Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy môn GDCD ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.98 KB, 21 trang )

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp
trực quan trong giảng dạy môn GDCD ở trường THPT”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy môn GDCD ở trường
THPT
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 15 tháng 08 năm 2014 đến
ngày 23 tháng 5 năm 2015.
4. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Tiến Phương
Năm sinh: 31/10/1978
Nơi thường trú: Xóm 3, Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam
Định
Trình độ chuyên môn: Cử nhân Giáo dục Chính trị
Chức vụ công tác: Chi ủy viên - Bí thư Đoàn trường
Nơi làm việc: Trường THPT Xuân Trường
Địa chỉ liên hệ:

Trường THPT Xuân Trường,

Xã Xuân Hồng , Huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam Định
Điện thoại: 0915.304.404
Tỉ lệ đóng góp: 100%
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THPT Xuân Trường
Địa chỉ: Xã Xuân Hồng , Huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam
Định
Điện thoại: 0350.3886.167

1



T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


Sáng kiến kinh nghiệm dự thi

I. IU KIN, HON CNH TO RA SNG KIN
Nh chỳng ta ó bit, mụn Giỏo dc cụng dõn l mt mụn khoa
hc xó hi trong trng THPT. Cựng vi cỏc mụn khoa hc khỏc, nú
gúp phn o to nhng ngi lao ng mi va cú tri thc khoa hc,
va cú o c, va cú nng lc hot ng thc tin, va cú phm
cht chớnh tr, t tng, va cú ý thc trỏch nhim i vi cng ng,
i vi gia ỡnh v i vi chớnh bn thõn mỡnh. Khụng th o to
nhng con ngi lao ng mi, phỏt trin ton din khi ch chỳ ý ti
vic giỏo dc trớ dc, b qua hoc coi thng cỏc mt khỏc. Hn na,
mụn GDCD khụng ch cung cp cho nhng cụng dõn tng lai nhng
tri thc va khỏi quỏt húa, m cũn thụng qua mụn hc, giỳp cho ngi
hc hỡnh thnh v phỏt trin phng phỏp suy ngh v hnh ng phự
hp vi nhng iu kin, hon cnh c th trong tng giai on phỏt
trin ca lch s xó hi.
Tuy nhiờn, hin nay trong cỏc nh trng THPT, mụn GDCD
theo quan nim truyn thng ca mt s ngi, trong ú cú c giỏo
viờn, hc sinh v cỏc nh qun lý giỏo dc thỡ coi nú l mụn ph.
Chớnh iu ny, ó dn n tỡnh trng, giỏo viờn b mụn GDCD mc
cm, khụng tõm huyt vi mụn dy, cũn hc sinh thỡ xem nh, con
thng, khụng chỳ ý hc b mụn. Hn na, bt u t nm nay,
chỳng ta b k thi tt nghip THPT ch cũn mi k thi THPT quc
gia, ngoi nhng mụn thi bt buc ra nh (Vn, Toỏn, Ngoi ng) thỡ
hc sinh c thi mt mụn t chn. Nh vy, s cũn cú mt s mụn
hc khỏc na cng ging nh mụn GDCD, hc sinh s th khụng

2

Tác giả: Nguyễn Tiến Phơng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

tập trung chú ý học, mà chỉ tập trung vào những môn mà mình thi sau
này.
Thực trạng trên, đã gây ra không ít khó khăn đối với giáo viên
khi dạy các bộ môn mà học sinh không thi ở trên lớp chứ không riêng
gì môn GDCD.
Xuất phát từ lý do trên, để đảm bảo được mục tiêu giáo dục toàn
diện và nhiệm vụ của bộ môn, thì đòi hỏi các giáo viên dạy bộ môn
phải thường xuyên nắm bắt tâm lý, tư tưởng của học sinh, sử dụng
hiệu quả nhiều phương pháp, hình thức dạy học để tạo hứng thú cho
học sinh khi học bài. Làm sao để các em mỗi khi đến giờ học môn
mình dạy, các em cảm thầy hào hứng chứ không tỏ ra chán nản. Chính
vì vậy, bằng thực tiễn trải qua nhiều năm giảng dạy về bộ môn, tôi xin
mạnh dạn chia sẻ những kinh nghiệm của mình qua đề tài: “Một số
kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy
môn GDCD ở trường THPT”.
II. THỰC TRẠNG
1. Thực trạng (trước khi tạo ra sáng kiến)
Là một môn khoa học xã hội, môn GDCD trong trường THPT
cùng với tất cả các môn khoa học khác, góp phần hình thành và phát
triển dần dần nhân cách, năng lực, phẩm chất cho học sinh. Nhưng
khác với các môn khoa học khác, môn GDCD hình thành phẩm chất
chính trị, tư tưởng, đạo đức gắn liền với đường lối xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Giáo dục phẩm chất chính trị, tư tưởng và đạo đức cho học

sinh do tất cả các môn học, các hình thức giáo dục của nhà trường
thực hiện. Song môn GDCD có nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
việc giáo dục đó. Nó có thể trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri
thức về thế giới quan một cách tương đối có hệ thống, toàn diện, giúp
cho học sinh hiểu đúng quy luật phát triển tất yếu của tự nhiên, xã hội
và của tư duy, giúp cho học sinh nhận thức đúng đắn cuộc sống của cá
3

