Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Outsider art sáng tác nghệ thuật bên ngoài dòng chính thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.51 KB, 11 trang )

Outsider Art - Sáng tác nghệ thuật bên ngoài dòng chính thống
Bùi Thị Thanh Mai
Outsider Art là sáng tác nghệ thuật được tạo ra bởi những người bên ngoài
dòng chính thống. Sự chú ý đến Outsider Art xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 khi
các nghệ sỹ tiên phong phương Tây quay lưng lại với giá trị mỹ học truyền
thống của nghệ thuật hàn lâm cổ điển, tìm kiếm nguồn cảm hứng từ tranh,
tượng nguyên thủy; điêu khắc châu Phi, nghệ thuật phương Đông huyền bí,
tranh vẽ của trẻ em, thậm chí nghệ thuật của những người điên. Ở phương
Tây, từ những năm 1940 Jean Dubuffet1 nỗ lực sưu tầm các tác phẩm của
những người tự học, bệnh nhân tâm thần, kẻ nghiện rượu, tù nhân và chỉ ra
giá trị thẩm mỹ nội tại của chúng. Tiếp theo, nhiều nhà nghiên cứu của Pháp,
Anh, Mỹ xuất bản các công trình nghiên cứu chuyên sâu về Outsider Art từ
khái niệm, lịch sử, ảnh hưởng Outsider Art đến sáng tác nghệ thuật của một
số nghệ sỹ hiện đại. Sức hấp dẫn của Outsider Art nằm ở sự tinh khiết,
nguyên sơ đứng bên ngoài những đường lối vạch định theo các sử gia nghệ
thuật. Ngày càng có nhiều người quan tâm đến Outsider Art trên phương
diện nghiên cứu tâm lý học và nghệ thuật. Tuy nhiên, Outsider Art cùng
những vấn đề liên quan còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Bài viết này có mục
đích giới thiệu một vài nét khái quát về “Outsider Art”, Art Brut nguồn gốc
của Outsider Art và một số nghệ sỹ Outsider Art tiêu biểu của thế giới.
Thuật ngữ “Outsider Art”
Thuật ngữ “Outsider Art” được Roger Cardinal, nhà phê bình nghệ thuật
người Anh đưa ra năm 1972 như một từ tiếng Anh tương đương với thuật
ngữ “Art Brut” trong tiếng Pháp do Jean Dubuffet đặt ra, dùng để chỉ những
tác phẩm nghệ thuật không tuân theo khuôn mẫu, qui tắc của phòng trưng
bày, bảo tàng hay các trường phái nghệ thuật. Trong tiếng Anh, “Outsider”
có nghĩa là người ngoài cuộc, người không thể cho nhập bọn, người không
cùng nghề hay không có chuyên môn. Vì thế, một số người cho rằng thuật
ngữ “Outsider Art” (nghệ thuật bên ngoài) có lẽ đã dịch và chuyển nghĩa tốt
hơn là “Raw Art” (nghệ thuật thô). Cho đến nay, xuất hiện những tranh luận
về ranh giới giữa “Outssider Art”2 và các thuật ngữ “Naive Art”3,


“Visionary Art”4, “Folk Art”5. Nhìn chung, so với các thuật ngữ nói trên thì
“Outsider Art” mang nghĩa rộng, dùng để chỉ những sáng tác nghệ thuật bên
ngoài dòng chính thống. Outsider Art bao gồm tác phẩm của người tự học,
kể cả sáng tác của người nghiện rượu, người điên hay mắc bệnh tâm thần.
Phần lớn nghệ sỹ Outsider là những người chưa từng có mối liên hệ nào với
học viện, dòng nghệ thuật chính thống hay các tổ chức nghệ thuật. Tuy


nhiên, trong số những nghệ sỹ được xếp vào Outsider Art cũng có người
từng theo học ở Học viện nghệ thuật, nhưng sau đó bị phát bệnh tâm thần và
họ sáng tác nghệ thuật trong nhà thương điên. Trong nhiều trường hợp, nghệ
thuật của họ chỉ được chú ý hay phát hiện sau khi chết.
Nghiên cứu đầu tiên về Outsider Art
Từ giữa thế kỷ 19, một số bệnh viện ở Châu Âu bắt đầu tiến hành sưu tập
tranh vẽ của những bệnh nhân tâm thần với mục đích nghiên cứu các biểu
hiện của người bệnh giúp cho công việc điều trị. Từ năm 1910, các bộ sưu
tập như vậy đã xuất hiện ở Cesare Lombroso (Turin), Marcel Réja (Paris) và
Hans Prinzhorn (Heidelberg). Ban đầu, các bộ sưu tập ra đời như là một kết
quả của hoạt động nghiên cứu khoa học về tâm thần học. Sự quan tâm
nghiên cứu đến những sáng tác của người điên hay mắc bệnh tâm thần được
bắt đầu từ Walter Morgenthaler6. Năm 1921, ông xuất bản cuốn sách
“Geisteskranker Ein als Konstler” viết về trường hợp của Adolf Wolfli, một
bênh nhân tâm thần người Thụy Sĩ. Đây là lần đầu tiên bệnh nhân tâm thần
được chú ý nghiên cứu từ khía cạnh sáng tác nghệ thuật.
Mồ côi từ năm lên 10, tuổi thơ của Adolf Wolfli tràn ngập ký ức về sự lạm
dụng cả về thể xác và tình dục. Lớn lên ở trại trẻ mồ côi, lao động tại các
nông trại, gia nhập quân đội, rồi bị kết tội lạm dụng tình dục trẻ em. Đến
năm 1895, ông được đưa vào bệnh viện tâm thần Waldau Clinic ở Bern,
Thụy Sĩ để điều trị. Sau một thời gian ở bệnh viện, Wolfli bắt đầu vẽ và vẽ
rất nhiều. Những hình ảnh do Wolfli vẽ ra trông phức tạp, dữ dội và giàu

