Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đạo phật với đạo nho về bản thể luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.35 KB, 12 trang )

A. MỞ ĐẦU
Nếu Phương đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Ấn Độ và
Trung Quốc là những trung tâm văn hóa và triết học cổ xưa, rực rỡ, phong phú
nhất của nền văn minh ấy. Đạo Phật và đạo Nho là một trong những trường phái
tiêu biểu ở Ấn Độ và Trung Quốc, cả hai đều chứa đựng những giá trị tư tưởng
triết học sâu sắc về thế giới quan và nhân sinh quan. Để nghiên cứu và hiểu được
tư tưởng triết học của đạo Phật và đạo Nho, trước hết ta phải hiểu được quan điểm
của đạo Phật và đạo Nho về vấn đề bản thể luận phân biệt được quan điểm của đạo
Phật và đạo Nho về vấn đề bản thể luận, rút ra được những đặc trưng cơ bản của
hai đạo này. Đó cũng là lý do mà nhóm em chọn đề tài: “Phân biệt quan điểm của
đạo Phật với đạo Nho về vấn đề bản thể luận.”
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm bản thể luận trong triết học
Bản thể luận (ontology) là lí luận nghiên cứu về bản chất của tồn tại. Trong
tiếng Hy Lạp, khái niệm này là một từ ghép giữa “on” (ontos) là “hữu thể, tồn tại”
với “logos” (logia) là “khoa học, nghiên cứu, học thuyết”, có nghĩa là một học
thuyết về tồn tại tự thân.
Trong các trường phái triết học phương Tây trước Mác phần lớn thường hiểu
“ bản thể luận” là chỉ bản chất tối hậu của mọi tồn tại, mà bản chất này phải thông
qua nhận thức luận mới có thể nhận thức được. Từ đó, các nhà triết học xây dựng
nên học thuyết bản thể luận và nhận thức luận của mình, tuy nhiên giữa bản thể
luận và nhận thức luận có mối quan hệ tương hỗ với nhau.
Theo triết học Mác thì phạm trù bản thể luận được dùng để chỉ những quy
luật vận động và phát triển của những cái đang tồn tại.


Bản thể luận là một trong hai mặt cơ bản của triết học, bàn về nguồn gốc của
thế giới: Vật chất có trước hay ý thức có trước? Cái nào quyết định cái nào?
Theo quan điểm của các nhà triết học nhất nguyên thì thừa nhận một thực
thể hoặc là vật chất hoặc là tinh thần sinh ra thực thể còn lại. Như vậy, các nhà triết
học theo quan điểm nhất nguyên chia ra thành hai trường phái là chủ nghĩa duy


tâm và chủ nghĩa duy vật.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết
định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có hai khuynh hướng là chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Theo đó, chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho
rằng: cảm giác, ý thức là cái có sẵn trong con người, là cái có trước, quyết định sự
tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng. Sự vật, hiện tượng chỉ là "tổng hợp các cảm
giác". Chủ nghĩa duy tâm khách quan lại cho rằng: ý thức, tinh thần ("ý niệm", "ý
niệm tuyệt đối", "tinh thần thế giới"...) là cái có trước con người trước thế giới vật
chất; nó quyết định sinh ra tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Tất cả các sự
vật, hiện tượng trong thế giới vật chất đều là biểu hiện (hay hiện thân) của một thứ
ý thức, tinh thần nào đó có trước thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức. Trong đó có chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăng ghen
sáng lập ra, đã thống nhất được chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng, và không
chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy vật trong cả lĩnh vực xã hội.
Bên cạnh các nhà triết học duy vật hay duy tâm triệt để, hay còn gọi là các
nhà triết học nhất nguyên, còn có các nhà triết học nhị nguyên. Họ cho rằng, vật
chất và ý thức tồn tại độc lập với nhau, không cái nào quyết định cái nào. Quan
điểm này muốn điều hòa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhưng xét đến
cùng thì họ rơi vào duy tâm, bởi vì cho ý thức có một cuộc sống riêng, tồn tại tách
khỏi vật chất.


