Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Cơ sở tâm lý phòng, chống chiến tranh tâm lý của địch ở đơn vị cơ sở hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 204 trang )

7

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

BÙI VĂN CƠ

C¬ së t©m lý phßng, chèng chiÕn tranh t©m Lý
CñA §ÞCH ë ®¬n vÞ c¬ së hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2010


8

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chiến tranh tâm lý là cuộc chiến tranh đặc biệt nguy hiểm trong chiến
lược DBHB của CNĐQ, là cuộc chiến trên lĩnh vực chính trị tư tưởng và văn
hoá đang được CNĐQ và các thế lực thù địch sử dụng nhằm phá hoại các
nước không đi theo quĩ đạo của chúng.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đang ở thời kỳ với
nhiều thời cơ, vận hội nhưng cũng có nhiều thách thức. Sự nghiệp ấy đòi hỏi
phải kiên định, vững vàng mục tiêu, định hướng XHCN mà Đảng và nhân dân
ta đã lựa chọn, nó đi ngược lại với ý muốn, tham vọng của CNĐQ và các thế
lực phản động. Do vậy, đất nước ta, sự nghiệp vĩ đại của Đảng và nhân dân ta
luôn là đối tượng phá hoại bằng chiến lược DBHB của CNĐQ, đứng đầu là đế
quốc Mỹ. Dự báo tình hình những năm sắp tới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng đã nhận định: “Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm


mưu DBHB, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền
hòng thay đổi chế độ chính trị ở nước ta” [26, tr.75], trong đó “phi chính trị
hoá” quân đội là một trong những hướng tiến công chủ yếu.
Sử dụng CTTL nhằm phá hoại về chính trị, tư tưởng, văn hoá, đạo đức, lối
sống…, tiến tới phi chính trị hoá quân đội, CNĐQ và các thế lực phản động tất
yếu chú ý đến đội ngũ sĩ quan, đặc biệt là đội ngũ sĩ quan trẻ và hạ sĩ quan, chiến
sĩ ở các ĐVCS. Bởi vì, họ là lực lượng nòng cốt cho sức mạnh chiến đấu của
quân đội để bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Do vậy, nhiệm vụ
đặc biệt quan trọng và rất cần thiết của cán bộ, chiến sĩ ở ĐVCS là hiểu rõ về
CTTL của địch và biết cách phòng, chống có hiệu quả cuộc chiến tranh này.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của những vấn đề trên, trong suốt quá
trình xây dựng quân đội nhất là trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và
quân đội luôn quan tâm đến việc giáo dục và rèn luyện bản lĩnh chính trị, lập
trường giai cấp cho cán bộ, chiến sĩ để họ thực sự là những chiến sĩ tiên


9

phong trên mặt trận chính trị, tư tưởng, đấu tranh kiên quyết với sự tuyên
truyền, phá hoại về tư tưởng của CNĐQ, bảo vệ lý tưởng XHCN, bảo vệ sự
trong sáng của học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh
với mọi sự xuyên tạc lý luận cách mạng, với những âm mưu, thủ đoạn trắng
trợn hoặc trá hình của CNĐQ và các thế lực phản động. Trong huấn luyện,
giáo dục, cùng với bồi dưỡng các tri thức quân sự, các đơn vị đã từng bước
hình thành được tinh thần cảnh giác cách mạng, tinh thần đấu tranh trên lĩnh
vực tư tưởng cho bộ đội. Tuy vậy, cũng còn những mặt hạn chế chưa thấy hết
sự nguy hiểm của những âm mưu, phương thức, thủ đoạn tác động tư tưởng,
luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của CNĐQ và các thế lực thù địch; các nội
dung, biện pháp phòng, chống CTTL của địch ở ĐVCS còn nhiều hạn chế.

Từ tình hình trên, vấn đề phòng, chống CTTL đã được các cơ quan, các
nhà khoa học trong và ngoài quân đội nghiên cứu ở những bình diện, lĩnh vực
khác nhau. Các công trình nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực tâm lý học xã
hội và tâm lý học quân sự đã có những đóng góp rất quan trọng cả về lý luận
và thực tiễn. Tuy nhiên, từ góc độ những cơ sở tâm lý để phòng, chống cuộc
chiến tranh này ở ĐVCS cho đến nay vẫn còn những khoảng trống cần được
nghiên cứu đầy đủ hơn.
Xuất phát từ tính chất đặc biệt nguy hiểm của CTTL, thực trạng phòng,
chống CTTL của địch ở các ĐVCS và sự phát triển mới của vấn đề nghiên
cứu hiện nay, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Cơ sở tâm lý phòng, chống chiến
tranh tâm lý của địch ở đơn vị cơ sở hiện nay”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở tâm lý phòng, chống CTTL của địch, từ đó đề xuất
các biện pháp tâm lý xã hội nhằm nâng cao kết quả phòng, chống cuộc chiến
tranh này ở ĐVCS hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án tập trung giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau:


10

- Nghiên cứu lý luận, xác định cơ sở tâm lý để phòng, chống CTTL của
địch, chỉ ra cơ chế tác động của CTTL đối với QN ở ĐVCS.
- Khảo sát thực trạng sự tác động, ảnh hưởng của CTTL, phân tích thực
trạng; tổ chức thực nghiệm về phòng, chống CTTL của địch ở ĐVCS hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp pháp tâm lý xã hội nhằm nâng cao kết quả
phòng, chống CTTL của địch ở ĐVCS hiện nay.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu

* Khách thể nghiên cứu
Quân nhân và TTQN ở ĐVCS.
* Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở tâm lý phòng, chống CTTL của địch.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở tâm lý phòng, chống CTTL của
địch, mà trọng tâm là cơ chế tác động của cuộc chiến tranh này đối với QN ở
các ĐVCS thuộc QK 1, QK3, BTLTĐ, QĐ1, QĐ 2.
5. Giả thuyết khoa học
Kết quả phòng, chống CTTL của địch ở ĐVCS phụ thuộc một cách tất
yếu và có quy luật vào những nhân tố xác định, trong đó sự hiểu biết về
CTTL và những yếu tố tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội của chủ thể phòng,
chống có vai trò rất quan trọng. Nếu chúng ta chỉ ra được cơ chế tác động của
CTTL của địch, đặc điểm tâm lý cơ bản của QN và TTQN, phân tích rõ thực
trạng sự tác động, ảnh hưởng, thực trạng phòng, chống cuộc chiến tranh này
thì sẽ đề xuất được các biện pháp tâm lý xã hội để nâng cao kết quả phòng,
chống CTTL của địch ở ĐVCS hiện nay.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được xây dựng trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, quân đội về đấu tranh tư tưởng, chống DBHB và CTTL,
xây dựng bản lĩnh chính trị cho QN. Nghiên cứu từ góc độ của tâm lý học xã