tính trang trí. Trong thời gian ở bệnh viện tâm thần, ông đã hoàn thành một
cuốn sách dài nhiều tập với nhiều hình ảnh minh họa. Nội dung truyện là sự
kết hợp các chi tiết trong cuộc sống riêng pha trộn với những cuộc phiêu lưu
tưởng tượng. Wolfli đã biến kỷ niệm buồn thời thơ ấu thành một câu chuyện
về những chuyến du lịch kỳ diệu. Trong cuốn sách Wolfli đã thay đổi các
chi tiết trong cuộc sống thực, chuyển cậu bé Wolfli thành “Hiệp sỹ Wolfli”,
rồi trở thành “Hoàng đế Wolfli” và cuối cùng là “Thánh Wolfli”. Trong
những bài hát, thơ ca và tranh vẽ của mình, ông tái tạo và đặt lại tên cho cả
thế giới và vũ trụ. Sau khi Wolfli mất năm 1930, những bức tranh của ông
được trưng bày tại Bảo tàng Waldau Clinic tại Bern, Thụy Sĩ. Sáng tác của
Wolfli đã gợi được niềm cảm hứng cho một số nhà soạn nhạc, trong đó đáng
chú ý là trường hợp nhà soạn nhạc Đan Mạch Per Norgard, người đã sáng
tác vở nhạc kịch về cuộc đời của Wolfli với nhan đề “The Divine Circus”.
Sau Walter Morgenthaler phải kể đến nghiên cứu của Hans Prinzhorn7, bác
sỹ tâm thần người Đức đồng thời còn là nhà nghiên cứu về nghệ thuật. Hans
Prinzhorn từng nghiên cứu triết học và lịch sử nghệ thuật tại Đại học


Vienna, một trong những trường đại học lớn của Châu Âu và lâu đời nhất
trong thế giới sử dụng tiếng Đức. Nhận học vị tiến sỹ vào năm 1908, sau đó
Hans Prinzhorn tiếp tục học về y học và tâm thần học. Năm 1919, ông làm
việc với tư cách là một trợ lý tại bệnh viện tâm thần thuộc Đại học
Heidelberg. Công việc của ông khi ấy là phát triển bộ sưu tập nghệ thuật của
các bệnh nhân tâm thần đã được tiến hành bởi Emil Kraepelin8. Khi ông rời
khỏi công việc này năm 1951, bộ sưu tập được mở rộng tới hơn 5000 tác
phẩm của khoảng 450 trường hợp. Năm 1922, ông xuất bản cuốn “Bildnerei
der Geisteskranken” với những minh họa đa dạng từ bộ sưu tập nói trên.
Công trình chủ yếu nghiên cứu đến sự liên quan giữa tâm thần học và nghệ
thuật, bệnh tật và sự tự biểu hiện. Nó là nỗ lực phân tích, nghiên cứu các bức
vẽ của những bệnh tâm thần không chỉ đơn thuần ở khía cạnh tâm lý, mà còn

về mặt thẩm mỹ. Nghệ thuật của người tâm thần thường mang tính tự phát.
Căn bệnh có thể cung cấp cho bệnh nhân những ý tưởng và cách biểu hiện
khác thường. Một số người đặc biệt nhạy cảm với thế giới xung quanh và
những bức vẽ của họ có thể chỉ ra những điều chúng ta không nhận thấy
trước đó. Trong cuốn sách, Prinzhorn trình bày tác phẩm của mười “nghệ sỹ
bậc thầy bị chứng tâm thần phân liệt”. Ông chỉ ra sáng tạo nghệ thuật của
các bệnh nhân như một sự thôi thúc để giao tiếp, biểu lộ trí tưởng tượng,
cảm xúc và phản ứng. Mỗi nghệ sỹ Outsider Art trong nghiên cứu của Hans
Prinzhorn có nguyên nhân phát bệnh khác nhau và cách thể hiện nghệ thuật
cũng khác nhau như trường hợp Karl Brendel, Peter Moog và August Neter.
Karl Brendel (1871 - 1925) đã bị kết án 12 lần vì tội hành hung và phá hoại
tài sản. Trong hồ sơ về bệnh tâm thần của Karl Brendel được ghi chép từ
năm 1906, bác sỹ điều trị nhận thấy các triệu chứng về ảo tưởng. Karl
Brendel tuyên bố rằng đã từng trải qua kinh nghiệm về sự hy sinh thông qua
cái chết và chính là hiện thân của Đức Chúa Giêsu. Karl Brendel thích thể
hiện đề tài về động vật và các ảo giác tôn giáo, đặc biệt là hình tượng chúa.
Đôi khi, nhân vật trong sáng tác của Brendel được mô tả như nhân vật lưỡng
tính. Trong khi đó, Peter Moog (1871-1930) bị rơi vào chứng bệnh tâm thần
phân liệt sau cái chết của vợ. Thoạt tiên ông làm thơ sau đó chuyển sang vẽ
tranh. Những bức vẽ về thánh và tôn giáo của Peter Moog tương phản đáng
ngạc nhiên với những bài thơ đầy ngôn từ khêu gợi sự dâm dục của chính
ông. Còn August Neter (1868 - 1933) từng là người khỏe mạnh nhưng đột
nhiên bị mắc chứng hoang tưởng và luôn bị những ám ảnh lo lắng tấn công.
Neter để lại khoảng 10 000 bức tranh như những bản vẽ kỹ thuật, có thể do
ông từng làm nghề thợ điện trước khi mắc bệnh.
Công trình của Hans Prinzhorn ra đời trong bối cảnh tâm thần học bắt đầu
tập trung nghiên cứu tâm lý các dân tộc cổ xưa, trẻ em, qui luật của những