II. Phân biệt quan điểm của đạo Phật với đạo Nho về vấn đề bản thể luận
Phật giáo là một trong những tôn giáo thế giới, là niềm tự hào của nhân dân
Ấn Độ, tuy là một tôn giáo song Phật giáo chứa đựng nhiều tư tưởng triết học độc
đáo và sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục lớn.
Nho giáo được Khổng Tử (551- 479 TCN) sáng lập và các thế hệ học trò nối
tiếp nhau phát triển học thuyết của ông. Trong số các học trò nổi bật lên là hai nhà
triết học là Mạnh Tử (327 - 289 TCN) và Tuân Tử (313 - 238 TCN). Chính vì vậy,

khi tìm hiểu vấn đề bản thể luận trong đạo Nho thì phải tìm hiểu quan điểm của
Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử là những triết gia tiêu biểu thời kỳ này.
1. Quan điểm về thế giới quan.
a. Quan điểm của Phật giáo
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo chứa đựng nhiều yếu tố duy vật
mộc mạc và biện chứng sơ khai, được thể hiện cụ thể trong các phạm trù sau:
- Phạm trù vô tạo giả (không có người sáng tạo đầu tiên)
Trái với quan điểm của kinh Vesda, đạo Bà La Môn và các môn phái triết
học đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo
và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng vũ trụ là vô thủy, vô chung, vạn vật trong thế
giới chỉ là dòng biến hóa vô thường, vô định không do một vị thần nào sáng tạo ra
cả. Thế giới là tự nó sinh thành.
- Phạm trù vô thường (không ổn định, luôn biến chuyển)
Phật giáo cho rằng thế giới là một dòng biến chuyển không ngừng. Muôn
vật, muôn loài trong thế giới vụt mất, vụt còn. Sự sinh tồn của vạn vật luôn tuân
theo chu trình: sinh (sinh ra) - trụ (tồn tại) - dị (biến đổi) - diệt (mất đi) hoặc thành


- trụ - hoại - không. Không có một sự vật, hiện tượng nào trong thế giới là nhất
thành bất biến, trường tồn vĩnh cửu cả.
- Phạm trù vô ngã (không có bản ngã - tức bản thể cá nhân, bản tính riêng
của sự vật)
Phật giáo cho rằng vạn vật quanh ta cũng như chính bản thân ta là ảo. Thế
giới, đặc biệt là thế giới hữu tình (có cảm giác, linh hồn) được sinh thành do sự
nhóm họp của danh (yếu tố tinh thần) và sắc (yếu tố vật chất). Nhưng danh và sắc
cũng chỉ nhóm họp với nhau trong chốc lát rồi lại biến tan. Sự vật chuyển sang
dạng tồn tại khác. Khi sự vật và hiện tượng mất đi thì bản chất của chúng cũng mất
theo. Do đó mà vô ngã, nghĩa là không có bản ngã tồn tại bên ngoài thể xác, không
có sự bất tử của linh hồn.
Tóm lại, tư tưởng biện chứng sâu sắc trong Phật giáo thể hiện trong việc

Phật giáo là một tôn giáo nhưng phủ nhận đấng sáng tạo tối cao (vô tạo giả). Tính
duy vật thể hiện rõ nhất ở quan niệm tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật,
không có sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào. Đó là quan điểm duy vật
biện chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.
b. Quan điểm của Nho giáo
- Quan điểm của Khổng Tử về trời và quỷ thần
Khi bàn về trời, Khổng Tử có sự dao động giữa lập trường duy vật và lập
trường duy tâm. Bởi lẽ, một mặt ông cho rằng trời chỉ là giới tự nhiên, là quy luật
bất biến của tự nhiên, trong đó có bốn mùa thay đổi, trăm vật sinh trưởng. Ông vẫn
thường dạy học trò của mình: “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành, vạn
vật cứ sinh hóa mãi”; hoặc “Cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, chảy
đi, không có gì ngưng nghỉ” (Luận ngữ). Vì vậy, tư tưởng của ông ở đây là tư


