Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

đọc hiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.13 KB, 57 trang )

Soạn bài Tôi đi học của Thanh Tịnh văn lớp 8

1. Tác giả:
– Thanh Tịnh sinh ra và lớn lên ở Huế, ông là một người đã làm rất nhiều nghề, từ một
hướng dẫn viên du lịch tới nghề viết văn chương. Ông là một tác giả có rất nhiều những
thành tựu to lớn trong nhiều thế loại văn học truyện ngắn…
2. Tác phẩm.
Tác phẩm tôi đi học là một tác phẩm xuất sắc của nhà văn, đây là truyện ngắn kể về buổi
tựu trường tác giả đã nói theo một trật tự rõ ràng từ quá khứ tới hiện tại… Hiện tại tác giả
đang hồi tưởng lại quãng thời gian đã trôi qua của mình, những cảm xúc được đọng lại
trong lòng tác giả và những hình ảnh đẹp về quãng thời gian đi học.

3. Bố cục.
Chia làm hai phần: phần 1 nói về sự ngỡ ngàng của các bé ngày đầu tiên đi học, phần 2 thái
độ của người lớn trong buổi đầu.

4. Tìm hiểu chung.


1. Những hình ảnh thể hiện những cảm xúc của những đứa trẻ trong buổi đầu tiên đi
học.
– Buổi đầu đi tới trường nhân vật tôi được mẹ đưa tới, trong cảm xúc hồi hộp và bỡ ngỡ về
trường và lớp mới: không dám bỏ đôi bàn tay của mẹ ra, những hình ảnh rất chi tiết thể hiện
đó là trong những tiết học đầu tiên, cảnh vật thì không thay đổi nhưng con người thì ngỡ
ngàng. Những cảnh vật bên đường lá bên đường thì rụng nhiều có những đám mây bạc.
– Những hành trang để nhân vật tôi đến trường trên bộ trang phục mới, và có những quyển
vở mới… đây là những hình ảnh rất đẹp của tuổi học sinh trong ngày đầu tiên đến trường,
nhân vật tôi thì ngỡ ngàng và có những cảm xúc lạ thường bởi đây là ngày đầu tiên tới
trường.
– Ai cũng tươi sáng và rạng ngời trên khuôn mặt đầy hạnh phúc, nhưng bạn bè cũng trang
lứa cũng bỡ ngỡ và có cảm xúc như nhân vật tôi, sự ngỡ ngàng đó đã mang lại những cảm


xúc bồi hồi và hồ khởi, những cậu học trò mới cũng lung túng khi cầm quyển sách và cái bút
trên tay, trên không gian lúc này chỉ đầy ắp người, những khuôn mặt lung túng và bỡ ngỡ
của những trang lứa trong buổi đầu tiên đi học.
– Ngôi trường hôm nay có điều đó đó khác lạ so với mọi hôm, đây có lẽ là ngày tựu trường
trọng đại, một ngày lễ hào hùng sẽ được diễn ra ở đây, thật khiến cho nhân vật tôi cảm thấy
lo lắng và có chút e sợ.
– Người mẹ đã đưa nhân vật tôi đến trường và cầm chiếc tay bé nhỏ không rời xa, hôm nay
nhân vật tôi thật e thẹn và khi nghe tới tê mình cảm giác thật lo sợ và còn không muốn rời
bàn tay của mẹ.

c) Thái độ và cử chỉ của người lớn.
Từ những thầy cô trong trường ngày hôm nay đều niềm nở trong những bộ trang phục lộng
lẫy và có phần rất sang trọng, ông tổng đốc hôm nay với khuôn mặt hiền từ, các thầy cô thì
niềm nở đón chào học sinh.
Các bậc phụ huynh thì đưa đón con em của mình tới trường một ngày trọng đại nên tất cả
đều được chuẩn bị rất chu đáo, những cử chỉ của những người lớn đối với trẻ em thì nhẹ
nhàng và còn rất lịch sự đó có thể làm cho nhân vật tôi đỡ có cảm giác xa lạ, những sự gần
gữi của tất cả mọi người tạo ra cảm giác gần gũi, và hòa đồng.
Những bạn nhỏ khi đến trường thì có đầy đủ sách vở … tất cả đều được chuẩn bị gọn gàng
và tươm tất.
d) Đặc sắc về nghệ thuật thể hiện trong truyện ngắn.


– Truyện là một dòng hồi tưởng và suy nghĩ của tác giả về một buổi tựu trường đầy trang
trọng uy nghiêm tất cả đều hiện lên trước mắt theo một tuyến tính của thời gian .
– Truyện có sự kết hợp giữa các biện pháp tiêu biểu vừa kể chuyện vừa tả đan xen vào
những yếu tố đó là những lời kể hấp dẫn những chi tiết miêu tả sống động gợi tả ra những
cảm xúc rất thấu tình đạt lý.
– Truyện nổi bật lên dòng suy nghĩ của nhân vật tôi, cách kể chuyện của nhân vật tôi thu hút
sự chú ý của người nghe bởi giọng điệu đầm ấm, nhân vật tôi đã sắp xếp và kể theo một trật

tự có sẵn nó tạo ra một âm điệu ngọt ngào và sâu lắng gợi tả những cảm xúc chân thực.
– Tâm trạng và cảm xúc của nhân vật tôi cũng được luân chuyển theo thời gian nó tạo ra
cảm giác biến chuyển và những lay động trong lòng mỗi độc giả sâu sắc.

[V ăn 8] V ăn b ản: "Trong lòng m ẹ" - Nguyên H ồng.
24 Tháng 7 2013 lúc 12:44

Vănbản: Tronglòngmẹ
(Tríchhồi kí “ Nhữngngàythơ ấu”)
______________________NguyênHồng.

I/ Tác giả - Tác phẩm:
1.Tác giả:
- ( 1918-1982) , tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, quê ở thành phố Nam Định.
- Ông sinh ra trong một gia đình nghèo. Người cha có thời gian làm cai đề lao, sau thất
nghiệp sống nghèo túng bất đắc trí, mẹ dịu hiền,tần tảo và rất thương con.
- Năm 1934, Nguyên Hồng phải ra Hải Phòng dạy học tư lén lút ở xóm cấm. Nguyên Hồng
viết văn sớm. Những tác phẩm đầu tiên của ông hướng về những con người cùng khổ nhất
trong xã hội thành thị Việt Nam đương thời.Nguyên Hồng dõng dạc bênh vực và khẳng định
phẩm chất tinh thần của họ.
- Trong thế giới nhân vật của Nguyên Hồng nổi bật lên là hình ảnh phụ nữ và trẻ em.Ông
thông cảm sâu xa và có quan điểm tiến bộ trong việc thể hiện nỗi đau kh ổ và khát vọng của
người phụ nữ.


- Gần năm chục năm gắn bó nghệ thuật bền bỉ, Nguyên Hồng có một vị trí quan trọng trong
văn học Việt Nam hiện đại.Ông xứng đáng được coi là nhà văn chân chính của những
người khốn khổ. Một tình cảm nhân đạo thiết tha đối với quần chúng lao động nghèo thấm
đượm trong toàn bộ sáng tác của nhà văn.
2.Tác phẩm:

-1938, khi ông vừa tròn 20 tuổi. Đây là tác phẩm thứ hai của ông.
-“ Trong lòng mẹ” là chương 4 của hồi kí “ Những ngày thơ ấu”.
-Cảm xúc bao trùm: Nỗi đau bị sỉ nhục, nỗi buồn cô đơn và lòng thương nhớ mẹ, kính yêu
mẹ của một đứa bé mồ côi bố sau một thời gian dài xa cách mẹ rồi được gặp lại mẹ.
3.Tóm tắt văn bản:
- Chú bé Hồng có một tuổi thơ đầy bất hạnh: bố chết sớm vì nghiện ngập, mẹ vì cảnh cùng
túng quá phải bỏ con đi tha hương cầu thực, chú sống với bà cô cay nghiệt.
- Một hôm, bà cô gọi Hồng đến và hỏi có muốn vào Thanh Hoá với mẹ không. Nhận ra v ẻ
mặt rất kịch và tâm địa độc ác của bà cô, Hồng nén lại niềm thương nhớ mẹ và trả lời không
muốn vào.
- Nhưng bà cô vẫn cố tình kể chuyện mẹ Hồng khốn khổ, đã có con với người khác làm cho
Hồng đau đớn, thương mẹ và căm phẫn những cổ tục đã đầy đoạ mẹ mình.
- Gần đến ngày giỗ bố, trên đường đi học về, Hồng thấy bóng người ngồi trên xe kéo giống
mẹ. Chú đã đuổi theo và khi nhận ra mẹ, Hồng đã oà khóc nức nở.
- Hồng cảm thấy sung sướng và hạnh phúc vô cùng khi được ở trong lòng mẹ. Hồng thấy
mẹ vẫn đẹp như ngày nào. Chú đã quên hết mọi lời xúc xiểm của bà cô.
4.Nhan đề văn bản “Trong lòng mẹ”:
- Tên văn bản trước hết có ý nghĩa tả thực, gắn với một sự việc cụ thể: Hồng được gặp mẹ,
được ngồi trong lòng mẹ, được mẹ yêu thương, âu yếm.
- Song nhan đề văn bản còn mang ý nghĩa tượng trưng: “Tronglòng mẹ” cũng là trong tình
thương của mẹ.
- Từ nhan đề văn bản, người đọc đã phần nào hiểu được tình yêu thương mẹ tha thiết, s ự
khao khát được sống trong tình mẹ của chú bé Hồng, một chú bé có tuổi thơ đầy cay đắng.
II/ Kiến thức cơ bản:
1.Nhân vật người cô:
- Người cô của bé Hồng đại diện cho tầng lớp tiểu tư sản thị dân,sống trong xã hội x ưa nh ỏ
nhen, ích kỷ, giả dối và độc ác.
-Gần đến ngày giỗ đầu của thầy bé Hồng, người cô gọi bé Hồng đến và cười hỏi: “Màycó
muốn vào ThanhHoáchơi với mẹ màykhông?”Bà ta làm ra vẻ quan tâm đến chú, nhưng bé Hồng
đã nhận ra ý nghĩ cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch của người cô.Bé

Hồng biết rõ nhắc đến mẹ, người cô ấy chỉ cố ý gieo giắt vào đầu óc chú những hoài nghi để
chú khinh nghiệt và ruồng rẫy mẹ.
- Bằng giọng nói ngọt ngào, giả dối, người cô kể dạo này mẹ bé Hồng “phát tài”, dụ bé Hồng
vào thăm “ em bé”. Bà ta cố ngân dài ra thật ngọt, thật rõ hai tiếng “em bé” như để bé Hồng
phải nhớ rằng mẹ của chú là người phụ nữ chưa đoạn tang chồng mà đã có con với người
khác.
-Dường như chưa đủ, người cô lại “tươi cười” kể cho chú nghe tình cảnh túng quẫn,hình ảnh
gầy guộc,rách rưới của người mẹ khiến bé Hồng nghẹn họng “khóckhôngra tiếng”.