11

hội và tâm lý học quân sự, vận dụng các nguyên tắc quyết định luận duy vật
các hiện tượng tâm lý; nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt
động; nguyên tắc tiếp cận hoạt động nhân cách.
Chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của tâm lý

học, bao gồm các phương pháp chủ yếu như: nghiên cứu văn bản, tài liệu;
quan sát; điều tra viết bằng phiếu hỏi; thực nghiệm; nghiên cứu kết quả hoạt
động; chuyên gia; toạ đàm, phỏng vấn; xử lý số liệu bằng thống kê toán học.
7. Đóng góp mới của luận án
* Về lý luận
Luận án đã nghiên cứu bổ sung một số khái niệm của Tâm lý học quân
sự như: Phòng, chống CTTL của địch ở ĐVCS; Cơ sở tâm lý phòng, chống
CTTL của địch ở ĐVCS; Cơ chế tác động của CTTL đối với QN ở ĐVCS
hiện nay. Nghiên cứu luận giải cơ chế tác động của CTTL đối với QN ở
ĐVCS hiện nay.
* Về thực tiễn
Luận án đã chỉ ra thực trạng sự tác động, ảnh hưởng của CTTL, thực
trạng và tổ chức thực nghiệm về phòng, chống CTTL của địch ở ĐVCS góp
phần đề xuất các biện pháp tâm lý xã hội nâng cao kết quả phòng, chống
CTTL của địch ở ĐVCS hiện nay.
Các kết quả của công trình nghiên cứu này góp thêm một tài liệu tham
khảo trong dạy học Tâm lý học quân sự ở các nhà trường quân đội, là một tài
liệu quan trọng giúp cán bộ cơ sở tăng cường giáo dục nâng cao tinh thần
cảnh giác trước sự phá hoại về chính trị tư tưởng và tâm lý của CNĐQ và các
thế lực thù địch đối với cán bộ, chiến sĩ ở ĐVCS hiện nay, góp phần đánh bại
mọi mưu toan phi chính trị hoá quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, 4 chương (12 tiết), kết luận, kiến nghị,
danh mục công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến luận án, tài liệu
tham khảo và phụ lục.


12

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh tƣ tƣởng
1.1.1. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về
đấu tranh tư tưởng
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin coi đấu tranh tư tưởng là mặt
trận nóng bỏng của cuộc đấu tranh giai cấp, diễn ra gay go và quyết liệt.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát về sự
thật hiển nhiên là mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống trị trước mình
đều phải: “nhất thiết biểu hiện lợi ích của bản thân thành lợi ích chung của
mọi thành viên trong xã hội…, phải gắn cho những tư tưởng của bản thân
mình một hình thức phổ biến, phải biểu hiện những tư tưởng đó thành những
tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến” 58, tr.68. Thực chất
đó là sự phủ định hệ tư tưởng của giai cấp này đối với giai cấp khác khi có sự
đối lập về lợi ích, đồng thời là sự bảo vệ, phát triển và mở rộng phạm vi ảnh
hưởng của hệ tư tưởng của giai cấp mình trong xã hội nhằm đấu tranh giành
con tim, khối óc và phương hướng chính trị, giai cấp của con người.
Trong “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, C.Mác
viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của
vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng
lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần
chúng” 57, tr.580. Như vậy, C.Mác rất coi trọng vai trò của đấu tranh trên lĩnh
vực tư tưởng, xem đấu tranh tư tưởng như “vũ khí phê phán” để chống lại những
luận điệu vu khống của giai cấp tư sản đối với những người cộng sản về các vấn
đề xã hội, chính trị, văn hoá, tinh thần, vạch trần bản chất bóc lột của giai cấp tư
sản, tính chất phản động của tư tưởng tư sản, đưa tư tưởng XHCN vào đời sống


13


tinh thần của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động, vì vậy, vũ khí ấy
có thể “đánh đổ lực lượng vật chất” khi quần chúng được giác ngộ.
Bảo vệ, phát triển học thuyết của C.Mác, Ph.Ăngghen và trực tiếp tổ
chức giáo dục, lãnh đạo quần chúng làm cách mạng XHCN ở nước Nga,
V.I.Lênin đặc biệt quan tâm tới đấu tranh tư tưởng. V.I.Lênin thừa nhận “Giá
trị lý luận của C.Mác về bản chất là một lý luận có tính chất phê phán và cách
mạng... Lý luận này công khai tự đề ra cho mình nhiệm vụ phải vạch trần hết
thảy mọi hình thức đối kháng và hình thức bóc lột” 47, tr.420. Kế thừa lý luận
có tính chất phê phán trong thời kỳ mới, thời kỳ Lênin, đấu tranh tư tưởng lúc
này có ý nghĩa nóng hổi, đòi hỏi những người cộng sản phải nhận thức thật rõ
nhiệm vụ cơ bản, có tính chất nguyên tắc của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
cơ hội và chủ nghĩa giáo điều tả khuynh, Người nhắc nhở: “phải nhận rõ những
đặc điểm cụ thể đã có và tất nhiên phải có cuộc đấu tranh ấy, theo đúng những
đặc trưng của mỗi nước về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, thành phần dân tộc
thuộc địa và giáo phái, v.v...” 55, tr.95. Như vậy, theo V.I.Lênin cần phải xác
định rõ đối tượng, kẻ thù của cuộc đấu tranh tư tưởng, đồng thời đấu tranh tư
tưởng phải được gắn liền với những điều kiện cụ thể khác nhau trên mọi bình
diện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá và giáo phái trong từng quốc gia.
Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh tư tưởng cần
phải trang bị cho giai cấp vô sản thế giới quan, niềm tin khoa học, giúp giai
cấp vô sản và nhân dân lao động giác ngộ sâu sắc vai trò, nghĩa vụ xoá bỏ
tận gốc CNTB, xây dựng xã hội CSCN. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định,
đấu tranh tư tưởng là việc công khai tuyên bố với nhân loại hiểu rõ rằng, cách
mạng CSCN nhằm thủ tiêu CNTB, là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với “chế độ
sở hữu cổ truyền” và với những “tư tưởng cổ truyền”, như trong Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, khi bàn về những người vô sản và những người cộng sản
[59, tr.616, 626] các ông đã chỉ rõ.
Cũng như C.Mác và Ph.Ăngghen, trong đấu tranh tư tưởng, V.I.Lênin
coi trọng nâng cao nhận thức chính trị của quần chúng, Người viết: “Nâng cao



14

sự giác ngộ của quần chúng, hiện nay cũng như bất cứ lúc nào, vẫn là nền tảng
và nội dung chủ yếu của toàn bộ công tác của chúng ta” 50, tr.472. Muốn đấu
tranh tư tưởng thành công, các lực lượng cách mạng không thể xa rời, coi nhẹ
vũ khí tinh thần của mình là hệ tư tưởng XHCN. V.I.Lê nin đã nhắc nhở trong
tác phẩm “Làm gì” rằng: “Vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản
hoặc hệ tư tưởng XHCN. Không có hệ tư tưởng trung gian... Vì vậy, mọi sự coi
nhẹ hệ tư tưởng XHCN, mọi sự xa rời hệ tư tưởng XHCN đều có ý nghĩa là
tăng cường hệ tư tưởng tư sản” 48, tr.49-50. Luận điểm này còn cho thấy,
“Thuyết đa nguyên” và các dạng biến hoá của nó... thực chất chỉ là những trò
lừa bịp chính trị, chỉ là “những lời lẽ tốt đẹp để che đậy một sự thật không đẹp
đẽ gì, là một việc tai hại nhất và nguy hiểm nhất đối với sự nghiệp của giai cấp
vô sản, đối với sự nghiệp của quần chúng lao động” 52, tr.14.
Với thế hệ trẻ, V.I.Lênin chỉ dẫn phải gắn liền quá trình học tập với cuộc
đấu tranh giai cấp nói chung, đấu tranh tư tưởng nói riêng. Người viết: “Nhà
trường phải trở thành một công cụ của chuyên chính vô sản, nghĩa là nhà
trường không những phải truyền bá những nguyên lý của CNCS nói chung, mà
còn là công cụ truyền bá ảnh hưởng về tư tưởng, về tổ chức và giáo dục của
giai cấp vô sản vào những tầng lớp nửa vô sản và không phải vô sản trong quần
chúng lao động” 53, tr.141. Nếu việc học tập chỉ dừng lại ở những cái trong
sách vở về CNCS mà không gắn liền với sự truyền bá tư tưởng vào các tầng
lớp quần chúng trong thực tiễn đấu tranh cách mạng đang diễn ra thì đó là “một
trong những tai họa ghê gớm nhất”, “một trong những tác hại lớn nhất”.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin còn chỉ ra điều kiện của đấu
tranh tư tưởng. Ph.Ăngghen viết: “Chủ nghĩa cộng sản, ở mức độ lý luận, là sự
biểu hiện lý luận của lập trường giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh đó và sự
khái quát lý luận về những điều kiện giải phóng của giai cấp vô sản” 1, tr.399.

