt nam về đối nội và đối ngoại” (điều 103-Hiến pháp 1992). Quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ
tịch nước bao gồm:
- Công bố Hiến pháp, Lệnh, Pháp lệnh và các quyết định quan trọng khác của Quốc hội và
Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
- Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại một số Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.
- Quyết định các vấn đề về an ninh quốc phòng và các vấn đề quan trọng
+ Chính phủ.
“Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam” (điều 109-Hiến pháp 1992). Chính phủ, trước hết là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh,
Nghị quyết của Quốc hội. Là cơ quan đứng đầu hệ thống các cơ quan hành chính của nhà nước,
Chính phủ có nhiệm vụ quản lí, điều hành toàn bộ mọi mặt đời sống của đất nước.
Tổ chức của Chính phủ gồm có Thủ tướng, các phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành
viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội.
Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công
tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Bộ trưởng là người đứng đầu một
ngành, một lĩnh vực quản lí, chịu trách nhiệm quản lí nhà nước về ngành, lĩnh vực mà Bộ phụ
trách trên phạm vi cả nước.
+ Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” (điều 119-Hiến pháp 1992). Nhiệm
vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân được thể hiện trong ba nội dung chủ yếu sau:
- Quyết định các chủ trương, biện pháp quan trọng để xây dựng và phát triển địa phương.
- Bảo đảm thực hiện các qui định của các cơ quan nhà nước cấp trên.
- Giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cùng cấp, giám sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và công dân ở địa phương.
“Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật,

các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp”
(điều 123-Hiến pháp 1992).
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành các công việc của địa phương,
chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan nhà nước cấp trên.
+ Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
“Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ tập thể của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể,
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (điều 126-Hiến pháp
1992). Trong bộ máy nhà nước, Toà án và Viện kiểm sát đều là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ
bảo vệ pháp luật, tuy nhiên mỗi cơ quan lại có chức năng riêng:
- Toà án nhân dân là cơ quan xét xử các vụ việc vi phạm pháp luật về hình sự, dân sự, kinh
tế, lao động,hành chính. Hệ thống Toà án nước ta bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án
16


nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các toà án nhân dân huyện, quận, thành phố
thuộc tỉnh ,thị xã, các toà án quân sự. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định
thành lập toà án đặc biệt.
- Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành
quyền công tố theo quy định của pháp luật. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát
nhân dân huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã , Viện kiểm sát quân sự.
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân địa phương và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống
nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
1.3. KIỂU, BẢN CHẤT VÀ HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA PHÁP LUẬT
1.3.1. Kiểu pháp luật.
Kiểu pháp luật là tổng thể các dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của pháp luật, thể hiện

bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật trong một hình thái kinh tế
xã hội nhất định. Học thuyết Mác-Lê nin về các hình thái kinh tế xã hội là cơ sở để phân định
kiểu pháp luật. Đặc điểm của mỗi hình thái kinh tế xã hội có giai cấp sẽ quyết định những dấu
hiệu cơ bản của pháp luật. Phù hợp với điều đó trong lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật: kiểu
pháp luật chủ nô, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư sản, kiểu pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
Ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến và tư sản là kiểu pháp luật bóc lột được xây dựng trên
cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cho nên mặc dù mỗi kiểu có bản chất và cách biểu
hiện riêng nhưng chúng đều có những đặc điểm chung là: thể hiện ý chí của giai cấp bóc lột, củng
cố và bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo đảm về mặt pháp lí sự bóc lột của giai cấp
thống trị.
Khác hẳn các kiểu pháp luật trên, pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
chiếm tuyệt đại đa số dân cư trong xã hội. Mục đích của pháp luật xã hội chủ nghĩa là thủ tiêu áp
bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều bình đẳng và tự do.
Sự thay thế kiểu pháp luật này bằng một kiểu pháp luật khác tiến bộ hơn là qui luật tất yếu.
Cơ sở khách quan của sự thay thế đó là sự vận động của qui luật kinh tế: quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay thế các kiểu pháp luật gắn liền với
các hình thái kinh tế xã hội tương ứng. Cách mạng là con đường dẫn đến sự thay thế đó. Các cuộc
cách mạng xã hội khác nhau trong lịch sử đã đem lại kết quả: pháp luật phong kiến thay thế pháp
luật chủ nô, pháp luật tư sản thay thế pháp luật phong kiến, pháp luật xã hội chủ nghĩa thay thế
pháp luật tư sản. Trong tương lai pháp luật xã hội chủ nghĩa sẽ bị tiêu vong và sau đó sẽ không
còn kiểu pháp luật nào thay thế nữa. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay pháp luật xã hội chủ
nghĩa cần được xây dựng hoàn chỉnh để phát huy vai trò là công cụ để đảm bảo cho thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội.
1.3.2. Bản chất của pháp luật.
Sự hình thành và tồn tại của pháp luật gắn liền với sự hình thành và tồn tại của giai cấp
trong xã hội, cho nên tính giai cấp là sự thể hiện rõ nhất bản chất của pháp luật. Bất kì một nhà
nước nào khi thực hiện nhiệm vụ của mình cũng phải xác lập nên các thể chế nhất định để bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Do đó nội dung của pháp luật do nhà nước ban hành suy cho cùng là

