Tải bản đầy đủ (.doc) (170 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn thương tín trong xu thế hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.37 KB, 170 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Tiếng Việt
ANZ
: Ngân hàng Australia và New Zealand
HSBC
: Ngân hàng Hongkong và Thượng Hải
NHNN
: Ngân hàng Nhà nước
NHTM
: Ngân hàng thương mại
Sacombank
: Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương
Tín
ACB
: Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
Eximbank : Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt
Nam
Techcombank: Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương
Vietcombank : Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương
BIDV
: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Tiếng Anh
APEC
Dương
ASEAN
ASEM


ATM
CAR
CIC
GATS
GDP
IFRS
IMF
OECD
ROA
ROE
UNDP

: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình
: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
: Hội nghị kinh tế Á – Âu
: Máy rút tiền tự động
: Hệ số an toàn vốn
: Trung tâm thông tin tín dụng
: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
: Tổng sản phẩm quốc nội
: Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
: Quỹ tiền tệ quốc tế
: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
: Suất sinh lời trên tổng tài sản
: Suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu
: Chương chình phát triển Liên Hợp Quốc


3


WB
WEF
WTO

: Ngân hàng Thế giới
: Diễn đàn Kinh tế Thế giới
: Tổ chức Thương mại Thế giới


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ
SƠ ĐỒ

BẢNG


BIỂU ĐỒ


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, Việt Nam được biết đến như một
quốc gia Châu Á có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và đang
bước vào thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, mà dấu ấn là
sự kiện Việt nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO ngày
07 tháng 11 năm 2006.
Trong xu thế toàn cầu hoá nói chung và kinh tế Việt Nam nói
riêng đang trong giai đoạn mở cửa, hội nhập sâu hơn vào thị trường
quốc tế, các ngân hàng thương mại sẽ càng phải đối mặt nhiều hơn

với các đối thủ mới có tiềm lực tài chính, công nghệ, kinh nghiệm
và năng lực cạnh tranh cao, phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường
toàn cầu với những nguyên tắc nghiêm ngặt của định chế thương
mại và luật pháp quốc tế.
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank) cũng nằm trong guồng quay này. Dù có những lợi thế
cạnh tranh nhưng Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín vẫn còn tồn tại
không ít những yếu kém cũng như phải đối mặt với những áp lực
cạnh tranh phía trước.
Áp lực cạnh tranh của Sacombank không chỉ đến từ sự xuất
hiện ngày càng nhiều ngân hàng nước ngoài, mà còn là sự cạnh


2

tranh giữa các ngân hàng nội địa với nhau và với các kênh đầu tư
khác như chứng khoán, bất động sản, vàng...
Hiện tại, chỉ có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài (HSBC,
Standard Chartered (Anh), ANZ (Úc-New Zealand), Shinhan (Hàn
Quốc), Hong Leong Bank của Malaysia) hoạt động tại Việt Nam.
Dù thị phần của khối ngân hàng này còn khiêm tốn, nhưng với ưu
thế về vốn, kinh nghiệm, kỹ năng quản trị, công nghệ, nhân sự, họ là
những đối thủ đáng gờm. Hội nhập đồng nghĩa với việc xóa bỏ hoàn
toàn hàng rào bảo hộ từ phía Nhà nước. Tất các cả ngân hàng trong
và ngoài nước đều tham gia trên một “sân chơi” kinh doanh bình
đẳng. Các ngân hàng nước ngoài thường mạnh về vốn, công nghệ
tiến tiến, sản phẩm dịch vụ đa dạng.
Trong gần 20 năm qua, số lượng ngân hàng trong nước đã
tăng lên đáng kể. Từ chỗ 9 ngân hàng (1991), đến tháng 10/2009,
thị trường có tổng cộng 43 ngân hàng nội địa (3 ngân hàng thương

mại quốc doanh, 40 ngân hàng thương mại cổ phần). Các ngân hàng
này đang không ngừng phát triển cả về quy mô tài sản lẫn vốn điều
lệ. Với đà tăng này, chỉ riêng việc cạnh tranh giành thị phần huy
động và thị phần cho vay giữa các ngân hàng nội địa cũng đã rất
khốc liệt. Hiện nay, hơn 60% thị phần huy động lẫn cho vay đều
nằm trong tay các ngân hàng có vốn Nhà nước. Do đó, cùng với sự
gia tăng về số lượng ngân hàng, miếng bánh dành cho các ngân
hàng thương mại cổ phần sẽ càng bị thu nhỏ.