giấc mơ và những biểu hiện của bệnh tâm thần. Các nghệ sỹ tiên phong như

Ernst Ludwig Kirchner, Oskar Schlemmer, Alfred Kubin, André Breton,
Paul Klee, Max Ernst và Pablo Picasso từng tham khảo bộ sưu tập tranh của
bệnh viện Heidelberg. Các motif từ di sản nghệ thuật nguyên thủy, tính hồn
nhiên trong tranh vẽ của trẻ em, cảnh tượng kỳ lạ chỉ gặp trong giấc mơ và
thế giới vô thức... là những chủ đề chính của nghệ thuật tạo hình đầu thế kỷ
20. Với thực tế ấy, cuốn sách “Bildnerei der Geisteskranken” của Hans
Prinzhorn lưu hành rộng rãi ở Châu Âu được một số nghệ sỹ quan tâm
nghiên cứu trong quá trình tìm kiếm các phương thức biểu đạt nghệ thuật
mới.
Art Brut - Nguồn gốc của Outsider Art
Ấn tượng bởi công trình “Bildnerei der Geisteskranken” của Hans
Prinzhorn, Jean Dubuffet (1901-1985) bắt đầu bộ sưu tập nghệ thuật của
những người tâm thần, tù nhân và đưa ra thuật ngữ “Art Brut” vào những
năm 1944, 1945. Là người chống lại văn hóa chính thống và nghệ thuật của
bảo tàng, Jean Dubuffet được ví như kẻ nổi loạn luôn tìm kiếm tự do cho
mình. Không phải ngẫu nhiên mà Jean Dubuffet được xem là một trong
những nghệ sỹ đáng chú ý của thế kỷ 20. Trong sự nghiệp sáng tác từ 19421985, Dubuffet đã tạo dựng phong cách nghệ thuật riêng xuất phát từ những
nghiên cứu nghệ thuật của trẻ em và bệnh nhân tâm thần.
Thuật ngữ “Art Brut” được kết hợp bởi từ “Art” và “Brut”. Trong tiếng Pháp
“Brut” có nghĩa “sống”, “mộc”, “thô”, “nguyên”. Từ đó Art Brut mang
nghĩa “nghệ thuật thô”, “nghệ thuật sống” hay “nghệ thuật nguyên”, chỉ sự
sáng tạo theo hình thức trực tiếp, tạo lập hình ảnh từ não lên trang giấy, hay
tấm toan và được Dubuffet ví như nguyên liệu chưa qua quá trình chế biến,
vẫn giữ được sự tươi nguyên. Những tác phẩm thuộc thể loại Art Brut là sự
sáng tạo vô thức dựa trên cảm hứng từ thế giới tinh thần, không dựa trên
truyền thống hoặc kỹ thuật. Nó không theo phong cách hay xu hướng nghệ
thuật nào mà là sự tự phát và thậm chí không được thực hiện với mục đích
làm “nghệ thuật.” Art Brut là những sáng tạo thuần khiết, ra đời từ sự cô
đơn, từ thúc đẩy của thế giới vô thức, nơi không bị can thiệp bởi những lo
lắng về sự ca ngợi, hay những tung hô xã giao thường thấy trong các cuộc

thi. Theo Dubuffet, sự thật còn quý giá hơn sản phẩm của những chuyên gia.
Do đấy, ông đã chú trọng sưu tầm và viết nghiên cứu về “Art Brut”.
Dubuffet cho rằng, dòng nghệ thuật chính thống của các bảo tàng, học viện
đã mất đi sức mạnh và nguồn nghệ thuật tinh khiết này.
Tác giả của Art Brut chủ yếu là người có những trải nghiệm bất thường
trong cuộc sống hoặc trạng thái cùng cực về tinh thần như người tâm thần,