do những quan hệ thống trị quyết định chứ không phải nhà nước tuỳ tiện quyết định được. Hơn
nữa trong xã hội chỉ có giai cấp thống trị mới có khả năng thông qua nhà nước để ban hành pháp
luật thể hiện ý chí của mình mà những giai cấp khác không thể thực hiện được khả năng này.
17


Bản chất giai cấp là thuộc tính của bất kì kiểu pháp luật nào, nhưng mỗi kiểu pháp luật lại
có bản chất riêng và cách biểu hiện riêng. Ví dụ trong kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ và pháp
luật phong kiến thì giai cấp thống trị công khai quy định quyền lực vô hạn và những đặc quyền
đặc lợi của giai cấp chủ nô và địa chủ phong kiến. Nhưng trong pháp luật tư sản bản chất giai cấp
lại được thể hiện một cách tinh vi, thận trọng dưới nhiều hình thức tự do, dân chủ mà thực chất là
thể hiện ý chí và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản.
Để giải thích bản chất của pháp luật còn phân tích mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế và
chính trị.
+ Trong mối quan hệ với kinh tế, pháp luật có tính độc lập tương đối. Một mặt pháp luật
phụ thuộc vào kinh tế, mặt khác pháp luật lại có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với
kinh tế. Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở chỗ nội dung của pháp luật là do các
quan hệ kinh tế xã hội quyết định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Sự thay đổi của chế độ
kinh tế xã hội sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi của pháp luật. Pháp luật luôn luôn phản
ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế, nó không thể cao hơn hay thấp hơn trình độ phát triển
đó. Mặt khác pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế, sự tác động đó có
thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực. Khi nào pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp tiên tiến trong
xã hội, phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế thì nó sẽ có nội dung tiến bộ và tác dụng tích
cực, ngược lại khi pháp luật của giai cấp lỗi thời muốn duy trì các quan hệ kinh tế đã lạc hậu thì
nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
+ Trong mối quan hệ với chính trị, pháp luật là một trong những hình thức biểu hiện cụ thể
của chính trị. Đường lối chính sách của giai cấp thống trị luôn giữ vai thò chỉ đạo đối với pháp
luật. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, vì vậy đường lối chính trị biểu hiện trước hết
ở các chính sách kinh tế. Các chính sách đó được cụ thể hoá trong pháp luật thành những qui định
chung thống nhất trong toàn xã hội. Bất kì giai cấp thống trị nào cũng đều dùng pháp luật làm