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

nhân và cộng đồng phải phù hợp với quy luật khách quan của sự phát
triển lịch sử xã hội, giúp các em biết sống trong điều kiện cụ thể của
bản thân, gia đình và xã hội luôn có ý thức vươn tới những cái cao
đẹp.
Tuy nhiên, hiện nay bộ môn GDCD trong các nhà trường phổ
thông lại không được coi trọng để thực hiện đúng nhiệm vụ của nó.
Các phương tiện, đồ dùng dạy học liên quan đến bộ môn hầu như
không được trang bị. Hàng năm, các môn học khác được các cấp, các
ngành giáo dục đầu tư, cung cấp các trang thiết bị, phương tiện, đồ
dùng để phục vụ cho công tác dạy và học cũng như đổi mới phương
pháp giảng dạy. Nhưng môn GDCD dân thì không được đầu tư gì cả.
Về phía học sinh, thì từ xưa đến nay, vẫn coi đây là môn học phụ chỉ
thuần túy giáo dục về đạo đức, tư tưởng...Các nhà quản lý giáo dục
cũng xem nhẹ bộ môn, trong các đợt hội giảng chào mừng các ngày lễ
lớn trong năm, ở các nhà trường, thường hay tập trung vào các môn
mũi nhọn như Văn, Toán, Lý, Hóa, Ngoại Ngữ... còn môn GDCD thì
họa may trong năm mới được dạy hội giảng có một lần.

Ngoài ra, các môn học khác, như ở các năm trước đều có cơ hội
được dạy thêm để tăng thu nhập như môn Tin học, Công nghệ được
dạy nghề, môn Thể dục được dạy đội tuyển để thi học sinh Giỏi TDTT
hàng năm và có phụ cấp ngoài trời, còn môn GDCD thì chỉ thuần túy
dạy theo phân phối chương trình các giờ chính khóa, không có cơ hội
để dạy thêm để tăng thêm thu nhập. Cho nên, việc đầu tư cho bộ môn
của một số giáo viên dạy là rất ít, họ chủ yếu lên lớp để dạy cho hết
giờ dẫn đến tình trạng bình thường học sinh đã rất chán học bộ môn,
nay lại càng chán hơn khi thấy một số thầy cô cũng không thực sự tâm
huyết với môn mình dạy.
Mặt khác, các nội dung tri thức trong môn GDCD đa số mang
tính trừu tượng, khái quát hóa, phổ biến cao và gắn chặt với đời sống
4

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

hàng ngày, tác động thường xuyên tới suy nghĩ và hành động của học
sinh.
Xuất phát từ thực trạng trên, để khôi phục lại vị trí của môn
GDCD trong các nhà trường phổ thông cũng như tạo hứng thú cho các
em học sinh khi được học bộ môn này, thì đòi hỏi các giáo viên phải
có sự đầu tư trong phương pháp giảng dạy, cụ thể như sử dụng có hiệu
quả các hình thức trực quan kết hợp với các phương pháp khác khi
giảng dạy bộ môn của mình.
2. Các giải pháp (Sau khi có sáng kiến)
2.1 Quan niệm về phương pháp trực quan
- Trực quan là phương pháp giảng dạy, trong đó giáo viên sử

dụng các phương tiện dạy học tác động trực tiếp đến cơ quan cảm giác
của học sinh để đạt được chất lượng giảng dạy cao.
Phương pháp trực quan được sử dụng rộng rãi trong tất cả các
môn học ở trường THPT. Bất kỳ giáo viên bộ môn nào cũng sử dụng
nó vào giảng dạy nhằm truyền thụ kiến thức và giúp học sinh lĩnh hội
kiến thức tốt. Nhưng tùy theo nội dung kiến thức, đặc điểm của từng
môn học, đối tượng, kinh nghiệm giảng dạy và những điều kiện cụ
thể, mỗi giáo viên có cách vận dụng riêng phương pháp này.
Là môn học trang bị cho học sinh một cách tương đối có hệ
thống những kiến thức phổ thông, cơ bản, thiết thực về triết học, đạo
đức, pháp luật, những vấn đề của thời đại, lí luận về nhà nước và pháp
quyền, những vấn đề về xây dựng và phát triển đất nước của Đảng
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, môn GDCD trực tiếp hình thành
thế giới quan khoa học, quan điểm sống nhân đạo...ở học sinh. Thông
qua khối lượng kiến thức cần trang bị cho học sinh không nhỏ, tác
động thường xuyên tới suy nghĩ và hành động của các em để thực hiện
nhiệm vụ đó là việc làm không dễ dàng. Vì thế, phương tiện trực quan
được sử dụng ở bộ môn này có những điểm khác với phương tiện trực
5