người khuyết tật, hay tù nhân song có tiềm năng về sáng tạo nghệ thuật. Họ
đến với hội họa và điêu khắc vì những thôi thúc mãnh liệt chứ không vì
mong muốn được công nhận. Nghệ thuật của họ là sự biểu hiện những ham
muốn ẩn và mâu thuẫn bên trong nội tại. Nó không hướng ngoại mà hướng
nội. Nó xuất hiện từ trí tưởng tượng và những ẩn ức của bệnh nhân tâm thần
hay người điên, phá vỡ những nỗ lực có ý thức và bác bỏ quan niệm bất di
bất dịch hay sự chủ định về nghệ thuật. Có thể ví những tranh vẽ thuộc thể
loại này như một chuyến đi thám hiểm vào thế giới nội tâm. Theo Dubuffet,
các tác phẩm Art Brut có một ngôn ngữ tạo hình độc đáo ví như nguồn
nguyên liệu thô của nghệ thuật. Đối với một số người, những tác phẩm này
thật đáng ngạc nhiên và ngưỡng mộ, nhưng cũng thật kỳ lạ.
Năm 1948, Dubuffet thành lập Hiệp hội Art Brut. Thành viên của Hiệp hội
bao gồm André Breton9, Michel Tapié10 và André Malraux11. Đến năm
1960, bộ sưu tập của Dubuffet có hơn 5000 tác phẩm. Song song với sưu
tập, Dubuffet còn sáng tác những tác phẩm dựa trên cảm hứng từ Art Brut.
Từ năm 1942, ông vẽ một loạt tranh về con người và quang cảnh Paris có
hình thức thể hiện gần gũi với lối tạo hình của mỹ thuật nguyên thủy. Sau đó
chịu ảnh hưởng từ triển lãm hội họa của Jean Fautrier ở Paris năm 1945,
Dubuffet nhận thấy ý nghĩa của nghệ thuật nằm ở sự biểu hiện trực tiếp
chiều sâu bên trong mỗi cá nhân. Nhiều tác phẩm của Dubuffet lấy cảm
hứng từ Art Brut như “Ban nhạc Jazz” (1945), “Michel Tapié soleil” (1946),
“La Métafisyx” (1950), “Gare Montparnasse Porte des Lilas” (1961)... Đặc

điểm chung hội họa của Dubuffet là lối vẽ biểu cảm và tạo chất phong phú.
Trong khi đi tìm chất liệu nhằm tạo ra hiệu quả thị giác mới lạ, Dubuffet còn
sử dụng cả chất liệu hắc ín, rơm, than và cát. Một số người cho rằng nhân
vật trong tranh Dubuffet thật thô kệch và gớm ghiếc, song nhiều người lại đề
cao nghệ thuật của ông. Xét ở góc độ nghệ thuật tạo hình, tranh của
Dubuffet là bản hòa tấu của màu sắc và chất cảm. Trong từng mảng màu, nét
bút có sự chuyển đổi tinh tế của một tài nghệ bậc thầy. Chất gồ ghề đắp nổi
lại tạo được ấn tượng và cách vẽ trẻ thơ lại thu được kết quả mỹ mãn.
Dubuffet cũng đưa phong cách nghệ thuật của mình vào những tác phẩm
điêu khắc ngoài trời. Song song với hội họa và điêu khắc, Dubuffet vẽ nhiều
tranh minh họa sách, truyện, cũng như viết sách trình bày quan niệm của ông
về nghệ thuật. Những nghiên cứu về Art Brut giúp Dubuffet có cái nhìn cởi
mở trong sáng tác nghệ thuật, đồng thời nhận thức được sự gò bó, hạn chế
của nghệ thuật chính thống. Dubuffet còn thử nghiệm sáng tác âm nhạc và
làm nhiều bản ghi âm với họa sỹ Đan Mạch Asger Jorn, một trong những
thành viên sáng lập của phong trào tiền phong COBRA12. Năm 1978,


Dubuffet hợp tác với Jasun Martz nhà soạn nhạc Mỹ để thu âm các tác phẩm
cho album nhạc giao hưởng “The Piilory”.
Dubuffet cùng với những người bạn của mình đã nỗ lực xây dựng
“Compagnie de l’Art Brut”, một bộ sưu tập lớn gồm hàng ngàn tác phẩm
nghệ thuật từ nhiều nguồn gốc, đa số tác phẩm là của trẻ em và người điên.
Mục đích của bộ sưu tập là để lưu giữ những nguyên liệu nghệ thuật “thô”
như những tư liệu. Sau đó, ông muốn tặng lại bộ sưu tập Art Brut cho nước
Pháp nhưng các nhà chức trách đã từ chối. Đồng thời, ông cũng bị cản trở
khi cố gắng trao bộ sưu tập cho những người bạn ở Mỹ. Cuối cùng, năm
1972 bộ sưu tập đã tìm được ngôi nhà trưng bày cho mình ở Beaulieu
Chateau tại Lausanne, Thụy Sĩ. Bởi những khó khăn trong việc xác định
ranh giới nghệ thuật Art Brut, nên Dubuffet còn đưa ra thuật ngữ “Fresh