=>Nhân vật người cô được thể hiện khá sắc sảo, sinh động.Bà ta chẳng những tiêu biểu
cho cái thành kiến cổ hủ, phi nhân đạo của xã hội đó mà còn là người đàn bà có tâm địa đen
tối khi cố ý khắc sâu vào nỗi đau trong tâm hồn nhạy cảm của đứa cháu mồ côi, cố ý gieo
vào lòng nó thái độ khinh miệt ruồng rẫy đối với người mẹ mà nó vô vàn yêu thương.
2.Nhân vật bé Hồng:
a. Bé Hồng, một em bé chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh:
- Tuổi thơ của Hồng bất hạnh, mồ côi cha, mẹ chú bắt đắc dĩ phải tha hương cầu thực. Chú
sống trong sự thiếu thốn tình cảm và không có sự chăm chút, che chở của cha m ẹ.
- Đáng thương thêm, chú phải sống với người cô cay nghiệt,hẹp bụng. Người cô ấy luôn
gây tổn thương cho chú bằng cách gièm pha, nói xấu mẹ chú, tìm cách để chú ru ồng rẫy,
khinh miệt mẹ mình. Người cô này còn thiếu tử tế ở chỗ luôn vờ quan tâm hỏi han về mẹ
Hồng, để gieo rắc sự hoài nghi của Hồng với mẹ.
- Trong hoàn cảnh ấy, Hồng đã phải gắng sức chịu đựng, kìm nén. Song nỗi đau thương
cho mình và cho mẹ vượt quá sự chịu đựng của đứa trẻ,chú đã phải khóc rất nhiều, nước
mắt ngậm ngùi của đứa trẻ thầm vụng tủi cực“nước mắt ròng ròng rớt xuống hai bên mép
rồi chan hòa, đầm đìa ở cằm và ở cổ”.
b. Bé Hồng – một tâm hồn, một sức sống:
* Bé Hồng, một trái tim thiết tha yêu thương: (Trong cuộc nói chuyện với người cô)
- Sống với người cô luôn ghét mẹ mình, sống trong sự gièm pha nói xấu, bé H ồng không vì
thế mà không còn yêu thương mẹ. Chú đã muốn nói có ngay sau khi bà cô hỏi có muốn vào

Thanh Hóa thăm mẹ không; rồi chú nhận ra ngay ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét
mặt của người cô nên chú cúi đầu không đáp. Nhưng lại không muốn tình thương yêu và
lòng kính mến mẹ bị “những rắp tâm tanh bẩn” xâm phạm đến nên chú cố cười và đáp lại một
cách rất tự tin: “Không!Cháukhôngmuốn vào.Cuối nămthế nào mợ cháucũngvề”.
- Sau lời hỏi thứ hai của người cô, lòng chú bé càng thắt lại, khóe mắt đã cay cay.
-Khi bà cô ngân dài hai tiếng “em bé”, thì nỗi đau đớn,phẫn uất ở chú bé không còn nén nổi,
nước mắt chú bé”ròngròng rớt xuống hai bên méprồi chanhoà đầm đìa ở cằm và ở cổ”.Không phải vì
bé Hồng đau đớn tủi cực vì mẹ chú làm điều xấu xa mà chỉ vì thương mẹ và căm t ức sao
mẹ lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà phải sinh nở một cách giấu giếm.Bé Hồng
chẳng những không kết án mẹ vì đẻ em bé khi chưa đoạn tang chồng mà trái lại chú lại
càng thương mẹ hơn. Chú cố kìm nén nỗi đau xót, tức tưởi đang dâng lên trong lòng để h ỏi
lại bằng cách “cười dài trongtiếng khóc”
- Tâm trạng đau đớn, uất ức của chú bé dâng đến cực điểm khi nghe người cô cứ tươi c ười
kể về tình cảnh tội nghiệp của mẹ mình.
- Tình yêu thương mẹ của bé Hồng đặc biệt vì nó luôn bị thử thách trong cảnh ng ộ éo le. Nó
giản dị, chân thành, hầu như không vì mong được đền đáp: “Mặc dầu non một nămròng mẹ tôi
khônggửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người thămtôi lấy một lời và gửi cho tôi lấy một đồng quà”. Và cũng
vì thương mẹ mà chú bé căm ghét những hủ tục phong kiến đã đọa đày mẹ : “Giá những cổ tục
đã đày đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh,đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngaylấy mà cắn,mà
nhai,mànghiền cho kì nát vụn mới thôi”.Câu văn với phép so sánh đặc sắc, bằng những hình ảnh
cụ thể, nhịp văn gấp gáp, dồn dập đã thể hiện sự phản kháng quyết liệt và cũng rất h ồn
nhiên, trẻ con của chú bé Hồng. Sự căm tức dữ dội ấy chính là biểu hiện đầy đủ của tình
yêu thương mẹ tha thiết.


* Bé Hồng – ngọn lửa không khi nào tắt đi trong trái tim khát khao hạnh phúc bên mẹ
hiền :(Trong lòng mẹ)
- Tình cảm của bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh không chỉ là tình thương mà còn được
thể hiện sâu sắc ở cảm giác sung sướng cực điểm khi bé gặp mẹ và sống trong lòng mẹ
-Trên đường đi học về,thoáng thấy bóng người ngồi trên xe kéo giống mẹ mình, bé Hồng

cuống quýt đuổi theo và bối rối “Mợ ơi!Mợ ơi!Mợ ơi!....” Điều đó cho thấy hình ảnh người mẹ
luôn luôn thường trực trái tim chú bé. Chú bé lúc nào cũng nhớ mong và yêu thương m ẹ vô
cùng. Trong bé Hồng, cảm giác khi nếu người quay lại ấy là người khác thì thật là điều tủi
cực ghê gớm cho chú bé “khácgì cái ảo ảnh của một dòngnước trongsuốt chảy dưới bóngrâmđã
hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hànhngã gục giữa xa mạc”.Nỗi khắc khoải mong mẹ
đến cháy ruột của chú bé đã được thể hiện thật thấm thía, xúc động bằng hình ảnh so sánh
đặc sắc này.
-Chú bé thở hồng hộc, chán đẫm mồ hôi, khi trèo lên xe “rúi cả chânlại” biết bao hồi hộp, sung
sướng, đau khổ toát lên từ những cử chỉ cuống quýt ấy. Và khi được mẹ kéo tay và xoa đầu
hỏi thì chú “oà lên khócrồi cứ thế nức nở”. Dường như bao nhiêu sầu khổ dồn nén trong suốt
thời gian xa mẹ dài đằng đẵng lúc này bỗng vỡ oà.Tiếng khóc của chú bé là ti ếng khóc dỗi
hờn và hạnh phúc, tức tưởi và mãn nguyện của xa cách, mong nhớ.
- Ngồi trong lòng mẹ, chú hạnh phúc đắm mình trong tình mẫu tử. Chú thấy mẹ vẫn đẹp như
thuở nào “vẫn tươi sángvới đôi mắt trongvà nước da mịn làm nổi bật màuhồng của hai gò má”.Chú
cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc bên con của người mẹ.
- Chú bé cảm thấy ngây ngất sung sướng khi được sà vào lòng mẹ,cảm giác mà chú đã mất
từ lâu: “Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi,đầu ngả vào cánhtay mẹ tôi,tôi thấy những cảm giác ấm áp
đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn mankhắp da thịt”.Bé Hồng còn cảm nhận thấm thía hơi thở vô cùng
thân thiết: “Hơi quần áo của mẹ tôi và những hơi thở ở khuônmiệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm
tho lại thường”.
- Kỉ niệm ngọt ngào làm chú sung sướng đến nghẹn ngào: “Phải bé lạị và lăn vào lòng một người
mẹ,áp mặt vào bầu sữa nóngcủa người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rômở
sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng”.
- Lúc ấy, bé Hồng như quên đi tất cả những cay độc, buồn tủi “bên tai tôi ù đi, lời bà cô chìm
xuống,tôi khôngmảy maynghĩ ngợi gì nữa…”. Nghĩa là hạnh phúc lớn lao, choáng ngập niềm sung
sướng được ở bên mẹ tràn ngập trong bé Hồng, không một rắp tâm tanh bẩn nào xâm
phạm được, nó cũng như một liều thuốc hữu hiệu đã nhanh chóng chữa lành mọi tổn
thương trong em bấy lâu nay, đó chính là hanh phúc lớn lao của tình mẫu tử thiêng liêng và
cao cả.
Bé Hồng là hình ảnh một tuổi thơ nhiều bất hạnh nhưng vẫn tỏa sáng một trái tim

thương yêu sâu sắc, để lại ấn tượng xúc động trong lòng người đọc.
III/Tổng kết:
1. Nghệ thuật:
- Đoạn trích tiêu biểu cho bút pháp đậm chất trữ tình của văn Nguyên Hồng.
-Sâu sắc và tinh tế trong việc diễn tả tâm lí nhân vật.
-Kết hợp khéo léo giữa kể,tả,bộc lộ cảm xúc.
-Các hình ảnh so sánh đặc sắc giàu sức gợi cảm