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

quan ở các môn học khác về cả hình thức lẫn tính chất. Trong giảng
dạy bộ môn, giáo viên có thể sử dụng các phương tiện trực quan hoặc
tổng hợp các phương tiện trực quan của các môn học khác và cũng có
thể sử dụng những tri thức học sinh tiếp thu được trong cuộc sống làm
phương tiện trực quan. Mặt khác, thông qua giảng dạy, giáo viên còn

giúp học sinh biến kiến thức thành niềm tin có cơ sở khoa học, thành
lẽ sống và hành động thực tế trong cuộc sống hiện tại và tương lai của
các em. Một điểm không kém phần quan trọng là, trong khi sử dụng
phương pháp trực quan giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách tổng
hợp, khái quát những tư liệu thực tế thành lí luận, tức là hình thành và
phát triển tư duy, nhận thức khoa học cho học sinh. Truyền thụ và lĩnh
hội tri thức bằng phương tiện trực quan của giáo viên và học sinh bắt
nguồn từ lí luận nhận thức của triết học duy vật biện chứng. Điểm
xuất phát của quá trình nhận thức - nhận thức thông thường và nhận
thức khoa học - đều là thực tiễn. Đồng thời thực tiễn là tiêu chuẩn để
kiểm tra nhận thức, kiểm tra chân lí. Vì thế quá trình nhận thức có thể
biểu diễn qua sơ đồ sau:
Thực tiễn
nhận thức
thực tiễn, quá trình này diễn ra
liên tục không ngừng trong cuộc sống của con người. Nhưng con
đường nhận thức biện chứng lại trải qua hai giai đoạn: Nhận thức cảm
tính và nhận thức lí tính. Trong nhận thức cảm tính, càng có nhiều cơ
quan thụ cảm tham gia vào quá trình phản ánh các sự vật hiện tượng
của thế giới khách quan càng làm cho hiểu biết của con người đầy đủ,
toàn diện, chính xác hơn, tạo ra cơ sở vững chắc cho nhận thức lí tính.
Đối với tri thức khoa học phổ biến và trừu tượng như tri thức
của môn GDCD, khi năng lực nhận thức của học sinh còn bị hạn chế
lớn thì việc sử dụng phương tiện dạy học trực quan lại càng cần thiết.
Phương tiện trực quan càng gần gũi với cuộc sống của học sinh, càng
gắn bó với kiến thức đã thu nhận được của các em sẽ càng tăng thêm
tác dụng tích cực của các phương tiện đó.
6

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng



S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

Mặt khác, một trong những nhiệm vụ của nhận thức khoa học là
khái quát cái chung, cái bản chất, tất yếu của các sự vật, hiện tượng,
quá trình cụ thể, làm cho con người mở rộng, đào sâu sự hiểu biết của
mình. Muốn vậy, con người phải từng bước tích lũy tri thức, phải nhận
biết từng cái cụ thể để đi đến tổng hợp thành cái trừu tượng và cái cụ
thể trong tư duy. Chính phương tiện dạy học trực quan sẽ giúp đắc lực
cho học sinh năng lực nhận thức khoa học.
Như vậy, sử dụng tốt phương pháp trực quan trong giảng dạy
môn GDCD là hình thành, củng cố con đường nhận thức biện chứng
cho học sinh, giúp cho các em phát triển tư duy logic, tư duy khoa
học, phương pháp nhận thức khoa học và cải tạo thực tiễn phục vụ lợi
ích của chính các em và của xã hội. Nhưng cần lưu ý rằng, trong giáo
dục cần hình thành ở học sinh phương pháp nhận thức, tư duy biện
chứng, sự kết hợp biện chứng giai đoạn cảm tính và giai đoạn lí tính
trong nhận thức, chứ không nên để học sinh hiểu lầm rằng, nhận thức
bao giờ cũng bắt đầu từ cảm tính. Ngày nay, với trình độ phát triển
cao của khoa học và công nghệ, của nhận thức và tư duy con người,
điều này càng quan trọng. Nếu không làm được như vậy, vô hình
chung, giáo viên môn GDCD sẽ góp phần hạn chế đáng kể vào sự phát
triển tư duy độc lập, sáng tạo của các em học sinh.
2.2 Một số hình thức trực quan trong giảng dạy môn GDCD
2.2.1 Sơ đồ, bản đồ, tranh ảnh, số liệu thống kê:
- Sơ đồ: Sơ đồ hay lược đồ khoa học có tác dụng rất lớn trong
việc hình thành, phát triển, củng cố tri thức và tư duy của học sinh.
Mặc dù kiến thức của bộ môn nhất là kiến thức về triết học mang tính
khái quát, trừu tượng cao, lý luận có phần đậm nét. Nhưng nếu giáo

viên chịu khó tìm tòi, suy nghĩ vẫn có thể xây dựng các sơ đồ nêu lên
logic khách quan, mối quan hệ giữa các tri thức, giúp học sinh nắm
được tri thức cơ bản nhất, khái quát nhất. Ví dụ: Ngay ở bài mở đầu 7

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

Chương trình GDCD lớp 10, tùy theo khả năng lĩnh hội kiến thức bài
học của học sinh, sau khi giảng bài xong giáo viên có thể nêu lên sơ
đồ sau:
Vấn đề cơ bản của triết học:
Quan hệ giữa vật chất và ý
thức, giữa tư duy và tồn tại

Mặt thứ 1: Vật
chất có trước
hay ý thức có
trước. Vật chất
QĐ ý thức và
ngược lại

Ý thức có
trước, vật chất
có sau, ý thức
QĐ vật chất

Vật chất có
trước, ý thức

có sau. Vật
chất QĐ ý thức

Mặt thứ 2:
Con người
có thể nhận
thức được
thế giới
không ?

