B ô GIÁO DUC VÀ ĐÀO TAO
•
•
•
TRƯỜNG ĐAI HOC s ư PHAM HÀ NÔI 2
•
•
•
•
NGUYỄN KIM SỸ
XÂY DựNG VÀ S ử DỤNG BÀI TẬP
•
•
THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC
•
CHƯƠNG “ĐỘNG
•
Lực HỌC CHẤT
•
•
ĐIẺM” VẬT LÍ 10 THPT
LUÂN VĂN THAC S ĩ KHOA HOC GIÁO DUC
•
•
•
HÀ NỘI, 2016
•
•
•
•
B ô GIÁO DUC VÀ ĐÀO TAO
•
•
•
TRƯỜNG ĐAI HOC s ư PHAM HÀ NÔI 2
•
•
•
•
NGUYỄN KIM SỸ
XÂY DựNG VÀ S ử DỤNG BÀI
• TẬP
THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC
•
•
•
CHƯƠNG “ĐỘNG
•
Lực HỌC CHẤT
•
•
ĐIẺM” VẬT LÍ 10 THPT
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Vật lí
Mã số: 6011 0111
LUÂN
• VĂN THAC Sĩ KHOA HOC GIÁO DUC
•
•
•
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thế Khôi
HÀ NỘI, 2016
•
•
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ, Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tói Ban
chủ nhiệm cùng các thầy cô khoa Vật lý, phòng Đào tạo Sau đại học, trường
Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lọi cho tác giả trong
quá trình học tập, thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong chuyên ngành
Lý luận và Phương pháp giảng dạy bộ môn Vật lý, trường Đại học sư phạm
Hà Nội 2, đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện
luận văn. Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự hướng dẫn
tận tình chu đáo của TS. Nguyễn Thế Khôi trong suốt thời gian nghiên cứu và
thực hiện luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý Thầy, Cô giáo tổ
Vật lí, trường THPT Lý Nhân Tông, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đã
nhiệt tình giúp đỡ, trao đổi và tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá
trình nghiên cứu và thực nghiệm đề tài.
Cuối cùng, tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, người
thân, bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả trong quá tành học tập
và thực hiện đề tài.
Dù đã rất cố gắng nhưng luận văn không thể tránh khỏi những thiếu
sót, tác giả mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô giáo và các bạn.
Bắc Ninh, ngày 20 tháng 1 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Kim Sỹ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ một công trình khoa học nào khác.
Tác giả
Nguyễn Kim Sỹ
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTTN
: Bài tập thí nghiệm
BTVL
: Bài tập vật lí
ĐHSP
: Đại học sư phạm
GQVĐ
: Giải quyết vấn đề
GV
: Giáo viên
HĐ
: Hoạt động
HS
: Học sinh
NXB
: Nhà xuất bản
SGK
: Sách giáo khoa
SP
: Sư phạm
TBTN
: Thiết bị thí nghiệm
THCS
: Trung học cơ sở
THPT
: Trung học phổ thông
TN
: Thí nghiệm
TNSP
: Thực nghiệm sư phạm
VĐ
: Vấn đề
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tà i.......................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 2
4. Giả thuyết khoa học................................................................................... 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................. 3
6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 3
7. Đóng góp của luận văn.............................................................................. 4
8. Cấu trúc của luận v ăn ................................................................................ 4
Chương 1. Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THựC TIỄN CỦA DẠY HỌC BÀI
TẬP THÍ NGHIỆM CHƯƠNG “ĐỘNG
Lực
HỌC CHẤT ĐIỂM” -
VẬT LÍ 10 THPT.............................................................................................. 6
1.1.
Bài tập thí nghiệm về vật lí................................................................. 6
1.1.1. Bài tập vật lí..................................................................................... 6
1.1.1.1. Quan niệm về bài tập vật lí...................................................... 6
1.1.1.2. Tác dụng của bài tập vật tí trong dạy học............................... 7
1.1.1.3. Phương pháp giải bài tập vật l í ............................................... 8
1.1.1.4. Lựa chọn hệ thống bài tập vật lí trong dạy học một
chương, phần của giáo trình vật tí.......................................................10
1.1.1.5. Hướng dẫn học sình giải bài tập vật l í ...................................14
1.1.2. Thỉ nghiệm về vật lí trong dạy học giải quyết vẩn đ ề .....................19
1.1.2.1. Vị trí, chức năng và vai trò của thí nghiệm vật lí...................19
1.1.2.2. Xây dựng và sử dụng thiết bị thí nghiêm............................... 22
1.1.3. Bài tập thí nghiệm về vật l í ............................................................ 29
1.1.3.1. Định nghĩa..............................................................................29
1.1.3.2. Tấc dụng trong dạy học........................................................30
1.1.3.3. Tổ chức dạy học bài tập thí nghiệm về vật lí........................33
1.2. Phát triển tính tích cực, năng lực sáng tạo của HS trong dạy học vật
l í ................................................................................................................. 37
1.2.1. Phát triển tỉnh tích cực nhận thức.................................................37
1.2.2. Phát triển năng lực sáng tạo.........................................................41
1.3. Thực trạng xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập thí nghiệm trong
dạy học chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10 THPT..................46
