Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới ck tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.74 KB, 46 trang )

KHOA LUẬT

NGUYỄN DƯƠNG ANH KHOA

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MÔI
GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


KHOA LUẬT

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

Đề tài:

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MÔI
GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM

GVHD: PGS.TS Lê Vũ Nam.
SVTH: Nguyễn Dương Anh Khoa.
Mssv: K115041694

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CTCK: Công ty chứng khoán;
SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán;


UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà Nước;
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn;
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán;
TTLKCK: Trung tâm lưu ký chứng khoán.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG
KHOÁN TẠI VIỆT NAM ................................................................................... 3
1.1

Những vấn đề cơ bản về hoạt động môi giới chứng khoán: ................... 3

1.1.1

Lịch sử hình thành nghề môi giới chứng khoán: ............................. 3

1.1.2

Khái niệm về môi giới chứng khoán: ............................................... 4

1.1.3

Chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán: ........................... 6

1.1.4

Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán: ................................. 7


1.2

Xung đột lợi ích trong hoạt động môi giới chứng khoán: .................... 12

1.3
Nam:

Gới thiệu pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán tại Việt
............................................................................................................... 12

1.3.1

Khái quát về pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán:
........................................................................................................ 13

1.3.2

Đặc điểm pháp luật môi giới chứng khoán: ................................... 13

1.3.3

Cấu trúc pháp luật môi giới chứng khoán: ..................................... 14

1.3.4

Các mối quan hệ được pháp luật môi giới điều chỉnh: .................. 15

Chương 2:CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT, THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT

NAM ............................................................................................................... 17
2.1

Các quy định pháp luật: ........................................................................ 17

2.1.1

Các quy định về chủ thể thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán:
........................................................................................................ 17

2.1.2

Quy định về việc thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán: ...... 21

2.1.3
khoán:

Quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong hoạt động môi giới chứng
........................................................................................................ 24

2.1.4
Các biện pháp giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động môi
giới chứng khoán: ................................................................................................ 25
2.2

Đánh giá thực trạng pháp luật môi giới chứng khoán: ......................... 27

2.3
Những vấn đề bất cập trong hoạt động môi giới chứng khoán và pháp
luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán: ............................................... 28



2.3.1

Xung đột lợi ích giữa nhân viên môi giới và khách hàng: ............. 28

2.3.2

Vấn đề đạo đức nghề nghiệp chưa được chú trọng:....................... 28

2.3.3
Pháp luật chưa cụ thể hóa các hành vi vi phạm xảy ra trong hoạt
động môi giới chứng khoán: ................................................................................ 28
2.3.4
Còn thiếu những quy định điều chỉnh hoạt động môi giới chứng
khoán trên thị trường OTC: ................................................................................ 29
2.3.5

Vấn đề về việc cấm sử dụng cộng tác viên môi giới chứng khoán: ..
........................................................................................................ 30

2.3.6

Các chế tài trong hoạt động môi giới còn chưa đầy đủ: ................ 31

2.4
Kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động môi giới chứng khoán
và pháp luật môi giới chứng khoán: .................................................................... 32
2.4.1


Hoàn thiện pháp luật chứng khoán: ............................................... 32

2.4.2

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật môi giới chứng khoán: ................. 33

2.4.3
Tăng cường công tác quản lý giám sát của các cơ quan quản lý công
ty chứng khoán. .................................................................................................... 34
2.4.4
Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp trong hoạt động môi giới
chứng khoán: ........................................................................................................ 35
2.4.5

Tăng cường năng lực quản lý của công ty chứng khoán: .............. 35

2.4.6

Giải quyết xung đột lợi ích giữa nhân viên môi giới và khách hàng:
........................................................................................................ 36

2.4.7

Giải pháp về phía khách hàng: ....................................................... 37

PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................ 39


1


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Thị trường chứng khoán là loại thị trường đặc biệt, ở đó thực hiện trao đổi,
mua bán các loại chứng khoán, “tư bản giả”, những hàng hóa khác với hàng hóa thông
thường. Trên thị trường này có nhiều người tham gia, nhưng người có khả năng phân
tích và xác định được giá cả của chứng khoán trên thị trường số lượng còn hạn chế.
Chính vì vậy trong quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, môi
giới chứng khoán đã trở thành hoạt động nghiệp vụ đặc trưng và là nghiệp vụ cơ bản
trên thị trường chứng khoán, được nhiều người chấp nhận và dần dần mọi hoạt động
giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị trường đều được thực hiện qua môi giới
chứng khoán. Có thể nói môi giới chứng khoán là một hoạt động quan trọng và không
thể thiếu cho sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài
chính nói chung. Ngược lại, sự phát triển của thị trường tài chính và thị trường chứng
khoán cũng tạo điều kiện cho nghề môi giới phát triển. Chính vì vậy đứng trước yêu
cầu phát triển hoàn thiện thị trường chứng khoán tại Việt Nam không thể phủ nhận
vai trò của việc phát triển hoạt động môi giới chứng khoán. Muốn vậy trước hết ta
phải hoàn thiện được khung pháp lý cơ bản điều chỉnh cho hoạt động này.
Đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển thị trường chứng khoán song
hoạt động môi giới tại Việt Nam vẫn chưa nhận được quan tâm đúng mức. Minh
chứng cho việc đó là pháp luật của Việt Nam về hoạt động môi giới chứng khoán còn
khá mờ nhạt và quá ít, thực tế chưa tạo được cơ sở pháp lý cho hoạt động môi giới
phát triển. Với nhận thức như vậy, em đã chọn đề tài “Pháp luật điều chỉnh hoạt động
môi giới chứng khoán” làm đề tài báo cáo thực tập với mong muốn tìm hiểu chuyên
sâu những vấn đề về hoạt động môi giới chứng khoán và pháp luật về hoạt động môi
giới chứng khoán từ đó nêu lên những hạn chế của pháp luật Việt Nam đối với hoạt
dộng này và những kiến nghị nhằm mục đích phát triển hoạt động môi giới chứng
khoán.
Mục đích, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục tiêu tổng quát tìm ra được các luận cứ khoa

học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về môi giới chứng khoán tại Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu tổng quát, bài báo cáo cần đạt được những mục tiêu cụ thể như
sau:


2

Thứ nhất, nghiên cứu vấn đề lý luận về về hoạt động môi giới chứng khoán
trên cơ sở làm rõ bản chất, vai trò và chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán.
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích và đưa ra những đánh giá về tình trạng hệ thống
pháp luật hiện nay đối với hoạt động môi giới chứng khoán từ đó rút ra những điểm
hoàn thiện và những hạn chế của pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán.
Thứ ba, dựa vào những phân tích, đánh giá, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp
hoàn thiện pháp luật về môi giới chứng khoán.
Đối tượng nghiên cứu:
-

Một số vấn đề lý luận chung về môi giới chứng khoán;
Quy định pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán;
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về môi giới chứng khoán.

Phạm vi nghiên cứu:
Khuôn khổ đề tài chỉ giới hạn vấn đề nghiên cứu trong phạm vi liên quan đến
hoạt động môi giới chứng khoán và pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới tại Việt
Nam.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích để rút ra các đánh
giá, nhận xét tổng quát nhằm làm sáng tỏ quan điểm về vấn đề nghiên cứu đặt ra.
Bố cục bài báo cáo:
Phần mở đầu.

Nội dung chính: bao gồm
-

Chương 1: Tổng quan về hoạt động môi giới chứng khoán và pháp luật điều
chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán tại Việt Nam.
Chương 2: Các quy định pháp luật, thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về môi giới chứng khoán tại Việt Nam.

Phần kết luận.


3

Chương 1 : TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG
KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI
CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
1.1

Những vấn đề cơ bản về hoạt động môi giới chứng khoán:

1.1.1 Lịch sử hình thành nghề môi giới chứng khoán:
Nghề môi giới chứng khoán xuất hiện trước đây khá lâu, lâu hơn nghề tư vấn
tài chính độc lập chuyên về hoạt động bảo hiểm rất nhiều. Ngay từ trước năm 1773,
năm mà thị trường chứng khoán được hình thành, những người môi giới đã tiến hành
giao dịch cổ phiếu của các công ty tại các quán café của Anh. Khi nhu cầu tài chính
tăng lên, việc giao dịch các tài sản tài chính thường được diễn ra trong các phòng trà
trước khi Sở giao dịch chứng khoán London được thành lập. Tài sản tài chính ở đây
chủ yếu là các cổ phiếu. Các công ty thu hút vốn đầu tư bằng cách phát hành cổ phiếu
và bán ở Sở giao dịch chứng khoán. Trong khi đó, các nhà đầu tư chứng khoán thì
kiếm tiền bằng cách bán cổ phiếu ở mức giá cao hơn mức họ mua vào. Ban đầu, Sở

