Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng TMCP quốc tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.18 KB, 136 trang )

MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................139

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Từ viết tắtDiễn giải
VIB

VietNam International Join - stock Commercial Bank
Ngân hàng Quốc Tế
SMEs
Small Medime Enterprises (Doanh nghiệp vừa và nhỏ)
NHTM
Ngân hàng Thương mại
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
NH
Ngân hàng
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
TCTD
Tổ chức tín dụng
KH
Khách hàng
VLĐ
Vốn lưu động
VKD
Vốn kinh doanh
SXKD
Sản xuất kinh doanh
CIC


Credit Information Center
Trung tâm thông tin tín dụng
RRTD
Rủi ro tín dụng
TSĐB
Tài sản đảm bảo
NQH
Nợ quá hạn
RM
Relationship Managerment (Quản lý khách hàng)
QLKH
Quản lý khách hàng
TD
Tín dụng
KSNB
Kiểm soát nội bộ
QTRRTD Quản trị rủi ro tín dụng
UBTD
Uỷ Ban tín dụng
HĐTD
Hội đồng tín dụng
KHDN
Khách hàng doanh nghiệp


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh qua các
năm Error: Reference source not found
Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn huy động qua các năm

Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Cơ cấu dư nợ khách hàng SMEs tại VIB qua
các năm Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Phân chia dư nợ Khách hàng SMEs theo kỳ
hạn Error: Reference source not found
Bảng 2.5: Dư nợ khách hàng SMEs của VIB phân theo
nhóm nợ qua các năm.
Error: Reference source not
found
Bảng 2.6: Tình hình nợ xấu của các khách hàng SMEs
tại VIB qua các năm Error: Reference source not found
Bảng 2.7: Bảng xếp loại doanh nghiệp Error: Reference
source not found
Bảng 2.8 : Một số chỉ tiêu kinh doanh năm 2011 Error:
Reference source not found
BIỂU ĐỒ
1.4.4.3. Tổ chức thực hiện kế hoạch quản trị rủi ro tín dụng......................38
Lựa chọn khách hàng...........................................................................38
1.4.4.4 Xử lý nợ có vấn đề..................................................................40
Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro..........................................................41
Tổ chức Bộ máy kiểm tra giám sát tín dụng độc lập của VIB....................97
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................139


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngân hàng là ngành kinh tế trọng điểm, là mạch máu của toàn
bộ nền kinh tế. Trong các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay

thì tín dụng là mảng kinh doanh mang lại doanh thu lớn nhất cho
ngân hàng và tín dụng ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn quan trọng
nhất cho các doanh nghiệp khi mà thị trường tài chính chưa phát
triển. Vì thế rủi ro tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại hậu
quả nghiêm trọng nhất cho các ngân hàng Việt Nam . Trước những
thay đổi của các yếu tố vĩ mô cùng với sự cạnh tranh và hội nhập sẽ
làm cho nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng càng cao hơn. Do đó việc
quản trị rủi ro tín dụng phải được các ngân hàng đặc biệt quan tâm
nhiều hơn nữa
Đối với Ngân hàng Quốc tế cũng không phải là ngoại lệ , tín
dụng vẫn là một hoạt động chiếm một tỷ trọng rất lớn lên đến trên
70% thu nhập của ngân hàng . Song cũng chính hoạt động này, ngân
hàng phải chập nhận nhiều rủi ro nhất. Việc tập trung quá nhiều vào
tín dụng trong khi khả năng quản trị rủi ro tín dụng chưa cao, chưa
có chính sách tín dụng khoa học, chất lượng nguồn nhân lực còn
yếu kém so với đòi hỏi của thời kỳ mới, hoạt động tín dụng hiện nay
còn phải chịu nhiều sự điều chỉnh chi phối của nhiều luật, văn bản
dưới luật chồng chéo, không rõ ràng …. Vì thế nguy cơ phát sinh nợ
xấu rất lớn, chỉ cần một món vay chuyển thành nợ xấu hoặc có khả