3

Chúng ta có thể nhận thấy hoạt động của toàn hệ thống ngân
hàng thương mại đều có những nghiệp vụ gần giống nhau, hệ khách
hàng giống nhau, mục tiêu chiến lược của ngân hàng thương mại
nào cũng là trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu, cung cấp nhiều
dịch vụ và mở rộng mạng lưới… Từ những điểm giống nhau giữa
các ngân hàng đã tạo ra một làn sóng cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Trong cuộc cạnh tranh không chỉ với các ngân hàng nội địa
mà còn với cả những ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Sài Gòn
Thương Tín muốn đứng vững và phát triển bắt buộc phải tự chọn
cho mình hướng đi riêng. Là một người đang công tác tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín, với mong muốn
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín phát triển bền
vững trong thời kỳ hội nhập, đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh
tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
trong xu thế hội nhập” được lựa chọn để nghiên cứu.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của Ngân hàng thương mại, các nhân tố ảnh hưởng và

các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của một NHTM
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín, xác định các nhân
tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh, nguyên nhân của hạn chế
năng lực cạnh tranh.


4

- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín, đảm
bảo an toàn và phát triển bền vững trong tình hình hội nhập kinh tế
quốc tế.
3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung trả lời câu hỏi: “Làm thế nào nâng cao năng lực
cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín
trong xu thế hội nhập?”
Các câu hỏi cụ thể:
-Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại là gì?
Vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM?
Cơ sở phân tích đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM?
-Tại sao phải nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín?
-Những biện pháp còn thiếu để nâng cao năng lực cạnh tranh
của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín?
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu:
Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng thương mại.
Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài

Gòn Thương Tín giai đoạn 2005-2010.
Giải pháp và những kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín trong bối cảnh hội nhập.


5

- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ
phần Sài Gòn Thương Tín giai đoạn 2005-2010 trong quan hệ so
sánh với các ngân hàng ACB, Eximbank, Techcombank,
Vietcombank, và BIDV.
Vietcombank và BIDV là hai ngân hàng có vốn góp của Nhà
nước nhưng có những hướng phát triển mới bắt kịp với xu thế thời
đại đồng thời tận dụng tốt được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Khi so
sánh với hai ngân hàng này, Sacombank sẽ biết được vị thế của
mình, những điểm yếu kém hay những lợi thế so với các ngân hàng
có vốn góp của Nhà nước.
ACB và Sacombank là hai cái tên quen thuộc nhất trong khối
NHTM cổ phần Việt Nam. Đây là hai ngân hàng thương mại có quy
mô vốn lớn nhất và cũng là hai ngân hàng niêm yết cổ phiếu đầu
tiên trên sàn giao dịch chứng khoán. Eximbank cũng đã thực hiện
niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng kkhoán vào tháng
10/2009, là một ngân hàng có triển vọng trong tương lai.
Techcombank được biết đến là một ngân hàng cổ phần lớn và tiếp
tục khẳng định vị trí là ngân hàng dẫn đầu về công nghệ,
Techcombank gây ấn tượng mạnh trên thị trường khi ứng dụng
thành công hàng loạt dịch vụ ngân hàng và thanh toán điện tử.
Đây là những ngân hàng hàng đầu với số vốn điều lệ, tổng tài
sản, tổng nguồn vốn huy động, dư nợ… dẫn đầu trong các Ngân
hàng thương mại Việt Nam.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