Đấu tranh tư tưởng phải đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp
công nhân. Đó chính là nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh này.


15

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng luôn nhắc nhở những người cộng sản phải vạch trần âm mưu, thủ đoạn
của kẻ thù, cảnh giác với sự xuyên tạc, mị dân, sự lợi dụng những tư tưởng lỗi
thời, những thói quen trong dân chúng của giai cấp tư sản.
Đấu tranh với các quan điểm sai trái phản động, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “giai
cấp vô sản cần biết sự thật, và chẳng có gì tai hại hơn cho sự nghiệp của họ bằng
những lời dối trá có vẻ đẹp đẽ và êm tai của bọn tiểu tư sản” [54, tr.112]. Để đấu
tranh duy trì chế độ của mình, giai cấp tư sản bao giờ cũng vay mượn ở những
tư tưởng phản động cũ, rồi đem hiện đại hoá nó để nô dịch những người lao
động, làm mất uy tín của những quan điểm tiến bộ. Những quan điểm phản
động nhất của thế kỷ XX được yếm thế trong chủ nghĩa Sô vanh, chủ nghĩa
quốc gia hẹp hòi, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc v.v... để mị dân, lừa dối con
người một cách phi lý. Giai cấp tư sản còn tính đến việc lợi dụng sự tụt hậu về
nhận thức xã hội khỏi đời sống xã hội, sự tụt bậc của tập quán, thói quen tồn tại
ở những địa bàn tâm lý xã hội, ở nhận thức thường ngày của quần chúng, lợi
dụng thói tham lam trục lợi, thói du thủ du thực, quan liêu, bon chen danh lợi
còn tồn tại ở một bộ phận con người để lôi kéo, mua chuộc, nô dịch tư tưởng,
lũng đoạn đội ngũ giai cấp công nhân. Do đó, đấu tranh tư tưởng cần phải vạch
rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, V.I.Lênin viết:
Trong tất cả các nước tư bản chủ nghĩa trên toàn thế giới, giai cấp tư
sản dùng hai phương pháp đấu tranh chống lại phong trào công nhân.
Phương pháp thứ nhất là phương pháp bạo lực, hãm hại, cấm đoán và
đàn áp. Về thực chất đó là một phương pháp mang dấu vết của chế độ
nông nô, của thời đại trung cổ... Phương pháp đấu tranh khác mà giai

cấp tư sản dùng để chống lại phong trào là chia rẽ công nhân, làm rối
loạn hàng ngũ của họ, mua chuộc một số đại biểu hoặc một số nhóm
của giai cấp vô sản để lôi kéo họ sang phe giai cấp tư sản 51, tr.377.
Như vậy, đấu tranh tư tưởng, theo quan điểm của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin là phải xác định rõ đối tượng, kẻ thù, vạch trần những âm


16

mưu thủ đoạn của chúng, đấu tranh tư tưởng phải trên nhiều bình diện kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội... phù hợp với tình hình thực tiễn khác nhau, phải
trang bị kỹ càng vũ khí tinh thần cho các lực lượng đấu tranh, hết sức cảnh
giác với quan điểm phi chính trị, sự xuyên tạc của kẻ thù đối với hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân, gắn liền học tập chính trị với truyền bá rộng rãi tư
tưởng của giai cấp vô sản, xây dựng sự đoàn kết, trạng thái chính trị, tinh thần
và tâm lý tích cực cho quần chúng nhân dân.
1.1.2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đấu tranh tư tưởng
Sinh thời, Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo tới công tác tư tưởng
nói chung và đấu tranh trên lĩnh lực tư tưởng nói riêng.
Hồ Chí Minh cho rằng, trong tư tưởng của con người không thể đem
dung hoà giữa các quan điểm chính trị, xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin với
các quan điểm phi mác xít. Đấu tranh tư tưởng phải đứng vững trên lập trường
của chủ nghĩa Mác - Lênin mà giải quyết vấn đề, tránh sự “điều hoà”, “trung
dung”. Hồ Chí Minh viết: “Trong khi học tập phải đem những điều học được
để phân tích và giải quyết các vấn đề thực tế trong công tác, trong tư tưởng của
bản thân mình và của Đảng” 77, tr.499, Người nhấn mạnh, “phải bảo vệ chân
lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải điều hoà” 77, tr.500.
Theo Hồ Chí Minh, cần phải chủ động tiến công tư tưởng, “phải đánh
thắng địch về tuyên truyền” 75, tr.284, công khai tố cáo, vạch trần bản chất

của CNĐQ thực dân, chỉ rõ âm mưu thủ đoạn che dấu tội ác của chúng. Bởi
vì, “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, CNTB thực dân luôn
luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn
lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v...” [70, tr.75]. Chính Người đã viết nhiều bài
báo, tác phẩm về chủ nghĩa thực dân, đế quốc như Bản án chế độ thực dân
Pháp, Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm thuộc địa, Hành hình kiểu Lin
sơ, Một phương diện ít người biết đến nền văn minh Mỹ, Công cuộc khai hoá
giết người… để tố cáo tội ác, tiến công tư tưởng, vạch trần tâm địa của chúng.


17

Để chiến đấu và chiến thắng quân địch, không chỉ dùng sức mạnh quân
sự, mà còn phải chủ động tác động vào nhận thức, tư tưởng, chính trị. Sự tác
động đó được Hồ Chí Minh xem như mũi tiến công sắc bén, lợi hại khoét sâu
vào mâu thuẫn vốn có trong hàng ngũ của địch, chỉ cho họ hiểu rõ bản chất phản
động của bọn cầm quyền, đầu sỏ, ngoan cố... làm cho chúng suy yếu, bị cô lập
về chính trị, tư tưởng, tan rã về tổ chức. Hồ Chí Minh nói: “Địch vận là tìm cách
làm sao phá được địch mà không phải đánh. Cái đó là việc chính trị” 72, tr.480.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đấu tranh tư tưởng thông qua tuyên truyền còn
đặc biệt ở chỗ phải thu phục được địch. Trong thư gửi Hội nghị chính trị viên
tháng 3 năm 1948, Người viết: “Đối với quân địch: Chính trị viên phải biết cách
tuyên truyền khôn khéo, thiết thực, để giác ngộ họ, lôi kéo họ về phía ta” 71,
tr.393, trong bài nói trước chiến dịch Tây Bắc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nếu
các chú khéo địch vận thì đó cũng là cách tiêu diệt sinh lực địch” 73, tr.560.
Theo Hồ Chí Minh, để giành thế chủ động trong cuộc đấu tranh tư
tưởng, đánh bại mọi hoạt động gián điệp và CTTL của địch, ngăn chặn và
trấn áp kịp thời mọi âm mưu của bọn phản động cần phải nắm vững tình hình
địch, thường xuyên duy trì tinh thần cảnh giác cách mạng của quân và dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong chiến tranh muốn thắng thì phải biết địch,

biết mình, cần phải điều tra nghiên cứu kĩ để biết được âm mưu của giặc. Tại
Hội nghị quân sự lần thứ năm tháng 8 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “Ta biết rõ địch thì thắng. Nếu để địch biết rõ ta thì thất bại. Cho
nên phải hết sức giữ bí mật” [72, tr.480]. Sinh thời, Người thường xuyên dặn
dò, nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ ta: “Phải luôn luôn cảnh giác, nâng cao chí khí
chiến đấu, bất kì thời chiến hay thời bình” [76, tr.306]. Trong bài nói tại Hội
nghị cán bộ vùng địch hậu tháng 10 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Các cô, các chú phải luôn nâng cao tính cảnh giác đối với âm mưu
địch, luôn luôn làm cho đồng bào và cán bộ hăng hái đấu tranh và tin tưởng ở
thắng lợi. Khi thắng, không được chủ quan khinh địch; khi gặp khó khăn tạm