2

năng mất vốn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận ngân hàng cũng
như khả năng thanh khoản. Ngân hàng sẽ khó có thể đảm bảo được
an toàn và hiệu quả trong hoạt động tín dụng nếu không thường
xuyên quan tâm đến công tác quản trị rủi ro tín dụng.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là thời kỳ phát triển nóng
tín dụng năm 2007, sau đó là khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008 và những khó khăn liên tiếp từ nền kinh tế làm cho việc thanh

lọc các doanh nghiệp là rất nhiều, rất nhiều doanh nghiệp vừa và
nhỏ (khách hàng SMEs) làm ăn yếu kém, thiếu tầm nhìn đã rơi vào
phá sản. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng. Nợ quá hạn, nợ
xấu tăng lên, hậu quả của thời kỳ phát triển tín dụng bằng mọi giá
và thiếu kiểm soát rủi ro tín dụng. Lúc này cần thiết phải nhìn lại
cách quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng để ngân hàng có thể phát
triển một cách bền vững
Chính từ những suy nghĩ đó, việc tổng hợp đánh giá các biện
pháp quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Quốc tế đang là vấn đề
bức xúc cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Qua đó định dạng
được những mặt mạnh, những mặt còn hạn chế để tìm kiếm những
giải pháp, những công cụ mới nhằm tăng cường và hoàn thiện quy
trình quản trị rủi ro tín dung tại Ngân hàng Quốc Tế. Thực trạng đó
của ngành ngân hàng nói chung và tại Ngân hàng Quốc tế nói riêng
trong thời gian qua là tiền đề cho quyết định lựa chọn đề tài “Quản
trị rủi ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại


3

Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam” cho luận văn thạc sỹ của
mình. Bằng đề tài này tác giả mong muốn đánh giá được thực trạng
quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Quốc tế đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, qua đó đánh giá nguyên nhân, hạn chế để từ đó
có thể đưa ra được những giải pháp để quản trị tốt hơn rủi ro tín
dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về quản trị rủi ro tín dụng của
Ngân hàng thương mại.

- Đánh giá chính xác thực trạng quản trị rủi ro tín dụng đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Quốc tế
- Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm tang cường quản trị rủi
ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng
Quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quản trị rủi ro
tín dụng trong hoạt động tín dụng cho vay đối với SMEs của
NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu:
 Trong khuôn khổ luận văn này, tôi xin được chỉ đi vào phân
tích việc quản trị rủi ro tín dụng của mảng cho vay khách hàng
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VIB.
 Quản trị rủi ro bằng cách phòng ngừa hoặc các biện pháp xử
lý khi xảy ra rủi ro, tuy nhiên luận văn đi sâu vào phân tích các biện


4

pháp phòng ngừa rủi ro.
 Rủi ro Tín dụng đối với cSMEs tại VIB trong giai đoạn từ
năm 2008 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp
nghiên cứu khoa học phổ biến như: phương pháp tiếp cận hệ thống
để nêu vấn đề phân tích – diễn giải và kết luận, phương pháp thống
kê, phân tích tổng hợp và so sánh.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Những lợi ích mà luận văn hướng tới là hệ thống hóa cơ sở lý
luận về rủi ro tín dụng, nghiên cứu hoàn thiện, phát hiện những rủi

ro tín dụng, từ đó đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm hạn chế rủi
ro tín dụng tại VIB.
6. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo và các danh mục khác, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng
các doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại VIB.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại VIB.


5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 Các vấn đề cơ bản về Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)
1.1.1.Khái niệm về SMEs
Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước
phát triển đều thấy rõ vai trò và vị trí của các SMEs trong tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội của mình. Tuy nhiên, chưa có một khái
niệm thống nhất cho các nước để xác định SMEs. Một doanh nghiệp
được xem là vừa và nhỏ ở một quốc gia này lại có thể xem là doanh
nghiệp lớn hoặc quá nhỏ ở một quốc gia khác. Thậm chí, trong bản
thân mỗi quốc gia, tùy vào mục đích mà người ta có thể sử dụng các
tiêu chí khác nhau để phân loại doanh nghiệp. Điều này đã và đang
gây khó khăn trong hoạch định và triển khai các chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, chiến lược khuyến khích và hỗ trợ SMEs.