1.3.1. Chất lượng nắm vững kiến thức và giải bài tập của H S...............46
1.3.2. Sử dụng bài tập của G V................................................................48
Chương 2. HỆ THÓNG BÀI TẬP THỈ NGHIỆM VỀ VẬT L Í TRONG
DẠY HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG Lực HỌC CHẤT ĐIỀM” - VẬT L Ỉ 10
THPT............................................................................................................. 50
2.1. Mục tiêu dạy học chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10
THPT.......................................................................................................... 50
2.2. Hệ thống bài tập thí nghiệm trong dạy học chương “Động lực học
chất điểm” - Vật lí 10THPT.......................................................................51
2.2.1. Hệ thống bài tập thí nghiệm..........................................................51
2.2.1.1. Bài tập thí nghiệm định tính..................................................51
2.2.1.2. Bài tập thí nghiệm định lượng..............................................55
2.2.2. Soạn thảo tiến trình dạy học bài tập thí nghiệm, một sổ kiến
thức chương “Động lực học chất điểm ” - Vật lí 10 THPT....................56
2.2.1.1. Bài tập thí nghiệm trong bài học xây dựng kiến thức m ới.... 56
2.22.2. Bài tập thí nghiệm trong bài học thực hành thí nghiệm
vật lý .................................................................................................. 61
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM.......................................................65
3.1. Mục đích, đối tượng và phương pháp thực nghiệm sư phạm........... 65
3.1.1. Mục đích..........................................................................................65
3.1.2. Đối tượng và phương pháp thực nghiệm sư phạm..........................65
3.2. Xây dựng phương thức và tiêu chí đánh giá....................................... 66
3.2.1. Phương thức vả tiêu chỉ đánh giá mặt định lượng.........................66
3.2.2. Phương thức và tiêu chỉ đánh giá mặt định tinh.............................67
3.3. Phân tích, đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm................................67
3.3.1. Các tiêu chí đảnh giả kết quả thực nghiệm sư phạm......................67
3.3.2. Phần tích hiệu quả của các tiến trình dạy học đã soạn thảo........68
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.............................................................................73
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................75
PHỤ LỤC..........................................................................................................
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chon đề tài
Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại mà khoa học và công nghệ
phát triển như vũ bão, kho tàng kiến thức nhân loại tăng lên nhanh chóng. Vì
vậy để theo kịp sự phát triển của thời đại và hòa nhập vào nền kinh tế thế giói,
nền kinh tế tri thức của thế kỉ 21, sự nghiệp giáo dục nước ta phải đổi mới
mạnh mẽ, đổi mói toàn diện và đồng bộ, nhằm tạo ra những con người mói có
trình độ văn hóa cao, giàu tính sáng tạo và năng động, có kĩ năng thực hành
giỏi, biết sử dụng những phương tiện mói và hiện đại. Đáp ứng với những đòi
hỏi đó, sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải có nhiệm vụ: “Đổi mới phương
pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học, khuyến khích tự học, áp dụng
những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề” [5], hay theo Nghị quyết Trung
ương II khóa VIII: “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục
lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào
quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thíri gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh, nhất là sinh viên đại học” [7].
Vì lẽ đó mà giáo dục không ngừng đổi mới, hiện đại hóa về mục tiêu, nội
dung và phương pháp dạy học để phản ánh những thành tựu hiện đại về các
lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa hoa xã hội - nhân văn, trang bị cho HS vốn
kiến thức và kĩ năng cơ bản cần thiết, phải tạo cho các em năng lực tự học, tự
vạch ra con đường và phương pháp tư duy, hành động dẫn đến chiếm lĩnh
kiến thức mới, để khi vào đời hoặc trong lao động sản xuất và trong khoa học
kĩ thuật nhanh chóng tiếp thu cái mói.
Một trong những phương pháp để rèn luyện cho HS các kĩ năng, mở rộng
và vận dụng kiến thức hoặc củng cố, ôn tập đó là việc giải BTVL. BTVL có vai
2
trò quan trọng, được sử dụng trong nhiều giai đoạn của quá trình dạy học, giải
BTVL sẽ rèn luyện cho HS khả năng vận dụng kiến thức, các kĩ năng cơ bản
giúp cho HS hiểu sâu hơn những qui luật, hiện tượng vật lí, biết phân tích và
giải thích được những hiện tượng vật lí thường gặp. Thông qua bài tập HS có
điều kiện sử dụng kiến thức đã học để tự lực giải quyết những tình huống cụ
thể khác nhau. Nhờ vậy, kiến thức trở nên sâu sắc, hoàn thiện hơn và trở thành
kiến thức thực sự của HS.
Trong các loại bài tập thì việc giải BTTN là một hình thức HĐ nhằm
nâng cao chất lượng học tập, tăng cường hứng thú, gắn học vói hành, lí luận
với thực tế, kích thích tính tự chủ tích cực, tự lực, trí thông minh sáng tạo,
tháo vát... của từng HS. Đây cũng là một biện pháp để phát hiện đúng những
HS khá, giỏi về vật lí.