Con người
nhận thức
được thế giới

Thế giới quan
duy tâm

Con người
không nhận
thức được
thế giới

Thế giới quan
duy vật

Sơ đồ, lược đồ khoa học giáo viên có thể chuẩn bị trước, có thể
giảng bài đến đâu, lập đến đó hoặc có thể đưa ra sau khi học sinh đã
học xong một bài, một phần, một chương...Khi sử dụng sơ đồ biểu thị
quan hệ giữa các phạm trù, khái niệm cần lưu ý tới cách mô hình hóa,
không chú ý điều này dễ dàng phạm sai lầm, ảnh hưởng tới quá trình

tiếp thu bài giảng của học sinh.
- Bản đồ: Thường thường, trong giảng dạy môn GDCD bản đồ
chính trị thế giới được sử dụng nhiều nhất. Nếu sử dụng tốt, bản đồ có
tác dụng không nhỏ trong việc thu nhận tri thức của học sinh. Việc so
sánh sự thay đổi của bản đồ chính trị thế giới trong sự phát triển lịch
sử hiện đại của nhân loại sẽ làm cho học sinh thấy rõ sự phát triển của
8

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

lực lượng cách mạng thế giới, của phong trào giải phóng dân tộc...thấy
rõ xu hướng phát triển của lịch sử nhân loại. Ngay bản đồ Việt Nam,
nếu biết khai thác sử dụng cũng có tác dụng không nhỏ tới việc truyền
thụ tri thức cho học sinh. Trong khi sử dụng bản đồ cần phân biệt từng
loại bản đồ (hình thể, chính trị, kinh tế....) và tìm ra được những khía
cạnh cần sử dụng, phù hợp với bài giảng.
- Tranh ảnh: Là những hình ảnh trực quan gây ấn tượng sâu
sắc, tạo ra sự tiếp thu tri thức nhẹ nhàng, xây dựng tình cảm tốt đẹp
đối với con người và đất nước cho học sinh. Tranh ảnh rất đa dạng, có
nhiều loại khác nhau và có rất nhiều trên mạng Internet, giáo viên chỉ
cần mất vài phút vào Google có thể tìm kiếm được rất nhiều loại ảnh
cần minh họa cho bài dạy của mình. Song điều cần thiết là phải lựa
chọn sao cho phù hợp với nội dung môn học, nội dung bài giảng, biết
đưa ra đúng lúc, đúng chỗ trong khi giảng bài. Đây là một nghệ thuật
khi giảng dạy. Nếu không sử dụng hợp lý sẽ làm hạn chế việc tiếp thu
kiến thức bài giảng của học sinh, có khi học sinh chỉ chú ý tới tranh
ảnh mà không chú ý tới nội dung bài giảng của thầy.

Ngoài việc sử dụng giáo án điện tử ra, thì phương tiện để giáo
viên sử dụng tranh ảnh để minh họa cho học sinh có thể thông qua
máy chiếu, đây là hình thức dạy học trực quan đang được sử dụng
rộng rãi và phổ biến trong các nhà trường.
Ví dụ khi dạy bài “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Bài 6 GCCD lớp 12. Giáo viên có thể chiếu các hình ảnh thể hiện sự
so sánh về quá trình phát triển và thành tựu của Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước như sau:

9

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

Lao động cơ giới

Lao động thủ công

Những thành tựu của sự nghiệp hiện đại hóa đất nước

Cao tốc Bắc - Nam

Hầm đường bộ qua đèo
Hải Vân

Có thể nói, sử dụng tốt tranh, ảnh trong giảng dạy bộ môn
GDCD vừa đảm bảo cho học sinh tiếp thu tốt tri thức bài học vừa giáo
dục thẩm mĩ cho học sinh. Thông qua thẩm mĩ để truyền thụ tri thức là
điều hết sức cần thiết. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta chưa có bộ

sưu tập tranh, ảnh riêng cho bộ môn, chúng ta có thể kết hợp sử dụng
các tranh ảnh của các môn học khác như Lí, Hóa, Sinh học, Lịch sử,
Địa lí...để minh họa cho bài giảng.
10

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

Ví dụ như ở bài 15 - GDCD 11: Giáo viên đưa ra một số hình
ảnh thể hiện việc tàn phá môi trường của con người:

Đưa ra một số hình ảnh thể hiện hậu quả của nó đối với sức khỏe
con người:

11

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

- Số liệu thống kê:
Tuy số liệu thống kê chỉ là những con số, song trong giảng dạy
bộ môn GDCD không thể thiếu chúng được. Đó chính là một trong
những cơ sở, đôi khi là cơ sở duy nhất để rút ra những kết luận khoa
học về sự vận động phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới
khách quan. Và cũng vì vậy, khi nêu lên các số liệu thống kê, giáo
viên cần rút ra các tri thức kết luận cần thiết phục vụ bài giảng.