Tuy nhiên, SMEs là một phạm trù không chỉ phản ánh quy mô
của doanh nghiệp mà còn bao hàm cả nội dung tổng thể về kinh tế,
tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tiến bộ khoa học công nghệ, lĩnh
vực, ngành nghề hoạt động. Theo số liệu thống kê của một viện


6

nghiên cứu ở Mỹ, hiện nay trên thế giới có trên 40 định nghĩa khác
nhau về SMEs. Sau đây là một số định nghĩa đặc trưng:
Nhật Bản - đại diện cho các nước phát triển định nghĩa: doanh
nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 300 công nhân trở xuống và vốn
dưới 10 triệu Yên đối với các ngành chế biến khoáng sản, công
nghiệp xây dựng, giao thông, chế tạo; có từ 100 công nhân trở
xuống và vốn dưới 30 triệu Yên đối với các ngành kinh doanh buôn
bán; có từ 50 công nhân trở xuống và vốn dưới 10 triệu Yên đối với
ngành kinh doanh dịch vụ bán lẻ. Doanh nghiệp nhỏ là doanh
nghiệp có từ 20 công nhân trở xuống đối với các ngành chế biến và
từ 5 công nhân trở xuống đối với ngành dịch vụ thương mại.
Thái Lan - đại diện cho nhóm các nước NICs Châu Á, định
nghĩa: doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có từ 50 công nhân trở
xuống, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến 200 công
nhân.
Việt Nam – theo nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 23/11/2001 về “Trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ” thì các
SMEs được hiểu là: “SMEs là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập,
đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
kinh doanh không quá 10 tỷ hoặc số lao động trung bình hàng
năm không quá 300 người”.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)

Là một doanh nghiệp với quy mô nhỏ và vừa nên bên cạnh


7

những đặc điểm cơ bản của một doanh nghiệp thông thường, SMEs
còn một số đặc điểm sau:
 Đây là loại hình doanh nghiệp có thể được tạo lập dễ
dàng. Để thành lập loại hình doanh nghiệp này chỉ cần một số vốn
đầu tư ban đầu tương đối ít, với một mặt bằng sản xuất hàng hóa
nhỏ, quy mô nhà xưởng không lớn nên doanh nghiệp có thể giảm
được chi phí cố định, tận dụng được lao động thay thế cho vốn với
giá công lao động thấp, hơn nữa khả năng thu hồi vốn của loại hình
doanh nghiệp này khá nhanh, tăng tốc độ vòng quay vốn để đầu tư
vào các công nghệ tiên tiến hơn, hiện đại hơn, bước đầu đã mang
lại hiệu quả kinh tế cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng.
 Mô hình quản lý gọn nhẹ, có mối quan hệ nội bộ dễ điều
chỉnh. Các SMEs có tính linh hoạt cao, có khả năng quan tâm trực
tiếp tới thị trường và người tiêu thụ nên dễ dàng tìm kiếm và đáp
ứng các nhu cầu, thị hiếu trong thị trường chuyên môn hóa. Đồng
thời, mô hình quản lý gọn nhẹ, ít trung gian đầu mối thì sẽ giúp
doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí, tận dụng được các cơ hội
kinh doanh. Mặt khác, khi gặp những biến cố của môi trường kinh
doanh, loại hình doanh nghiệp này dễ xoay chuyển bằng cách
chuyển đổi hoặc thu hẹp quy mô sản xuất của mình vì vậy mà tổn
thất giảm đi rất nhiều.
 SMEs hoạt động đa dạng, phong phú trong mọi lĩnh vực,
mọi thành phần kinh tế. Không chỉ thuận lợi trong việc tạo lập và dễ
thích nghi mà SMEs còn có thể phát triển rộng khắp các vùng của đất