6

- Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp: các nghiệp vụ của
Ngân hàng sẽ được phân tích thành từng phần riêng biệt, vận dụng
phương pháp đánh giá tổng hợp kết hợp với hệ thống hoá để có thể
nhận định đầy đủ về tình hình hoạt động chung và nêu ra các điểm
mạnh điểm yếu của Ngân hàng để đánh giá khả năng cạnh tranh
trong thời điểm hiện tại và định hướng trong tương lai
Phương pháp so sánh: so sánh giữa các Ngân hàng trong phạm
vi nghiên cứu để tìm ra cơ sở đề xuất giải pháp và các biện pháp
thực hiện thành công và hiệu quả việc nâng cao năng lực cạnh tranh
của Sacombank.
- Nguồn số liệu:
+Dữ liệu thứ cấp được sử dụng: báo cáo thường niên các
NHTM, tạp chí, sách, báo…
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ những nguồn sau:
Nội bộ của NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín
Internet: Website của Ngân hàng Nhà nước, website các ngân
hàng trong phạm vi nghiên cứu.
Tạp chí ngành Ngân hàng
Tạp chí kinh tế và các sách, báo…
+Dữ liệu sơ cấp: Số liệu theo cuộc điều tra mức độ hài lòng
của khách hàng do Sacombank thực hiện tại TP Hà Nội, Hồ Chí
Minh và Đà Nẵng bằng phương pháp phỏng vấn.
6. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI



7

Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung
và hệ thống hoá các vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh, khái quát xu thế cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại
trong thời gian sắp tới. Đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu,
những thời cơ và thách thức của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
và đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
của Sacombank. Đồng thời, kết quả nghiên cứu còn có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, học tập về chuyên
ngành.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương bao gồm:
- Chương 1: Cơ sở lý thuyết về năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín trong
thời kỳ hội nhập
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
Thương Tín trong xu thế hội nhập


8

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1 Cạnh tranh và các loại hình cạnh tranh
1.1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Thế kỷ XX, nhiều lý thuyết cạnh tranh hiện đại ra đời như lý
thuyết của Micheal Porter, J.B.Barney, P.Krugman v.v… Trong đó,
phải kể đến lý thuyết “lợi thế cạnh tranh” của Micheal Porter, ông
giải thích hiện tượng khi doanh nghiệp tham gia cạnh tranh thương
mại quốc tế cần phải có “lợi thế cạnh tranh” và “lợi thế so sánh”.
Ông phân tích lợi thế cạnh tranh tức là sức mạnh nội sinh của doanh
nghiệp, của quốc gia, còn lợi thế so sánh là điều kiện tài nguyên
thiên nhiên, sức lao động, môi trường tạo cho doanh nghiệp, quốc
gia thuận lợi trong sản xuất cũng như trong thương mại. Ông cho
rằng lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh có quan hệ chặt chẽ với
nhau, hỗ trợ nhau, lợi thế cạnh tranh phát triển dựa trên lợi thế so
sánh, lợi thế so sánh phát huy nhờ lợi thế cạnh tranh. [6, tr 25]
Qua những quan điểm của các lý thuyết cạnh tranh cho thấy,
cạnh tranh không phải là sự triệt tiêu lẫn nhau của các chủ thể tham


9

gia, mà cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Cạnh tranh góp phần cho sự tiến bộ của khoa học, cạnh tranh giúp
cho các chủ thể tham gia biết quý trọng hơn những cơ hội và lợi thế
mà mình có được, cạnh tranh mang lại sự phồn thịnh cho đất
nước… Thông qua cạnh tranh, các chủ thể tham gia xác định cho
mình những điểm mạnh, điểm yếu cùng với những cơ hội và thách
thức trước mắt và trong tương lại, để từ đó có những hướng đi có lợi
nhất cho mình khi tham gia vào quá trình cạnh tranh. [6, tr 53]
Vậy cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể,
đơn vị kinh tế có chức năng như nhau thông qua các hành động, nỗ

lực và các biện pháp để giành phần thắng trong cuộc đua, để thỏa
mãn các mục tiêu của mình. Các mục tiêu này có thể là thị phần, lợi
nhuận, hiệu quả, an toàn, danh tiếng…
1.1.1.2 Các loại hình cạnh tranh
Có nhiều hình thức được dùng để phân loại hình cạnh tranh bao
gồm: căn cứ vào chủ thể tham gia, phạm vi ngành kinh tế và tính
chất của cạnh tranh.
Căn cứ chủ thể tham gia:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: do sự đối lập nhau
của hai chủ thể tham gia giao dịch để xác định giá cả của hàng hóa
cần giao dịch, sự cạnh tranh này diễn ra theo quy luật “mua rẻ, bán
đắt” và giá cả của hàng hóa được hình thành.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: sự cạnh tranh này
hình thành trên quan hệ cung – cầu. Tuy nhiên, sự cạnh tranh này