T ức n ước v ỡ b ờ
(Trích tiểu thuyết Tắt đèn - Ngô Tất Tố)
I - Gợi ý
1. Tác giả:
Nhà văn Ngô Tất Tố (1893-1954) quê ở làng Lộc Hà (nay thuộc huyện Đông Anh, ngoại
thành Hà Nội).
Trước 1945, Ngô Tất Tố làm nhiều nghề: dạy học, bốc thuốc, làm báo, viết văn. Ông từng
cộng tác với nhiều tờ báo: An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phổ thông,
Đông Phương, Công dân, Hải Phòng tuần báo, Hà Nội tân văn, Thực nghiệp, Tương lai,
Thời vụ, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba,...
Trong Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia Uỷ ban Giải phóng xã (Lộc Hà). N ăm 1946: gia
nhập Hội Văn hoá Cứu quốc và lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chi ến ch ống Pháp,
Nhà văn từng là Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Việt Bắc, hoạt động ở Sở Thông tin khu
XII, tham gia viết các báo: Cứu quốc khu VII, Thông tin khu VII, Tạp chí Văn nghệ và báo
Cứu quốc Trung ương... và viết văn. Ông đã là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt
Nam (trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ I - 1948). Ngô Tất Tố mất ngày 20 tháng 4
năm 1954 (tức 18-3 năm Giáp Ngọ) tại Yên Thế, Bắc Giang.
Tác phẩm đã xuất bản: Ngô Việt xuân thu (dịch, 1929); Hoàng Hoa Cương (dịch, 1929); Vua
Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ (truyện kí lịch sử, 1935); Đề Thám (truyện kí lịch sử,
viết chung, 1935); Tắt đèn (tiểu thuyết, báo Việt Nữ, 1939; Mai Lĩnh xuất bản, 1940); Lều
chõng (phóng sự tiểu thuyết, 1940; đăng báo Thời vụ, 1941; Mai Lĩnh xuất bản, 1952); Thơ

và tình (dịch thơ Trung Quốc, 1940); Đường Thi (sưu tầm, chọn và dịch, 1940); Vi ệc làng
(phóng sự, báo Hà Nội tân văn, 1940; Mai Lĩnh xuất bản, 1941); Thi văn bình chú (tuyển
chọn, giới thiệu, 1941); Văn học đời Lí (tập I) và Văn học đời Trần (tập II, trong bộ Vi ệt Nam
văn học nghiên cứu, giới thiệu, 1942); Lão Tử (soạn chung, 1942); Mặc Tử (biên soạn,
1942); Hoàng Lê nhất thống chí (dịch, tiểu thuyết lịch sử, 1942; báo Đông Pháp, 1956); Kinh
dịch (chú giải, 1953); Suối thép (dịch, tiểu thuyết, 1946); Trước l ửa chiến đấu (dịch, truyện
vừa, 1946); Trời hửng (dịch, truyện ngắn, 1946); Duyên máu (dịch, truyện ngắn, 1946);
Doãn Thanh Xuân (dịch, truyện ngắn, 1946, 1954); Nữ chiến sĩ Bùi Th ị Phác (chèo, 1951).
Tác phẩm của Ngô Tất Tố sau này được tập hợp trong tuyển tập: Ngô Tất Tố và tác phẩm,
gồm 2 tập, do Nhà Xuất bản Văn học ấn hành, 1971 - 1976.
- Nhà văn đã được nhận hai giải thưởng trong giải thưởng văn nghệ 1949 -1952 của Hội
Văn nghệ Việt Nam: Giải ba dịch (Trời hửng, Trước lửa chiến đấu) và giải khuyến khích (v ở
chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác); Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm
1996).
2. Tác phẩm:
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ có thể coi là cao trào của một vở kịch mà mâu thuẫn, xung đột
được thể hiện tập trung trong mối quan hệ giữa nông dân và địa chủ. Những người nông
dân (éo le thay, điển hình lại là một người phụ nữ) bị đẩy đến bước đường cùng đã bật lên
hành động phản kháng. Tuy chỉ là hành động tự phát nhưng nó đã báo hiệu ngày tận th ế
của chế độ thực dân nửa phong kiến đã gần kề.
Bằng thiện cảm và thái độ bênh vực, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh người phụ nữ nông dân
thật thà chất phác, tha thiết yêu chồng con, sẵn sàng bất chấp hiểm nguy để bảo vệ hạnh
phúc gia đình. Đó là biểu hiện của vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Đồng thời,
qua vài câu đối thoại và hành động cụ thể, tác giả đã làm bật lên bức chân dung vừa bỉ ổi,
đểu cáng, độc ác vừa hèn hạ, nhu nhược của giai cấp phong kiến thống trị đương thời.
3. Tóm tắt:
Gia đình chị Dậu đã dứt ruột bán con mà chưa đủ tiền nộp sưu. Anh Dậu đang ốm cũng bị


bọn tay sai lôi ra đình, đánh cho dở sống dở chết. Được bà hàng xóm cho bát gạo, chị Dậu

vừa nấu xong nồi cháo thì cai lệ và người nhà lí trưởng ập đến. Mặc dầu chị Dậu hết lời van
xin, cai lệ vẫn toan hành hạ anh Dậu. Chị Dậu xông vào đỡ tay, bị cai l ệ đánh, và ch ị đã túm
cổ đẩy tên này ngã chổng quèo. Người nhà lí trưởng sấn sổ giơ gậy định đánh thì b ị chị Dậu
túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm.
II - Giá trị tác phẩm
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ phơi bày bộ mặt tàn ác, bất nhân của chế độ thực dân phong
kiến, đồng thời thể hiện sâu sắc nỗi thống khổ cũng như sức mạnh phản kháng tiềm tàng
của người nông dân. Có đủ các hạng người được khắc hoạ sinh động trong b ức tranh thu
nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng ấy. Giữa cái đám sâu bọ hại dân lúc nhúc ở
cái làng quê u ám đang rên xiết trong vụ thuế kinh tởm thấy sáng lên một chị D ậu đảm đang,
chịu thương chịu khó hết mực vì chồng vì con, một chị Dậu lam lũ, nhẫn nhục nhưng cũng
đầy sức mạnh phản kháng, quyết không để đói khổ làm hoen ố phẩm hạnh. Hình tượng
nhân vật này được xem là điển hình cho người phụ nữ nông dân bấy giờ.
Gia đình chị Dậu thuộc loại cùng nhất hạng cùng đinh đang lâm vào tình cảnh bức bách của
sưu thuế. Chồng ốm đau lại bị đánh đập khổ sở, chị Dậu một thân một mình chạy vạy
ngược xuôi để lo suất sưu cho anh Dậu. Đường cùng chị đã phải đứt ruột, gạt nước mắt mà
bán con cho Nghị Quế. Một đứa con lên bảy, một ổ chó cộng với mấy hào bán gánh khoai
mới đủ tiền nộp suất sưu để chồng được tha về. Nào ngờ bọn lí dịch lại bắt phải nộp cả suất
sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái, đẩy gia đình chị đến cùng cực.
Anh Dậu về nhà nhưng lâm vào tình trạng thập tử nhất sinh. Bà hàng xóm tốt bụng ái ng ại
cho cảnh đói nhà chị Dậu mang cho bát gạo để nấu cháo. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là
cảnh buổi sớm hôm sau.
Khi anh Dậu cố gượng ngồi dậy, chưa kịp đưa bát cháo lên miệng thì tên cai lệ và gã đầy tớ
của lí trưởng xộc vào định trói anh để nã thuế. Chị Dậu lúc này phải đối mặt với tình thế
nguy ngập: chồng chị vừa mới bị bắt trói, tưởng đã chết đêm qua, bây giờ mà lại bị trói đánh
nữa chắc anh không sống nổi. Không đếm xỉa đến những lời van xin tha thiết của ch ị, tên cai
lệ bất nhân nhất định xông vào trói anh Dậu. Hắn là một tên tay sai chuyên nghiệp; v ới hắn
không có gì khác ngoài đánh, trói. Hạng người này trong tay chế độ thực dân phong ki ến sẽ
thành thứ công cụ thực sự, không còn là người. ở cái làng Đông Xá ấy, cai l ệ thoả sức
hoành hành, tác oai tác quái. Vụ thuế đang là thời điểm tốt nhất để hắn thể hi ện tính chuyên

nghiệp trong cướp bóc, hà hiếp dân lành. Chỉ là một tên tay sai mạt hạng nhưng qua nh ững
gì hắn làm, có thể nói hắn là hiện thân đầy đủ, rõ rệt cho cái "nhà nước" phi nhân tính, nhân
quyền lúc bấy giờ. Hắn "sầm sập tiến vào", "trợn ngược hai mắt", "đùng đùng cai lệ giật phắt
cái thừng", "bịch buôn vào ngực chị Dậu", "sấn đến để trói anh Dậu", "tát vào mặt ch ị một cái
đánh bốp"... Hành động của hắn như một con thú dữ. Bản tính ác thú của tên này thể hiện
cả ra ngôn ngữ: Khàn khàn, quát, thét, hầm hè, nham nhảm... Tiếng của hắn đâu phải là
tiếng người! Nếu là người thì hắn đã phải mủi lòng trước cảnh một người ốm nặng, đã động
lòng trước những lời van xin tội nghiệp của chị Dậu, hắn đã biết thương hại... Đằng này,
dường như hắn không có khả năng hiểu được ngôn ngữ của con người, hắn đáp lại những
lời van vỉ của chị Dậu bằng chửi, đánh. Thật táng tận lương tâm!
Chỉ xuất hiện trong một thoáng chốc song nhân vật cai lệ đã được Ngô Tất T ố khắc hoạ một
cách rõ nét, sống động hệt như một con thú ác thực sự, đang sống. Làm sao nh ững ng ười
dân lành có thể sống yên ổn được dưới roi song, tay thước, dây thừng của hạng người đểu
cáng này!
Thế mà chị Dậu đã phải sống, cả nhà chị Dậu đã phải sống và nói rộng ra, cả cái làng Đông
Xá này đã phải sống, tất cả những người nông dân ở biết bao cái làng khác cũng đã phải
sống. Chỉ có điều sống dở chết dở, sống đau sống đớn mà thôi! Chị Dậu thương chồng con
hết mực. Bát cháo chị nấu cho anh Dậu và cử chỉ "rón rén bưng", "chờ xem chồng chị ăn có