8

nước, tham gia vào nhiều ngành, nhiều nghề, nhiều lĩnh vực và tồn
tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế, tạo ra
những sản phẩm phù hợp với những nhu cầu ở những vùng mang
tính chất nội bộ, cần số lượng sản phẩm ít.
 Năng lực tài chính của SMEs rất hạn chế. Trước hết là do
nguồn vốn tự có thấp dẫn đến khả năng vay vốn ngân hàng cũng
như huy động vốn trên thị trường bị hạn chế, những khoản tiền dự
định vay của SMEs thường gặp khó khăn vì thiếu tài sản thế chấp.
Bên cạnh đó, khả năng tích lũy vốn của SMEs cũng thấp nên nguồn
vốn bổ sung cho sản xuất kinh doanh bị giới hạn, khiến cho khả
năng thu lợi nhuận không đạt tối đa ngay cả khi có cơ hội để kinh
doanh.
 Khả năng cạnh tranh tiếp cận thị trường còn yếu kém.
Bên cạnh khó khăn về máy móc, trang thiết bị, doanh nghiệp còn bị
bất lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm và khả năng thu hút các nhà
quản lý tài năng. Do nguồn tài chính hạn hẹp, các SMEs khó có khả
năng thực hiện một chiến lược Marketing đầy đủ nên khả năng tiếp
cận thị trường của SMEs còn hạn chế, đây là yếu tố tiềm ẩn gây
nhiều rủi ro cho ngân hàng khi cho vay.
 Tính ổn định trong sản xuất kinh doanh không cao.
SMEs không thuộc diện kinh doanh những mặt hàng mang tính chất
độc quyền nên tính ổn định trong sản xuất kinh doanh là không cao.


9

Hầu hết các SMEs không có định hướng lâu dài trong kinh doanh

mà thường xuyên thay đổi ngành nghề, cơ cấu mặt hàng, đa dạng về
chủng loại hàng hóa dịch vụ nhưng không lớn về số lượng
Nội dung và phương pháp hạch toán kế toán của SMEs
thường không đầy đủ, không chính xác và thiếu minh bạch. Khả
năng lập các phương án sản xuất kinh doanh còn yếu, tính thuyết
phục chưa cao. Doanh nghiệp chưa chỉ cho ngân hàng thấy được lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp mình so với các doanh nghiệp
khác, không dự trù được đầy đủ các chi phí cũng như các khoản thu
để từ đó ước tính lợi nhuận mà phương án đem lại.
1.2 Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
1.2.1. Khái niệm chung về tín dụng ngân hàng
Tín dụng nói chung được hiểu là quan hệ vay mượn, quan hệ sử
dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay theo nguyên
tắc hoàn trả. Quan hệ này được xác lập trên cơ sở lòng tin hoặc tín
nhiệm lẫn nhau giữ các chủ thể trong quan hệ đó.
Đối với ngân hàng nói riêng và đối với các tổ chức trung gian
tài chính nói chung, tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và
cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất.
Tín dụng hiểu theo nghĩa rộng là quan hệ vay mượn, bao gồm
cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất


10

định là ngân hàng (hoặc các trung gian tài chính khác) thì tín dụng
chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Việc xác định như thế này
là rất quan trọng để định lượng tín dụng trong các công tác nghiên
cứu cũng như các hoạt động kinh tế.

Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ

Xác định thị trường
và các thị trường
mục tiêu

nghĩa Việt Nam, điều 49 ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng
cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương

ĐỀ XUẤT TÍN DỤNG

phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các
Nhu cầu KH

Thẩm định
Thương lượng
hình thức khác theo
quy định của Ngân
hàng Nhà nước”.