10

chỉ xảy ra trong điều kiện cung của một hàng hóa dịch vụ có chất
lượng ít hơn nhu cầu của thị trường.
- Cạnh tranh giữa người bán với nhau: đây có lẽ là hình thức tồn
tại nhiều nhất trên thị trường với tính chất gay go và khốc liệt. Cạnh
tranh này có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp nhằm chiếm thị
phần và thu hút khách hàng.
Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: đây là hình thức cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất, tiêu thụ một
loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó, trong đó các đối thủ tìm cách
thôn tính lẫn nhau, giành khách hàng về phía mình, chiễm lĩnh thị
trường. Biện pháp cạnh tranh chủ yếu của hình thức này là cải tiến

kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí. Kết quả cạnh
tranh trong nội bộ ngành làm cho kỹ thuật phát triển, điều kiện sản
xuất trong một ngành thay đổi, giá trị hàng hóa được xác định lại, tỷ
suất sinh lời giảm xuống và sẽ làm cho một số doanh nghiệp thành
công và một số khác phá sản hoặc sáp nhập.
- Cạnh tranh giữa các ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp khác nhau trong nền kinh tế nhằm tìm kiếm mức sinh lời cao
nhất, sự cạnh tranh này hình thành nên tỷ suất sinh lời bình quân
cho tất cả mọi ngành thông qua sự dịch chuyển của các ngành với
nhau.
Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh trên thị trường:


11

- Cạnh tranh hoàn hảo: là loại hình cạnh tranh mà ở đó không có
người sản xuất hay người tiêu dùng nào có quyền hay khả năng
khống chế thị trường làm ảnh hưởng đến giá cả. Cạnh tranh hoàn
hảo được mô tả: Tất cả các hàng hóa trao đổi được coi là giống
nhau, tất cả những người bán và người mua đều có hiểu biết đầy đủ
về các thông tin liên quan đến việc mua bán, trao đỏi, không có gì
cản trở việc gia nhập hay rút khỏi thị trường của người mua hay
người bán. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp
phải tự tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc tạo nên sự khác
biệt về sản phẩm của mình so với các đối thủ khác.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: là một dạng cạnh tranh trong thị
trường khi các điều kiện cần thiết cho việc cạnh tranh hoàn hảo
không được thỏa mãn. Các loại cạnh tranh không hoàn hảo gồm:
độc quyền, độc quyền nhóm, cạnh tranh độc quyền, độc quyền mua,
độc quyền nhóm mua. Trong thị trường cũng có thể xảy ra cạnh

tranh không hoàn hảo do những người bán hoặc người mua thiếu
các thông tin về giá cả các loại hàng hóa được trao đổi. [6, tr 82-85]
1.1.2 Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Theo WEF 1997 [20] báo cáo về khả năng cạnh tranh toàn cầu
thì năng lực cạnh tranh được hiểu là khả năng, năng lực mà doanh
nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên
thị trường cạnh tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất
bằng tỷ lệ đòi hỏi tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng


12

thời đạt được những mục tiêu của doanh nghiệp đặt ra. Năng lực
cạnh tranh có thể chia làm 3 cấp:
-

Năng lực cạnh tranh quốc gia: là năng lực của một nền kinh tế

đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn
định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng duy trì và
mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường
cạnh tranh trong và ngoài nước. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, lợi
nhuận và thị phần mà doanh nghiệp đó có được.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ: được đo bằng thị
phần của sản phẩm dịch vụ thể hiện trên thị trường. Khả năng cạnh
tranh của sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của
nó. Nó dựa vào chất lượng, tính độc đáo của sản phẩm, dịch vụ, yếu

tố công nghệ chứa trong sản phẩm dịch vụ đó.
1.1.2.2 Khái niệm cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và những
đặc điểm cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng
Cũng giống như mọi doanh nghiệp, NHTM cũng là một doanh
nghiệp và là một doanh nghiệp đặc biệt, vì thế NHTM cũng tồn tại
vì mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Vì thế, các NHTM cũng tìm đủ
mọi biện pháp để cung cấp sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao với
nhiều lợi ích cho khách hàng, với mức giá và chi phí cạnh tranh
nhất, bên cạnh sự đảm bảo về tính chính xác, độ tin cậy và sự tiện
lợi nhất nhằm thu hút khách hàng, mở rộng thị phần để dạt được lợi