Ví dụ khi dạy bài 15 - Công dân với một số vấn đề cấp thiết của
nhân loại - GDCD lớp 11. Đây là bài có kiến thức mà giáo viên cần
phải đưa ra những con số thống kê để so sánh cho học sinh thấy được
rõ tính cấp thiết của nó như về vấn đề bùng nổ dân số thế giới, giáo
viên có thể đưa ra số liệu thống kê như: Từ giữa thế kỳ XX, dân số thế
giới tăng với nhịp độ chưa từng thấy: Năm 1950, dân số thế giới là 2,5
tỉ người, đến năm 1980 là 4,4 tỉ người, đến năm 1987 là 5 tỉ người và
hiện nay con số này đã tăng lên hơn 7 tỉ người. Và cứ theo tốc độ gia
tăng đó thì đến giữa thế kỷ XXI dân số thế giới sẽ đạt tới con số 9 tỉ
người. Từ tốc độ gia tăng dân số như trên giáo viên có thể đưa ra
những con số thể hiện hậu quả của nó như về tỉ lệ thất nghiệp, nghèo
đói cũng gia tăng như có khoảng 25 đến 30% số lao động ở các nước
đang phát triển không có việc làm, cả thế giới vẫn còn hơn 1 tỉ người
mù chữ...
Hoặc khi giáo viên giảng đến vấn đề dịch bệnh hiểm nghèo có
thể đưa ra các con số thống kê như: Năm 1980 phát hiện ra người đầu
tiên nhiễm HIV, thì đến cuối năm 2000 đã có gần 40 triệu người trên
thế giới bị nhiễm...Ở Việt Nam tính đến nay có khoảng 216.254
trường hợp, số bệnh nhân AIDS là 66.533, đã có 68.977 trường hợp tử
12

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

vong. Tỷ lệ nhiễm HIV toàn quốc theo báo cáo giám sát là
248/100.000 dân. Điện Biên vẫn là tỉnh có tỷ lệ nhiễm HIV trên
100.000 dân cao nhất cả nước (1029), tiếp đến là Thành phố Hồ Chí
Minh (682), thứ 3 là Thái Nguyên (632). So sánh tỷ lệ nhiễm

HIV/100.000 dân theo khu vực thấy tỷ lệ tại miền Đông Nam Bộ cao
nhất cả nước (408/100.000), tiếp đến là khu vực miền núi phía Bắc:
357/100.000 dân...
Các số liệu thống kê không thiếu trong các sách báo, tạp chí,
mạng Internet...ở đây, đòi hỏi giáo viên cần lưu tâm sưu tập chúng để
sử dụng phù hợp trong các bài giảng.

2.2.2 Phim ảnh:
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà phim ảnh chưa được sử
dụng trong môn GDCD nhất là các trường ở khu vực nông thôn.
Nhưng khi điều kiện cho phép, giáo viên nên triệt để sử dụng phim
ảnh (kể cả phim đèn chiếu) để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Các
phim khoa học đều có liên quan chặt chẽ đến tri thức của bộ môn nhất
là chương trình lớp 10 và lớp 11. Các phim khác được chiếu rộng rãi
đều có liên quan mặt này hay mặt khác của nội dung kiến thức trong
môn GDCD. Nguồn các phim liên quan đền bộ môn hiện nay cũng rất
sẵn trên mạng Internet, giáo viên có thể tải trong Youtube rất nhiều
những đoạn video có liên quan phục vụ cho bài dạy. Đặc biệt là khi
giáo viên sử dụng giáo án điện tử thì việc sử dụng các đoạn vi deo để
minh họa cho bài giảng là rất cần thiết, thuận lợi và có hiệu quả. Ví dụ
như những đoạn video nói về mối quan hệ giữa bạn bè cùng giới, khác
giới rất thích hợp khi giáo viên dạy bài Tình bạn, Tình yêu trong
chương trình GDCD lớp 10.
Tuy nhiên, khi sử dụng phim ảnh, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh biết cách suy nghĩ, phân tích, tiếp thu nội dung của phim. Điều
13