Tiếp nhận yêu cầu
khách hàng
Tìm hiểu triển vọng
Tham khảo ý kiến
bên ngoài

Mục đích vay
HĐKD
Quản lý
Số liệu


Kỳ hạn
Thanh toán
Các điều khoản
Bảo đảm tiền vay
Các vấn đề khác

Phê duyệt
Cán bộ quản trị rủi
ro
Giám đốc/Tổng
giám đốc

THỦ TỤC HỒ SƠ & GIẢI NGÂN

Thủ tục hồ sơ
Dự thảo hợp đồng
Xem xét hồ sơ
Kiểm tra tài sản bảo đảm
Miễn bỏ giấy tờ pháplý
Các vấn đề khác

Giải ngân
Thủ tục hồ sơ hoàn tất
Chuyển tiền

QUẢN LÝ DANH MỤC

1.2.2. Quy trình cho vay của ngân hàng đối với SMEs
Quản lý tín dụng

Số liệu
Các điều khoản
Bảo đảm tiền vay
Thanh toán
Đánh giá tín dụng

Trả nợ đúng hạn

Thanh toán
Trả đủ gốc
Trả đủ lãi

Dấu hiệu bất thường

Nhận biết sớm
Chính sách xử lý
Quản lý
Dấu hiệu cảnh báo
Cố gắng thu hồi nợ
Biện pháp pháp lý
Tái cơ cấu

TỔN THẤT
Không trả nợ gốc
Không trả nợ lãi


11

XỬ LÝ



12

1.3. Các vấn đề về rủi ro tín dụng đối với SMEs
1.3.1. Quan niệm về rủi ro tín dụng.
Có rất nhiều học giả nghiên cứu về rủi ro và đã đưa ra những
khái niệm rủi ro như “Rủi ro là bất trắc gây ra mất mát, thiệt hại” ;
“Rủi ro là bất trắc cụ thể liên quan đến nhiều biến cố không mong
đợi”. Tuy nhiên hầu hết các quan điểm đều thống nhất quan điểm:
“Rủi ro là khả năng xảy ra các biến cố không lường trước và thường
gây ra hậu quả xấu”. Rủi ro luôn xuất hiện bất ngờ và đe doạ sự
sống còn của doanh nghiệp. Thường thì những hoạt đông kinh
doanh mang lại lợi nhuận càng cao thì ẩn chứa rủi ro càng lớn, mâu
thuẫn này luôn luôn tồn tại. Vì vậy muốn có lợi nhuận cao thì cần
phải chấp nhận rủi ro. Do vậy để tồn tại và phát triển trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, các doanh nghiệp cần phải
đương đầu với rủi ro bằng cách dự đoán rủi ro có thể xảy ra để tìm
những biện pháp hạn chế, phòng ngừa nhằm giảm thiểu thiệt hại do
rủi ro gây ra .
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc
biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, luôn phải đối mặt với nhiều
loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi
ro thị trường, rủi ro hoạt động….
Ở các Ngân hàng thương mại của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay thì hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động mang lại doanh thu


13


lớn nhất cho ngân hàng, tuy nhiên đây cũng là hoạt dộng có rủi ro
lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất . Rủi ro
trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào
danh mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào tình trạng tài chính khó
khăn nghiêm trong thì nguyên nhân phát sinh lại thường phát sinh từ
hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, rủi ro tín dụng cũng được
rất nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm về rủi ro tín
dụng.
- Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín
dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng
không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng là khả năng tiềm ẩn có thể gây tổn thất về
vốn và thu nhập cho Ngân hàng phát sinh khi đối tác không đáp ứng
được một phần hoặc toàn bộ các điều khoản của Hợp đồng tín dụng
hay không thực hiện đầy đủ như đã thỏa thuận theo các điều khoản
của Hợp đồng tín dụng.
-

Căn cứ vào khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại

nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng (Ban hành theo Quyết định số
493 /2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước) thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết ”.