Invention” tạm dịch là “sáng tác tươi mới”. Nhưng hầu hết các nhà phê bình
nghệ thuật vẫn ưa thích dùng thuật ngữ “Outsider Art” với hàm ý chỉ  
những sáng tác bên lề nghệ thuật, nằm ngoài dòng chính thống.
Kể từ sau Dubuffet, Châu Âu và Bắc Mỹ trở thành nơi tập trung nghiên cứu
về Outsider Art. Công việc này không chỉ được thúc đẩy bởi những người
nghiên cứu nghệ thuật mà còn cả các giám tuyển và nhà buôn tranh.
Outsider Art ngày càng được các nhà sưu tập hiện đại đánh giá cao, thậm chí
còn được treo trong bảo tàng chính thống. Năm 2008, Đại học Sydney thành
lập trung tâm Self-Taught and Outsider Art Research Collection
(STOARC)13. Các bộ sưu tập Outsider Art nổi tiếng thế giới của Stuart
Purves và Peter Fay đã được trưng bày và nghiên cứu tại STOARC. Trung
tâm bao gồm phòng trưng bày và thư viện lưu trữ các tài liệu nghiên cứu về
Outsider Art. Đây là trung tâm quốc tế duy nhất cho việc nghiên cứu nghệ
thuật bên ngoài dòng chính thống của Úc và quốc tế. Hoạt động của trung
tâm đã thu hút các học giả quan tâm đến lĩnh vực Outsider Art. Không chỉ
lưu giữ tác phẩm và tài liệu về Outsider Art, trung tâm còn tiến hành thu
thập, triển lãm các tác phẩm của hinh thức nghệ thuật này, đặc biệt tập trung
vào những nghệ sỹ có những sáng tác độc đáo chưa được biết đến. STOARC
do giáo sư Colin Rhodes của Đại học Luân Đôn, người rất quan tâm nghiên
cứu về Outsider Art phụ trách. Những nghiên cứu của Colin tập trung trong
công trình “Outsider Art: Spontaneous Alternatives” (Nghệ thuật bên ngoài
dòng chính thống: Giải pháp tự phát) xuất bản năm 2000. Trong cuốn sách
này, Colin Rhodes không chỉ nghiên cứu lịch sử Outsider Art mà còn chỉ ra
một số nghệ sỹ hiện đại đã sáng tác dựa trên cảm hứng từ Outsider Art như
thế nào.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Outsider Art như “Beast
của Karin in the Mirror: The Life of Outsider Artist Antonio Ligabue”


Kavelin Jones (1997), “Beyond Reason: Art and Psychosis Works From the

Prinzhorn Collection” của Bettina Brand-Claussen (1998), “Self-Taught
Outsider Art Brut: Masterpieces from the Robert M. Greenberg Collection”
của Lyle Rexer (1998), “Outsider Art of the South” của Kathy Moses “Raw
Vision Magazine: Outsider Art, Art Brut, Contemporary Folk (1999), của
Thierry de Duve (2001), “Art Brut: The Origins of Outsider Art” của
Lucienne Peiry (2006)... Nhìn chung, các nghiên cứu về Outsider Art” Art
có ba loại: thứ nhất, trình bày về lịch sử Outsider Art và các nghệ sỹ
Outsider Art nổi tiếng; thứ hai, nghiên cứu về đặc trưng và yếu tố thẩm mỹ
của Outsider Art, thứ ba là nghiên cứu về sự gần gũi giữa Outsider Art và
nghệ thuật hiện đại. Điều này cho thấy sự hấp dẫn của những sáng tác bên
ngoài dòng nghệ thuật chính thống cũng như mối quan tâm của các nhà
nghiên cứu, phê bình nghệ thuật về loại nghệ thuật này.
Một số nghệ sỹ Outsider Art
Richard Dadd, người Anh (1817 - 1886)
Ngay từ nhỏ, năng khiếu về hội họa của Richard đã được bộc lộ. Khi 20 tuổi
ông theo học ở Viện Hàn lâm Nghệ thuật Hoàng gia. Vào năm 1842, Dadd
đã được chọn để đi cùng với Sir Thomas Phillips, cựu thị trưởng Newport
trong một chuyến thám hiểm Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Syria và Ai Cập.
Trong khi đi du lịch trên sông Nile bằng thuyền, Dadd trải qua sự thay đổi
tính cách mạnh mẽ, trở nên ảo tưởng và ngày càng tin rằng mình chịu những
ảnh hưởng của vị thần Ai Cập Osiris14. Khi trở về vào mùa xuân năm 1843,
ông được chẩn đoán là có vấn đề về tâm thần và được gửi về quê để điều trị.
Do căn bệnh tâm thần mà Dadd tin rằng cha mình là quỷ dữ cải trang. Dadd
đã đâm chết cha mình rồi chạy trốn đến Pháp. Trên đường tới Paris, Dadd
suýt giết một khách du lịch, nhưng đã bị cảnh sát khống chế và bắt giữ.
Dadd thú nhận đã giết chết cha mình và bị buộc quay trở về nước Anh để
điều trị bệnh tâm thần tại nhà thương điên. Ở đây, Dadd được các bác sỹ
chăm sóc và khuyến khích ông tiếp tục công việc vẽ tranh.
Nhiều bức vẽ đặc sắc của Dadd được tạo ra trong giai đoạn này, bao gồm cả
bức tranh nổi tiếng nhất của ông là “The Fairy Feller’s Master-Stroke”