tưởng duy vật. Nhưng mặt khác, ông lại coi “Trời” như là một thực thể có ý chí, ý
chí của trời gọi là “Thiên mệnh”, là một lực lượng khách quan thần bí toàn năng,
có thể chi phối số phận và hoạt động của con người, do đó con người phải sợ mệnh
trời. Mỗi người, sự sống chết, phú quý hay nghèo hèn đều do thiên mệnh quy định.
Khổng Tử cho rằng “Sống chết có mạng, giàu sang tại trời”, “Đạo của ta thi hành
ra được cũng do mệnh trời, mà bị phế vong cũng là do mệnh trời”. Ông đặt hết
niềm tin vào ý chí của Trời và khuyên mọi người phục tùng ý chí đó. Ở đây lại thể
hiện tư tưởng duy tâm.
Khi bàn về Quỷ - Thần, Khổng Tử cho rằng con người tạo ra thần, con
người nên thờ cúng thần. Ông công nhận sự tồn tại của Quỷ - Thần“quỷ thần hoạt
động mạnh mẽ, nhìn không thấy họ, nghe không thấy họ, họ thể hiện trên mọi vật
nhưng ta không thể nghĩ ra”, nhưng theo ông, việc của Quỷ- Thần là việc cao xa, u
uẩn nên đối với Quỷ- Thần, con người phải kính trọng song chẳng nên gần gũi làm
gì.
Như vậy, tư tưởng của Khổng Tử mặc dù dao động giữa duy vật và duy tâm
nhưng đến cuối cùng vẫn là tư tưởng duy tâm khách quan (quan điểm trời là lực

lượng tự nhiên nhưng cuối cùng lại cho rằng có “Thiên mệnh” và con người phải
tuân theo).
- Quan điểm của Mạnh Tử
Mạnh Tử là người truyền bá và phát triển tư tưởng triết học của Khổng Tử
theo hướng duy tâm tiên nghiệm. Quan điểm triết học của Mạnh Tử trước hết biểu
hiện ở lòng tin vào mệnh trời, mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Ông cho rằng
có thiên ý, thiên đạo; thiên ý, thiên đạo có khả năng hóa sinh để thay đổi vạn vật.


- Quan điểm của Tuân Tử về trời và quỷ thần
Tuân Tử là nhà triết học duy vật kiệt xuất trong lịch sử triết học Trung Quốc
cổ đại, ông là người kế thừa tư tưởng và phát triển học thuyết của Đức Khổng Tử
nhưng khác với Mạnh Tử, ông phát triển học thuyết theo hướng duy vật, vô thần.
Khi bàn về trời, Tuân Tử đã phát triển những mặt duy vật trong quan niệm
của Khổng Tử để đề xuất quan niệm mới về mối quan hệ giữa trời, đất và con
người: Thiên - Địa - Nhân là ba bộ phận cấu thành của vũ trụ. Ông cho rằng mỗi
lĩnh vực có quy luật vận động và chức năng riêng của nó. Sự vận động của trời và
tự nhiên tồn tại khách quan, không theo ý chí của con người mà chuyển dịch:“Trời
không vì người ta sợ rét mà bỏ mùa đông, đất không vì người sợ xa mà rút ngắn
lại”. Và trời, đất, thiên mệnh cũng không quyết định, không can thiệp vào công
việc của con người. Con người gặp lành hay dữ, vận nước thịnh hay suy, yên hay
loạn đều do con người làm ra. Người quân tử, bậc chí nhân là người hiểu đạo trời,
không ỷ lại ở trời, không phụ thuộc vào trời mà lo làm tốt việc của người. Theo
ông, “Trời có bốn mùa, đất có sản vật, người có văn tự” (Thiên luận). Thiên chức
của trời, đất là toàn bộ sự sinh thành, biến hóa của các sự vật trong tự nhiên như sự
chiếu sáng của mặt trời, mặt trăng; sự chuyển động của các vì tinh tú; sự vận hành
của bốn mùa - đó là những cái không làm mà nên, không cầu mà được. Thiên chức
của con người là luôn luôn nghĩ về đạo của mình, đừng tranh thiên chức của trời
mà nên hành động thuận theo đạo trời, thuận theo lẽ tự nhiên, biết dùng những cái
trời đất đã tạo ra phục vụ cho cuộc sống của mình. “Trời có thời của trời, đất có