Từ những phân tích ở các đề tài (luận án, luận văn, tài liệu tham khảo,...)
có liên quan đến hướng nghiên cứu của tác giả: Nghiên cứu những nội dung
trọng tâm nào? Còn cái gì chưa giải quyết hay giải quyết chưa triệt để? Ta
thấy rằng để nâng cao hiệu quả dạy và học môn vật lí, GV cần quan tâm đến
việc sử dụng BTTN vật lí trong quá trình dạy và học. Vói mong muốn đóng
góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học vật lí ở trường phổ
thông, tôi chọn đề tài: “Xây dựng và sử dụng bài tập thí nghiệm trong dạy
hoc
chương
hoc
chất điểm” - Vât
lí 10 THPT”.
•
o “Đông
• o lưc
•
•
•
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, xây dựng hệ thống BTTN và soạn thảo tiến trình dạy học
một số kiến thức thuộc chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10 THPT,
trong đó có sử dụng các bài tập đã xây dựng nhằm phát triển tính tích cực
nhận thức, năng lực sáng tạo của HS.
3. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu: HĐ dạy học bài tập vật lí ở trường THPT.
3
b.
Phạm vi nghiên cứu: Hệ thống BTTN trong dạy học chương “Động
lực học chất điểm” - Vật lí 10 THPT.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được hệ thống BTTN trên có tính khoa học và đề ra cách
sử dụng nó trong HĐ dạy học chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10
THPT thì có thể phát huy được tính tích cực nhận thức và năng lực sáng tạo
của HS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về việc dạy học vật lí theo hướng phát triển
tính tích cực nhận thức và năng lực sáng tạo của HS, đặc biệt là lí luận về dạy
học giải quyết vấn đề và việc xây dựng, sử dụng hệ thống BTTN vật lí.
5.2. Nghiên cứu chương trình, SGK, SGV để xác định mục tiêu dạy học
chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10 THPT. Từ đó, xác định hệ
thống BTTN cần xây dựng và sử dụng trong dạy học trong chương này.
5.3. Điều tra thực tiễn việc dạy học chương “Động lực học chất điểm” Vật lí 10 THPT nhằm tìm hiểu phương pháp dạy học của GV và HS, tình
trạng TBTN và việc xây dựng sử dụng hệ thống BTTN trong dạy học chương
này.
5.4. Xây dựng hệ thống BTTN và soạn thảo tiến trình dạy học một số
kiến thức thuộc chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10 THPT nhằm
phát triển tính tích cực học tập, năng lực sáng tạo của HS.
5.5. Tiến hành TNSP các tiến trình dạy học đã soạn thảo để từ đó đưa ra
những nhận xét, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống BTTN đã soạn thảo.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi phối hợp các phương pháp
nghiên cứu sau:
4
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
- Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học vật lí, đặc biệt là lí luận về dạy
giải BTVL; những tài liệu liên quan đến TN và BTVL 10.
- Vận dụng các quan điểm lí luận hiện đại về việc thiết kế tiến trình HĐ
dạy học một kiến thức cụ thể, để soạn thảo tiến trình dạy học giải một số
BTTN thuộc chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10 THPT.
- Nghiên cứu các tài liệu về tâm lí học, lí luận và phương pháp dạy học,
các luận án, luận văn, các bài báo liên quan đến việc đổi mới phương pháp
dạy học.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Điều tra việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT.
- Điều tra, thăm dò hiểu biết ban đầu của HS về chương “Động lực học
chất điểm” - Vật lí 10 THPT.
- Điều tra những khó khăn thuận lọi của GV và HS trong việc xây dựng
và sử dụng BTTN chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10 THPT.
6.3. Phương pháp TNSP: Đánh giá tính khả thi và hiệu quả của hệ thống
BTTN đã được thiết kế.
6.4. Phương pháp thống kê toán học: Xử lí số liệu thu được từ TNSP.
7. Đóng góp của luận văn
- Làm sáng tỏ cơ sở lí luận của việc dạy học kết hợp với BTTN ở THPT
nhằm phát huy tính tích cực và năng lực sáng tạo, giải quyết vấn đề của HS.
- Vận dụng cơ sở lí luận đó để thiết kế tiến trình dạy học theo hướng sử
dụng các BTTN thuộc chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10 THPT.
- Bổ sung thêm vào nguồn tài liệu tham khảo cho GV, HS THPT và học
viên cao học cùng chuyên ngành.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm ba chương:
5
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của dạy học bài tập thí nghiệm
chương “Động lực học chất điểm” - Vật lí 10THPT.
Chương 2. Hệ thống bài tập thí nghiệm về vật lí trong dạy học chương
“Động lực học chất điểm” - Vật lí 10THPT.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.
6
Chương 1
C ơ SỞ LÍ LUÂN
• VÀ THƯC TIỄN CỦA DAY HOC BÀI TẢP
•
•
•
•
THÍ NGHIÊM CHƯƠNG “ĐÔNG LƯC HOC CHẤT ĐIỀM”
•
•
•
•
- VẬT LÍ 10 THPT
•
1.1. Bài tập thí nghiệm về vật lí
1.1.1. Bài tập vật lí
1.1.1.1. Quan niệm về bài tập vật lí
BTVL là bài ra cho HS làm để vận dụng những kiến thức đã học. Theo
nghĩa rộng thì bài tập bao gồm câu hỏi, bài tập lí thuyết, bài tập thực hành,
BTTN, bài tập nhận thức. Giá trị của bài tập vật lí ở chỗ, chúng cho phép
kiểm tra được cả kĩ năng của HS áp dụng những kiến thức thu được vào
thực tế.