18

thời, không được bi quan dao động” [74, tr.155]. Do vậy, cuộc đấu tranh tư
tưởng đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên theo dõi nắm bắt những âm mưu,
thủ đoạn của địch, nêu cao tính cảnh giác đối với quân địch, đồng thời giữ
vững bí mật quân sự, bí mật quốc gia.
Đảng ta luôn trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam, luôn coi trọng vị trí, vai trò của lĩnh vực đấu tranh tư tưởng, thường
xuyên quan tâm giáo dục chính trị tư tưởng cho quân đội và nhân dân, chỉ rõ
âm mưu, thủ đoạn tác động tư tưởng của địch, chủ động đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu của chúng.
Ngay từ những năm đầu thành lập, Đảng ta đã xác định: “Nhiệm vụ đẩy
mạnh cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng trong nội bộ Đảng chống mọi sự chao
đảo phi cách mạng là đặc biệt cần thiết” 23, tr.372, đồng thời với cuộc đấu
tranh đó “phải tuyên truyền, vạch trần các thủ đoạn lừa dối của bọn đế quốc...
và giải phóng quần chúng khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia cải lương và
các Đảng dân tộc khác” 21, tr.181. Khi đế quốc Pháp với chính sách “thẳng

tay khủng bố” không phá hoại được phong trào cách mạng những năm 1931,
chúng đã chuyển sang các phương pháp tấn công tư tưởng làm lũng đoạn tổ
chức Đảng, hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã chỉ rõ âm mưu xảo
quyệt và sự lừa gạt của chúng hòng “làm cho quần chúng phân vân chán nản
mất tinh thần tranh đấu để chia rẽ lực lượng của công nông và phá hoại phong
trào cách mạng” 22, tr.223, chống lại các biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, tư
tưởng tiểu tư sản, dao động không kiên định, những khuynh hướng manh động,
khủng bố cá nhân, biệt phái, chủ nghĩa quốc tế công đoàn, chống những tư
tưởng sai lầm như thiếu tin tưởng ở sức mạnh của quần chúng, đánh giá thấp
vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản trong phong trào cách mạng... và khẳng
định: “Tất cả cuộc đấu tranh tư tưởng ấy chống chủ nghĩa cơ hội là một cuộc
đấu tranh không khoan nhượng của đường lối chính trị vô sản” 24, tr.426. Để


19

cuộc đấu tranh có hiệu quả, Đảng cũng chỉ rõ cần phải có sự cố gắng để thanh
toán sự kém cỏi về chính trị, nâng cao trình độ lý luận và tinh thần chiến đấu
cho tất cả đảng viên không trừ đảng viên nào.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đề cao vai trò vị
trí hàng đầu của đấu tranh tư tưởng. Sinh mạng của Đảng cũng như thành bại
của cách mạng có quan hệ trực tiếp tới lĩnh vực đấu tranh tư tưởng. Trong mỗi
giai đoạn cụ thể, tình hình cụ thể, Đảng ta đều chỉ ra những yêu cầu, nhiệm vụ
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng nhằm kiên định mục tiêu, con đường đi lên
CNXH. Trong những năm đổi mới đất nước, khi CNĐQ và các thế lực thù địch
đẩy mạnh chiến lược DBHB trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng nhằm phá hoại
nước ta, Đảng càng coi trọng hơn: “Chúng ta phải đấu tranh chống những luận
điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lênin
từ phía những thế lực thù địch, những kẻ cơ hội” 25, tr.127. Đồng chí Tổng bí
thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh: “Đấu tranh chống lại những quan điểm, luận

điệu sai trái, thù địch. Đây là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết” 60, tr.7. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX đã chỉ rõ
một trong những nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình mới là: “chủ động tiến công, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên
mặt trận tư tưởng, lý luận, làm thất bại chiến lược DBHB, âm mưu bạo loạn lật
đổ của các thế lực thù địch” 3, tr.79, đồng thời phải chống chủ nghĩa cá nhân,
tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức, lối sống, nâng cao
tinh thần cảnh giác làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn DBHB, gây chia rẽ,
nghi ngờ, mất đoàn kết nội bộ, ngăn chặn mọi hoạt động phát tán tài liệu xấu,
thông tin bịa đặt, thư nặc danh, mạo danh, có nội dung xấu.
Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X khẳng định, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN hiện nay là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo
vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội,


20

duy trì trật tự kỉ cương, an toàn xã hội, giữ vững ổn định đất nước; ngăn ngừa,
đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá, thù địch, không để bị
động bất ngờ. Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình thế giới, trong nước, tính chất
phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay, khi CNĐQ và các thế lực thù địch
đang tăng cường thực hiện âm mưu, thủ đoạn DBHB nhằm phá hoại chính trị, tư
tưởng và tổ chức đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, nhân
dân và quân đội ta, các Nghị quyết TW8 Khoá IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới; Kết luận của Hội nghị TW12 Khoá IX về tăng cường công
tác tư tưởng trong tình hình hiện nay; Chỉ thị 64/CT-TW về kỷ luật phát ngôn và
bảo vệ bí mật của Đảng; Chỉ thị số 05/CT-TW về đấu tranh chống quan điểm sai
trái và hoạt động phát tán tài liệu chống Việt Nam… đã có đề cập đến công tác
giáo dục xây dựng bản lĩnh chính trị, nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn

tác động tư tưởng của địch cho quân đội và nhân dân, chủ động đấu tranh tư
tưởng làm thất bại mọi âm mưu của chúng.
Như vậy, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta rất coi trọng đấu tranh tư tưởng trong hoạt động cách mạng.
Để cuộc đấu tranh tư tưởng thắng lợi cần phải trang bị thế giới quan, niềm tin
khoa học cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động, chủ động tiến công tư
tưởng, thường xuyên nêu cao cảnh giác, nhận thức rõ bản chất, âm mưu, thủ
đoạn của kẻ thù. Đấu tranh tư tưởng diễn ra bởi nhiều kênh, nhiều hình thức
mang tính cộng đồng, xã hội cao như tuyên truyền, cổ động, bút chiến, diễn
đàn, truyền thông, báo chí và các hoạt động văn hoá văn nghệ. Đấu tranh tư
tưởng cũng đồng thời là cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản, tư tưởng
lệch lạc, hữu khuynh, cơ hội, xét lại, giáo điều, duy ý chí… để bảo vệ chân lý,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm của các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta là
một hệ thống nhất quán, phát triển về đấu tranh tư tưởng, là cơ sở lý luận và
phương pháp luận để đi sâu nghiên cứu CTTL và cơ sở tâm lý phòng, chống
CTTL của địch ở ĐVCS hiện nay.