phương tiện để thực hiện đường lối chính trị của giai cấp mình, do vậy đường lối chính sách của
giai cấp thống trị trở thành bắt buộc đối với giai cấp khác. Mỗi sự thay đổi về đường lối chính
sách của giai cấp thống trị đều được thể chế hoá thành các văn bản pháp luật làm cho ý chí và
mục đích của giai cấp thống trị được thực hiện.
Từ những điểm đã trình bày trên đây, có thể đi đến kết luận là: pháp luật là một trong những
biểu hiện của chính trị, là hình thức dùng nhà nước biến chính trị của giai cấp thống trị thành
những qui phạm chung mà mọi người phải tuân theo. Chính trị là linh hồn của pháp luật. Tuy
nhiên cùng với pháp luật, giai cấp thống trị còn sử dụng nhiều phương tiện khác như văn học,
nghệ thuật, tôn giáo…làm công cụ để đạt được mục đích, nhưng chỉ có pháp luật là công cụ,
phương tiện quan trọng nhất, có hiệu quả nhất. Bởi vì so với các phương tiện khác thì pháp luật
có một số đặc điểm đặc thù sau:
- Pháp luật do nhà nước ban hành cho nên pháp luật có phạm vi rộng lớn nhất, tới tất cả mọi
người trong xã hội.
- Pháp luật được nhà nước đảm bảo thực hiện, vì vậy pháp luật có tính cưỡng chế cao, bắt
buộc mọi người phải thực hiện.
1.3.3. Các hình thức pháp luật
Như mọi hiện tượng xã hội khác, pháp luật cũng có những hình thức biểu hiện cụ thể nhất
định. Hình thức biểu hiện của pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí
của giai cấp mình lên thành luật. Trong lịch sử đã có ba hình thức pháp luật là tập quán pháp,
tiền lệ pháp và văn bản pháp luật.
1.3.3.1. Tập quán pháp.
Tập quán pháp là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã hội
phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành các qui tắc xử sự chung được nhà
nước đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế bắt buộc. Do được nhà nước thừa nhận nên
18


tập quán pháp trở thành ý chí của giai cấp thống trị buộc mọi người phải tuân thủ, còn tập quán
thông thường được tuân theo chỉ là do thói quen, do truyền thống mà thôi. Tập quán pháp là hình
thức pháp luật xuất hiện sớm nhất ở thời kì cổ xưa, trong xã hội phát triển chậm chạp, được sử

dụng nhiều trong các nhà nước chủ nô và phong kiến. Trong nhà nước tư sản hình thức này vẫn
được sử dụng, nhất là ở các nước có chế độ quân chủ.
Vì tập quán pháp hình thành một cách tự phát, ít biến đổi và có tính cục bộ, cho nên hình
thức tập quán pháp về nguyên tắc không phù hợp với bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tuy vậy cũmg có một số tập quán thể hiện truyền thống và đạo đức dân tộc, có tác dụng tốt trong
việc phát huy và bảo vệ nền văn hoá dân tộc. Do đó trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhà
nước xã hội chủ nghĩa vẫn thừa nhận một số tập quán tiến bộ tuy ở mức độ rất hạn chế.
1.3.3.2. Tiền lệ pháp.
Tiền lệ pháp là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính hay cơ
quan xét xử khi giải quyết những vụ việc cụ thể làm khuôn mẫu áp dụng đối với các vụ việc
tương tự. Hình thức này xuất hiện muộn hơn hình thức tập quán pháp, được sử dụng trong các
nhà nước phong kiến một cách rộng rãi và hiện nay nó vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật
tư sản (đặc biệt trong dân luật Anh, Mỹ…).
Cũng như tập quán pháp, tiền lệ pháp hình thành không phải do cơ quan lập pháp, nó được
xuất hiện từ hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Do vậy, hình thức pháp luật này
thường dễ tạo ra sự tuỳ tiện, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế đòi hỏi phải tôn trọng
nguyên tắc tối cao của luật và sự phân định quyền hạn của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Nó hoàn toàn không phù hợp với hình thức của pháp luật xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên ở giai
đoạn đầu của cách mạng (nhà nước xã hội chủ nghĩa mới ra đời) do hệ thống pháp luật chưa được
xây dựng hoàn chỉnh trước yêu cầu cần giải quyết một số vụ việc cấp thiết, nhà nước xã hội chủ
nghĩa vẫn còn sử dụng hình thức này. Nhưng đó chỉ là sự vận dụng linh hoạt trên cơ sở đường lối
chính sách của Đảng. Khi hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh thì hình thức pháp luật này
không còn tồn tại nữa.
1.3.3.3. Văn bản pháp luật.
Văn bản pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, trong đó qui
định những quy tắc xử sự chung cho mọi người, được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội.
Có nhiều loại văn bản pháp luật . Ở mỗi nước trong những điều kiện cụ thể có thể có những qui
định riêng về tên gọi và hiệu lực pháp lí của các loại văn bản pháp luật, nhưng nhìn chung các
văn bản pháp luật đều được ban hành theo một trình tự, cách thức nhất định, trong đó có chứa
đựng các qui phạm cụ thể nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội nhất định nào đó.