Trong thực tiễn dạy học, người ta thường gọi bài tập vật lí là một vấn đề
không lớn mà trong trường hợp tổng quát được giải quyết nhờ những suy luận
lôgic, những phép toán và thí nghiệm trên cơ sở các định luật và phương pháp
vật lí... Thông thường, trong sách giáo khoa và tài liệu lí luận dạy học bộ
môn, người ta hiểu những bài tập là những bài luyện tập được lựa chọn một
cách phù họp vói mục đích chủ yếu là nghiên cứu các hiện tượng vật lí, hình
thành các khái niệm, phát triển tư duy vật lí của học sinh và rèn luyện kĩ năng
vận dụng các kiến thức của họ vào thực tiễn.
Trong quá trình dạy học vật lí, mỗi vấn đề xuất phát do nghiên cứu tài
liệu giáo khoa chính là một bài tập đối vói HS. HS tìm tòi câu trả lòi và tiến
hành giải đáp cho VĐ đó chính là HS đã giải bài tập. Giữa bài tập và lí thuyết
có mối quan hệ chặt chẽ vói nhau, về một khía cạnh nào đó thì BTVL được
coi là phương tiện để dạy học vật lí.
7
1.1.1.2. Tác dụng của bài tập vật lỉ trong dạy học
Trong quá trình dạy học vật lí, việc giải BTVL là một trong những loại
HĐ tự lực quan trọng của HS. BTVL có vai trò quan trọng đặc biệt, chúng
được sử dụng trong nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình dạy học.
- BTVL có thể coi như là phương tiện nghiên cứu hiện tượng mói hoặc
xây dựng một khái niệm mói cho HS, nhằm đảm bảo cho HS lĩnh hội được
kiến thức mói một cách sâu sắc và vững chắc. Khi nghiên cứu một vấn đề
mói, HS được tiếp cận vói bản chất của hiện tượng vật lí bằng nhiều con
đường khác nhau như: Kể chuyện, tiến hành TN, giải BTTN...Qua đó, tính
tích cực của HS sẽ phát triển và do đó chiều sâu cũng như độ vững chắc của
kiến thức sẽ đạt đến mức tối đa khi “Tình huống” có vần đề được tạo ra.
Trong nhiều trường hợp nhờ tình huống này có thể làm xuất hiện một dạng
bài tập mà trong quá trình giải HS sẽ phát hiện lại quy luật vật lí, chứ không
phải tiếp thu quy luật vật lí dưới hình thức sẵn có. Để đạt được mục đích này,
ta có thể sử dụng bài tập định tính hay định lượng hoặc BTTN.
- BTVL là một trong những phương tiện rất quý báu để rèn luyện cho HS
kĩ năng, kĩ xảo, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. BTVL còn giúp
cho HS rèn luyện thói quen vận dụng các kiến thức của mình, để phân tích
các hiện tượng vật lí khác nhau xảy ra trong hiện tượng tự nhiên, kĩ thuật và
đòi sống. Đối vói việc giáo dục kĩ thuật tổng hợp, BTVL có một ý nghĩa to
lớn, đó là một trong những phương tiện thuận lợi để HS liên hệ lí thuyết với
thực hành, và đòi sống.
- BTVL không chỉ dừng lại trong phạm vi vận dụng những kiến thức đã
học mà còn là một phương tiện phát triển tư duy sáng tạo của HS. Thuộc loại
đó là những bài tập giải thích hiện tượng (định tính và định lượng), BTTN,
bài tập thiết kế,... bởi vì trong quá trình giải bài tập HS phải tư duy, xây dựng
lập luận logic để phân tích và tổng hợp mối liên hệ nhân quả giữa các hiện
tượng, đại lượng vật lí đặc trưng cho chúng.
8
- BTVL là một phương tiện củng cố, ôn tập, đào sâu kiến thức đã học
một cách sinh động và hiệu quả. Khi giải bài tập HS phải nhớ lại các kiến
thức đã học có khi phải sử dụng một cách tổng hợp các kiến thức đã học trong
một chương hay một phần do đó HS sẽ hiểu rõ hơn và nắm chắc các kiến thức
đã học. Thông qua việc giải BTVL có thể giói thiệu cho HS biết những tư
tưởng, quan điểm tiên tiến hiện đại, những phát minh, những thành tựu khoa
học trong và ngoài nước. BTVL còn có tác dụng giáo dục HS tình yêu lao
động, tinh thần tự lập, tính cẩn thận, tỉ mỉ, đức tính kiên trì vượt khó, ý chí và
nhân cách, mang lại cho ngưòi học niềm say mê, phấn khởi và yêu thích,
không chán nản, gây hứng thú đối vói môn vật lí.
- BTVL còn là một phương tiện để kiểm tra đánh giá kiến thức, kĩ năng,
kĩ xảo của HS một cách chính xác. BTVL là thước đo chính xác để GVcó thể
thường xuyên theo dõi thành tích, tinh thần học tập của HS cùng vói hiệu quả
công tác giáo dục, giáo dưỡng của mình.
1.1.1.3.