21

1.2. Vấn đề cơ sở của chiến tranh tâm lý trong tâm lý học và tâm lý
học quân sự
1.2.1. Tâm lý học và tâm lý học quân sự tư sản về cơ sở của chiến
tranh tâm lý
Tâm lý học và tâm lý học quân sự tư sản là cơ sở lý luận và phương
pháp luận cho việc tiến hành CTTL. Các học thuyết tâm lý học và tâm lý học
quân sự tư sản được CNĐQ vận dụng một cách tối ưu nhằm tác động vào tinh
thần, ru ngủ ý thức, đánh lạc hướng chính trị của đối phương.
Tâm lý học hành vi là cơ sở cho các chuyên gia CTTL của CNĐQ quy

hành vi của người lính thành những phản ứng, những tác động riêng rẽ gắn
liền với những kích thích thô bạo tương ứng từ bên ngoài theo công thức
“Kích thích (S)  Phản ứng (R)”. Họ đã cố tình lảng tránh bản chất xã hội
của nhân cách, điều này cho phép họ giản đơn hoá việc giải thích sự đối lập
lợi ích giai cấp, nhằm thực hiện “phi chính trị hoá” binh lính cũng như đối với
quân đội đối phương, giữ vững chính trị của giai cấp tư sản. Theo hướng này,
các nhà tổ chức CTTL luôn cố gắng tác động, kích thích hành vi bằng nhiều
phương tiện, hình thức đối với binh lính đối phương theo mục đích xác định.
Làm được như vậy, thực chất là họ đã gạt bỏ yếu tố bên trong, tính chủ thể, ý
thức và đặc biệt là ý thức chính trị của binh sĩ đối phương.
Phân tâm học cũng được các nhà tổ chức CTTL dựa vào để tìm kiếm
những phương thức, thủ đoạn kích thích binh lính đối phương. Lý thuyết về
“bản năng dưới tầng sâu”, “bản năng tính dục”, “bản năng sống”, “bản năng
huỷ hoại”... được họ sử dụng triệt để nhằm sinh vật hoá các hành vi của con
người và binh lính đối phương. Khi nghiên cứu thuyết phân tâm của Sigmund
Freud trong cuốn “Các thuyết về tâm lý học phát triển”, tác giả Patricia
H.Miler đã từng nhận xét: “Quan niệm của S.Freud về tiềm năng của con
người trong hành vi huỷ hoại không thể dễ dàng bị gạt ra sau hai cuộc thế
chiến và những tội ác chính trị của thời kỳ đó” [dẫn theo 84, tr.142]. Để thực


22

hiện những mưu đồ chính trị, các nhà tổ chức CTTL dựa trên sự thu hẹp nhãn
quan chính trị của đối phương bằng cách kích thích vào những nhu cầu, xu
hướng sinh hoạt hàng ngày của đối phương như tiền, gái, ve vãn, mạo hiểm,
công danh... và những mâu thuẫn giữa khối vô thức với các chuẩn mực xã hội,
điều lệnh, điều lệ quân đội đối phương làm xâm hại tới chính trị, tư tưởng, tổ
chức, làm rối loạn trạng thái chính trị - tinh thần của họ.
Tiếp cận từ các nét nhân cách, G.Allport đã nhấn mạnh đến cá thể, cá

tính của nhân cách. Cá tính có được là do thiên hướng vốn có của con người,
đó cũng là bản chất của nhân cách. Còn H.Eysenck không tính đến những
điều kiện xã hội - lịch sử, cho rằng, hướng hành vi ổn định, những thói quen
quy định kiểu nhân cách [dẫn theo 103, tr.112-113]. Dựa trên quan điểm này,
cho phép các nhà tâm lý chiến tìm cách lũng đoạn nhân cách người lính bắt
đầu từ việc tác động vào những đặc trưng cá tính của họ. Muốn gạt bỏ bản
chất xã hội của nhân cách người lính đối phương, chỉ cần hình thành những
hành vi, thói quen cho họ theo mục đích xác định.
Các tác giả theo chủ nghĩa nhân văn như Carl.Rogers, Rollo.May… thì
nhấn mạnh vào phương diện tự do của con người, khát vọng thực hiện tự do
cá nhân, “tiềm năng cá nhân” (self - actualisation) của nhân cách, bỏ qua các
yếu tố lịch sử, quá khứ, chỉ chú ý đến hiện tại và những viễn cảnh tương lai,
“xem thường ảnh hưởng của các biến thái quan trọng do môi trường tạo ra
bằng cách nhấn mạnh vai trò của cái tôi trong ứng xử” [dẫn theo 44, tr.486].
Điều này đã luôn gắn liền với các thủ đoạn tuyên truyền của giai cấp tư sản,
kích động tự do cá nhân, chủ nghĩa cá nhân, xoá nhoà mối liên hệ giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai của con người và cộng đồng người.
Các nhà tâm lý học theo hướng nhận thức và luyện tập thông qua môi
trường xã hội như J.Dollard, N.Miller, A.Bandura, W.Mischel… không đề cập
đến những cơ chế nội tại như những nét tính cách, những bản năng, xung năng,
những xu hướng thực hiện tự do, tiềm năng cá nhân... của nhân cách, mà nhấn


23

mạnh đến sự luyện tập bằng cách “bắt chước có tính xã hội” trong các tình
huống, “sự tình cờ do môi trường tạo ra”, ở đó con người chủ động nhập cuộc
nhưng chỉ là những tình huống nào làm thoả mãn sự chờ đợi của cá nhân. Theo
đó, nhân cách được hình thành bởi tổng số các thói quen nhờ luyện tập mà có
[dẫn theo 44, tr.486-487]. Dựa trên quan điểm đó, các chuyên gia tâm lý chiến

vạch ra chương trình công kích tâm lý thông tin từ việc phát đi các nội dung,
phương pháp luyện tập các thói quen cá nhân cho binh lính đối phương, những
thói quen không liên hệ gì tới lợi ích, chuẩn giá trị chung của tập thể, xã hội.
Các nhà tâm lý học xã hội như D.Krech, R.Crutchfield (Mỹ) đã cho rằng,
“tuyên truyền như là một hình thức kích thích đặc biệt nhằm ám thị hành vi của
người được tuyên truyền” [128, tr.316], dưới ảnh hưởng của tuyên truyền các cá
nhân và nhóm sẽ hành động theo các quan điểm được tuyên truyền và tự cho
mình đã hành động theo đúng lý trí. Từ quan điểm về vai trò của tuyên truyền
đối với việc điều khiển hành vi của con người, các chuyên gia CTTL đã xác
định toàn bộ quá trình nghiên cứu tuyên truyền là sự phân tích các kích thích và
mức độ tiếp nhận ám thị của cá nhân để thực thi công kích tâm lý thông tin.
Nhà tâm lý học xã hội Mỹ K.Young còn nhấn mạnh: “Tuyên truyền là một bộ
phận của một quá trình sáng tạo ra những câu chuyện thần thoại và huyền
thoại” [134, tr.505]. Theo đó, tâm lý chiến thông tin là quá trình xuyên tạc, bịa
đặt, bóp méo thông tin theo mục đích xác định của các nhà tổ chức CTTL để
tác động đến các cá nhân, nhóm người trong nhân dân và quân đội đối phương
nhằm làm thay đổi nhận thức, tình cảm, thái độ và hành vi của họ.
M.Tsucaxo, chuyên gia CTTL, nhân vật khét tiếng hoạt động phá hoại tư
tưởng, đã nói ra hết sức trắng trợn: “khẳng định rằng bằng việc tuyên truyền
qua đài phát thanh có thể biến con người hiểu biết thành ngu muội, được thông
báo tin sai lệch, hoài nghi mọi chuyện” [122, tr.15]. Bộ trưởng CTTL của Hitle
trước đây, Gơben đã tóm tắt: con người vốn là dốt nát, ngu xuẩn, không có ý
chí và vô nguyên tắc. CTTL có thể chinh phục hoàn toàn con người bằng cách