Trong pháp luật chủ nô và phong kiến, hầu hết các đạo luật là bản ghi chép lại một cách có
hệ thống các án lệ và các đã được thừa nhận. Pháp luật tư sản đã có nhiều hình thức văn bản
phong phú và được xây dựng với kỹ thuật lập pháp cao. Đặc biệt trong giai đoạn đầu, khi nền
“dân chủ tư sản” xuất hiện tuyên bố quyền lập pháp tập trung vào Nghị viện làm cho pháp luật tư
sản có hệ thống văn bản tương đối thống nhất trên cơ sở luật. Nhưng sau khi dành được thắng lợi
hoàn toàn đối với chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã tự phá vỡ nguyên tắc thống nhất trên
bằng cách hạ thấp vai trò của Nghị viện, mở rộng quyền của Tổng thống và Chính phủ, sử dụng
rộng rãi hình thức tiền lệ pháp và tập quán pháp.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa có hệ thống các văn bản thống nhất được xây dựng theo nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng tính tối cao của luật. Hệ thống các văn bản pháp luật
ngày càng được xây dựng hoàn chỉnh đồng bộ với kĩ thuật cao, thể hiện sự tiến bộ của hình thức
văn bản pháp luật.

19


Câu hỏi ôn tập
1. Nguồn gốc, bản chất, chức năng, hình thức và các kiểu nhà nước?
2. Nguồn gốc, bản chất, hình thức, vai trò của pháp luật?
3. Nêu bản chất, chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam?
4. Bộ máy nhà nước và nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước CHXNCN
Việt Nam

20


CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1. BẢN CHẤT, VAI TRÒ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

2.1.1. Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Sau khi giành được thắng lợi cách mạng, giai cấp vô sản không những thiết lập, củng cố và
tăng cường bộ máy nhà nước chuyên chính vô sản mà còn phải nhanh chóng xoá bỏ hệ thống
pháp luật cũ, xây dựng một hệ thống pháp luật mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong điều kiện mới, trấn áp các phần tử chống đối cách mạng, tổ chức xây dựng một xã hội mới.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là kiểu pháp luật cuối cùng, tiến bộ nhất trong lịch sử. Ra đời cùng với
nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng như nhà nước tồn tại trong suốt thời kì quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Là kiểu pháp luật mới, tiến bộ nhất trong lịch sử, khác
hẳn với các kiểu pháp luật bóc lột trước đó, pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, xoá bỏ bóc lột, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, thực hiện một nền dân chủ mới và đảm bảo công bằng xã hội.
Khác với bản chất của các kiểu pháp luật bóc lột, pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện bản
chất tiến bộ ở những điểm sau đây:
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa là một hệ thống quy tắc xử sự có tính nội thống nhất nội tại rất
cao. Tính hệ thống của pháp luật một mặt nói lên sự đa dạng của các quy phạm được ban hành
trong các thời điểm khác nhau để điều chỉnh các loại quan hệ xã hội cần thiết. Mặt khác, dù có
nhiều quy phạm khác nhau nhưng tất cả đều thống nhất với nhau thể hiện cùng một bản chất làm
cho pháp luật trở thành hệ thống các quy phạm đồng bộ.
Cũng cần phải khẳng định rằng pháp luật xã hội chủ nghĩa có tính thống nhất cao hơn bất kì
kiểu pháp luật nào khác, bởi vì pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở quan hệ kinh
tế xã hội chủ nghĩa, đặc trưng bằng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong thời kì quá độ,
mặc dù nền kinh tế còn tồn tại cơ cấu nhiều thành phần nhưng dưới sự điều tiết của nhà nước, nền
kinh tế đó vẫn phát triển theo xu hướng thống nhất ngày càng cao. Điều đó quyết định tính thống
nhất và xu hướng phát triển của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đây là điểm khác biệt căn bản với các kiểu pháp luật khác. Các kiểu pháp luật bóc lột đều có
chung một bản chất là thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp bóc lột, trái lại pháp luật xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí của số đông, tuyệt đại đa số trong dân cư, cho nên nó được đông đảo quần
chúng tự giác thực hiện và tôn trọng. Tuy nhiên trong thời kì quá độ. Tuỳ thuộc vào sự thống nhất
và chưa thống nhất về lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau, việc thể hiện ý chí đó cũng có