ngon miệng hay không" cho thấy nét đẹp trong bản tính phụ nữ của chị. Và, vẻ đẹp của chị
Dậu còn được thể hiện một cách đặc sắc khi một mình chị phải đứng ra đương đầu với lũ ác
thú là tên cai lệ và người nhà lí trưởng.
Như những người phụ nữ nông dân khác, chị Dậu có thể cam chịu, nhẫn nhục. Chị đã phải
"van xin tha thiết" trước bọn người đang nhân danh "nhà nước", mặc dù là s ự nhún chịu
trước sự vô lí, bất nhân (đánh vào người đã chết). Chỉ đến khi tên cai lệ bất chấp, lại còn
bịch vào ngực chị, xông đến trói anh Dậu thì "tức quá không thể ch ịu được", chị đã "li ều
mạng cự lại". Cái tài của Ngô Tất Tố là đã miêu tả rất tinh những diễn biến trong tâm lí và
hành động của chị Dậu, để nó hiện ra chân thực trước mắt người đọc. Có thể xem quá trình
diễn biến ấy có hai giai đoạn: từ chịu đựng nhẫn nhục đến phản kháng mãnh liệt. Thoạt đầu

chị xưng cháu, gọi cai lệ bằng ông. Nhưng đáp lại những lời lẽ phép thấu tình của chị, cai l ệ
quát: "Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?" rồi: "Ông sẽ dỡ cả nhà mày đi", chưa hết:
"Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh D ậu".
Đến lúc này, chị Dậu vẫn một mực tha thiết: "Cháu van ông,..., ông tha cho!". Đến m ức như
thế nhưng cai lệ không những không mủi lòng mà còn đấm vào ngực chị Dậu mấy đấm. Đến
đây, mới thấy bắt đầu những dấu hiệu phản kháng: Chị xưng tôi, gọi cai lệ là ông. "Không
thể chịu được" nữa, chị Dậu đã đứng lên, với vị thế của kẻ ngang hàng, trực diện với kẻ thù.
Quá trình diễn biến ấy được đẩy lên đỉnh điểm, kịch tính đã hết mức căng thẳng khi tên cai
lệ tát "đánh bốp" vào mặt chị Dậu. Thế là thực sự bắt đầu một giai đoạn mới của sự phản
kháng, chị xưng, gọi mày với tên cai lệ: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!"... T ừ
cháu - ông đến tôi - ông và bây giờ là bà - mày, niềm căm giận đang b ốc lên ngùn ngụt trong
chị. Căm thù, khinh bỉ tột độ chị sẵn sàng đè bẹp kẻ thù với sức mạnh của một "bản năng
sống" mạnh mẽ. Sức mạnh ấy được phóng ra như một năng lượng tiềm tàng thành nh ững
hành động: túm lấy cổ, ấn giúi ra cửa, túm tóc, lẳng. Trước sức mạnh ấy, hai tên tay sai đã
thất bại thảm hại.
Ngô Tất Tố miêu tả rất sống động cảnh chị Dậu tay không đánh bại hai tên tay sai đang lăm
lăm vũ khí. Lòng căm phẫn, tình yêu thương chính là cội nguồn của sức mạnh phản kháng
mãnh liệt mà chị Dậu đã cho thấy những hành động cục súc, ác ôn của tên cai lệ là nguyên
nhân trực tiếp, "châm ngòi nổ" cho hành động vùng lên của chị Dậu. Nh ưng sâu xa hơn, căn
bản hơn, chính là tình thương trong chị đã biến thành sức mạnh. Một người phụ nữ nghèo
khổ, nhẫn nhục hi sinh đã quen thành bản năng đã dám đứng thẳng lên với một sức mạnh
phản kháng phi thường. Vẻ đẹp nhân cách của chị Dậu đã được thể hiện rõ nét. Thì ra,
đằng sau những khiêm nhường, vị tha, mộc mạc, nhẫn nhục, trong con người chị Dậu ẩn
chứa một sức sống dồi dào, mãnh liệt. Sức sống ấy được bộc lộ ra bằng sự phản kháng
quyết liệt như ta đã thấy. Nó chứng minh một chân lí luôn đúng: có áp bức thì có đấu tranh,
cái mà nhân dân ta đã tổng kết trong một hình ảnh giản dị: tức nước vỡ bờ.
Ngòi bút Ngô Tất Tố đã đạt đến một trình độ điêu luyện trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ: từ
sự khéo léo trong khắc hoạ nhân vật cho đến việc lựa chọn sử dụng từ ngữ để lột tả chính
xác, sinh động những diễn biến đầy kịch tính. Ông đã dựng lên một cảnh tượng cực kì sống
động, một cảnh tượng đẹp, tươi sáng trong cái khung cảnh chung u ám, đen t ối của Tắt đèn.

Những gì chúng ta được chứng kiến trong đoạn trích dự báo một khả năng, một s ức mạnh
lớn của người nông dân nói chung, phụ nữ nông dân nói riêng mà sau này, s ức mạnh ấy
được tập hợp thành vũ bão quật đổ thực dân, phong kiến trong Cách mạng tháng Tám


Đề bài: Suy nghĩ c ủa em v ề truy ện ng ắn "Lão H ạc" c ủa
Nam Cao.

A.Mở bài:
- Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,… Nam Cao là một cái tên không thể thi ếu khi nhắc
tới những nhà văn hiện thực nhân đạo. Các sáng tác của ông vừa rất mực chân th ực, v ừa
có một ý vị triết lí mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong
những tác phấm tiêu biểu như thế! Truyện đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số
phận người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ.
B. Thân bài:
I. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài):
- Xuất hiện lần đầu trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ bảy” năm 1943, “Lão Hạc” của Nam Cao
được đánh giá là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết tình cảnh của người nông dân


trước Cách mạng. Đến với tác phẩm, người đọc bùi ngùi thương cảm cho kiếp sống bèo b ọt
nổi lên trên mặt bể hiện tượng, đồng thời hiểu được sự tha hóa biến chất của một bộ phận
tầng lớp nông dân trong xã hội đương thời.
II. Tình cảnh thống khổ của người nông dân trước Cách mạng:
- Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp ta hiểu về tình cảnh thống khổ của người nông
dân trước Cách mạng.
1. Lão Hạc:
- Cuộc đời của lão Hạc là một chuỗi những đau khổ và bất hạnh. Một kiếp đời chua chát và
đắng cay.Vợ lão mất sớm, một mình lão “gà trống nuôi con”.Đến tuổi anh con trai lấy vợ thì
nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao, nên anh con trai không lấy được v ợ, phẫn chí b ỏ

đi đồn điền cao su. Những ngày tháng xa con, lão sống trong nỗi lo âu, phiền mu ộn vì chưa
làm tròn bổn phận của người cha. Còn gì xót xa hơn khi tuổi già gần đất xa trời, lão phải
sống trong cô độc, thui thủi một mình. Lão bầu bạn với con chó vàng - kỉ vật của ng ười con
để lại. Lão yêu nó, coi nó như người thân. Nhưng sự túng quẫn ngày càng đe dọa lão. Lão
phải bán "cậu Vàng" đi vì không thể lo mỗi ngày 3 hào gạo cho cả nó và lão. Sau tr ận bão,
lão không thể kiếm ra tiền mà "tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu". Ông lão nông
nghèo khổ ấy cứ băn khoăn, day dứt mãi vì đã trót lừa một con chó.Sau khi bán chó, lão chỉ
ăn khoai; rồi khoai cũng hết. Từ đó, lão chế tạo được món gì ăn món ấy. Cuối cùng, lão
quyết định tự tử bằng bả chó. Lão chết vì không còn đường sống. Ông lão nông dân suốt
đời lao động cần cù ấy không thể sống, dù là sống trong nghèo khổ. Cuộc sống khốn cùng
và cái chết bi thương của lão Hạc đã nói lên thấm thía số phận thê thảm của ng ười nông
dân trong cái xã hội tăm tối đương thời. Phải cảm thông sâu sắc với người nông dân, phải
thấu hiểu nỗi đau của họ, Nam Cao mới thấy được cái tình cảnh khốn cùng của người nông
dân.
2. Con trai lão Hạc:
- Vì nghèo đói, không có được hạnh phúc bình dị như mình mong muốn, anh con trai phẫn
chí bỏ làng đi đồn điền cao su. Anh ra đi với hi vọng “có bạc trăm” mới trở về” vì “Sống khổ,
sống sở ở cái làng này nhục lắm!”. Nhưng, cái nơi anh đến lại là địa ngục trần gian: “Cao su
đi dễ khó về/Khi đi trai tráng khi về bủng beo”. Nghèo đói, đã đẩy anh vào tấn bi kịch không
có lối thoát.
3. Ông giáo:
- Ông giáo – con người nhiều chữ nghĩa ấy lại nghèo. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn v ề,
quần áo bán gần hết, chỉ còn lại một va-li sách. Nếu lão Hạc yêu quí cậu Vàng bao nhiêu thì
ông giáo yêu quí những quyền sách của mình bấy nhiêu. Cái nghèo cứ đeo đẳng mãi. “Đời
người ta không chỉ khổ một lần”. Quý sách là vậy mà ông giáo cứ phải bán sách dần đi, cuối
cùng chỉ còn lại 5 quyển với lời nguyền: “dù có phải chết cũng không bán”. Thế rồi, như một
kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiệt lị gần kiệt sức, ông giáo phải bán
nốt đi 5 quyển sách – gia tài cuối cùng của người trí thức nghèo. “Lão Hạc ơi!Ta có quyền
giữ cho ta một tí gì đâu?” Lời than ấy kêu lên nghe thật não ruột, thể hiện m ột nhân cách
cao đẹp trước sự khốn cùng: biết sống, dám hi sinh vì cuộc sống!

=> Không chỉ giúp ta hiểu được nỗi đau trực tiếp của người nông dân,truyện còn giúp ta
hiểu được căn nguyên sâu xa nỗi đau của họ. Đó chính là sự nghèo đói. Họ s ống trong đói
nghèo và bị cái đói nghèo đe dọa.


II. Vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người nông dân:
- Ý chuyển đoạn:
Đọc truyện “Lão Hạc” ta bắt gặp bao con người, bao số phân, bao mảnh đời đáng thương,
bao tấm lòng đáng trọng. Giữa bóng tối cuộc đời cùng quẫn sau lũy tre làng, ta vẫn tìm thấy
ít nhiều ánh sáng tâm hồn nhân hậu, chan chứa yêu thương.
1. Nhân vật Lão Hạc:
- Lão Hạc là một lão nông dân nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.
a,Lão Hạc có một tấm lòng vị tha, nhân hậu:
-Ở lão có một tấm lòng vị tha, nhân hậu.Tình cảm của lão với "cậu Vàng" được tác giả th ể
hiện thật cảm động. Lão gọi nó là "cậu Vàng" như “một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự". Lão
bắt rận, cho nó ăn cơm trong một cái bát như nhà giàu.Lão ăn gì cũng không quên phần nó,
gắp cho nó một miếng; lão ăn bao nhiêu, nó cũng ăn như thế, thậm chí còn hơn phần lão…
Lão coi nó như một người bạn,ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như th ể nó cũng là
con người.Tình thế cùng đường khiến lão phải bán nó thì trong lão diễn ra s ự dằn vặt, đau
khổ tột độ. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán "cậu Vàng" với tâm trạng vô cùng đau
đớn: "lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước". Đến nỗi ông giáo thương quá, "muốn ôm
chầm lấy lão mà òa lên khóc".Khi nhắc đến việc "cậu Vàng" bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không
nén nổi đau dớn cứ dội lên "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép
cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão m ếu
như con nít. Lão hu hu khóc...". Lão Hạc đau đớn đến thế không phải chỉ vì quá thương con
chó mà còn vì không thể tha thứ cho mình vì đã trót lừa một con chó. Ông lão quá lương
thiện ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi nhận thấy trong đôi mắt con chó có cái nhìn trách
móc. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch thì mới bị giày vò lương tâm đến thế,
mới cảm thấy có lỗi với một con chó như vậy!
b, Tình yêu thương con sâu sắc:

Đối với cậu Vàng, lão yêu quí như vậy, thì đối với anh con trai của lão, thì tình cảm ấy còn
được nhân lên gấp vạn lần. Chỉ vì nhà nghèo, không cưới được vợ cho con, làm con uất
chí, bỏ đi đồn điền cao su mà lão tự dằn vặt mình mãi. Để cưới vợ, anh con trai đòi bán
mảnh vườn, nhưng lão không cho không phải vì lão muốn giữ mảnh vườn cho lão, mà lão
nghĩ nếu cưới vợ về, vườn bán rồi thì ở đâu mà làm ăn sinh sống, và rồi có bán thì cũng làm
sao mà đủ tiền. Lão nghĩ thế, nhưng anh con trai có thấu cho lão?Anh bỏ đi đồn điền cao su,
để lại lão ở nhà vò võ chờ con.Lão nghĩ tốt, lo cho tương lai con, nhưng khi con trai b ỏ đi,
lão lại tự dằn vặt mình, đày đọa tinh thần mình.Những câu nói lão nói với cậu Vàng, nhưng
lại chất chưa biết bao nhiêu tình cảm nhớ thương cho anh con trai. Lão nói v ới cậu Vàng
đấy, nhưng lại như nói với con mình.Lão làm việc gì, lão suy nghĩ gì cũng là hướng về con
trai mình. Tiền bòn vườn lão để dành, không tiêu tới để khi con trai về, lão nhẩm tính sẽ có
gần trăm đồng bạc, thêm vào cho con cưới vợ và làm kế sinh nhai.Thế nhưng, lão lại ốm.
Một cơn ốm kéo dài buộc lão phải tiêu tới số tiền đó.Chỉ vậy thôi mà lão đã thấy đau
lòng.Lão ăn vào tiền của con trai lão – số tiền mà khi con trai về lão định trả con. Đi ều này
làm lão khổ tâm hết sức. Hành động của lão gửi ông giáo mảnh vườn, nhờ ông giáo giữ hộ
cũng là để giữ hộ cho con lão : “của mẹ nó thì nó hưởng”. Mọi suy nghĩ, việc làm của lão
đều hướng tới con trai. Thậm chí, cái chết của lão cũng là vì con.Lão chết để mở ra đường
sống cho con lão, lão chết một cái chết trong sạch để lại tiếng thơm cho con vì lão sống


ngày nào là ăn vào tiền, vào đường sống của con ngày ấy. Xưa nay, không ít người cha,
người mẹ hi sinh cơm ăn, áo mặc vì con, hi sinh một phần thân thể vì con nhưng hi sinh cả
mạng sống của mình như lão Hạc lại là một trường hợp hiếm thấy. Tình yêu con của lão
Hạc thật đặc biệt. Không ồn ào, sôi nổi, không thể hiện qua hành động hay l ời nói, lão lặng
lẽ yêu con trong tâm tưởng, mọi hành động của con lão đều cho là do lão. Là do lão đẩy con
tới những hành động ấy rồi tự dằn vặt mình, tự gánh lấy những suy nghĩ, hành động để
chuộc lại lỗi lầm. Quả thật, tình yêu thương con của lão khiến chúng thật vô cùng cảm động.
c,Lòng tự trọng:
-Lão Hạc mang một tấm lòng tự trong cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai
lão, với bà con hàng xóm, với ông giáo và với cả chính bản thân mình.Khi bán con chó, lão

đau khổ, vì lão “bằng này tuổi đầu mà còn trót lừa một con chó”. Lão nhớ ảnh mắt của cậu
Vàng, mà theo như lời lão là một ánh mắt đầy trách móc, mắng lão tệ hại: “A!Lão già t ệ lắm!
Tôi ăn ở với lão thế mà lão đối xử với tôi thế này à”. Ánh nhìn đó làm lão ám ảnh và day d ứt
không nguôi. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, lão lại chuẩn b ị sẵn tiền làm ma cho
bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút ít,
còn lại thì nhờ bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để không phiền lụy tới ai. T ừ đó, lão bòn
vườn, mò cua,ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Có lẽ hành
động bán cậu Vàng của lão chính là bước chuẩn bị cho cái chết của lão. Lão xin Binh Tư ít
bả chó với lý do bắt cho nhà khác – một lý do làm Binh Tư t ự nghĩ lão giả b ộ hiền lành thế
nhưng cũng ghê ra phết, một lý do làm ông giáo hiểu lầm lão, hiểu lầm một con người đã
“khóc vì trót lừa một con chó, một con người nhịn ăn để có tiền làm ma”.Vậy nhưng hóa ra,
lão ăn bả chó để tử tự, để giữ vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão. Lão ăn bả chó, lão
chết như một con chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn, để chuộc tội với cậu Vàng. Lão ch ết
cũng là để không bị cuộc sống dồn đẩy, bị sa hóa biến chất như Binh Tư, hay Chí Phèo.Cái
chết của lão cũng chính là sự tự trọng của lão với con lão. Lão sống mà phải dựa vào tiền
của con thì thà lão chết còn hơn.Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng trân trọng – lòng tự
trọng của lão nông nghèo nhưng trong sạch. Lão chọn “chết trong còn hơn sống đục” khi bị
dồn vào đường cùng.
2. Nhân vật ông giáo:
- Bên cạnh lão Hạc, nhân vật ông giáo đã để lại bao ấn tượng đối với mỗi chúng ta v ề người
trí thức nghèo trong xã hội. Không rõ họ tên là gì, nhưng hai tiếng “ông giáo” đã khẳng định
vị thế con người giữa làng quê trước năm 1945 “nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận,người ta
kiêng nể”. Ông giáo là người có trái tim nhân hậu đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh thần, là
niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn.
Nhờ đọc hộ một lá thư,nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về
mảnh vườn và chuyện đứa con trai “phẫn chí” không lấy được vợ. San sẻ nỗi đau buồn sau
khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên… Có lúc là điếu thuốc lào, một bát n ước chè
xanh, một củ khoai lang… Ông giáo đã đồng cảm, sẻ chia với lão Hạc với tất cả tình người.
Ông giáo còn ngấm ngầm giúp đỡ lão Hạc khi biết lão đã nhiều ngày ăn rau, ăn khoai,ăn củ
ráy… trong lúc đàn con của ông giáo cũng đang đói. Cái nghĩa cử “lá lành đùm lá rách” ấy

mới cao đẹp làm sao! Ông giáo nghèo mà đức độ, là người để lão Hạc “chọn mặt gửi vàng”.
Trước khi tìm đến với cái chết, lão Hạc đã tin cậy nhờ vả ông giáo :trông nom mảnh vườn
cho con trai, cầm giúp 30 đồng bạc phòng khi lão chết “gọi là của lão có tí chút”… Trước cái
chết của lão Hạc, ông giáo xót xa, khe khẽ cất lời than khóc trước vong linh người láng


giếng hiền lành, tội nghiệp: “Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho
cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Ðến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và
bảo hắn : Ðây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn : cụ thà
chết chứ không chịu bán đi một sào...” Lời hứa của ông giáo và những giọt lệ xót xa là minh
chứng cho một nhân cách cao đẹp, đáng trọng. Ông giáo đại diện tiêu biểu cho tình yêu
thương, chia xẻ, sự đồng cảm, niềm tin ở vẻ đẹp con người và cũng chính là một vẻ đẹp.
Nhất là trong một xã hội mà vì nghèo khổ quá người ta nghi ngờ nhau, không thể đến được
với nhau, không tin vào sự tốt đẹp của nhau.
III. Sự tha hóa biến chất của một bộ phận tầng lớp nông dân trong xã hội phong kiến đương
thời:
-Truyện giúp ta hiểu sự tha hoá biến chất của một bộ phận tầng lớp nông dân trong xã hội
đương thời.Binh Tư vì miếng ăn mà sinh ra làm liều bản chất lưu manh đã chiến thắng nhân
cách trong sạch của con người. Vợ ông giáo vì nghèo đói cùng quấn mà sinh ra ích kỷ nh ỏ
nhen, tàn nhẫn, vô cảm trước nỗi đau của người khác.
IV. Ý kiến đánh giá, bình luận:
-Truyện ngắn “Lão Hạc” đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc. Thông qua
câu chuyện, Nam Cao muốn bày tỏ sự cảm thông với tình cảnh thống khổ của người nông
dân và ca ngợi những phẩm chất quý báu ở họ; tố cáo, lên án xã hội cũ đã đẩy con người
vào bi kịch đói khổ, bị tha hóa biến chất. Qua cái nhìn của ông giáo, Nam Cao đã gián ti ếp
thể hiện tấm lòng của mình với người nông dân và đặt ra vấn đề về “đôi mắt” : “Than ôi!Nếu
những người ở xung quanh, ta không cố mà tìm hiểu họ, ta chỉ thấy họ bần tiện, ngu ngốc,
xấu xa, bỉ ổi, toàn những lí do để ta không thương và không bao giờ ta thương”. Tác giả
cũng đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất rõ nét được thể hiện qua những
hành động, lời nói, nhiều đoạn đối thoại, độc thoại, sử dụng nhiều khẩu ngữ. Đặc biệt, để