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng



S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

này, không chỉ làm cho tri thức khoa học của học sinh phong phú, mà
còn giúp cho tư duy của học sinh phát triển, nâng cao nhận thức tiếp
cận tri thức khoa học hiện đại, mở ra khả năng phát triển trí tuệ của
học sinh. Trong khi sử dụng phim, có thể sử dụng toàn bộ cuốn phim
hay trích đoạn cuốn phim để phục vụ cho từng vấn đề của bài giảng.
Đáng tiếc là hiện nay, chúng ta chưa có phim giáo khoa phục vụ
riêng cho môn GDCD. Nhưng kinh nghiệm của các nước tiên tiến cho
thấy phim giáo khoa có hỗ trợ rất lớn đối với giáo viên trong giảng
dạy và giúp học sinh hiểu được vấn đề sâu hơn, rộng hơn. Đồng thời,
phim giáo khoa được sử dụng tốt sẽ định hướng, tập trung suy nghĩ,
gây hứng thú, kích thích tiềm năng trí tuệ của học sinh.
2.2.3 Sử dụng máy vi tính (giáo án điện tử) trong giảng dạy.
Như chúng ta đã biết, hiện nay, máy vi tính đã được sử dụng
trong mọi ngành khoa học, trong hoạt động kinh tế, trong quản lí và
điều hành hoạt động xã hội, trong các hoạt động của con người. Đặc
biệt là khi môn Tin học đã được đưa vào trong chương trình giáo dục
phổ thông thì máy tính đã được các nhà trường phổ thông sử dụng làm
phương tiện và công cụ giảng dạy của giáo viên. Tuy nhiên, để có
được một giáo án điện tử cho một tiết dạy, đòi hỏi giáo viên phải đầu
tư về mặt thời gian, trí tuệ để soạn giảng thông qua phần mềm
Powerpont. Đồng thời, bản thân giáo viên phải biết sử dụng máy tính
có kiến thức về tin học mới có thể đưa các dữ liệu liên quan đến tiết
dạy vào phần mềm để soạn thành giáo án. Có thể nói, giáo án điện tử,
nó giúp giáo viên sử dụng được tất cả các hình thức trực quan từ việc
vẽ sơ đồ, lược đồ, tranh ảnh, đến các đoạn phim...liên quan đến nội
dung bài giảng thông qua việc kết nối máy tính với máy chiếu. Tuy
nhiên, khi sử dụng giáo án điện tử, giáo viên không nên phụ thuộc
hoàn toàn vào nó, mà phải kết hợp với bảng viết để tổng hợp, củng cố

kiến thức cho học sinh. Bởi vì, nhiều khi học sinh chỉ chú ý tới các
hình ảnh, dữ liệu trên màn chiếu mà không chú ý tới nội dung, kiến
14

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

thức bài giảng, như vậy sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của tiết học cũng
như việc tiếp thu tri thức của học sinh.
Mặt khác, để sử dụng được giáo án điện tử còn phụ thuộc vào
điều kiện, cơ sở vật chất của mỗi nhà trường. Điều đó có nghĩa là, các
nhà trường phải có các phòng nghe nhìn được trang bị đầy đủ máy
móc thiết bị (máy tính, máy chiếu, màn chiếu...), giáo viên nên phòng
chỉ việc cắm USB vào là có thể sử dụng được giáo án điện tử. Không
riêng gì đối với bộ môn GDCD, mà cả những bộ môn khác nữa, nếu
như giáo viên sử dụng tối đa giáo án điện tử vào giảng dạy thì chắc
chắn học sinh sẽ rất hứng thú khi học bài và tiết học sẽ đạt hiệu quả
cao. Đối với bộ môn GDCD, trong tình hình hiện nay, thì việc thường
xuyên sử dụng giáo án điện tử là rất cần thiết, hầu như bài nào chúng
ta cũng có thể soạn giảng bằng giáo án điện tử.
Tuy nhiên, như trên đã nói, việc soạn giảng giáo án điện tử đòi
hỏi giáo viên phải đầu tư về mặt thời gian để soạn cũng như tìm kiếm
các dữ liệu như tranh, ảnh, video...liên quan đến bài giảng để đưa vào
soạn giảng. Riêng về vấn đề này cũng không có gì là khó khăn, giáo
viên có thể lên mạng vào thư viện bài giảng điện tử tải các bài giảng
của bộ môn xuống để tham khảo. Giáo viên vừa có thể tham khảo
được kiến thức của bài giảng vừa học luôn cách tạo các hiệu ứng trong
phần mềm Powerpont, để từ đó có thể chủ động soạn giảng một giáo

án điện tử của riêng mình phục vụ cho công tác giảng dạy.
Tóm lại, việc sử dụng giáo án điện tử trong giảng dạy môn
GDCD có thể thay thế các phương tiện và công cụ dạy học khác. Giáo
án điện tử giúp cho giáo viên bộ môn GDCD chuẩn bị trước những
hình thức trực quan cần sử dụng trong bài giảng, từ những tư liệu đơn
giản đến những tư liệu hết sức phức tạp. Nó có thể giúp cho học sinh
thấy rõ sự phát triển của tự nhiên, xã hội, những hệ thống cấu trúc vĩ
mô và vi mô, những mô hình quản lí kinh tế và quản lí xã hội ở nước
ta và các nước khác....chỉ một động tác ấn nút bàn phím (hoặc kích
15