(1855-1864). Đây là câu chuyện cổ tích bằng tranh của Dadd lấy cảm hứng
từ bài hát cùng tên của ban nhạc Queen (Anh). Tạo hình của tranh rất gần
gũi với nghệ thuật của Hieronymus Bosh15. Bên cạnh đó, Dadd còn sáng tác
bộ tranh gồm 33 bản vẽ màu nước, minh họa các cảm xúc buồn, đau khổ,
tình yêu, ghen tuông, sự điên rồ và kẻ giết người. Hầu hết những tác phẩm
của ông được thực hiện trên kích cỡ nhỏ với lối diễn tả chi tiết. Sau 20 năm
ở Bethlem, Dadd đã được chuyển đến nhà thương điên dành cho bệnh nhân


phạm tội hình sự ở Broadmoor. Tại đây ông tiếp tục vẽ tranh cho đến khi
qua đời năm 1886 vì căn bệnh phổi.
Henry Darger, người Mỹ (1892-1973)
Henry Darger sinh năm 1892. Sau khi cha mẹ mất, ông được đưa đến sống
tại một viện cứu tế. Tại đây, ông phải làm việc nặng nhọc, bị hành hạ hàng
ngày. Một năm trước khi viện cứu tế bị điều tra về tình trạng làm dụng và vi
phạm quyền trẻ em, Darger đã trốn thoát ra ngoài. Ông tìm được công việc
gác cổng tại một bệnh viện thuộc Chicago
Không bạn bè, không người thân thích, Darger sử dụng thời gian rỗi vào
việc sáng tác những câu chuyện thần thoại và vẽ tranh minh họa về cuộc
chiến giữa các quốc gia trên hành tinh rất lớn và không tên. Cuộc xung đột
xảy ra do các Glandelinians, những người hành hạ trẻ em nô lệ. Những anh
hùng trong câu chuyện của Darger là bảy chị em Vivian và công chúa
Abbiennian. Đôi khi nhân vật trong tác phẩm của ông được miêu tả như
những người lưỡng tính đã chiến đấu và cuối cùng chiến thắng thế lực xấu
xa. Hỗ trợ cho các trận chiến của họ là đội quân Thiên chúa giáo và động vật
giống như con rồng. Các trận đánh được Darger mô tả với nhiều sự kiện
sống động như: bão, các vụ nổ, sự xuất hiện của quỷ và rồng... Darger vẽ
minh họa và tô màu hàng trăm lá cờ của các quốc gia lâm chiến. Ông dường
như không hài lòng với khả năng vẽ hình của mình nên đã tham khảo các
hình ảnh từ báo, sách, truyện tranh và tạp chí. Là người chưa bao giờ tham

quan bảo tàng, nhưng Darger lại có mối liên hệ chặt chẽ với văn hóa đại
chúng qua các minh họa phong phú trên báo và tạp chí. Đề tài trong sáng tác
của Darger được rút ra từ các sự kiện trong sách báo trộn lẫn với những câu
chuyện kinh thánh. Sáng tác của Henry Darger trở thành một trong những ví
dụ tiêu biểu về Outside Art. Bảo tàng Nghệ thuật dân gian Mỹ đã tôn vinh
Henry Darger là một trong những nghệ sỹ bên ngoài dòng chính thống quan
trọng của thế kỷ XX.
Nek Chand, người Ấn Độ (sinh năm 1924)
Nek Chand là một nghệ sỹ tự học nổi tiếng với công trình vườn đá rộng tới
mười tám mẫu ở thành phố Chandigarh, Ấn Độ. Đặc biệt đam mê với chất
liệu đá, trong thời gian rảnh rỗi Nek thu thập đá rồi bí mật tạo ra những tác
phẩm điêu khắc trang trí cho một khu đất nằm ở phía Bắc của thành phố.
Ngoài các loại đá tự nhiên Nek Chand còn thu thập vật liệu từ các ngôi làng
bị phá hủy trong quá trình phát triển đô thị của Chandigarh để làm các tác
phẩm điêu khắc. Ngoài Kamla, vợ Nek và một vài người bạn đáng tin cậy,
không ai được biết những gì Nek đang làm. Ngày qua ngày, ông làm việc
vào ban đêm dưới ánh sáng tạo ra từ những chiếc lốp xe cháy vì sợ rằng các


quan chức địa phương sẽ phát hiện và ngăn cấm. Không giống như các thành
phố khác của Ấn Độ, Chandigarh đã được hoạch định cẩn thận và chỉ được
xây dựng khi có phép, nhưng dần dần vườn tượng với gần hai nghìn tác
phẩm điêu khắc kích cỡ khác nhau đã bị khám phá. Và Nek lo lắng trước
nguy cơ khu vườn sẽ bị phá bỏ. Theo một số tài liệu cho biết, Nek đã mời
Sharma, kiến trúc sư trưởng của thành phố đến thăm khu vườn đá năm 1969.
Thoạt tiên, Sharma từ chối do quá bận rộn nhưng sau sự kiên trì của Nek,
ông đồng ý đến tham quan khu vườn. Ngưỡng mộ trước công việc Nek đã
làm, Sharma quyết tâm giúp để khu vườn đá và công lao của Nek được công
nhận. Năm 1972, lời hứa của Sharma trở thành hiện thực. Tuy nhiên, theo
sách hướng dẫn du lịch do thành phố Chandigarh xuất bản thì câu chuyện