tài sản của đất, người có việc của người, ấy gọi là có thể ngang với trời đất. Bỏ
cái mình có thể ngang với trời đất, mà chỉ muốn ngang với trời đất thì lầm vậy”
(Thiên luận).


Khi bàn đến Quỷ- Thần, ông đã nhìn thấy sự kết hợp giữa văn hóa với yếu tố
mê tín trong tôn giáo và phủ định quan niệm thần bí về tôn giáo. Theo ông, chính
tâm lý sợ hãi và ảo giác của con người sinh ra quỷ thần: “Sao mà sa, cây mà kêu,
đó là cái biến hóa của trời đất âm dương, là sự ít khi xảy ra của vạn vật, cho là
quái lạ thì nên, mà lo sợ thì không nên” (Thiên luận). Ông nói, sự lành dữ, phúc
họa của con người đều là do kết quả hành vi của mình: Ra sức làm và tiết kiệm
trong sử dụng thì “trời” không bắt phải nghèo được; ăn uống đầy đủ, làm việc có
giờ giấc thì “trời” không thể gieo bệnh được ... Trên quan điểm vô thần, ông đã có
một nhận xét khá sâu sắc khi bàn đến các lễ nghi tôn giáo, ông cho rằng , các nghi
lễ như cầu mưa, cúng tế... chỉ là sự bày đặt của các nhà chính trị, có tính chất văn
hóa, để yên lòng người chứ thực ra không phải cầu mà được, cúng tế mà khỏi:
“Người quân tử lấy đó làm văn minh, còn trăm họ thì lấy đó làm thần linh. Lấy
làm văn minh thì tốt. Lấy làm thần linh thì xấu”.
Từ những quan điểm về thế giới quan của Phật giáo và Nho giáo ta có thể
phân biệt quan điểm về thế giới quan của Phật giáo và Nho giáo như sau: nếu như
thế giới quan Phật giáo chứa đựng những yếu tố duy vật và biện chứng chất phác,
phủ nhận quan điểm duy tâm cho rằng có một đấng tối cao nào đó sáng tạo ra con
người và thế giới thì đối với đạo Nho giáo, Khổng Tử là người mở đầu khai sinh ra
trường phái Nho giáo có sự dao động giữa lập trường duy vật và lập trường duy
tâm nhưng đến cuối cùng vẫn là tư tưởng duy tâm khách quan khi ông cho rằng
trời là lực lượng tự nhiên có Thiên mệnh chi phối mọi hoạt động của con người và
con người phải tuân theo. Sau khi Khổng Tử mất, Mạnh Tử và Tuân Tử đã kế thừa
và phát triển tư tưởng của Khổng Tử, nhưng theo hai hướng khác nhau. Mạnh Tử
phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới đỉnh
cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà không do