Phương pháp giải bài tập vật lí
Mục tiêu cần đạt khi giải một BTVL là tìm câu trả lời đúng, giải đáp
được VĐ đặt ra một cách có căn cứ khoa học chặt chẽ. Quá trình giải một bài
toán vật lí thực chất là quá trình tìm hiểu điều kiện của bài toán, xem xét hiện
tượng vật lí được đề cập và trên cơ sở kiến thức vật lí, toán để nghĩ tới những
mối quan hệ có thể có của các cái đã cho và các cái phải tìm, sao cho có thể
thấy được cái phải tìm có liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với cái đã cho. Từ đó
chỉ rõ được mối liên hệ tường minh trực tiếp của cái phải tìm vói những cái đã
biết, tức là tìm được lòi giải đáp [9].
Vì vậy, HĐ giải BTVL có hai công việc cơ bản sau:
+ Xác lập được những mối liên hệ cơ bản, cụ thể dựa trên sự vận dụng
kiến thức vật lí vào điều kiện cụ thể của bài toán đã cho.
9
+ Tiếp tục luận giải, tính toán đi từ những mối liên hệ đã xác lập được,
đến kết luận cuối cùng của việc giải đáp vấn đề đặt ra trong bài toán.
Điều đó có nghĩa là, việc giải BTVL là phải xác lập được những mối liên
hệ cụ thể cần thiết giữa cái phải tìm và cái đã cho, dựa trên sự vận dụng kiến
thức vật lí vào điều kiện cụ thể của bài toán. Tức là phải trả lời được câu hỏi:
“Việc giải bài toán này cần xác định được những mối liên hệ cơ bản nào? Sự
xác lập các mối liên hệ cơ bản cụ thể này dựa vào vận dụng kiến thức vật lí
gì? Vào điều kiện cụ thể gì của bài toán?”.
Việc nắm vững những điều đó sẽ giúp cho GV có sự định hướng phương
pháp dạy giải BTVL một cách đúng đắn và có hiệu quả. Đối với những bài
tập đơn giản khi vận dụng kiến thức vật lí vào điều kiện cụ thể, ta có thể thấy
ngay được mối liên hệ trực tiếp của cái phải tìm vói những cái đã cho. Nhưng
đối với những bài tập phức tạp hơn, thường không thể dẫn ra ngay được mối
liên hệ trực tiếp giữa cái phải tìm với cái đã cho. Vì vậy, GV cần có sự hướng
dẫn giúp đỡ HS đúng lúc và đúng chỗ.
Đối vói những bài tập định tính, không cần tính toán phức tạp nhưng vẫn
cần có sự suy luận lôgic từng bước để đi đến kết luận.
Đối vói BTTN, quá trình giải bài toán chính là quá trình làm rõ những
điều kiện, mà trong đó mối liên hệ phụ thuộc cần nghiên cứu có thể xảy ra,
phải xác định được phương án TN cho phép thu thập những thông tin cần
thiết cho sự khảo sát về mối liên hệ phụ thuộc đó, từ đó phải bố trí và tiến
hành được TN quan sát - đo và xử lí kết quả, rút ra được kết luận về sự liên
hệ phụ thuộc cần nghiên cứu. Đồng thòi dựa vào điều kiện đã có và yêu cầu
của đề bài (Làm như thế nào? Hay tại sao?) mà ta có cơ sở định hướng giải.
+ Đối với loại bài tập trả lời câu hỏi “Làm thế nào?”: Phải xác định được
các mối liên hệ phụ thuộc cần nghiên cứu xảy ra như thế nào và trong điều
kiện nào? Phải xác định được phương án TN, bố trí và tiến hành TN, xử lí và
rút kết luận.
10
+ Đối vói loại bài tập trả lời câu hỏi “Tại sao?”: Phải nắm vững phương
án TN, nắm vững dụng cụ TN và biết bố trí TN, nắm được nguyên lí và quy
luật vật lí của TN. Sau đó tiến hành TN để quan sát hiện tượng, tìm mối liên
hệ của hiện tượng với các nguyên lí, các định luật vật lí liên quan. Cuối cùng
giải thích hiện tượng đã cho.
1.1.1.4. Lựa chọn hệ thống bài tập vật lí trong dạy học một chương, phần
của giáo trình vật ỉỉ
Giải BTVL là một bộ phận hợp thành của đa số các tiết học như nghiên
cứu tài liệu mói, luyện tập, ôn tập, kiểm tra. Nó có thể chiếm một phần hoặc
toàn bộ tiết học. Đồng thòi, nó không những được sử dụng trong các tiết học
trên lớp mà còn cả trong chương trình ngoại khóa. Trong các hình thức ấy,
BTVL được sử dụng nhiều hơn cả ở hai loại tiết học phổ biến là nghiên cứu
tài liệu mói và luyện tập giải bài tập.
a) Tiết học nghiên cứu tài liệu mới
Tiết học nghiên cứu tài liệu mói là tiết học trong đó HS thu được cái mà
họ chưa biết từ trước hoặc chưa biết một cách rõ ràng, chính xác. Nói cách
khác, đó là tiết học mà họ thu được kiến thức mói, hoặc tuy không thu được
kiến thức mới nhưng có cách hiểu biết mới về kiến thức đã học, hoặc thấy rõ
phạm vi, giới hạn áp dụng kiến thức.