ông giáo vừa đóng vai trò người kể chuyện, vừa đan xen bày t ỏ suy nghĩ, cảm xúc về lão
Hạc, về người vợ, về chính bản thân mình, tác giả đã tạo nên chất triết lí sâu sắc cho tác
phẩm – một đặc điểm khá nổi bật trong sáng tác của nhà văn Nam Cao.
C. Kết bài
- Những trang viết về tấm lòng trong sạch, lương thiện của người nông dân và số phận bi
thảm của họ là những trang viết thấm đượm tấm lòng nhân đạo thống thiết của nhà văn v ới
con người và niềm thiện cảm sâu sắc của nhà văn với người nông dân. Với một “Lão H ạc”
xuất sắc đến vô cùng, Nam Cao đã khẳng định được tên tuổi của mình. Ông đã “khơi được
những nguồn chưa ai khơi” và ghi lại trong lòng độc giả những tình cảm yêu mến.


Nhớ R ừng
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả: Thế Lữ (1907 - 1989), quê Bắc Ninh, là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ
mới 1932 - 1935. "Khi Thơ Mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng sao đột hiện sáng chói khắp cả
trời thơ Việt Nam (Hoài Thanh).
- Tác phẩm tiêu biểu: Mấy vần thơ (1935).
2. Về khái niệm "thơ mới" và phong trào Thơ Mới


- Khái niệm "thơ mới" dùng để gọi thể thơ tự do có số chữ, số câu trong bài không hạn định.
Nhớ rừng là một ví dụ sinh động
- Phong trào Thơ Mới là tên gọi của phong trào thơ (còn gọi là thơ lãng mạn) Việt Nam 1932
- 1945 với những tên tuổi nổi tiếng như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế
Lan Viên,...
3. Đọc văn bản
- Thay đổi, nhấn mạnh các sắc thái giọng điệu giễu nhại, kiêu hùng, bi tráng cho phù h ợp với
từng câu, từng đoạn thơ.
4. Bố cục:
- Bài thơ 5 đoạn nhưng được cấu trúc theo hai cảnh tượng tương phản: Con hổ trong thực

tại và con hổ trong dĩ vãng.
- Phân tích theo cấu trúc đó sẽ tự nhiên và thuận lợi hơn.
II. Phân tích
1. Đoạn 1 và 4: Tình cảnh của con hổ trong vườn bách thú.
- Từ một vị chúa tể muôn loài tung hoành chốn nước non hùng vĩ, nay con hổ bị giam hãm
trong cũi sắt, một không gian nhỏ bé, tù túng, thậm chí tầm thường, giả dối: hoa ch ăm, c ỏ
xén, nước đen giả suối, mô gò thấp kém, dăm vừng lá bắt chước vẻ hoang vu...
- ý thức được thực trạng đó, tâm trạng của kẻ "sa cơ" chất chứa cả "khối căm hờn" ngùn
ngụt.
- Chán ghét, bất lực, nhưng con hổ không cam chịu chấp nhận hoà mình vào th ực tại đó.
- Thái độ, giọng điệu kẻ bị giam hãm vẫn toát lên vẻ ngạo mạn, kiêu hùng của một vị chúa tể
rừng già: khinh bỉ lũ người ngẩn ngơ mắt bé và lũ gấu báo dở hơi, vô tư lự; khinh ghét và
giễu cợt cái thực tại cố làm ra vẻ tự nhiên, nhưng càng cố càng lộ rõ cái vẻ tầm thường, gi ả
dối.
- Bằng những hình ảnh gợi cảm, giàu chất tạo hình và dòng cảm xúc cuồn cuộn, đoạn th ơ 1
và 4 đã tạo nên bức tranh đầy tâm trạng về con hổ ở vườn bách thảo, một trang anh hùng
lẫm liệt, bị sa cơ thất thế nhưng quyết không hoà nhập với thực tại xã hội đương thời.
2. Đoạn 2 và 3: Cảnh con hổ ở chốn giang sơn hùng vĩ trong dĩ vãng huy hoàng.
- Những câu thơ miêu tả cảnh sơn lâm hùng vĩ và hình ảnh con hổ ngự trị trong đó là những
câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Đó là một bức cảnh dữ dội, hoang sơ, đầy uy lực của
thiên nhiên: bóng cả cây già, gió gào ngàn, nguồn hét núi, khúc trường ca dữ dội....
- Hoà hợp và nổi bật giữa bức cảnh rừng già là hình ảnh con hổ oai phong, đường bệ v ới
những "vũ điệu" đầy uy lực của rừng xanh: Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng - Vờn bóng âm thầm lá gai, c ỏ sắc"... Sự im lặng
âm thầm của nó không phải là dấu hiệu bình yên mà trái lại, đầy đe doạ đối với mọi vật.
Những câu thơ sống động, giàu hình ảnh đã diễn tả chính xác và hấp dẫn vẻ đẹp uy nghi,
dũng mãnh mà cũng rất mềm mại, uyển chuyển của chúa sơn lâm.
- Cũng tái hiện dĩ vãng huy hoàng nhưng đoạn 3 của bài thơ là một bộ tranh tứ bình tuyệt
đẹp. Cả bốn cảnh, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ, hoành tráng và nổi bật giữa mỗi cảnh
là hình ảnh con hổ uy nghi, nhớ rừng đến cháy ruột. Dáng điệu của nó được khắc họa hết
sức phong phú, kì vĩ và thơ mộng. Khi thì nó được hiện lên như một chàng thi sĩ lãng mạn,

hào hoa đứng uống ánh trăng tan bên bờ suối; khi nó giống một nhà hiền triết thâm trầm
lặng ngắm đất trời thay đổi sau mưa bão; khi nó lại là một bậc đế vương hiền lành có chim
ca hầu quanh giấc ngủ; và cuối cùng, nó là chính nó, vị chúa tể rừng già tàn bạo, dữ dội,


làm chủ bóng tối, làm chủ vũ trụ.
- Mảnh mặt trời là một hình ảnh mới lạ trong thơ Thế Lữ. ở đây, mặt trời không còn là m ột
khối cầu lửa vô tri vô giác mà là một sinh thể. Trong cả vũ trụ bao la rộng lớn, chỉ có một k ẻ
duy nhất được chúa sơn lâm coi là đối thủ, đó là mặt trời. Nhưng cả đối thủ dáng gờm đó
cũng bị chúa sơn lâm nhìn bằng con mắt khinh bỉ, ngạo mạn: mặt trời tuy gay gắt nh ưng
cũng chỉ là một "mảnh". Nếu bỏ từ "mảnh" và thay từ "chết" bằng "đợi" thì câu thơ s ẽ trở nên
lạc lõng bởi nó không hợp với lo gích tâm trạng cũng như tầm vóc của con mãnh thú. Với
câu thơ "Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt", "bàn chân ngạo nghễ của con thú như đã giẫm
đạp lên bầu trời và cái bóng của nó cơ hồ đã trùm kín cả vũ trụ" (Chu Văn Sơn). Tầm vóc
của chúa tể rừng già đã được nâng lên ở mức phi thường và kì vĩ đến tột đỉnh.
- Tuy nhiên, tất cả những điều đẹp đẽ trên giờ chỉ còn là dĩ vãng, là giấc mơ. Một loạt những
câu nghi vấn "Nào đâu...?", "Đâu...?" không có câu trả lời được lặp đi lặp lại như m ột nỗi ám
ảnh, như nỗi nhớ thương khắc khoải, vô vọng của con hổ về một thời vàng son, huy hoàng
trong quá khứ xa xôi. Giấc mơ đột ngột khép lại trong một tiếng than, tiếng vọng đầy u uất,
đau đớn, nuối tiếc: "Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"
- Khổ thơ cuối vừa tiếp tục mạch tâm trạng nhớ tiếc quá khứ vừa như một tiếng thở dài vĩnh
biệt thời oanh liệt. Nhưng dù thời oanh liệt không còn nữa, không bao giờ tr ở lại thì nó vẫn
thuộc về thời đã mất ấy chứ không cam tâm làm đồ chơi, một kẻ tầm thường, vui lòng hoà
nhập với thực tại. Nó luôn sống với những giá trị của thời đã qua để phản ứng lại với thực
tại xã hội đương thời, để vươn tới cái cao cả, tự do dù chỉ là trong mơ ước.
- Đối lập gay gắt hai cảnh tượng, hai thế giới, tác giả đã thể hiện mối bất hoà sâu sắc đối v ới
thực tại và niềm khát khao tự do mãnh liệt của nhân vật trữ tình. Lời con hổ trong bài th ơ đã
tìm được sự đồng cảm trong tâm hồn các nhà thơ lãng mạn và kín đáo khơi gợi lòng yêu
nước của người dân Việt Nam mất nước lúc đó.
3. Vài nét về đặc sắc nghệ thuật của bài thơ

- Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn: mạch cảm xúc cuồn cuộn, giọng điệu hào hùng, bút
pháp cường điệu và sự phù hợp tuyệt vời giữa đối tượng mô tả và nghệ thuật mô tả của tác
giả. Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất của bút pháp thơ lãng mạn và cũng là một đặc điểm
quan trọng của văn biểu cảm.
- Chọn một biểu tượng rất đắt là con hổ ở vườn bách thú, khai thác triệt để thủ pháp nhân
hoá, Thế Lữ đã thể hiện sâu sắc và xúc động chủ đề tác phẩm. Tâm sự của vị chú tể rừng
xanh cũng chính là tâm sự của con người, một trang anh hùng sa cơ mang tâm s ự u uất,
khát khao tự do mãnh liệt, khát khao vươn tới cái cao cả, vĩ đại trong cuộc đời.
- Hình ảnh thơ giàu chất tạo hình, đầy ấn tượng phù hợp với đối tượng miêu tả và gợi ở
người đọc những cảm xúc mãnh liệt.
- Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu sức biểu cảm, giàu tính sáng tạo; câu thơ co duỗi
thoải mái... Nhớ rừng đã thể hiện một đặc điểm của thơ mới đương thời là: tạo lại dáng cho
câu thơ tiếng Việt.
III. Tổng kết
- Nội dung:
+ Thể hiện niềm khát khao tự do mãnh liệt, nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, tầm thường,
giả dối.
+ Khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước thuở ấy.
- Nghệ thuật:


+ Bài thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn.
+ Hình ảnh, hình tượng thơ độc đáo, hoành tráng, giàu chất tạo hình.
+ Nghệ thuật "điều khiển đội quân Việt ngữ" tài hoa của viên tướng thi từ Thế Lữ.