mệnh trời, mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Còn Tuân Tử


lại có quan điểm duy vật tương đối triệt để về thế giới. Tuân Tử đã phủ nhận vai
trò quyết định của thiên mệnh đối với vận mệnh xã hội và con người, đồng thời
ông cũng thừa nhận tính khách quan của quy luật tự nhiên.
2. Quan điểm về nhân sinh quan.
a. Quan điểm của Phật giáo
Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan được thể hiện cụ thể qua các
phạm trù sau đây:
- Phạm trù nhân duyên:
Tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ, theo triết học Phật giáo, từ
cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn, đều không thoát ra khỏi sự chi phối của luật
nhân duyên…. Nhân quả là một vòng tuần hoàn liên tục. Nhân (hetu) tạo thành quả
(phala) rồi trong quả lại manh nha nhân. Nhưng nhân muốn thành quả thì phải
thông qua sự nối kết của duyên (pratitya). Duyên là điều kiện, là mối liên hệ trợ
giúp cho nhân ở trong trạng thái khả năng biến thành hiện thực. Cứ thế, nối tiếp
nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh, hóa hóa mãi. Ví
như hạt thóc là quả của cây lúa đã thành và là nguyên nhân của cây lúa sắp thành.
Nhưng hạt thóc muốn thành cây lúa phải có đất, nước, không khí, độ ẩm thích hợpnhững yếu tố đó chính là duyên.
Như vậy, về quan điểm nhân sinh quan, Phật giáo nói đến sự vô thường của
con người, không có trường sinh. Con người cũng không phải là thực thể tối cao,
nó cũng phải chịu theo luật sinh- lão- bệnh- tử... Theo Phật giáo, mọi mưu toan làm
cho cái ta (ngã) trường tồn đều là sai lầm, trái với chân lý của Phật. Phật giáo được
gọi là “đạo sắc sắc – không không”. Không thể có cái tôi “vĩnh hằng”, thực chất là
không có tôi, “vô ngã”. Theo Phật giáo, vạn vật tuân theo luật nhân quả. Nhân
duyên là những quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian của các sự vật.


Một sự vật ảnh hưởng dây chuyền (duyên) đến tất cả các sự vật khác. Trong một có

tất cả, trong tất cả có một. Sự vật không có thực thể, chỉ hư ảo tạm thời: sinh ra vì
nhân duyên hòa hợp thành (sắc) diệt đi vì nhân duyên tan rã (không). Biện chứng ở
vô ngã, vô thường, bản chất của sự vật không tồn tại vĩnh viễn, bất biến, luôn vận
đồng để chuyển sang một trạng thái khác. Vạn vật đều sinh ra, trú, rồi bị tiêu diệt.
b. Quan điểm của đạo Nho
Khổng Tử cố ý tránh né nói đến cái chết, khuyên con người hãy quay về với
cuộc sống thực và đề cao sự nỗ lực của mỗi cá nhân. Ông cho rằng việc sống ngày
hôm nay còn chưa biết hết huống chi chết. Trong quyển Biện vật, bộ Thuyết Uyển
có chép một đoạn như sau: Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy, người chết có biết
gì không hay không biết gì nữa?”. Khổng Tử đáp: “Nếu ta nói người chết có biết
thì e rằng những đứa con cháu hiếu thảo sẽ bắt chước chết theo ông bà cha mẹ.
Nếu ta nói người chết không biết thì e rằng những đứa con cháu bất hiếu sẽ vứt
xác ông bà cha mẹ chúng mà không chôn cất. Muốn biết người chết có biết hay
không biết, thong thả đợi đến lúc chết sẽ tự biết, lúc đó cũng còn chưa muộn”.
Khổng Tử cũng cho rằng nếu con người sống trên đời có đức có nhân thì khi chết
sẽ được lên với trời còn ngược lại sẽ bị đày xuống địa ngục, quỷ dữ giày xéo.
Mạnh Tử tin rằng mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Tuy vậy, có lúc ông
lại cho rằng, thiên ý, thiên đạo nằm ở trong tâm con người và những bậc quân tử
nhờ tu dưỡng đã đạt đến mức cực thiện cực mĩ cũng có thể cảm hóa được mọi giới.
“Vạn vật có đủ trong ta. Chỉ cần thành ý, chánh tâm thì có thể nhận thức được tất
cả”. Như vậy, Mạnh Tử cũng cho rằng từ tâm của con người sinh ra vạn vật, do đó
tư tưởng của ông chứa đựng cả duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan.
Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử vừa khẳng định tính khách quan của quy luật
tự nhiên (trời có việc của trời, người có việc của người) nhưng vẫn đề cao vai trò