những mức độ khác nhau.
+ Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, vì vậy pháp luật là các quy tắc xử
sự có tính bắt buộc chung, dựa vào sức mạnh cưỡng chế của quyền lực nhà nước. Đặc điểm này
phản ánh tính đặc thù của pháp luật: pháp luật bao giờ cũng là ý chí nhà nước, hình thành bằng
con đường nhà nước. Mọi quy tắc xử sự không do nhà nước ban hành đều không phải là pháp
luật.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ với kinh tế. Trong mối quan hệ này kinh tế giữ vai
trò quyết định đối với pháp luật, pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế,
mọi sự thay đổi của chế độ kinh tế sẽ dẫn đến những thay đổi tương ứng của pháp luật. Tuy nhiên
pháp luật cũng có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với sự phát triển của chế độ kinh tế.
Pháp luật không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển của chế độ kinh tế xã hội. Vì vậy
21


nếu pháp luật phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, nó sẽ có vai trò tích cực và
ngược lại nếu phản ánh không đúng, pháp luật sẽ có tác dụng tiêu cực.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng Cộng sản. Trong mối quan hệ này, đường lối chính sách của Đảng giữ vai trò chỉ đạo: chỉ
đạo phương hướng và xây dựng pháp luật, chỉ đạo nội dung pháp luật, chỉ đạo việc tổ chức thực
hiện và áp dụng pháp luật. Pháp luật luôn luôn phản ánh dường lối chính sách của Đảng, là sự thể
chế hoá đường lối chính sách thành các qui định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội. Vì
vậy trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như việc áp dụng thực hiện phải thấm nhuần
các quan điểm thể hiện trong đường lối của Đảng. Tuy nhiên cần hết sức tránh khuynh hướng
dùng đường lối chính của Đảng để thay thế cho pháp luật, hạ thấp vai trò của pháp luật.
+ Pháp luật có quan hệ qua lại với các quy phạm xã hội khác trong chủ nghĩa xã hội như
quy phạm đạo đức, quy tắc xử sự của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng.
Những quan điểm, quan niệm của con người về cuộc sống, những tập quán lâu đời đã trở
thành truyền thống của dân tộc đều chịu sự tác động mạnh mẽ của pháp luật, có ảnh hưởng không
nhỏ tới việc hình thành hành vi và nhân cách của con người mới. Vì vậy để phát huy vai trò của
pháp luật thì cần thiết phải xét đến mối quan hệ giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác.

2.1.2. Vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong đời sống xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ vai trò rất quan trọng: là phương tiện
để thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện
có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội, là phương tiện để nhân dân lao động thể hiện ý chí và thực
hiện quyền làm chủ của mình, thực hiện công bằng xã hội, là phương tiện để nhà nước quản lí
mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Tuy nhiên những quan điểm trên mới chỉ phản ánh vai trò của pháp luật ở bình diện chung.
Để thấy rõ vai trò của pháp luật cần phải xem xét nó ở góc độ cụ thể gắn với việc thực hiện các
chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì pháp luật được đặt ra nhằm thực hiện những
mục đích đã được xác định, những mục đích đó luôn xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ, cũng như trong mỗi giai đoạn cụ thể. Trong mối quan
hệ này có thể nhận thấy vai trò của pháp luật thể hiện ở những mặt sau đây:
+ Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp, bao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ quan).
Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng thẩm quyền, trách
nhiệm của mỗi loại cơ quan, phải có những phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động phù hợp
tạo thành một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực hiện quyền lực nhà nước. Tất cả
những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và
qui định cụ thể của pháp luật.
+ Pháp luật bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lí kinh tế,
xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Do tính chất phức tạp và phạm vi rộng của chức năng quản lí kinh tế, nhà nước không thể
trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế mà chỉ thực hiện việc quản lí hành chính-kinh tế.
Quá trình đó không thể thực hiện được nếu như không dựa vào pháp luật. Chỉ có pháp luật với
những tính chất đặc thù của nó mới là cơ sở để đảm bảo cho nhà nước hoàn thành được chức
năng của mình trong lĩnh vực kinh tế. Đánh giá vai trò quan trọng này của pháp luật, Nghị quyết
đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định rằng: “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước bằng pháp
luật”.
+ Pháp luật bảo đảm thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền lực nhân dân