được kể khác đi. Theo đó, khu vườn được phát hiện bởi một nhóm các nhà
nghiên cứu về bệnh sốt rét của chính phủ. Sau đó, khu vườn được khuyến
cáo cần lưu giữ và bảo quản trong hình thức hiện tại của nó, không nên có
bất kỳ sự can thiệp của các kiến trúc sư hay nhà quy hoạch thành phố.
Sáng tạo của Nek nhận được sự ủng hộ của những người dân Chandigarh.
Năm 1976, khu vườn đá chính thức được khánh thành, chịu sự quản lý của
chính quyền. Nek được thành phố trả lương để tiếp tục sáng tác các tác phẩm
điêu khắc cho khu vườn đá. Dự án của Nek có thể xem là một trong những
chương trình tái chế vật liệu phế thải lớn nhất ở châu Á. Ngoài những sáng
tạo xi măng và bê tông, ông cũng tạo nên số lượng lớn động vật và búp bê từ
vải, quần áo cũ. Bên cạnh chất thải đô thị, Nek còn sử dụng các vật liệu tự
nhiên. Chẳng hạn, ông đã tạo ra những tác phẩm điêu khắc từ rễ của cây, xây
dựng thác nước từ sự kết hợp hàng ngàn hòn đá lớn nhỏ khác nhau. Mọi
người gọi công trình của Nek Chand là “The Garden Rock” có nghĩa là
“vườn đá”. Tuy nhiên, Nek Chand đã phát biểu trong một cuộc phỏng vấn
rằng, đó là ước mơ không phải một khu vườn đá lạnh, là những lời thơ của
Nek với đá. Khi khu vườn với những tác phẩm điêu khắc độc đáo trở nên nổi
tiếng và được nhiều người biết đến, nghệ thuật của Nek bắt đầu nhận được
sự chú ý. Sau một cuộc triển lãm tổ chức tại Paris năm 1980, Nek Chand đã
được trao Grande Médaille de Vermeil. Tiếp đó, Ann Lewin, Giám đốc Bảo
tàng trẻ em Washington DC đã mời Nek Chand xây dựng một khu vườn cho
bảo tàng. Chính phủ Ấn Độ trao tặng ông danh hiệu Padam Shri vào năm
1984, một năm sau khi tác phẩm điêu khắc trong khu vườn đá trở thành hình
minh họa trên tem bưu chính của Ấn Độ.
Kỹ thuật ghép mảnh đã giúp Nek tạo nên khu vườn đá với những bức tượng
ngộ nghĩnh, nhiều màu sắc. Chai lọ, gạch vỡ và đá tự nhiên là những thành
phần chính được Nek sử dụng để tạo ra một thế giới độc đáo. Nek nhìn thấy
trong đá và vật liệu phế thải những nhân vật của mình như kẻ vương giả,



người bình thường và các động vật. Bên cạnh đó, Nek còn thiết kế các con
đường, thác nước, sân, cổng vòm khiến khu vườn đá trở thành một mê cung
phức tạp. Từ một nhà điêu khắc tự học, một nghệ sỹ Outsider, Nek đã trở
thành một kiến trúc sư có tầm nhìn bao quát mang tính quy mô. Có ý kiến
cho rằng mặc dù Nek không bao giờ biết đến cá nhân Le Corbusier, nhưng
ông đã quan sát các phương pháp xây dựng của Le Corbusier chặt chẽ, đặc
biệt là sử dụng trí tưởng tượng của ông về bê tông. Một trong những tính
năng của những tòa nhà được Le Corbusier thiết kế trong thành phố
Chandigarh là những đường cong chảy của bê tông, xây dựng bằng khuôn
ván phức tạp để giữ các vật liệu lỏng. Nek đã phát triển kỹ thuật của
Corbusier trong khu vườn đá bằng cách sử dụng một khuôn ván lớn được
thiết kế từ thùng dầu phế thải để sản xuất bê tông tạo nên các kết cấu bề mặt
khác nhau. Thông qua khu vườn đá kỳ diệu của Nek, người ta nhận thấy ảnh
hưởng của một trong những kiến trúc sư vĩ đại nhất của thế kỷ XX đến một
nghệ sỹ Outsider Art đương đại.
Nghiên cứu về Outsider Art, một mặt góp phần giới thiệu những sáng tác
của các nghệ sỹ bên ngoài dòng nghệ thuật chính thống. Mặt khác, nó cũng
là sự cố gắng chính thức hóa Outsider Art. Những sáng tác của hình thức
nghệ thuật này không chỉ hấp dẫn bởi vẻ đẹp kỳ dị, bí ẩn, nguyên sơ mà còn
trở thành các trường hợp nghiên cứu hấp dẫn trong lịch sử tâm thần học và
nghệ thuật.
BTTM.2011
Chú thích:
1. Jean Dubuffet (1901-1985) là họa sỹ và điêu khắc gia Pháp.
2. Outsider Art là khái niệm mang nghĩa rộng, chỉ sáng tác của những người tự học, bệnh nhân tâm thần,
người nghiện rượu, tù nhân...
3. Naive Art: phong cách nghệ thuật hồn nhiên, ngây thơ.
4. Visionary Art là nghệ thuật thể hiện những điều thần bí, dự báo, chứa đựng tính siêu hình và thường khai
thác chủ đề về cái chết, cái tôi, hình ảnh nguyên mẫu thần thoại hay các biểu tượng..
5. Folk Art chỉ nghệ thuật của những người dân địa phương tự học theo lối truyền nghề. Folk Art ngược lại