24

xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu, đe doạ, bịp bợm, gieo rắc sự nghi ngờ, sự sợ sệt và
hoang mang, tầm thường hoá sự thật. Từ đó Gơben kết luận: “CTTL cần phải
đưa loài người tới một cơn ác mộng bằng các biện pháp đưa tin bịa đặt, khiêu

khích, đe doạ, phá hoại và khủng bố” [29, tr.12-13]. Quan điểm phản động về
con người như vậy luôn đồng hành với những học thuyết triết học, tâm lý học,
tâm lý học xã hội, xã hội học phản động của giai cấp tư sản phương Tây hiện
đại và được lấy làm lý luận cơ bản của các chuyên gia tâm lý chiến.
Các học thuyết tâm lý học xã hội tư sản như: Thuyết tâm lý học xã hội
nhận thức của M.Đôich, Thuyết về mối quan hệ con người của Elton Mayo,
Thuyết về tâm lý liên nhân cách và liên nhóm của L.Coer, B.Niustaco... vào
đầu thế kỷ XX còn là một trong những cơ sở lý luận gắn liền với quá trình
chuẩn bị tâm lý và tiến hành CTTL của quân đội tư sản [78, tr.29]. Để tiến
hành CTTL các chuyên gia quân sự tư sản đã qui tất cả các vấn đề xã hội, vấn
đề xung đột tâm lý của quân đội, vấn đề lãnh đạo, chỉ huy, đoàn kết, kỷ luật...
thành những mối liên hệ qua lại dựa trên những đặc điểm tâm lý cá biệt của
từng QN. Từ đó họ “tâm lý hoá” các hoạt động chính trị, tư tưởng để lừa gạt
về chính trị đối với binh sĩ của quân đội đối phương.
Giai cấp tư sản còn tận dụng kết quả nghiên cứu “Tâm lý học đám
đông”, đặc biệt là các cơ chế tâm lý như bắt chước, ám thị, lây lan... để thao
túng ý thức, hành vi và trạng thái tâm lý của con người, nhóm người. Theo
G.Tarder, bắt chước là sự sao chép cách máy móc các phản ứng bề ngoài của
những người khác, nó có tính chất bản năng vô thức, đó là sự “bắt chước nhất
thời”, đám đông quần chúng sở dĩ hung hăng hay hiền lành, chống đối hay
hưởng ứng là do các thành viên bắt chước các đối tượng hay khuôn mẫu khác
nhau mà thôi. G.LeBon và W.Mc.Daugas cho rằng lây lan được hiểu như nạn
truyền nhiễm. Tâm trạng của đám đông quần chúng xuất hiện là kết quả của
quá trình lây lan cảm xúc từ người này sang người khác ở cấp độ sinh lý,
mang tính bản năng sinh học bầy đàn, vốn rất phổ biến ở động vật, quá trình


25

đó xảy ra một cách nhanh chóng, mạnh mẽ, nằm ngoài sự kiểm duyệt của ý

thức tư tưởng [dẫn theo 39, tr.144-146]. Các tác giả G.Tarder, S.Sighen,
G.Lebon… còn nhấn mạnh “tâm lý đám đông” khi bị kích động thì đám đông
mất lý trí và ý thức, mất năng lực quan sát và phê phán, hành vi bị xáo trộn,
phản ứng theo bản năng, hỗn loạn..., cần phải có “lãnh tụ” là giai cấp tư sản
lãnh đạo [dẫn theo 39, tr.34-35]. Tiếp cận những quan điểm đó, giai cấp tư
sản luôn xem quần chúng như là đám đông, “tập hợp lợn”, “kẻ lỗ mãng tương
lai”, đó là tập hợp tồi tệ nhất của các cá nhân xã hội. Trong các hành động của
đám đông, đại chúng thiếu các giá trị và niềm tin, chúng được đặc trưng bởi
các động lực phi lý, sự hỗn loạn, vô chính phủ... Quần chúng như là một cộng
đồng không thuần nhất, phi giai cấp, bị đánh mất tính xác định về giai cấp, bị
chuyển thành một trạng thái vô định hình và tuân theo các cảm xúc của bản
thân. Giai cấp tư sản đã vụ lợi thực hiện sự thống trị của mình nhờ chủ nghĩa
mị dân, lừa rối quần chúng, tạo ra những tâm trạng thuận lợi cho họ ở cấp độ
xã hội và cấp độ sinh hoạt [8, tr.111-112]. Đồng hành với sự thống trị, lãnh
đạo của giai cấp tư sản là bộ máy tiến hành CTTL. Với nhân dân và quân đội
đối phương, các chuyên gia tâm lý chiến luôn lợi dụng triệt để các quan điểm
trên và cơ chế tâm lý đám đông để lừa rối, kích động, làm giảm thiểu tính tích
cực của ý thức, thúc đẩy trạng thái phi chính trị, phi giai cấp, xáo trộn hành vi,
tạo nên sự hỗn loạn cần thiết theo mục tiêu của CTTL.
Các nhà tâm lý học và lý luận quân sự tư sản như K.Sôenao, Jaxpe,
C.S.Pierce, N.Câupơlenđơ (Anh), D.Bôring (Mỹ)... xuất phát từ thuyết hành vi,
phân tâm học, tâm lý học đám đông, quan điểm thực chứng, thực dụng, hiện
sinh... để đưa ra các chủ trương dùng mọi phương tiện vật chất, bằng mọi cách
để kích thích lợi ích, thoả mãn những bản năng sinh vật, mong muốn dục vọng,
hưởng lạc trong binh lính và các nhóm, tập thể quân đội đối phương làm cho
họ hoàn toàn sao nhãng về chính trị [dẫn theo 99, tr.658-664]. Họ còn tham gia
đề xuất những biện pháp để tạo ra các “phức cảm xâm hại” với đối phương


26


bằng cách dùng ám thị hoặc nhắc đi nhắc lại các tài liệu, thông tin chính trị, tư
tưởng mà không cần phải giải thích, không cần sự thúc đẩy hiểu biết sâu sắc.
Họ cho rằng, bằng phương pháp nhồi sọ học thuyết qua ám thị là có hiệu quả vì
nó xuất phát từ bản chất tâm lý của con người, các tác động nếu được kết hợp
với những kích thích về mặt cảm xúc thì sẽ được củng cố vững chắc trong các
liên tưởng của con người. Trong tuyên truyền cần phải gây ra cho người nghe
một trạng thái kích động về mặt cảm xúc, phải tạo ra tranh luận gay gắt, mô tả
theo lối tự nhiên chủ nghĩa, thậm chí có ám thị trong thực tiễn là một phương
pháp ám thị có hiệu quả. Còn sự lặp đi lặp lại không ngừng những định hình tư
tưởng qua tất cả các luồng thông tin tác động vào đối phương làm cho đầu óc,
tình cảm người lính hoàn toàn sao lãng những ý nghĩ khác, giúp cho binh lính
đối phương quen với những khuôn sáo chính trị, đạo đức lối sống mà ý đồ
chúng muốn hình thành cho họ, dần dần họ nói theo và làm theo khuôn sáo đó.
Các nhà tâm lý học quân sự tư sản còn tính đến việc, nếu chính kiến của binh
lính đối phương khó bị xâm hại thì sử dụng biện pháp “kích thích tâm thế”,
“sắm vai”... buộc binh lính đối phương phải từ bỏ quan điểm cũ, lập trường tư
tưởng của mình để tiến tới những cách nghĩ và quan điểm xa lạ.
Chiến tranh tâm lý ngày càng được nâng cao tầm quan trọng, các nhà tâm
lý học và lý luận quân sự tư sản cho rằng: mục đích tác chiến không phải là tiêu
diệt về sinh lý; tâm lý chiến trở thành vũ khí chiến dịch và chiến lược chính, có
thể mạnh hơn nhiều các sư đoàn thiết giáp 110, tr.85-86. Muốn vậy, tâm lý
chiến cần phải làm cho binh lính đối phương ngộ nhận về cuộc chiến, tin tưởng
một cách mù quáng vào những luận điệu tuyên truyền, kích thích tối đa bản năng
sinh vật, hình thành lối sống phá phách, cần phải xuyên tạc, nhồi sọ, áp đặt tư
tưởng và thay thế nhận thức của họ. R.S.Lanrbert cho rằng: “Cái có ý nghĩa chủ
yếu không phải là tài liệu tuyên truyền có phù hợp với hiện thực hay không, mà
là nhằm đạt được mục tiêu làm cho những người cần tác động đến, tin những
chứng cứ tuyên truyền và hành động theo mục tiêu đó” dẫn theo 62, tr.76.