đảm bảo công bằng xã hội.
22


Pháp luật xã hội chủ nghĩa với bản chất dân chủ, thể hiện ý chí và những lợi ích cơ bản nhất
của tất cả các tầng lớp nhân dân lao động sẽ là điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ, củng cố
và hoàn thiện hệ thống chính trị. Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn được biểu hiện trong việc xác lập
và điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Những quyền tự do dân chủ của công dân
phải được quy định cụ thể trong pháp luật, nhà nước phải đảm bảo cho công dân thực hiện các
quyền đó trong khuôn khổ luật định.
+ Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Xuất phát từ tình hình thực tế trong thời kì quá độ, bên cạnh hệ thống quy phạm pháp luật
đã được đặt ra để điều chỉnh hành vi của các chủ thể, thiết lập một trật tự quan hệ pháp luật, thúc
đẩy quá trình phát triển và những tiến bộ xã hội, pháp luật còn chứa đựng những quy phạm cấm
mọi hành vi gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, xâm hại lợi ích nhà nước, tập thể và
công dân.
Trong lĩnh vực này pháp luật là công cụ sắc bén nhất thể hiện quyền uy nhà nước đảm bảo
cho ý chí của giai cấp thống trị được thực hiện.
+ Pháp luật có vai trò giáo dục mạnh mẽ.
Pháp luật là phương tiện quan trọng để giáo dục đối với mọi người, từ những nhân viên nhà
nước, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân. Những qui phạm pháp luật được đặt ra luôn xác
định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, là khuôn mẫu cho hành vi xử sự của mỗi chủ thể khi ở
trong tình huống đã được dự kiến. Đồng thời ý nghĩa giáo dục còn thể hiện pháp luật qui định
những hình thức và mức độ khen thưởng, khuyến khích vật chất và tinh thần đối với những thành
viên có nhiều cống hiến cho nhà nước và xã hội, xử lí và trừng trị nghiêm khắc đối với những
người vi phạm pháp luật, làm xâm hại tới lợi ích của cá nhân, tập thể hoặc nhà nước.
2.1.3. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật, pháp luật xã hội chủ nghĩa thể
hiện những nguyên tắc cơ bản sau đây:
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân

làm chủ.
+ Nguyên tắc duy trì, củng cố và bảo vệ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thống
nhất giữa ba lợi ích : nhà nước, tập thể và công dân.
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Đòi hỏi các cơ quan nhà nước các tổ chức xã hội
và mọi công dân triệt để tôn trọng pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật trong cả ba mặt lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
+ Nguyên tắc tôn trọng hiệu lực tối cao của Hiến pháp và các đạo luật. Trong hệ thống các
văn bản pháp luật của nhà nước thì Hiến pháp và các đạo luật là những văn bản pháp luật có hiệu
lực pháp lí cao nhất, cho nên nội dung của các văn bản pháp luật khác không được trái với Hiến
pháp và các đạo luật.
+ Nguyên tắc xây dựng chế độ làm chủ tập thể, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việc
thực hiện kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực đối với hoạt động của bộ máy nhà nước đảm
bảo cho quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động được thực hiện một cách đầy đủ.
+ Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật: Thể hiện ở chỗ công dân Việt
Nam không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, chữ viết …đều bình đẳng trước pháp luật.
+ Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện sự nghiêm khắc đối với những người có hành vi cố ý vi
phạm pháp luật, nhưng cũng tỏ rõ sự khoan hồng đối với những người biết hối cải và giáo dục
những người lầm lỡ phạm tội.
23