14


Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong
các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng
nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ
trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu
công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo
lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn được gọi là rủi ro mất
khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất
lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.3.2 .Phân loại rủi ro tín dụng.
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, có thể chia rủi ro tín dụng
thành nhiều loại khác nhau tùy theo mô hình hoạt động và mục tiêu
quản lý rủi ro của mỗi ngân hàng.
1Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được
phân chia thành các loại sau đây:
- Rủi ro giao dịch (Transaction risk): là một hình thức của rủi ro
tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá
trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro
giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và
rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro phát sinh trong quá trình đánh giá
các chỉ tiêu của khách hàng và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa
chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho
vay.
+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các


15

điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ

thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài
sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý
khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống
xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục (Porfolio risk): là một hình thức của rủi ro
tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản
lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành hai loại
là rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung (Concentration
risk).
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có,
mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành,
lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm
sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho
vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh
nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc
trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho
vay có rủi ro cao.
-

Căn cứ vào tính chất của rủi ro:

+ Rủi ro khách quan: là rủi ro tín dụng xảy ra do thiên tai, địch
hoạ, người vay trốn chạy, mất tích hoặc do những tác động ngoài dự
kiến làm cho thất thoát vốn vay.


16


+ Rủi ro chủ quan: là rủi to tín dụng xảy ra do người vay hoặc
người cho vay vô tình hay cố ý làm cho thất thoát vốn vay.
a. Căn cứ vào thời hạn khoản vay:
Theo cách phân loại này thì rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro theo
khoản vay ngắn hạn và rủi ro theo khoản vay trung dài hạn.
1.3.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.3.3.1 Nguyên nhân từ phía ngân hàng
b. Do nguồn nhân lực của ngân hàng còn kém
Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng của bất kỳ một hoạt
động kinh doanh nào và nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh, ở đây là lĩnh vực tín dụng ngân hàng. Rủi ro này phát sinh
do năng lực của nguồn nhân lực tín dụng hạn chế, không dự báo,
phân tích được tình hình thực tế, không am hiểu luật ngân hàng,
ngành nghề kinh doanh, khả năng điều tra, phân tích yếu kém...
Cũng có khi đó là do sự yếu kém về đạo đức của cán bộ tín dụng,
cho vay chỉ mưu lợi cá nhân mà không quan tâm hoặc lường trước
hậu quả nên gây tổn hại đến ngân hàng. Như vậy chất lượng nhân
viên ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không
đảm bảo là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
c. Chính sách tín dụng không đúng đắn
Chính sách tín dụng thiếu hay chưa đúng đắn sẽ dẫn đến cán bộ
thực thi thiếu cơ sở để thực hiện tín dụng và dựa chủ yếu vào cảm
tính dẫn đến rủi ro tín dụng. Thiếu chính sách cho vay, thiếu tiêu


17

chuẩn rõ ràng, đúng đắn sẽ gây khó khăn cho cán bộ tín dụng để cấp
tín dụng, gây thiếu nhất quán, đồng bộ trong quá trình cho vay dẫn
đến cấp tín dụng sai sót và gây nên rủi ro tín dụng làm ảnh hưởng

đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
d.Ngân hàng thiếu sự kiểm soát các khoản vay.
Nhiều ngân hàng chỉ chú ý công tác thẩm định cho vay từ đầu
mà không chú trọng đến việc thực hiện cam kết tín dụng nên khách
hàng sử dụng sai mục đích dẫn đến những rủi ro tín dụng. Công tác
kiểm tra, kiểm soát chưa tốt nên không dự báo được những rủi ro tín
dụng có thể xảy ra, không phát hiện sớm nên không có biện pháp
phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng.
Sự yếu kém về công nghệ của ngân hàng
Ngày nay trình độ công nghệ là yếu tố quan trọng trong tổ chức
kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là đối với quản lý rủi ro tín dụng.
Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay thì phải có sự hỗ trợ của
công nghệ để kiểm soát rủi ro tín dụng, vì trình độ công nghệ càng
cao càng trợ giúp cho ngân hàng sàng lọc những khách hàng, ngành
nghề đang có mức độ rủi ro cao cũng như các cơ sở dữ liệu thông
tin về từng khách hàng. Nhưng không phải ngân hàng nào cũng có
sự đầu tư về công nghệ, về hệ thống máy móc để giảm rủi ro tín
dụng do sự hiểu biết về công nghệ còn hạn chế, chưa có nguồn kinh
phí để đầu tư cho công nghệ.
e. Mục tiêu cụ thể của lãnh đạo ngân hàng đề ra