27

Theo Lenbécgiơ (Mỹ), tiến hành CTTL là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của tâm lý học quân sự tư sản, nhằm làm cho đối phương phải hạ vũ
khí và thay đổi niềm tin đối với thắng lợi của chiến tranh, cán bộ lãnh đạo, chỉ
huy của mình. Vì vậy Lenbécgiơ xác định, tâm lý học quân sự phục vụ cho
CTTL theo hai hướng: “Nghiên cứu các kế hoạch chiến dịch tiến công tâm lý đối
phương theo yêu cầu của chiến đấu và nghiên cứu tâm lý QN đối phương, tác
động để lung lạc niềm tin, tiến tới lôi kéo họ về hàng ngũ quân đội tư sản” dẫn
theo 10, tr.247. Muốn đạt được điều đó thì hoạt động tâm lý chiến cần phải coi
trọng tuyên truyền, kích động theo công thức “Rỉ tai - gây biểu tượng - kích
thích hành động” kết hợp với các hoạt động phá hoại tinh thần - tâm lý. Tuyên
truyền rỉ tai phải gây được biểu tượng cảm xúc mạnh, làm cho ý nghĩa được biểu
tượng hoá trùng với trải nghiệm cũ như: sợ hãi, căm thù, hài lòng, yêu thích...
Biểu tượng được coi như cầu nối giữa nhận thức và hành động trên cơ sở các
cảm xúc, tình cảm yếu đuối, thấp hèn. Mục đích của rỉ tai phải đạt đến chỗ biến
các ước muốn chưa đạt thành căm phẫn, biến dao động cá nhân thành khiếp
nhược, biến nghi ngờ dao động thành mất niềm tin, biến thiên kiến thành cuồng
loạn. Hoạt động phá hoại tinh thần - tâm lý bằng cách gây bất mãn, nói dối, tung
tin đồn nhảm, lôi kéo, vu khống, doạ nạt... đối phương. Các hoạt động đó phải
gây được bất bình, bất mãn của cán bộ chiến sĩ đối với những lời hứa của lãnh
đạo, chỉ huy đối với những khẩu hiệu đề ra chưa thực hiện được, vu khống lãnh
đạo, chỉ huy để ly gián giữa lãnh đạo, chỉ huy với quần chúng, tung tin đồn nhảm
về tình hình cán bộ phạm sai lầm, tổn thất của đơn vị, trung lập hoá, qua thái độ
tuyên truyền để lôi kéo các phần tử bất mãn, đồng tình với luận điệu của chúng.
Hiện nay phương Tây còn tăng cường nâng cao sức mạnh của CTTL.
Công ty Lan-đơ, một bộ máy nghiên cứu chiến lược của Mỹ với sự có mặt
của nhiều nhà tâm lý học quân sự tư sản và các chuyên gia tâm lý chiến xác
định: “Sẽ phải đánh thắng trong cuộc đại chiến thế giới mới không có khói

súng. Điều quan trọng là phải mở một cuộc tiến công vào trái tim khối óc của


28

con người” 102, tr.52. Họ còn đề nghị chính phủ Mỹ phải dồn 70% sức lực
vào cuộc tiến công đặc biệt đó. Cùng với việc khuấy động làn sóng dâm ô, hút
sách, tự do tình dục, giải phóng tình dục, các chuyên gia tâm lý chiến đang
tăng cường mở chiến dịch xuyên tạc, bịa đặt, gây mâu thuẫn và tiến công
bằng vũ khí thực dụng... làm sụp đổ tinh thần đối phương.
Hoạt động tâm lý trong tương lai của quân đội Mỹ còn được xác định
qua các tài liệu “Xuất bản phẩm liên quân 3-53” (Joint Publication 3-53), “Học
thuyết hoạt động tâm lý liên quân” (Joint Psychological Operations) [5, tr.6] là
những hoạt động được hoạch định có tổ chức chặt chẽ để truyền đạt những
thông tin có chọn lọc đến các đối tượng nhằm làm ảnh hưởng đến cảm xúc,
động cơ, quan điểm của họ và cuối cùng là tạo nên cách ứng xử của chính
phủ, tổ chức, nhóm và cá nhân đi theo định hướng của Mỹ.
Tổng quát có thể thấy, dựa trên cơ sở các học thuyết tâm lý học, tâm lý
học quân sự tư sản và lý luận quân sự tư sản hiện đại về CTTL, các nhà tổ chức
CTTL của CNĐQ đã đưa rất nhiều thủ đoạn tác động nhằm phá hoại chính trị,
tinh thần đối phương. Các thủ đoạn tác động đó đều có xu hướng nhằm gạt bỏ
tính chủ thể, ý thức, đặc biệt là ý thức chính trị bằng cách kích thích hành vi
một cách thô bạo, khuấy động các bản năng vô thức, dục vọng tầm thường, các
nhu cầu thấp hèn, tâng bốc cái “tôi” vô thức, cái “tôi” tuyệt đối, nhấn mạnh
phương diện cảm xúc, tự do cá nhân, khiến cho con người lãng quên trách
nhiệm và nghĩa vụ, trốn tránh chính trị. Các qui luật tâm lý nhóm, tâm lý xã hội
như bắt chước, ám thị, lây lan... cũng được các chuyên gia tâm lý chiến tận
dụng triệt để nhằm gây ra những hiệu ứng đối với tâm trạng, làm rối loạn trạng
thái chính trị, tinh thần của nhóm, tập thể, cộng đồng người.
1.2.2. Vấn đề chiến tranh tâm lý và cơ sở tâm lý để phòng, chống

chiến tranh tâm lý trong tâm lý học và tâm lý học quân sự mác xít
Vấn đề CTTL và cơ sở để phòng, chống CTTL được các nhà lý luận
quân sự, các nhà tâm lý học và tâm lý học quân sự mác xít trong và ngoài
nước nghiên cứu tập trung ở các hướng chính sau:


29

Hướng thứ nhất: Nghiên cứu về bản chất, thủ đoạn của chiến tranh tâm lý
Các nhà lý luận quân sự, tâm lý học và tâm lý học quân sự mác xít khi
luận giải về bản chất của CTTL đều nhấn mạnh tới bản chất chính trị, xã hội
và tính chất phản nhân văn của nó. Các nhà nghiên cứu tiêu biểu cho quan
điểm này là Đ.Vôncôgônôv [122], Hoàng Đình Châu, Nguyễn Đình Gấm,
Ngô Minh Tuấn [9].
Đề cập đến bản chất của CTTL, Đ.Vôncôgônôv khẳng định: “CTTL là
hệ thống tác động tư tưởng của CNĐQ nhằm đánh vào ý thức con người, chủ
yếu thông qua lĩnh vực tâm lý xã hội. CTTL có tính tương đối độc lập, đồng
thời cũng là một bộ phận của đấu tranh tư tưởng - một trong những hình thức
cơ bản của đấu tranh giai cấp” [122, tr.13]. Tác giả chỉ rõ, những tác động chủ
yếu của CTTL là thông qua kênh tâm lý, nhưng sự tác động ấy lại mang tính
chất tư tưởng rõ rệt và rốt cuộc là nhằm “xói mòn” thế giới quan của con
người trong xã hội XHCN, lén lút thay thế niềm tin XHCN. Khi đề cập tới
mục tiêu CTTL trong thời bình ông khẳng định: “Bằng những hoạt động
CTTL, các trung tâm tuyên truyền của CNĐQ làm cho con người trong thế
giới XHCN bị mất phương hướng chính trị” [122, tr.14-15].
Khái quát CTTL từ thời cổ đại qua các thời kỳ đến nay, các tác giả
Hoàng Đình Châu, Nguyễn Đình Gấm, Ngô Minh Tuấn đã chỉ rõ thực chất:
“CTTL là sự kế tục của chính trị và là phương tiện của chính trị, là cách thức
phương pháp đấu tranh tư tưởng của CNĐQ” [9, tr.11]. Các tác giả cũng đồng
thời nhấn mạnh “mục tiêu của CTTL dù xem dưới góc độ nào: tâm lý hay

chính trị, trước mắt hay lâu dài, che đậy hay công khai đều mang tính chất phản
nhân văn. Thực chất đó là cuộc chiến tranh chống lại con người” [9, tr.15].
CTTL được CNĐQ tiến hành trong cả thời chiến và thời bình, nhưng trong
thời bình có tầm hoạt động rộng lớn hơn, bao trùm lên mọi hình thái ý thức:
chính trị, đạo đức, pháp luật thẩm mỹ và chĩa vào mọi cộng đồng khác nhau
như sản xuất, khoa học, nghệ thuật, sáng tạo, quân sự. Thời bình CTTL trở


30

thành phương tiện chủ yếu tác động chủ yếu vào tiềm lực chính trị tinh thần.
Các chức năng của CTTL đều được phát huy cao độ trong thời bình: Một là,
chức năng đánh lạc phương hướng chính trị của đối phương. Hai là, chức
năng phá hoại đạo đức và lối sống của quân đội và nhân dân phía đối lập. Ba
là, chức năng gieo cấy vào nhận thức của quần chúng các quan điểm và các
giá trị tinh thần của “thế giới tự do”: chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, lối sống thực
dụng, tâm lý tiêu dùng, chủ nghĩa hư vô.
Như vậy, các tác giả nêu trên đã cho thấy, CTTL là cuộc chiến phản
nhân văn, mang bản chất chính trị sâu sắc.
Để đạt được mục tiêu chính trị của CTTL, kẻ địch sử dụng rất đa dạng
các phương thức, thủ đoạn để tác động vào nhân dân và quân đội đối phương.
Các tác giả Hoàng Đình Châu, Nguyễn Đình Gấm, Ngô Minh Tuấn, Đinh
Văn Học cũng đã chỉ ra một số thủ đoạn CTTL điển hình như: giả mạo; tạo ra
những khuôn đúc tư duy hư ảo; tung tin đồn nhảm; đe doạ; đánh lộn sòng đen
trắng; hoả mù v.v… [9] [42] để tạo ra các quan điểm lệch lạc về thực tại, gây
cho con người những quan điểm thù địch với CNXH.
Trong các công trình nghiên cứu của E.Tôcôv [98], B.Raman [89],
Miêu Phổ Nguyên [80], Nguyễn Đình Gấm [34], Võ Văn Bá [4], Đỗ Duy
Môn [78] còn chỉ ra sự đa dạng, biến hoá của các thủ đoạn CTTL của địch
như cách thức biện minh, truyền bá tin tức, tung tin đồn, tác động vào cảm

xúc, các “thủ đoạn cứng”, “thủ đoạn mềm”… để chi phối nhận thức đối
phương trong những phạm vi, tình huống, điều kiện cụ thể.
Khẳng định các hình thức và phương pháp CTTL luôn được sử dụng
trong các cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột vũ trang ở thế kỷ XX, E.Tôcôv
đã chỉ ra các thủ đoạn CTTL mà quân đội Mỹ đã sử dụng “bao gồm các biện
pháp mà nhờ đó để truyền bá những tư tưởng, tin tức gây ảnh hưởng đến nhận
thức, tình cảm và hành động của đối phương... nhằm làm tan rã tinh thần của
đối phương” 98, tr.35-36. Ở Việt Nam, các tiểu đoàn tâm lý chiến soạn thảo,
in ấn và phát hành các tài liệu tuyên truyền. Đối với dân chúng, thủ đoạn


31

chính là biện minh cho việc dùng vũ lực, những thảm hoạ gây hoang mang sợ
hãi. Còn tác giả Miêu Phổ Nguyên thì cho rằng, hiện nay sự xâm nhập của
tâm lý thông tin đã dễ dàng và nhanh chóng vượt qua biên giới quốc gia,
thông qua nhiều thủ đoạn và con đường khác nhau như chuyển giao công
nghệ, trao đổi hàng hoá, hợp tác đầu tư, giao lưu văn hoá, tham quan du lịch,
thông tin báo chí... Hình thức của tâm lý chiến thông tin ngày càng biến hoá
phức tạp, đa dạng và không theo quy luật nào [80].
Khi dự báo CTTL trong thiên niên kỷ mới, tác giả B.Raman cho rằng,
CTTL chi phối nhận thức bằng phương pháp “cứng” và “mềm”, khía cạnh
cứng là việc tạo ra trong đầu óc con người những quan niệm tiêu cực về nhà
nước, chính quyền, xã hội… của họ, khía cạnh mềm thuộc về việc tạo ra trước
mắt đối tượng những hình ảnh hấp dẫn về quốc gia hay tổ chức đang tiến hành
tuyên truyền nhằm tạo ra mong muốn đi theo sự dẫn dắt của quốc gia hay tổ
chức đó. Cả hai khía cạnh này đều nhằm làm thay đổi suy nghĩ của đối tượng
thậm chí làm cho đối phương hành động một cách vô ý thức [89, tr.9-12]. Quan
tâm đến các thủ đoạn mềm của CTTL, tác giả Đỗ Duy Môn chỉ rõ: các cơ
quan tuyên truyền của CNĐQ đang ráo riết chống phá đất nước ta, bằng

những thủ đoạn thâm độc nhất, với những phương tiện hiện đại nhất trong tay
chúng để đánh lạc hướng con người, gây ấn tượng với cuộc sống thiên đường
của CNTB [78, tr.151-152].
Nghiên cứu CTTL gắn liền với sự phát triển của các điều kiện công
nghệ và các phương tiện truyền thông hiện đại, căn cứ vào những biểu hiện về
tâm lý của người lính trong chiến tranh công nghệ cao và những diễn tiến của
CTTL của Mỹ đối với Irăc, Nam Tư…, tác giả Võ Văn Bá đã chỉ ra thủ đoạn
mới của CTTL là “răn đe bằng lý luận”: thông qua tất cả các lĩnh vực hoạt
động của quốc gia bao gồm chiến lược, công nghệ quân sự, chính trị, ngoại
giao, tôn giáo, kinh tế, tuyên truyền và mọi phương tiện để phô trương sức
mạnh quốc gia, quảng bá “lý luận quân sự tiên tiến” khiến đối phương phải
“rung chuyển tâm lý”, suy nhược ý chí, khiếp sợ và chịu khuất phục; nhất thể


×