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

chuột) đơn giản và nhanh chóng toàn bộ những kiến thức trực quan
giáo viên cần trình bày đã hiện ra trước mắt học sinh trên màn chiếu
máy tính. Như vậy, giáo viên có thể tận dụng được tối đa thời gian để
giảng bài.
2.2.4 Tham quan thực tế
Có thể nói, ngoài các hình thức trực quan nêu trên, thì tham quan
thực tế cũng là một trong các hình thức trực quan rất có hiệu quả trong
giảng dạy bộ môn GDCD. Tham quan có nhiều loại hình khác nhau.
Đối với học sinh có thể tổ chức tham quan các cơ sở nghiên cứu khoa
học, các di tích lịch sử văn hóa, các viện bảo tàng, các điển hình tiên
tiến về mọi mặt của đời sống xã hội, các danh lam, thắng cảnh.... Theo
phân phối chương trình của bộ môn, thì mỗi học kỳ đều có 1 đến 2 tiết
giành cho thực hành, ngoại khóa. Giáo viên có thể thực hiện theo phân
phối chương trình của bộ môn hoặc tổ chức vào các thời gian thích

hợp của trường có thể vào dịp các ngày lễ như: 20/11, 22/12, 8/3...
Chúng ta cũng không nên nghĩ rằng, việc tổ chức tham quan là
rất phức tạp, khó khăn và tốn kém. Tham quan thực tế là phải tổ chức
cho học sinh đến một địa danh nào đó ở xa thì mới gọi là tham quan,
nếu như vậy thì chúng ta sẽ không bao giờ thực hiện được. Chúng ta
có thể tổ chức cho học sinh đi tham quan thực tế các địa danh ở ngay
địa phương mình ví dụ như ở trường THPT Xuân Trường có thể tổ
chức cho học sinh vào thăm khu lưu niệm nhà Bác Trường Chinh chỉ
cách trường có mấy trăm mét, hoặc thăm viếng nghĩa trang liệt sỹ ở
địa phương vào dịp 27/7 hàng năm để giáo dục truyền thống, giáo dục
lý tưởng, truyền thống yêu quê hương đất nước cho học sinh. Hoặc
giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đi tham quan nhà thờ Phú Nhai,
nhà thờ Bùi Chu liên quan đến bài học: Công dân với các vấn đề dân
tộc và tôn giáo ở chương trình lớp 12...

16

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, khi cơ sở vật chất cho
giảng dạy bộ môn hầu như không có thì việc tổ chức tham quan nhằm
nâng cao nhận thức về bộ môn, củng cố tri thức cho học sinh, phát
triển năng lực tư duy, khả năng vận dụng tri thức, giáo dục tính tính
cực xã hội, đạo đức, tình cảm, thẩm mĩ cho học sinh là rất cần thiết và
có thể thực hiện được. Tùy theo điều kiện và khả năng của từng
trường, có thể tổ chức những buổi tham quan theo chủ đề nhất định,
hoặc kết hợp nhiều chủ đề trong một buổi tham quan.

Tuy nhiên, để buổi tham quan đạt kết quả tốt, giáo viên cần phải
có sự chuẩn bị chu đáo. Trước khi tổ chức cho học sinh tham quan cần
vạch ra kế hoạch chuẩn bị và tiến hành, trong đó nêu lên thời gian, địa
điểm, mục đích yêu cầu, nội dung kế hoạch tiến hành...Trong khi
chuẩn bị cần nêu rõ những việc phải làm trước, trong và sau khi tham
quan. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh những nội dung cần ghi nhớ,
ghi chép. Tốt nhất sau khi tham quan nên tổ chức cho học sinh thảo
luận, viết bài thu hoạch để đánh giá kết quả thu nhận được, những tài
liệu, tri thức học sinh lĩnh hội được, kể cả việc rút kinh nghiệm về tổ
chức đi tham quan. Bởi vì, tham quan thực tế phụ thuộc vào công việc
chuẩn bị rất nhiều. Chuẩn bị càng tỉ mỉ, chu đáo, kĩ càng sẽ càng thu
được kết quả tốt.
2.2.5. Bài học kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp trực
quan
Muốn sử dụng tốt và hiệu quả phương pháp trực quan trong
giảng dạy bộ môn GDCD, trước hết giáo viên cần đầu tư, suy nghĩ,
công phu, lựa chọn tài liệu trực quan phục vụ cho nội dung bài giảng.
Trong thực tế, không thiếu các tài liệu có thể dùng để giảng dạy.
Nhưng điều cần thiết là tìm ra tài liệu trực quan điển hình, đưa ra đúng
thời điểm, sát hợp với từng vấn đề giảng dạy. Các tài liệu trực quan
đưa ra cần đảm bảo tính chính xác, chân thực, rõ ràng. Cần hết sức
tránh sử dụng những tài liệu trực quan chưa được khẳng định, chưa
17