18

Tùy vào mục tiêu của ngân hàng mà ban lãnh đạo đề ra mức rủi
ro tối đa co thể chấp nhận được, nếu ngân hàng có mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận thì sẽ chấp nhận nhiều rủi ro hơn những ngân hàng
lấy quan điểm kinh doanh an toàn.
1.3.3.2.Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Các doanh nghiệp thường xuyên phải đối mặt với rủi ro do sự

cạnh tranh ngày càng gay gắt, nếu trình độ quản lý yếu kém đặc biệt
là quản lý tài chính kém thì sẽ dẫn tới việc kinh doanh thua lỗ, phá
sản gây mất khả năng thực hiện nghĩa vụ cam kết với ngân hàng tức
là không có khả năng trả nợ ngân hàng đầy đủ và đúng hạn.
Bên cạnh đó còn có một số khách hàng chủ động thực hiện
những hành vi lừa đảo, thủ đoạn tinh vi, cung cấp thông tin sai lệch
và cố tình không trả nợ cho ngân hàng gây thiệt hại cho ngân hàng.
1.3.3.3.Các nguyên nhân bất khả kháng
Đó là các yếu tố khách quan gây nên mà ngân hàng và người đi
vay không lường trước được như thiên tai, địch họa và nếu xảy ra thì
cả ngân hàng và người đi vay cùng phải chịu tổn thất lớn, yếu tố này
khó phòng ngừa và hậu quả thì nghiêm trọng.
Ngoài ra còn do các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ,
các biến động về kinh tế chính trị của thế giới như chu kỳ kinh tế,
lạm phát, thất nghiệp…những yếu tố này tác động trực tiếp tới các
lĩnh vực của nền kinh tế, ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của
người vay và ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thanh toán nợ vay.
Môi trường kinh tế xã hội trong nước biến động chịu ảnh hưởng của


19

những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm phát
sinh rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh
hưởng tới các lĩnh vực của nền kinh tế trong đó ngân hàng là ngành
chứa đựng nguy cơ rủi ro lớn nhất. Môi trường kinh tế có ảnh
hưởng rất lớn đến sức mạnh tài chính của người vay và thiệt hại hay
thành công của người vay. Các khoản cho vay khó được thu hồi
trong trường hợp khủng hoảng kinh tế xảy ra.
Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh tín dụng phụ thuộc rất nhiều

vào thói quen, truyền thống, tập quán của người dân. Những yếu tố
đó nhiều khi gây khó khăn và hạn chế việc mở rộng hoạt động kinh
doanh của ngân hàng
1.4. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng đối với các khách hàng
SMEs
1.4.1. Quan niệm về quản trị rủi ro tín dụng.
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình nhận dạng, phân tích nhân
tố rủi ro, đo lường mức độ rủi ro, trên cơ sở đó lựa chọn triển khai
các biện pháp và quản lý các hoạt động tín dụng nhằm hạn chế tối
đa rủi ro trong quá trình cho vay.
Mục đích chính của hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của các
ngân hàng thương mại là nhằm bảo đảm cho các hoạt động tín dụng
của ngân hàng không phải gánh chịu rủi ro có thể làm ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh và tồn tại của ngân hàng. Quản trị rủi ro tín
dụng giúp đảm bảo mức độ rủi ro mà ngân hàng gánh chị không
vượt quá khả năng về vốn và tài chính của ngân hàng.