13

nhuận cao nhất cho ngân hàng. Do vậy, cạnh tranh trong NHTM
cũng là sự tranh đua, lôi kéo khách hàng dựa trên tất cả những khả
năng mà ngân hàng có được để đáp ứng nhu cầu của khách hàng về
việc cung cấp những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, có sự đặc
trưng riêng của mình so với các NHTM khác trên thị trường, tạo ra
lợi thế cạnh tranh, làm tăng lợi nhuận ngân hàng, tạo được uy tín,
thương hiệu và vị thế trên thương trường. [8, tr 15]
Với những đặc điểm chuyên biệt của mình, sự cạnh tranh trong
lĩnh vực ngân hàng cũng có những đặc thù nhất định:
Thứ nhất, lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng có liên quan trực
tiếp đến tất cả các ngành, các mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Do
đó:
- NHTM cần có hệ thống sản phẩm đa dạng, mạng lưới chi
nhánh rộng và liên thông với nhau để phục vụ mọi đối tượng khách
hàng và ở bất kỳ vị trí địa lý nào.
- NHTM phải xây dựng được uy tín, tạo được sự tin tưởng đối

với khách hàng vì bất kỳ một sự khó khăn nào của NHTM cũng có
thể dẫn đến sự suy sụp của nhiều chủ thể có liên quan.
Thứ hai, lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng là dịch vụ đặc biệt
do có liên quan đến tiền tệ. Đây là một lĩnh vực nhạy cảm nên:
- Năng lực của đội ngũ nhân viên ngân hàng là yếu tố quan trọng
nhất thể hiện chất lượng của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Yêu cầu
đối với đội ngũ nhân viên ngân hàng là phải tạo được sự tin tưởng


14

với khách hàng bằng kiến thức, phong cách chuyên nghiệp, sự am
hiểu nghiệp vụ, khả năng tư vấn và cả yếu tố hình thể.
- Dịch vụ của ngân hàng phải nhanh chóng, chính xác, thuận tiện,
bảo mật và đặc biệt quan trọng là tính an toàn cao đòi hỏi ngân hàng
phải có cơ sở hạ tầng vững chắc, hệ thống công nghệ hiện đại. Hơn
nữa, số lượng thông tin, dữ liệu của khách hàng là cực kỳ lớn nên
yêu cầu NHTM phải có hệ thống lưu trữ, quản lý toàn bộ các thông
tin này một cách đầy đủ mà vẫn có khả năng truy xuất một cách dễ
dàng.
- Ngoài ra, do dịch vụ tiền tệ ngân hàng có tính nhạy cảm nên để
tạo được sự tin tưởng của khách hàng chọn lựa sử dụng dịch vụ của
mình, ngân hàng phải xây dựng được uy tín và gia tăng giá trị
thương hiệu theo thời gian.
Thứ ba, để thực hiện kinh doanh tiền tệ, NHTM phải đóng vai
trò tổ chức trung gian huy động vốn trong xã hội. Nguồn vốn để
kinh doanh của ngân hàng chủ yếu từ vốn huy động được và chỉ một
phần nhỏ từ vốn tự có của ngân hàng. Do đó yêu cầu ngân hàng
phải có trình độ quản lý chuyên nghiệp, năng lực tài chính vững
mạnh cũng như có khả năng kiểm soát và phòng ngừa rủi ro hữu

hiệu để đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả.
Cuối cùng, chất liệu kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, mà
tiền tệ là một công cụ được Nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền
kinh tế. Do đó, chất liệu này được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ.
Hoạt động kinh doanh của NHTM ngoài tuân thủ các quy định