Trong các tiết học này, BTVL có thể được sử dụng ở một khâu đề xuất
VĐ, GQVĐ, củng cố hoặc tất cả các khâu đó.
• Bài tập đề xuất vấn đề
Mỗi một kiến thức khoa học đều là một lời giải đáp cho một câu hỏi. Nếu
không có câu hỏi, không có VĐ thì không thể có kiến thức khoa học. Cho nên
việc nghiên cứu tài liệu mới thường bắt đầu bằng việc nêu VĐ. Theo
I.Ia.Lemer: “Cái được gọi là vấn đề dạy học là một câu hỏi xuất hiện hay
được đặt ra đối với người chưa hề biết trước câu trả lời mà phải tìm tòi sáng
11
tạo, và để tìm ra câu trả lời đó ngưòi ta phải có những tài liệu nào đó làm cơ
sở xuất phát”.
N.M.Zvereva đã vạch ra rằng: Trong quá trình xây dựng VĐ, có thể sử
dụng một số biện pháp. Trong số đó, “việc xây dựng các vấn đề dạy học bằng
các bài tập không những sẽ kích thích được hứng thú cao của học sinh đối với
những tài liệu mới sắp được học, mà còn tạo được khả năng củng cố những
kiến thức đã có, và xây dựng được mối liên quan giữa những kiến thức đã có
và cả những kiến thức mới” [24, tr.28].
V.G.Razumôvxki gọi bài tập đề xuất VĐ “là bài tập, trong đó nêu ra một
yêu cầu xác định được thực hiện trên cơ sở hiểu biết các định luật vật lí,
nhưng lại không có chỉ dẫn trực tiếp, tường minh các định luật nào để giải bài
, A
Ị
Ạ
tập ây.
Có những bài tập đầu giờ học mà việc giải nó không những giúp xây
dựng được một VĐ dạy học, mà còn chuẩn bị cho việc nghiên cứu nó.
• Bài tập GQVĐ
Trong dạy học có không ít VĐ được giải quyết bằng việc giải bài tập.
Thông thường sau khi nêu VĐ nghiên cứu, GV đưa ra một bài tập phân hóa,
chia nó thành các bài tập bộ phận (có thể là các bài tập cơ bản) mà qua giải
chúng, HS tìm được lời giải - nghĩa là chiếm lĩnh được kiến thức mói.
Dựa vào phương thức giải, có thể chia bài tập GQVĐ làm hai loại:
+ Giải bằng lập luận lôgic và biến đổi toán học trên cơ sở những kiến
thức đã biết.
+ Buộc phải quan sát, tiến hành TN. Nói cách khác, trong quá trình giải
bài tập này, việc sử dụng lập luận lôgic và toán học đã biết không dẫn tới câu
trả lời cuối cùng, hoặc tuy dẫn tói kết quả cuối cùng nhưng không rõ có phù
hợp vói thực tiễn không thì người giải buộc phải quan sát, làm TN mói thu
được câu trả lòi của bài tập. Có thể gọi loại này là loại “bài tập hỏi thiên
nhiên” (tìm đáp số ở thiên nhiên).
12
Thuộc vào loại đàu là bài tập rút ra định luật bảo toàn động lượng từ định
luật II, ITT Newton - từ những kiến thức cũ dẫn đến một kết luận mới có giá
trị khái quát và thực tiễn cao hơn. Để hình thành định luật m cho HS, GV yêu
cầu học giải một bài tập phức hợp và chia nó thành một số bài tập bộ phận,
bài tập cơ bản. Trong số đó, có hai bài tập: 1) Làm thế nào có thể so sánh
được độ lớn của các lực tương tác giữa hai xe? 2) Bằng cân, thước và đồng
hồ, hãy so sánh độ lớn của các lực tương tác giữa hai xe, thì bài 1 được giải
bằng lập luận lôgic để đưa ra được cách đo lực gián tiếp qua đo khối lượng và
gia tốc, còn bài 2 - chỉ có thể tìm được câu trả lòi ở thí nghiệm: Không phải
đo (hay tính toán) được trực tiếp từ các lực tương tác giữa hai xe hay gia tốc
mà chúng thu hoạch được trong tương tác, mà phải đo gián tiếp qua các đại
lượng khác là khối lượng và quãng đường đi được trong cùng một khoảng
thòi gian nhất định của từng xe.
Các phương pháp dạy học được sử dụng trong trường phổ thông rất
phong phú. Căn cứ vào tính chất của HĐ nhận thức do HS thực hiện khi lĩnh
hội những dạng nội dung khác nhau, vào tính chất HĐ của GV - người tổ
chức HĐ đa dạng đó của HS, M.N.Xcatkin và I.Ia.Lemer đã phân chia chúng
thành năm loại: 1) Giải thích - minh họa; 2) Tái hiện; 3) Trình bày nêu VĐ;
4) Tìm tòi từng phần (ơrixtic); 5) Nghiên cứu. Chúng lại được phân làm hai
nhổm: Tái hiện; Sáng tạo. Tìm tòi từng phần thuộc nhóm sáng tạo, là phương
pháp dạy học trong đó: “Giáo viên tổ chức cho học sinh tham gia giải quyết
từng bước tìm tòi.. .Giáo viên xây dựng bài làm, chia nó thành những bài tập
phụ, vạch ra các bước tìm tòi, còn học sinh thì thực hiện các bước ấy” [1,
tr.80]. Phương pháp dạy học được thể hiện dưới ba hình thức:
+ Đưa HS tuần tự tiến dần tói việc giải quyết tự lực các VĐ bằng cách sơ
bộ dạy cho họ hoàn thành từng bước việc giải quyết, từng giai đoạn nghiên
cứu, hình thành dần dần cho các em kĩ năng;
13
+ Chia bài tập phân hóa thành một loạt các bài tập bộ phận, bài tập cơ
bản. Mỗi bài tập ấy giúp tiến dần một cách dễ dàng tói việc giải quyết bài tập
phân hóa ban đầu.