+ Nguyên tắc hoà bình, hữu nghị, và hợp tác với các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền của mỗi quốc gia.
Từ sự phân tích về bản chất, vai trò và nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa có thể đi
đến một định nghĩa sau đây: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý
chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước xã
hội chủ nghĩa ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước trên cơ
sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện.
2.2. QUY PHẠM PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

2.2.1. Khái niệm quy phạm pháp luật.
Trong đời sống có hai loại quy phạm là quy phạm kĩ thuật và quy phạm xã hội.
Quy phạm kĩ thuật là quy tắc được hình thành do con người nhận thức được quy luật của tự
nhiên trong quá trình lao động sáng tạo của mình. Còn những quy tắc xử sự chung (mẫu) được
đặt ra để điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người và được sử dung nhiều lần trong cuộc
sống được gọi là những quy phạm xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa người ta sử dng nhiều
loại quy phạm khác nhau để điều chỉnh các quan hệ xã hội như quy phạm đạo đức, tôn giáo, quy
phạm của các tổ chức xã hội, quy phạm pháp luật… Trong tất cả các loại quy phạm trên thì quy
phạm pháp luật có vai trò quan trọng nhất đối với việc duy trì trật tự xã hội, cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
+ Quy phạm pháp luật trước hết là qui phạm xã hội vì vậy nó mang tính chất vốn có của một
qui phạm xã hội: là quy tắc xử sự chung, là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Thông
qua quy phạm pháp luật ta biết được hoạt động nào có ý nghĩa pháp lí, hoạt động nào không có ý
nghĩa pháp lí, hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào trái pháp luật… Ví dụ: để biết
được đâu là hoạt động tình cảm, đâu là hoạt động của pháp luật chúng ta phải căn cứ vào quy
phạm pháp luật.
+ Quy phạm pháp luật chỉ do nhà nước đặt ra hoặc phê chuẩn được đảm bảo thực hiện bằng
các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Nhà nước lập ra một hệ thống các cơ quan chuyên môn để
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách đúng đắn và triệt để. Chủ thể nào vi phạm các
quy phạm pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lí.
+ Quy phạm pháp luật là qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Quy phạm pháp luật được
đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể mà cho các chủ thể không xác định. Tính bắt buộc
chung của quy phạm pháp luật được hiểu là bắt buộc đối với tất cả mọi chủ thể (tổ chức và cá
nhân) nằm trong hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đó quy định.
+ Quy phạm pháp luật được sử dụng nhiều lần trong cuộc sống cho đến khi nó bị thay đổi
hoặc huỷ bỏ, vì nó được đặt ra không phải chỉ để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể mà để điều
chỉnh một quan hệ xã hội chung, nghĩa là nó được sử dụng trong tất cả mọi trường hợp khi xuất
hiện những hoàn cảnh, điều kiện đã được nó dự liệu.
+ Nội dung của mỗi quy phạm pháp luật đều thể hiện hai mặt: cho phép và bắt buộc, nghĩa
là quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự trong đó chỉ ra quyền và nghĩa vụ pháp lí của các bên

tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Quy phạm pháp luật vừa mang tính xã hội (duy trì,
bảo vệ đời sống cộng đồng nói chung) vừa mang tính giai cấp (thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động).
+ Quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa là quy phạm pháp luật thành văn, chúng được ghi
trong các văn bản pháp luật của nhà nước thành một hệ thống có sự liên hệ chặt chẽ với nhau
nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội cần thiết.
Tóm lại, quy phạm xã hội chủ nghĩa là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà
nước đặt ra hoặc phê chuẩn thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động, để điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
24