15

chung của pháp luật còn chịu sự chi phối bởi hệ thống luật pháp
riêng cho NHTM và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
[8, tr 27]
1.2 VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG
LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
1.2.1 Vai trò của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân
hàng thương mại trong thời kỳ hội nhập
Sự phát triển kinh tế của một quốc gia phải được đóng góp từ
sự phát triển của mọi ngành nghề trong xã hội. Các ngành nghề kinh
tế này để phát triển thì phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình để tồn tại và mở rộng thị phần. NHTM cũng vậy,
mỗi ngân hàng đều phải tăng cường sức mạnh của mình để vừa tồn
tại vừa có thể đem lại những dịch vụ tốt nhất cho nền kinh tế. Khác
với những ngành kinh tế khác, năng lực cạnh tranh của ngành ngân
hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế bởi nó có liên quan
đến mọi ngành nghề trong xã hội. Năng lực cạnh tranh của các
NHTM càng cao thì khả năng cung ứng các dịch vụ về tiền tệ của
nó cho các ngành nghề khác càng tốt và đó là một trong những yếu
tố quan trọng giúp các ngành kinh tế khác phát triển, tăng thêm sức
mạnh kinh tế của một quốc gia. [8, tr35]

1.2.2 Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng thương mại đối với phát triển kinh tế trong thời kỳ hội
nhập


16

Hội nhập kinh tế quốc tế là tiến trình mà chủ thể là các quốc
gia, các doanh nghiệp tham gia vào một môi trường kinh doanh
mang tính chất toàn cầu hoặc khu vực, với các quy luật chung mang
yếu tố cạnh tranh.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế còn được xem là quá
trình tự do hóa thương mại và đầu tư, làm cho các rào cản đối với
trao đổi thương mại và đầu tư bị loại bỏ dần, từ đó tạo điều kiện
thuận lợi để các nước tăng cường thương mại quốc tế, thu hút đầu tư
và các nguồn lực bên ngoài, phát huy các nguồn lực bên trong,
nhằm phát triển những ngành sản xuất mà mỗi nước có khả năng
nhất và có hiệu quả nhất.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia và việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia đó, của các ngành kinh tế
trong quốc gia đó có mối quan hệ tương tác chặt chẽ với nhau, nhằm
mục đích thúc đẩy phát triển kinh tế của quốc gia.
Trong các lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế thì hội nhập về tài
chính đang là một trong những xu hướng nổi bật hiện nay.
Bản chất của quá trình hội nhập quốc tế về dịch vụ tài chính có
thể được hiểu theo nhiều khía cạnh. Đó là một quá trình mà các
nước, các khu vực thực hiện mở cửa cho sự tham gia của yếu tố bên
ngoài vào trong lĩnh vực tài chính, bao gồm: vốn (đầu tư trực tiếp và
gián tiếp), công nghệ, tín dụng và lao động có trình độ chuyên môn
cao. Hội nhập quốc tế về tài chính cũng là quá trình các yếu tố trong

nước đi thâm nhập vào các nước khác. Nói một cách khác, hội nhập


17

tài chính quốc tế là một quá trình diễn ra song song và đồng thời, đó
là toàn bộ hoặc từng dịch vụ tài chính được thực hiện qua biên giới,
tiêu thụ ở nước ngoài, qua sự hiện diên thương mại hoặc sự hiện
diện của một thể nhân.
Tóm lại, hội nhập quốc tế về tài chính là quá trình từng bước
gắn kết ngành tài chính quốc gia với thị trường tài chính thế giới.
Quá trình này được hỗ trợ bởi sự hợp tác quốc tế và sự mở cửa thị
trường ngày càng cao của các quốc gia, đồng thời với việc thực hiện
và điều chỉnh các tiêu chuẩn quốc tế cũng như định chế của từng
quốc gia.
Xét riêng đối với ngành ngân hàng, quá trình hội nhập quốc tế
về tài chính có tác động mạnh đến khả năng cạnh tranh và phát triển
của các NHTM thông qua các cơ hội và thách thức mà nó tạo ra
trong quá trình hợp tác quốc tế và tham gia vào các tổ chức quốc tế.
Đồng thời để tồn tại trong bối cảnh hội nhập, các NHTM cũng chịu
sức ép phải tăng cường năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động
của mình. Khi đó, kết quả từ việc nâng cao được năng lực cạnh
tranh của các NHTM sẽ có tác động tích cực trở lại nền kinh tế, tạo
ra một nền kinh tế năng động, cạnh tranh và hiệu quả hơn. [8, tr 42]
1.2.2.1 Hội nhập tài chính quốc tế tạo động lực để các Ngân hàng
thương mại nâng cao năng lực cạnh tranh
Hội nhập tài chính quốc tế tạo ra những cơ hội và thách thức
cho các Ngân hàng thương mại phải nâng cao năng lực cạnh tranh
a/ Cơ hội