+ Tổ chức đàm thoại ơrixtic, bao gồm một loạt các câu hỏi liên hệ lẫn
nhau, mỗi câu hỏi là một bước trên con đường dẫn tói việc GQVĐ và phần
lớn đòi hỏi ở HS không những phải tái hiện kiến thức, mà còn phải thực hiện
một sự tìm tòi nho nhỏ.
Hình thức 1 rất hay được áp dụng trong thực tiễn dạy học. Như vậy, theo
quan điểm lí luận dạy học, việc giải bài tập dẫn đến hình thành kiến thức mới
đối vói HS có thể được tổ chức theo phương pháp tìm tòi từng phần dưới cả
ba hình thức kể trên.
• Bài tập củng cố
Thông thường, GV sử dụng bài tập cơ bản ở cuối tiết học hay cuối mồi
phần của bài giảng nhằm củng cố kiến thức mói và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo
vật lí tùy theo yêu cầu của tiết học.
b) Tiết học luyện tập giải bài tập
Trong tiết học này, có hai hình thức chủ yếu tổ chức làm việc của lớp:
GV hay một HS giải bài tập trên bảng để toàn lớp theo dõi; HS tự lực giải bài
tập (ghi chép vào vở hoặc các tờ giấy riêng).
Hình thức đầu được áp dụng khi GV hướng dẫn HS giải các bài tập loại
mói gặp lần đầu. Để cả lớp tập trung, chủ động theo dõi và tích cực tham gia
vào việc kiếm tìm lời giải bài tập trên bảng, cần lưu ý: Khi giải thích, GV phải
trình bày sao cho các em hiểu rõ từng thao tác, từng hành động và trật tự của
chúng để tạo điều kiện giải các bài tập cùng loại.
Hình thức sau thường dùng để rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo và kiểm tra kết
quả học tập của HS. Tính độc lập, tích cực của họ phụ thuộc rất nhiều vào
mức độ phức tạp của bài tập. Vì thế, những bài tập đề ra phải vừa sức, đủ
14
phức tạp và gây hứng thú cho từng HS - nghĩa là ra bài tập phân hóa [6,
tr.146], theo hai cách: Phân hóa về mặt chất lượng; Phân hóa về mặt số lượng.
Trong khi HS tự lực giải, GV theo dõi từng em và nếu cần, giúp họ quy tụ
một bài tập phân hóa thành các bài tập cơ bản.
1.1.1.5. Hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lí
Dù chỉ giải các bài tập giáo khoa về vật lí, bất kì một HS nào cũng có thể
gặp ít nhiều khó khăn khi vận dụng tri thức đã học để giải bài tập. Vì vậy, cần
có sự trợ giúp của GV khi HS giải BTVL. Nhưng để hướng dẫn HS giải được
một bài tập thì trước hết GV phải giải được bài tập đó, phải nắm vững lời giải
và phương pháp dạy giải bài toán đó.
a)
Các bước chung của việc giải bài tập vật lí
Giải BTVL là một quá trình tiếp cận VĐ, được tổ chức để thực hiện việc
thu thập và xử lí thông tin theo từng giai đoạn. Khi giải muốn đạt được kết
quả chắc chắn thì đó phải là một hành động được tổ chức một cách có kế
hoạch, chặt chẽ và có hiệu quả, nhằm đạt được một mục đích xác định. Không
thể có một phương pháp chung vạn năng nào để có thể áp dụng giải mọi
BTVL. Tuy nhiên từ việc phân tích HĐ giải BTVL, ta có thể tùy theo từng
dạng bài tập mà có những hướng dẫn chung về phương pháp giải như sau.
• Bước 1: Tìm hiểu đề bài
- Đọc và tìm hiểu ý nghĩa vật lí của các từ ngữ trong đề bài đã cho, ghi
ngắn gọn các dữ liệu xuất phát và cái phải tìm bằng các kí kiệu, các chữ cái
theo qui ước SGK.
- Mô tả lại hiện tượng được nêu trong bài, vẽ hình minh họa (nếu cần),
đổi các đơn vị của các đại lượng trong cùng một hệ thống thống nhất.
- Nếu cần phải dùng đồ thị hoặc TN để thu thập dữ liệu cần thiết.
• Bước 2: Xác lập mối liên hệ giữa các dữ liệu đã biết và cái phải tìm.
15
- Căn cứ vào những điều đã cho biết xác định xem bản chất hiện tượng
vật lí đã cho trong đề bài, nghĩ đến các kiến thức nào, hiện tượng đó biểu diễn
qua những giai đoạn nào?
- Thiết lập mối liên hệ cơ bản và cụ thể của cái đã cho và cái cần tìm.