với nghệ thuật bác học.
6. Walter Morgentaler (1882 - 1965) là bác sĩ của bệnh viện Waldau, Thụy Sĩ.
7. Hans Prinzhorn (1886 - 1933) là một nhà nghiên cứu nghệ thuật, đồng thời là bác sỹ tâm thần người
Đức.
8. Emil Kraepelin (1856 - 1926) là một bác sỹ tâm thần người Đức. Ông đã đúc kết những qui luật tiến
triển lâm sàng của nhiều bệnh tâm thần và phân loại các bệnh tâm thần thành những đơn thể riêng biệt, tạo
điều kiện nghiên cứu dễ dàng các bệnh tâm thần về các mặt bệnh nguyên, bệnh sinh, tiên lượng, điều trị
v.v...


9. André Breton (1896 - 1966) nhà văn và nhà thơ người Pháp.
10. Michel Tapié (1909 - 1987) là nhà phê bình và sưu tập nghệ thuật người Pháp.
11. André Malraux (1901-1976), nhà hoạt động, chính trị gia người Pháp.
12. COBRA là một phong trào tiền phong hoạt động ở châu Âu từ 1949 đến 1951. Tên gọi này do Christian
Dotremont đặt ra vào năm 1948. Chữ COBRA viết tắt từ các chữ cái đầu tiên tên các thành phố của các
thành viên trong nhóm: Copenhagen (Co), Brussels (Br), Amsterdam (A). Được thành lập bởi Karel Appel
(họa sỹ, điêu khắc gia Hà Lan), Constant (họa sỹ Hà Lan), Corneille (họa sỹ Hà Lan), Christian Dotremont
(nhà thơ, họa sỹ Bỉ) và Asger Jorn (họa sỹ, điêu khắc gia Đan Mạch). Phương pháp làm việc của nhóm
COBRA mang tính tự phát và thử nghiệm, lấy cảm hứng từ các bức vẽ của trẻ em, từ hình thức nghệ thuật
nguyên thủy và từ công việc của Paul Klee và Joan Miró. Tuy chỉ tồn tại trong vài năm nhưng đã tổ chức
các Cobra định kỳ, một loạt hoạt động hợp tác giữa thành viên và hai triển lãm quy mô lớn được tổ chức tại
Bảo tàng Stedelijk ở Amsterdam (1949) và Palais des Beaux-Arts ở Liège (1951).
13. STOARC được thành lập vào năm 2008 với sự đóng góp của Stuart Purvis và Peter Fay: Stuart Purvis
với bộ sưu tập tranh vẽ trên giấy của những nghệ sỹ đã từng tham gia dự án nghệ thuật ở Melbourne và
Peter Fay với những tác phẩm điêu khắc của Jose dos Santos, nghệ sỹ Outsider Art người Bồ Đào Nha.
Jose dos Santos, sống trong ngôi làng nhỏ của Arega. Ông không biết đọc hay viết và hoàn toàn là một
nghệ sỹ tự học. Tuy nhiên, trong những năm cuối của cuộc đời mình ông đã sáng tác những tác phẩm điêu
khắc tuyệt vời.
14. Osiris là vị thần cai quản thế giới bên kia, đồng thời còn là vị thần bảo vệ sự sống, cây cỏ và cũng là
điều khiển việc dâng nước sông Nile. Các pharaoh Ai Cập thường mong được gặp Osiris sau khi chết với

niềm tin rằng Osiris giúp họ hưởng sự sống vĩnh cửu. Người Ai Cập tin rằng họ sẽ được Osiris bảo trợ sau
khi chết nếu thực hiện đầy đủ các nghi thức ma thuật.
15. Hyeronymus Bosh (1450-1516) là họa sỹ người Hà Lan, nổi tiếng với những tranh vẽ hư ảo, kỳ dị.
16. Ảnh trong bài sử dụng từ nguồn Internet.
Tài liệu tham khảo:
1. Colin Rhodes (2000), Outsider Art: Spontaneous Alternatives (World of Art). Publisher: Thames &
Hudson.
2. Dictionnaire Encyclopédique De La Peinture. 1994 Booking International Paris.



×