Ông Đồ
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả:



- Vũ Đình Liên (1913 - 1996), quê Hà Nội, là một nhà thơ, nhà d ịch thuật, nhà giáo.
- Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ.
- Ông đồ là bài thơ thành công xuất sắc nhất của Vũ Đình Liên.
2. Đọc diễn cảm
- Hai khổ thơ đầu đọc với giọng vui, hân hoan; ba khổ sau đọc với giọng trầm lắng, ngậm
ngùi, da diết.
3. Thể thơ và bố cục bài thơ
- Thể thơ ngũ ngôn nhiều khổ.
- Bố cục: Có thể tạm chia bài thơ thành ba đoạn để dễ phân tích: hai khổ đầu, hai khổ gi ữa
và khổ thơ cuối.
II. Phân tích
1. Hai khổ thơ đầu: Hình ảnh ông đồ thời kì đắc ý.
- Tết đến, hoa đào nở, phố xá tưng bừng, người xe nườm nượp qua lại - một khung cảnh
đông vui, nhộn nhịp; một bức tranh giàu màu sắc, đường nét tươi tắn, rực rỡ. Nổi bật gi ữa
trung tâm bức tranh ấy là hình ảnh ông đồ. Ông đang là trung tâm chú ý, là đối tượng
ngưỡng mộ, tôn vinh của mọi người: "Bao nhiêu người thuê viết. Tấm tắc ng ợi khen tài".
Hình ảnh ông hoà cùng cái đông vui, náo nức của phố phường ngày giáp Tết. Ông chính là
một trong những nơi gặp gỡ, hội tụ của văn hoá - tâm linh người Việt một thời.
2. Hai khổ thơ tiếp theo: Ông đồ thời kì bị quên lãng
- Cũng như bức tranh trước, ở đây, ông đồ vẫn là hình ảnh trung tâm của b ức tranh, là đối
tượng miêu tả chính của tác giả. Nhưng ngoại trừ điều đó, xung quanh ông, mọi s ự đã thay
đổi. Ông đồ "vẫn ngồi đấy", giữa phố xá đông đúc người qua lại nhưng lẻ loi, lạc lõng, không
ai biết, "không ai hay".
- Tác giả không miêu tả tâm trạng ông đồ, nhưng bằng biện pháp nhân hoá, hai câu th ơ:
"Giấy đỏ buồn không thắm - Mực đọng trong nghiên sầu" đã nói lên một cách thấm thía
nhất, đắt nhất nỗi buồn tủi, xót xa của nhà nho buổi thất thế. Nỗi buồn tủi thấm đẫm lên cả
những vật vô tri vô giác. Ông đồ "ngồi đấy" chứng kiến và nếm trải tấn bi kịch của cả một thế
hệ. Đó là sự tàn tạ, suy sụp hoàn toàn của nền Nho học. Hình ảnh "lá vàng" lìa cành và
"mưa bụi bay" trong trời đất mênh mang là những ẩn dụ độc đáo cho sự tàn tạ, sụp đổ đó.
- Hai khổ thơ tả cảnh nhưng chính là để thể hiện nỗi lòng của người trong cảnh. Đó là n ỗi

xót xa lặng lẽ, nỗi đau đớn ngậm ngùi của lớp nhà nho buổi giao thời.
3. Khổ thơ cuối: Ông đồ - người "muôn năm cũ"
- Hoa đào vẫn nở, Tết vẫn đến, quy luật thiên nhiên vẫn tuần hoàn, nhưng người thì không
thấy nữa: "Không thấy ông đồ xưa." Tứ thơ: cảnh cũ còn đó, người xưa ở đâu và hình ảnh
"người muôn năm cũ" gợi lên trong lòng người đọc niềm cảm thương, tiếc nuối vô hạn.
- "Người muôn năm cũ", trước tiên là các thế hệ nhà nho và sau đó còn là "bao nhiêu người
thuê viết" thời đó. Vì vậy, "hồn" ở đây vừa là hồn của các nhà nho, vừa là linh h ồn của nét
sinh hoạt văn hoá truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó thân thiết với đời sống của con ng ười
Việt Nam hàng trăm nghìn năm.
- Hai câu cuối là câu hỏi nhưng không để hỏi mà như một lời tự vấn. Dấu chấm hỏi đặt ở
cuối bài thơ như rơi vào im lặng mênh mông nhưng từ đó dội lên bao nỗi niềm. Đó là nỗi day
dứt, tiếc nhớ, thương xót ngậm ngùi của tác giả và cũng là của cả một thế hệ các nhà thơ
mới. Đó còn là nỗi mong ước tìm lại, gặp lại vẻ đẹp của một thời đã qua.
4. Tâm trạng của tác giả


- Bài thơ chủ yếu khắc hoạ hình ảnh ông đồ, tác giả không trực tiếp bộc lộ tình cảm của
mình. Tuy nhiên, thông qua giọng thơ lúc hân hoan, lúc trầm lắng; qua hình ảnh thiên nhiên
lúc đẹp tươi, lúc rơi rụng tàn tạ; qua những câu nghi vấn mà thực chất là lời tự vấn, n ỗi day
dứt, người đọc có thể dễ dàng nhận ra một Vũ Đình Liên như đang lặng lẽ đứng ở một góc
phố khuất dõi theo số phận của ông đồ với một niềm mến yêu, thương cảm và nhớ tiếc rưng
rưng.
5. Vài nét về nghệ thuật đặc sắc của bài thơ
- Thể thơ ngũ ngôn vừa phù hợp với lối kể chuyện, vừa thích hợp để diễn tả tâm tình.
- Kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ của bài thơ đã làm nổi bật chủ đề tác phẩm: quá
trình tàn tạ, suy sụp của nền nho học.
- Ngôn ngữ, hình ảnh trong sáng, bình dị nhưng hàm súc, đầy ám ảnh, giàu sức gợi.
III. Tổng kết
- Nội dung: Bài thơ thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của ông đồ và niềm cảm
thương, nuối tiếc của tác giả đối với một lớp người, một nét sinh hoạt văn hoá truy ền thống

tốt đẹp của dân tộc.
- Nghệ thuật: Tất cả được thể hiện qua kết cấu chặt chẽ, ngôn ngữ, hình ảnh thơ bình d ị,
trong sáng mà ám ảnh, giàu sức gợi.


Quê Hương

- Vào bài: Tế Hanh là nhà thơ có mặt trong phong trào Thơ Mới chặng cuối. Th ơ Tế Hanh là
một hồn thơ lãng mạn. Tế Hanh được biết đến nhiều nhất như một nhà thơ của quê hương,
gắn bó máu thịt với quê hương. Cái làng chài ven biển có dòng sông bao quanh, n ơi T ế
Hanh được sinh ra, luôn đau đáu trong nỗi nhớ thương của Tế Hanh, gợi những nguồn cảm
hứng vô tận cho thơ ông, giúp ông viết nên những vần thơ hay nhất, đẹp nhất. Quê hương
là một trong những vần thơ như vậy.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Tế Hanh sinh năm 1921, quê Quảng Ngãi.
- Tế Hanh được mệnh danh là nhà thơ của quê hương.


- Bài thơ Quê hương được in trong tập Hoa niên 1945.
2. Đọc văn bản và tìm hiểu bố cục bài thơ
* Bài thơ thuộc thể thơ tự do, câu 8 chữ.
* Đọc với giọng vui, khoẻ; khổ cuối đọc với giọng trầm lắng, da diết hơn.
* Bố cục: 8 câu đầu giới thiệu chung về "làng tôi" và cảnh dân chài ra kh ơi; 8 câu ti ếp theo là
cảnh thuyền cá về bến; khổ cuối bộc lộ tình cảm của tác giả đối với quê hương.
II. Phân tích
1. Tám câu thơ đầu: Cảnh dân chài bơi thuyền đi đánh cá.
- Đoàn thuyền ra khơi trong một buổi bình minh đẹp, khoáng đạt: bầu trời cao rộng, trong
trẻo được điểm bởi những tia nắng hồng rực rỡ. Chỉ một câu thơ: Khi trời trong, gió nhẹ,
sớm mai hồng, tác giả đã vẽ được một không gian rộng lớn, vô tận.