- Nếu hiện tượng trong bài là một hiện tượng phức tạp thì phải phân tích
chúng thành những hiện tượng đơn giản hơn. Hiện tượng đó chỉ bị chi phối
bởi một nguyên nhân, một qui tắc hay một định luật vật lí xác định.
• Bước 3: Rút ra kết quả cần tìm.
- Xác định một hệ thống chặt chẽ các lập luận lôgic, tìm mối liên hệ gữa
các cái đã cho biết và cái phải tìm thông qua các mối liên hệ trung gian.
- Từ các mối liên hệ đã thiết lập được, lập luận giải và thực hiện các
phép biến đổi toán học, tính toán để rút ra kết quả cần tìm.
• Bước 4: Kiểm tra và biện luận kết quả thu được.
- Kiểm tra đã trả lòi hết các câu hỏi, hết các trường hợp chưa. Xem lại
các phép toán và thứ nguyên có đúng không, kết quả có phù hợp với ý nghĩa
thực tế hay không?
- Kiểm tra kết quả bằng thực nghiệm, xem có phù hợp hay không nếu
được thì giải lại bài tập theo cách khác xem có cho cùng kết quả hay không?
Thực tế khi giải bất cứ một BTVL nào đó, ta có thể không thực hiện
tường minh từng bước trên, ta có thể đan xen lẫn nhau để được một hệ thống
mối liên hệ, từ đó giải hệ phương trình đi đến kết quả cần tìm. Các bước giải
trên đây được biểu diễn theo sơ đồ tiến trình khoa học.
16
Sơ đồ 1
b)Ba kiểu hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lí
Muốn hướng dẫn HS giải một bài tập cụ thể nào đó thì trước hết GV phải
giải được bài tập đó, sau đó tìm ra những khó khăn của HS có thể có khi giải.
Để đạt được kết quả cao, định hướng một cách đúng đắn, GV phải phân tích
được phương pháp giải bài toán cụ thể, phải vận dụng nhiều hiểu biết về tư
duy giải bài toán vật lí để xem xét việc giải bài tập cụ thể. Giải bài tập đó
nhằm mục đích gì cho HS để từ đó xác định kiểu hướng dẫn thích hợp [13, ứ
114-121].
• Hướng dẫn theo mẫu
Sự hướng dẫn theo mẫu còn gọi là kiểu hướng dẫn Angôrit. Đó là hướng
dẫn theo một qui tắc hành động hay chương trình hành động được xác định
một cách rõ ràng, chính xác và chặt chẽ, hành động theo một tình tự. Như
17
vậy, hướng dẫn Angôrit là sự hướng dẫn chỉ rõ cho HS những hành động cụ
thể cần thực hiện và tành tự thực hiện các hành động sơ cấp, HS hiểu một
cách đơn giản và nắm vững hành động đó, đòi hỏi HS phải tự mình thực hiện
các hành động đã được GV chỉ ra. Trên cơ sở đó, HS sẽ giải được bài tập vói
kết quả như ý muốn. Vì vậy, đòi hỏi GV phải phân tích một cách khoa học
việc giải bài tập để xác định được một trình tự chính xác chặt chẽ của các
hành động, đảm bảo các hành động đó là hành động sơ cấp đối với HS, đòi
hỏi GV phải sử dụng được Angôrit giải bài tập. Để từ đó HS áp dụng mẫu này
giải bài tập khác cùng loại và tương tự.
Kiểu hướng dẫn Angôrit thường được áp dụng khi cần vận dụng cho HS
phương pháp giải một loại bài tập điển hình cụ thể nào đó, nhằm luyện tập
cho HS kĩ năng giải một loại toán xác định nào đó. Ngưòi ta xây dựng các
Angôrit giải cho từng loại toán cơ bản điển hình là để luyện tập cho HS kĩ
năng giải các loại bài tập đó dựa trên việc làm cho HS thực hiện Angôrit giải.
Kiểu hướng dẫn Angôrit có ưu điểm là nó đảm bảo cho HS giải được bài
tập được giao một cách chắc chắn, kĩ năng giải toán của HS được rèn luyện có
hiệu quả. Tuy nhiên, khi giải bài tập mà GV chỉ hướng dẫn cho HS áp dụng
theo mẫu thì HS chỉ quen chấp hành những hành động đã được chỉ dẫn theo
một mẫu có sẵn, do đó ít có tác dụng rèn luyện cho HS khả năng tìm tòi, sáng
tạo, sự phát triển tư duy sáng tạo của HS bị hạn chế, không phát huy hết tác
dụng của việc giải bài tập đối với các đối tượng khác nhau của HS trong lớp.
Cho nên tùy theo từng hoàn cảnh và trình độ của HS mà GV có thể truyền đạt
cho HS Angôrit giải một loại bài tập xác định theo những cách khác nhau:
- Một là: Chỉ dẫn cho HS Angôrit dưới dạng có sẵn để áp dụng.
- Hai là: Thông qua việc giải vài bài tập mẫu, GV phân tích phương pháp
giải và chỉ dẫn cho HS Angôrit giải loại bài đó, rồi HS áp dụng để giải các bài
tập tiếp theo, có như vậy mói lôi cuốn HS vào quá trình xây dựng Angôrit