2.2.2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật.
Cơ cấu của quy phạm pháp luật được hiểu là các bộ phận (các phần) hợp thành quy phạm
pháp luật. Thông thường quy phạm pháp luật được hình thành từ ba bộ phận: giả định, quy định
và chế tài. Mỗi bộ phận trả lời cho một câu hỏi sau:
+ Người (tổ chức) nào? Khi nào? Trong hoàn cảnh, điều kiện nào?
+ Phải làm gì? Được làm gì? Làm như thế nào?
+ Hậu quả gì nếu không làm đúng những quy định của nhà nước đã nêu ở trên.
2.2.2.1. Giả định
Giả định là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những hoàn cảnh, điều kiện có thể
xảy ra trong cuộc sống mà con người gặp phải và cần phải xử sự (hành động hoặc không hành
động) theo những quy định của nhà nước. Trong giả định còn nêu cả chủ thể (cá nhân hay tổ
chức) nào ở vào những hoàn cảnh điều kiện đó. Ví dụ: điều 1-Pháp lệnh thuế nông nghiệp ban
hành năm 1989 có ghi: “Mọi tổ chức cá nhân sử dụng đất nông nghiệp và các loại đất khác vào
sản xuất nông nghiệp thì phải nộp thuế nông nghiệp”. Ở đây bộ phận giả định là “mọi tổ chức và
cá nhân sử dụng đất nông nghiệp và các loại đất khác vào sản xuất nông nghiệp”.
Giả định là bộ phận không thể thiếu được trong quy phạm pháp luật. Nếu thiếu giả định thì
quy phạm pháp luật trở nên vô nghĩa, bởi lẽ chỉ từ giả định chúng ta mới biết được ai? (tổ chức
nào?) khi ở vào hoàn cảnh điều kiện nào? thì phải xử sự theo đúng quy định của nhà nước.

Những chủ thể, hoàn cảnh điều kiện nêu trong phần giả định phải rõ ràng, chính xác, sát với thực
tế, tránh tình trạng nêu mập mờ khó hiểu dẫn đến khả năng không hiểu được hoặc hiểu sai lệch
nội dung của quy phạm pháp luật. Trong phần giả định phải dự kiến được tới mức cao nhất những
hoàn cảnh điều kiện có thể xảy ra trong thực tế mà trong đó hoạt động của con người cần phải
điều chỉnh bằng pháp luật. Có làm được như vậy thì những “lỗ hổng” của pháp luật mới được
giảm bớt và mới có thể hạn chế được việc áp dụng luật theo nguyên tắc tương tự.
Giả định của pháp luật có thể đơn giản (chỉ nêu một hoàn cảnh điều kiện) hoặc có thể phức
tạp (nêu nhiều hoàn cảnh điều kiện) nếu gặp phải chủ thể cần phải xử sự theo những quy định của
nhà nước.
2.2.2.2. Quy định.
Qui định là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên cách thức (quy tắc) xử sự buộc
mọi người phải xử sự theo khi ở vào hoàn cảnh điều kiện đã nêu trong phần giả định của quy
phạm pháp luật. Ví dụ: ở điều 1-Pháp lệnh thuế nông nghiệp 1998 phần quy định là “phải nộp
thuế nông nghiệp”.
Cách thức xử sự được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật chính là mệnh lệnh
của nhà nước buộc mọi người phải tuân theo, nó trực tiếp thể hiện ý chí của nhà nước của giai
cấp. Thông qua bộ phận quy định của quy phạm pháp luật, nhà nước xác định quyền và nghĩa vụ
pháp lí của các bên tham gia quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật điều chỉnh. Phần quy định
thường được nêu ở dạng: cấm, không được, phải, thì … Tính chính xác, chặt chẽ, rõ ràng của
phần quy định là một trong những điều kiện đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động của các chủ
thể. Quy định là bộ phận chủ yếu của quy phạm pháp luật, bởi lẽ chỉ ở phần quy định các chủ thể
pháp luật mới biết được họ phải làm gì, không được làm gì khi xảy ra hoàn cảnh, điều kiện đã
nêu ở phần giả định.
Mệnh lệnh đã nêu ở phần quy định của quy phạm pháp luật có thể ở dạng dứt khoát (chỉ nêu
một cách xử sự không có sự lựa chọn) hoặc có thể ở dạng tuỳ nghi (nêu ra hai hoặc nhiều cách xử
sự, chủ thể được phép lựa chọn cách thức xử sự).
2.2.2.3. Chế tài

25



×