- Nổi bật giữa không gian êm ả ấy, đoàn thuyền băng mình ra khơi với khí thế dũng mãnh
của một con tuấn mã. Hình ảnh so sánh và một loạt các động từ mạnh đã làm toát lên s ức
sống mạnh mẽ và vẻ đẹp hùng tráng, bất ngờ của những con người lao động.
- Hình ảnh cánh buồm căng gió vốn mang một vẻ đẹp lãng mạn, có thể quan sát được, bất
ngờ được so sánh với hồn làng là những gì lớn lao, thiêng liêng, phi vật th ể. Sự so sánh này
không làm cho cánh buồm được miêu tả cụ thể hơn nhưng nó đã gợi nên một vẻ đẹp mới,
lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng, vừa hùng tráng. Biểu hiện linh hồn làng chài bằng hình
ảnh cánh buồm trắng no gió biển khơi là một sáng tạo độc đáo của Tế Hanh.
- Với âm điệu mạnh mẽ, sôi nổi, bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, tám câu thơ đầu
vừa vẽ ra một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, vừa khắc hoạ đậm nét bức tranh lao động
khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân nơi biển cả.
2. Tám câu thơ tiếp theo: Cảnh thuyền cá về bến.
- Cảnh dân chài đón thuyền cá về bến cũng là một bức tranh lao động náo nhiệt, đầy ắp
niềm vui và sự sống.
- Bốn câu thơ miêu tả người dân chài và con thuyền nằm nghỉ trên bến sau chuyến ra kh ơi
là những câu thơ đặc sắc nhất, tinh tế nhất của bài Quê hương. Hình ảnh người dân chài
vừa nổi bật với vẻ đẹp ngoại hình rắn rỏi, vạm vỡ: "làn ra ngăm rám nắng", vừa gợi mở vẻ
đẹp của một tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, mặn mà - vẻ đẹp của biển cả. Đó là một vẻ đẹp
vừa chân thực vừa lãng mạn. Hai câu thơ vừa tả thực vừa gợi cho người đọc những liên
tưởng sâu xa, thú vị.
- Hai câu thơ tả chiếc thuyền nghỉ ngơi trên bến cũng là một sáng tạo độc đáo của T ế Hanh.
Tác giả không chỉ nhìn thấy mà còn cảm nhận thấy "sự mệt mỏi say sưa" của con thuyền.
Con thuyền vô tri đã trở thành một tâm hồn tinh tế không kém chủ nhân của nó. Sau bao
ngày tháng lênh đênh, miệt mài trên biển, giờ đây, nó đang nằm và lắng nghe chất muối
mặn mòi của biển thấm dần vào từng thớ vỏ, như một người lao động đang nằm và ngẫm
nghĩ lại cả chặng đường vất vả, những giọt mồ hôi mà mình đã đổ xuống để có được thành
quả lao động như ngày hôm nay.
- Trong cách miêu tả của Tế Hanh, ta thấy có sự gắn bó làm một giữa thiên nhiên cu ộc sống
với tâm hồn con người nơi đây. Và dù tác giả không biểu lộ trực tiếp tình cảm của mình
nhưng trong cách miêu tả của ông, người đọc cảm nhận được sợi dây tình cảm thiêng liêng

sâu nặng nối liền tâm hồn ông với thiên nhiên, cuộc sống và con người nơi đây. Không ph ải
là một người con yêu dấu của quê hương, không yêu quê hương bằng tình yêu máu th ịt và
không có sự tinh tế tài hoa của một nhà nghệ sĩ thì không thể viết được những câu thơ sâu


xa, xúc động như vậy.
3. Khổ thơ cuối: Tình cảm nhớ thương quê hương của tác giả.
- Quê hương được viết trong xa cách, trong niềm thương nhớ khôn nguôi của tác giả. N ỗi
nhớ được nói lên một cách giản dị, tự nhiên, chân thành mà sâu sắc. Tế Hanh nhớ tất cả, từ
màu nước xanh, cá bạc, cánh buồm vôi... rồi cuối cùng hội tụ lại ở cái mùi nồng mặn. Cái
mùi nồng mặn, trong tâm tưởng nhà thơ, chính là hồn thơm, hồn thiêng của quê h ương.
Những tưởng không có cách nào diễn tả tình yêu và nỗi nhớ quê giản d ị mà sâu sắc, xúc
động hơn nữa vậy.
4. Vài nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.
- Tuy phần lớn số câu thơ là câu miêu tả, song toàn bộ hình ảnh miêu tả đó đều nằm trong
dòng tưởng nhớ, trong tình yêu quê hương da diết của chủ thể trữ tình. Vì vậy, miêu tả chỉ
là một yếu tố phục vụ cho biểu cảm. Hơn nữa, tình cảm của một người con xa quê, nhớ quê
luôn đầy ắp sau mỗi câu chữ, hình ảnh; thổi linh hồn vào từng câu chữ, hình ảnh làm cho
bức tranh quê hương mang một vẻ đẹp lớn lao, bất ngờ và đầy lãng mạn.
- Nét nghệ thuật đặc sắc nhất của bài thơ Quê hương là ở sự sáng tạo hình ảnh thơ. Bài th ơ
khá phong phú hình ảnh. Các hình ảnh ở đây vừa chân xác, cụ thể, vừa độc đáo, bay bổng,
lãng mạn, có khả năng gợi ra những trường liên tưởng phong phú ở người đọc.
III. Tổng kết
- Nội dung: Quê hương đã khắc hoạ được bức tranh tươi sáng, khoẻ khoắn, đầy s ức sống
về cuộc sống lao động của một làng quê miền biển, qua đó thể hiện tình yêu quê h ương tha
thiết, đằm thắm của tác giả.
- Nghệ thuật: Bài thơ bình dị, giọng thơ mộc mạc, chân thành, hình ảnh thơ giàu tính sáng
tạo và gợi cảm



Khi Con Tu Hú

I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Tố Hữu (1920 - 2003), quê Thừa Thiên Huế.
- Tố Hữu là "lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam". Các chặng đường thơ Tố Hữu gắn
liền với các chặng đường của cách mạng Việt Nam.
- Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác tháng 7/1939 tại nhà lao Thừa Phủ, Hu ế, khi tác giả bị


bắt giam vào đây và được in trong tập thơ Từ ấy.
2. Đọc diễn cảm
- 6 câu đầu đọc với giọng vui, hân hoan, 4 câu sau đọc với giọng buồn bực, nhịp mạnh, gấp
hơn.
3. Thể thơ:
- Thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, giàu âm hưởng, có khả năng chuyển tải những
tình cảm, cảm xúc dồi dào, vô tận của con người.
4. Nhan đề và bố cục bài thơ:
- Khi con tu hú chỉ là vế phụ của một câu. Tiếng chim tu hú là tín hiệu của mùa hè sôi động.
Tên bài thơ, vì vậy đã gợi mở mạch cảm xúc của toàn bài.
- Bài thơ được ngắt làm hai đoạn: 6 câu đầu tả cảnh mùa hè, 4 câu cuối diễn tả tâm trạng
của tác giả.
II. Phân tích
1. Sáu câu thơ đầu: Bức tranh mùa hè sôi động.
- Với âm điệu du dương trầm bổng, nhịp thơ khoan thai, êm ái, 6 câu th ơ đầu đã vẽ ra m ột
bức tranh mùa hè tuyệt đẹp, một mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ sắc màu và tràn trề nh ựa
sống. Tất cả đều đang hứa hẹn, đang ở độ thanh xuân nhất: lúa chiêm đang chín, trái cây
ngọt dần, ve mới bắt đầu ran, nắng còn rất mới... Tất cả vừa mới bắt đầu, như tuổi trẻ của
người thanh niên cộng sản vừa bắt gặp lí tưởng. Tất cả đều tươi đẹp, rực rỡ: trời xanh,
nắng đào, bắp vàng, trái chín... Tất cả, từ tiếng chim đến "đôi con diều sáo lộn nhào tầng

không" đều đang được hưởng một cuộc sống tự do giữa bầu trời cao rộng.
- Mùa hè chỉ thức dậy trong niềm hồi tưởng của tác giả, nhưng đọc 6 câu thơ đầu, ng ười
đọc tưởng như người viết đang sống giữa nó, miêu tả nó trực tiếp bằng sự tinh tường của
tất cả các giác quan từ thính giác, thị giác, đến vị giác, khướu giác... Phải có một niềm yêu
đời, yêu sự sống thiết tha, mãnh liệt mới vẽ được bức hoạ mùa hè bằng thơ đẹp, sinh động
trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
2. Bốn câu thơ cuối: Tâm trạng của người chiến sĩ trong ngục tù.
- 4 câu thơ cuối trực tiếp bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Đó là tâm trạng đau khổ,
bực bội, uất ức, ngột ngạt nhưng không hề có vẻ bi quan, chán chường, tuy ệt v ọng của một
tâm hồn yếu đuối dễ bị gục ngã, quy phục trước hoàn cảnh. Nhịp thơ đang đều đều, êm ái
đến câu 8 và 9 bỗng bị ngắt bất thường 6/2, 3/3; các từ ngữ, hình ảnh đang vui tươi, đến
đây bỗng trở nên mạnh mẽ, dữ dội: đập tan phòng, chết uất, ngột... Tất cả đều thể hiện khát
khao cháy bỏng muốn thoát khỏi cảnh tù ngục của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi khi đang
phơi phới trên con đường cách mạng bỗng đâu "gió cản cánh chim bằng".
- ở trong tù, cuộc sống như dồn vào phạm vi âm thanh.Trong bài Tâm tư trong tù, Tố Hữu
viết: Cô đơn thay là cảnh thân tù. Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực. Tôi lắng nghe tiếng đời
lăn náo nức. Âm thanh là sợi dây liên hệ với cuộc đời "ngoài kia". Ngoài kia, mùa hè náo
nức; ở trong này, không gian ngột ngạt; còn tiếng chim tu hú thì "cứ kêu".
- Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tú hú và kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú. Mỗi tiếng
kêu của nó là một tín hiệu gợi nhắc về cuộc sống tự do và thân phận tù tội. Nếu ở đầu bài,
tiếng chim tu hú là tiếng báo mùa, một thứ âm thanh hay và đẹp thì ở cuối bài, nó là m ột th ứ
âm thanh nhức nhối, thúc giục hành động. Tố Hữu đã rất tinh tế khi chỉ bằng tiếng chim báo
mùa đã gợi tả được nhiều nỗi niềm, tâm sự, cảm xúc của người tù cộng sản.
- Lắng nghe tiếng chim tu hú, tâm trạng của tác giả cũng chuyển biến t ừ ni ềm hân hoan


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×