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

đảm bảo độ tin cậy. Khi nêu ra các tài liệu trực quan, cần phải phân

tích, giảng giải kĩ lưỡng, rút ra kết luận chính xác để đảm bảo tính
thuyết phục cao, tính hướng đích của chúng. Đồng thời giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh tập trung vào những nội dung, những khía
cạnh phục vụ cho học tập.
Các hình thức trực quan không chỉ có tác dụng minh họa cho bài
giảng, mà còn có tác dụng tới việc hình thành, phát triển, củng cố tri
thức khoa học cho học sinh. Vì thế khi sử dụng bất kì hình thức trực
quan nào, giáo viên một mặt phân tích, giảng giải, mặt khác, hướng
dẫn cho học sinh biết tự rút ra kết luận cần thiết, tri thức muốn đạt tới.
Muốn vậy, giáo viên cần giúp cho học sinh biết tập trung suy nghĩ,
chú ý tới những điểm chủ yếu, bỏ qua những cái thứ yếu trong tài liệu
trực quan, biết hướng tư duy tới những kết luận khoa học cần thiết.
Tuy những tài liệu trực quan có tác dụng tốt trong quá trình
truyền thụ tri thức khoa học của giáo viên và lĩnh hội tri thức của học
sinh. Nhưng chúng cũng dễ dàng hình thành ở học sinh phương pháp
tư duy máy móc, siêu hình, xem xét nhận thức sự vật trong sự cô lập,
phiến diện. Vì thế, giáo viên cần, trước hết, phân tích tài liệu trực quan
và sau đó tổng hợp chúng để rút ra kết luận khoa học, nêu lên mối
quan hệ biện chứng giữa chúng. Đồng thời, thông qua phương pháp
giảng dạy của bản thân giúp cho học sinh phương pháp tư duy khoa
học, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển trí tuệ cho các em.
Ngoài ra, để bài giảng thu được kết quả tốt, giáo viên cần sử
dụng kết hợp phương pháp trực quan với các phương pháp giảng dạy
khác.
III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
Có thể nói khi giáo viên sử dụng có hiệu quả phương pháp trực
quan trong giảng dạy bộ môn, chúng ta thấy ở các tiết học trở lên sôi
nổi hơn, học sinh cảm thấy rất hào hứng mỗi khi đến giờ học GDCD.
18


T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

Điều này, cũng làm cho giáo viên bộ môn cảm thấy phấn chấn hơn khi
đứng trên bục giảng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đạt được mục tiêu
giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mĩ cho học sinh.
Kết quả cụ thể được thể hiện qua việc làm phiếu khảo sát, thăm
dò ý kiến của học sinh khi giáo viên sử dụng phương pháp trực quan
kết hợp với phương pháp thuyết trình và một số phương pháp khác
như sau :

Khối

Phương pháp thuyết
trình

PP trực quan kết hợp với
phương pháp thuyết
trình và PP khác.

10

237/530 hs = 44.7%

436/530 hs = 82.2%

11


224/510 hs = 44.1%

429/510 hs = 84.1%

12

234/520 hs = 45.1%

452/520 hs = 86.9%

Bên cạnh việc thu hút được nhiều học sinh đối với môn học, khi
đánh giá, kiểm tra chất lượng học tập, khả năng hiểu bài, lĩnh hội kiến
thức bộ môn của học sinh, chúng ta cũng thấy tăng lên rõ rệt. Tỉ lệ học
sinh đạt điểm Khá, Giỏi đạt từ 80% trở lên. Không có học sinh bị dưới
điểm TB.
Ngoài ra, việc đầu tư để soạn giảng một giáo án có sử dụng
phương pháp trực quan làm chủ đạo là việc không quá mấy khó khăn
khi trong điều kiện hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin.
Giáo viên chỉ cần đầu tư một chút thời gian vào mạng Internet để tải
các dữ liệu trực quan liên quan đến bài dạy là có thể soạn hoàn thiện
một giáo án để giảng dạy.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân, trong giảng dạy
bộ môn GDCD ở trường THPT. Do đặc điểm, tình hình ở mỗi trường
khác nhau và thời gian nghiên cứu để viết sáng kiến có hạn, cho nên
khó tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được những ý kiến
19

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng



S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

đóng góp của đồng nghiệp, để khi áp dụng và nhân rộng sáng kiến
này, sẽ có hiệu quả thiết thực hơn trong việc đổi mới phương pháp
giảng dạy của bộ môn GDCD ở trường THPT.
IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN
QUYỀN
Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm trên là của chính bản
thân viết ra. Tôi không sao chép cũng như là vi phạm bản quyền của
người khác. Nếu vi phạm, tôi xin chịu mọi hình thức kỷ luật của Hội
đồng đánh giá sáng kiến kinh nghiệm - Sở Giáo dục và Đào tạo Nam
Định.
Xin trân trọng cảm ơn !
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Nguyễn Tiến
Phương

ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN ĐÁNH GIÁ

( Xác nhận, đánh giá, xếp loại )

20

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm dù thi

CÁC PHỤ LỤC

Danh mục các tài liệu tham khảo:
- Phương pháp giảng dạy môn GDCD ( Vương Tất Đạt - Chủ
biên)
- Sách giáo khoa GDCD lớp 10, 11, 12 ( Nhà xuất bản giáo dục 2007)
- Chữ viết tắt : GDCD - Giáo dục công dân
THPT - Trung học phổ thông

21

T¸c gi¶: NguyÔn TiÕn Ph¬ng



×