18

i. Hội nhập về tài chính tạo ra một sân chơi lớn hơn và công bằng
hơn cho các NHTM
Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ
thống pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan
quản lý tài chính, loại bỏ các biện pháp bảo hộ, bao cấp vốn, tài
chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế tình trạng ỷ lại, trông
chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ. Tuy nhiên, thông
thường các cam kết quốc tế về tự do hóa tài chính cũng đưa ra
khung thời gian để các NHTM chuẩn bị cho việc cạnh tranh, minh
bạch hóa quy định luật lệ và tạo sân chơi bình đẳng.
Đối với các NHTM, hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải
cách, buộc các ngân hàng trong nước phải hoạt động theo nguyên
tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, đồng thời
phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ
quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Trong quá trình
hội nhập và mở cửa thị trường tài chính trong nước, khuôn khổ pháp
lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự
hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng bước phân
chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng
hơn. Tùy theo thế mạnh của mỗi ngân hàng, thị trường sẽ xuất hiện
những ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa như ngân
hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời hình
thành một số ngân hàng quy mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh
doanh hiệu quả. Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc


19


các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động
thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn lực nhằm
thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động và
sức cạnh tranh trên thị trường tài chính. [2, tr 113]
ii. Gia tăng nhu cầu về sử dụng dịch vụ ngân hàng
Hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng, từ
đó cũng làm gia tăng nhu cầu đối với dịch vụ ngân hàng. Điều này
thể hiện qua việc các ngành kinh tế có nhiều cơ hội kinh doanh tốt
hơn và sẽ cần mở rộng quy mô kinh doanh của mình, do đó có thể
tìm kiếm thêm những nguồn vốn từ bên ngoài như từ các NHTM
hoặc qua thị trường chứng khoán.
Đồng thời với sự giao thương quốc tế, nhu cầu sử dụng dịch vụ
ngân hàng sẽ ngày càng tăng, không chỉ trong những dịch vụ truyền
thống như thánh toán xuất nhập khẩu hay mua bán ngoại tệ mà còn
cả những dịch vụ hiện đại hơn như các hợp đồng quyền chọn, hợp
đồng tương lai về hàng hóa và tiền tệ hoặc các dịch vụ tư vấn đầu
tư, môi giới tiền tệ.
Mức sống của người dân cao hơn, ý thức và thói quen sử dụng
những tiện ích từ dịch vụ ngân hàng sẽ nhiều hơn, đồng thời với nó
là những đòi hỏi sự phục vụ tốt hơn từ phía ngân hàng đối với
những “thượng đế” của mình. [2, tr 115]
iii. Giúp các NHTM tăng cường vốn, học hỏi kinh nghiệm quản lý
điều hành từ các tổ chức tài chính quốc tế


20

Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối
với các tổ chức tài chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư

trực tiếp vào lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Các NHTM trong nước
có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo thông qua
các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài
chính quốc tế. Trong quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại
lý quốc tế của các ngân hàng trong nước sẽ tạo điều kiện phát triển
các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, góp phần thúc
đẩy quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị
trường tài chính quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động
và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp phần nâng cao chất lượng và loại
hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước sẽ phản ứng, điều chỉnh
và hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong
nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
Nói một cách ngắn gọn, bức tranh kinh tế vĩ mô mà các ngân
hàng đang hoạt động sẽ sáng sủa và nhiều hứa hẹn trong bối cảnh tự
do hóa thương mại nếu các ngân hàng chuẩn bị kỹ lưỡng và có
những hành động sớm để có thể nắm bắt những cơ hội này. [2, tr
118]
b/Thách thức
i. Khả năng xảy ra cú sốc khi tự do hóa
Kinh nghiệm cho thấy sự tự do hóa dịch vụ tài chính mà không
tiến hành cải tổ các quy định và thể chế tài chính sẽ dẫn đến khủng


×