20

1.4.2. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro tín dụng trong kinh doanh
ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng kinh tế cơ bản của
ngân hàng là cung cấp tín dụng. Trong cơ cấu tổng tài sản của phần
lớn các ngân hàng thương mại thì dư nợ tín dụng chiếm tới hơn
50%, thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 50% đến gần 70%
tổng thu nhập của ngân hàng. Bên cạnh đó, rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục tín dụng.
Bởi vậy, khi ngân hàng lâm vào tình cảnh khó khăn về tài chính
thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân

hàng. Rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ có thể gây nên các thiệt hại sau
đây:
Thứ nhất, đối với nền kinh tế : hoạt động ngân hàng có liên
quan đến hoạt động của nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh
tế. Bởi vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra đối với một ngân hàng nào đó
thì sẽ tác động đến tâm lý những người gửi tiền ở những ngân hàng
khác và nghiêm trọng nhất là tình trạng đổ xô đến ngân hàng rút
tiền. Như vậy, chỉ một ngân hàng phá sản cũng có thể gây ra hội
chứng Domino khiến một loạt các ngân hàng khác gặp khó khăn.
Ngoài ra, ngân hàng phá sản sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công
nhân viên gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng
ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế
bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất


21

ổn định. Thêm nữa, với xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì nền kinh tế
của một quôc gia có vấn đề còn có thể tác động xấu đến nền kinh tế
thế giới, bời mỗi quốc gia đều có sự phụ thuộc hay liên hệ với một
vài quốc gia nào đó trong khu vực hoặc trên thế giới.Hãy nhìn lại
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) hay gần hơn là cuộc
khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển
toàn cầu.
Thứ hai, đối với ngân hàng: khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng
không thu được vốn và lãi của khoản cho vay nhưng vẫn phải trả
vốn và lãi cho khoản tiền đã vay từ người gửi khi đến hạn, điều này
làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Nợ không thu
được làm giảm vòng quay vốn tín dụng và do đó việc kinh doanh

không hiệu quả. Lấy ví dụ như sau : nếu 2%/năm là mức lãi biên
trung bình mà ngân hàng thu được từ việc cho vay 100 nghìn USD.
Nếu rủi ro xảy ra và ngân hàng mất hoàn toàn nợ gốc thì mất 100/2
= 50 năm ngân hàng mới có thể thu lại khoản tổn thất đó. Do đó
việc quản trị rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết. Như đã phân tích ở
phần trước, rủi ro tín dụng xảy ra thì ngân hàng phải tiếp tục đối
mặt với rủi ro thanh khoản tức là mất khả năng thanh toán cho
người gửi tiền và do đó mất uy tín với khách hàng bản thân ngân
hàng cũng không thể thanh toán các khoản lương cho nhân viên
của mình nên những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác,
gây khó khăn cho ngân hàng .
Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng khi đã xảy ra


22

có thể gây nên thiệt hại ở mức độ khác nhau : nhẹ nhất là ngân
hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng
nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ
cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo
dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói
riêng. Chính vì vậy trong công tác quản trị ngân hàng thương mại
không thể không quan tâm đến quản trị rủi ro đặc biệt là rủi ro
trong hoạt động tín dụng.
• Nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng
- Nguyên tắc chấp nhận rủi ro.
Các nhà quản trị ngân hàng cần phải chấp nhận rủi ro ở mức
cho phép nếu như muốn có được thu nhập phù hợp từ hoạt động
tín dụng của mình. Nguyên tắc đầu tiên trong quá trình quản lý

rủi ro đối với các nhà quản trị ngân hàng là phải nhận biết “rủi ro
cho phép”.Việc chấp nhận mức độ rủi ro tín dụng chính là điều
kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực của chúng
trong quá trình quản lý rủi ro.
- Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép.
Nguyên tắc này đòi hỏi phần lớn rủi ro tín dụng trong gói
"rủi ro cho phép" phải có khả năng điều tiết trong quá trình quản
lý mà không phụ thuôc vào hoàn cảnh khách quan hay chủ quan
của nó. Chỉ có những loại rủi ro như vậy thì nhà quản trị mới có
thể sử dụng tất cả "vũ khí", "nghệ thuật" của mình để điều tiết


×