tích cực chủ quan của con người trong hoạt động thực tiễn. Ông đề ra học thuyết
con người có thể tải tạo được tự nhiên, bằng tài trí, khả năng của mình, lợi dụng
quy luật của thiên nhiên (Tri Thiên mệnh nhi đụng chi) để chiến thắng thiên nhiên,
“Tôn thờ trời sao bằng cứ làm ra thật nhiều của cải mà dùng; cứ ca tụng trời sao

bằng biết sử dụng thuận theo mệnh trời mà làm; chờ thời sao bằng thuận ứng theo
thời mà làm” (thiên "Bàn về trời").
Tóm lại, sự khác nhau giữa Phật giáo và Nho giáo về nhân sinh quan là Phật
giáo cho rằng sự tồn tại của con người và xã hội loài người là ảo ảnh, vạn vật đều
sinh ra trú rồi bị tiêu diệt. Vì thế Phật giáo chủ trương “xuất thế” “siêu thoát”,
hướng con người trông đợi vào một thế giới siêu thực, một hạnh phúc mong manh,
hư ảo. Còn đối với Đạo nho, thì cả Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử đều đề cao
con người, sự nỗ lực của mỗi cá nhân. Khổng Tử cố ý tránh né nói đến cái chết,
khuyên con người hãy quay về với cuộc sống thực. Mạnh Tử cho rằng chỉ cần con
người có thành ý, chánh tâm thì sẽ nhận thức được tất cả. Tuân Tử cũng đề cao vai
trò tích cực chủ quan của con người trong hoạt động thực tiễn. Như vậy, nếu với
Phật giáo hướng con người vào mục đích giải thoát bằng lối sống tu hành khổ hạnh
xa lánh trần gian, làm cho con người hướng tới tư tưởng thủ tiêu đấu tranh thì Nho
giáo hướng con người nỗ lực cố gắng phấn đấu, dùng tài trí, khả năng của mình, lợi
dụng quy luật thiên nhiên để chiến thắng thiên nhiên mà sáng tạo ra nhiều của cải,
sản vật để phục vụ đời sống của con người.
C. KẾT LUẬN
Khi nghiên cứu và tìm hiểu quan điểm của đạo Nho và đạo Phật về vấn đề
bản thể luận thì nhóm đã thấy và phân biệt được quan điểm giữa hai đạo này về
vấn đề bản thể luận. Nếu như thế giới quan Phật giáo chứa đựng nhiều yếu tố duy
vật mộc mạc và biện chứng sơ khai, thì Khổng Tử - người sáng lập ra đạo Nho lại
dao động giữa quan điểm duy tâm và duy vật, nhưng khi đánh giá đến cùng thì


Khổng Tử là người mang tư tưởng duy tâm. Hai học trò tiêu biểu của Khổng Tử là
Mạnh Tử và Tuân Tử lại có hai chiều hướng phát triển ngược nhau. Nếu như Mạnh
Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy theo
hướng duy tâm, chuyển từ quan điểm duy tâm khách quan sang duy tâm chủ quan
thì Tuân Tử lại có quan điểm duy vật tương đối triệt để về thế giới. Việc nghiên
cứu quan điểm của đạo Nho và đạo Phật về vấn đề bản thể luận không những giúp

cho chúng ta có cái nhìn đúng đắn về thế giới quan của đạo Nho và đạo Phật, mà
còn giúp chúng ta có nền tảng để nghiên cứu, cũng như lĩnh hội được các triết lí
sâu sắc của đạo Phật và đạo Nho.

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học ( dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
chuyên ngành Triết học);
2. Bộ Giáo dục và đào tạo- C.Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập 20 -Nxb Chính trị
quốc gia-1994;


3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Triết học cổ đại. TS Lê Công Sự.



×