giao dịch chứng khoán London vận hành dựa vào hai đối tượng là các nhà môi giới
(stockbroker) và những người chạy việc (jobber). Những người chạy việc chạy quanh
sàn giao dịch để mua và bán cổ phiếu cho các nhà môi giới. Họ kiếm tiền bằng khoản
chênh lệch giữa mức mà nhà môi giới đồng ý bỏ ra để mua cổ phiếu với mức mà họ
mua vào. Trong khi các nhà môi giới kiếm tiền bằng khoản phí hoa hồng mà họ được
trả khi tiến hành giao dịch mua bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư.
Hệ thống vận hành nói trên của Sở giao dịch chứng khoán London không hề
thay đổi trong suốt từ những năm 1800 cho đến những năm 1980. Nhu cầu sở hữu cổ
phiếu của công chúng bắt đầu tăng lên. Các con số thống kê cho thấy nếu những năm
1960, 30 tổ chức tài chính nắm giữ hầu hết các cổ phiếu giao dịch trên thị trường thì
đến năm 1981 họ chỉ còn chiếm 58% lượng cổ phiếu. Như thế nghĩa là Sở giao dịch
chứng khoán London phải giải quyết một số lượng lớn các giao dịch. Thực tế như
vậy đòi hỏi Sở giao dịch chứng khoán London phải thay đổi lại cách thức hoạt động.
Những người chạy việc (jobber) được phép mua và bán chứng khoán như các nhà
môi giới trong khi vẫn có thể tiếp tục làm việc cho các nhà môi giới. Nhờ thế mà có
thể giải quyết được số lượng giao dịch ngày càng tăng.
Khi cuộc cách mạng công nghiệp nổ ra, phố Wall trở nên nhộn nhiệp hơn với
các hoạt động mua bán chứng khoán. Chứng khoán được mua đi bán lại bởi những
người không phải là thành viên trong Ủy ban, và diễn ra ngay trên đường phố vì rất
ít người có đủ khả năng tài chính để mở văn phòng. Những người này được gọi là các


4

“nhà môi giới đá lát đường” (Curbstone stockbroker). Nghề môi giới chứng khoán ở
Mỹ cũng bắt đầu phát triển mạnh kể từ đó. Thị trường mua bán mà những người môi
giới này tạo nên cũng được gọi là “thị trường lề đường” (Curb Market).
Đầu những năm 1900, “thị trường lề đường” phát triển lớn mạnh và các nhà
môi giới đã mở được văn phòng ở các khu phố lớn. Do việc giao dịch diễn ran gay
trên hè phố, mỗi lần như vậy, những người môi giới lại phải hét thật to để người bên

kia đường nghe thấy. Cách liên lạc này quả thật rất bất tiện vì rất dễ nhầm lẫn với
những tiếng la hét khác trên đường phố. Vì vậy, hệ thống giao dịch bằng cách ra dấu
hiệu tay đã được chính các nhà môi giới này phát minh và sử dụng rộng rãi. Dần dần,
cách ra dấu hiệu bằng tay đã trở thành dấu hiệu trong giao dịch giữa những người môi
giới.
Đầu những năm 1920, “thị trường lề đường” chuyển đến nơi mà ngày nay là
số 86 Trinity Place, chấm dứt kiểu thị trường giao dịch ngoài hè phố. Nhiều năm sau
đó, năm 1952, dựa trên cơ sở thị trường vốn có, Sở giao dịch chứng khoán Mỹ
(AMEX) đã chính thức được thành lập. Nghề môi giới càng có điều kiện phát triển
mạnh hơn.
Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán ở một loạt các nước trên
thế giới, nghề môi giới cũng ngày càng phát triển và không ngừng hoàn thiện. Nghề
môi giới chứng khoán từ chỗ diễn ra trên các đường phố, rồi tiến vào sàn giao dịch,
ngày nay đã phát triển lên thành môi giới chứng khoán trực tuyến. Nhà đầu tư với
máy tính kết nối internet có thể giao dịch chứng khoán qua mạng, vừa cập nhật thông
tin nhanh chóng, tiện lợi, vừa tiết kiệm được chi phí. Ngược lại, với vai trò là nhịp
cầu kết nối người mua và người bán, tạo điều kiện thuận lợi để phát sinh các giao
dịch, các thương vụ có thể nói nghề môi giới sẽ là nhân tố quan trọng đẩy sự phát
triển và hoàn thiện của thị trường chứng khoán.
1.1.2 Khái niệm về môi giới chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là một thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường. Với
nguên tắc đặc trưng cơ bản là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này đòi hỏi việc giao
dịch, mua bán hàng hóa trên thị trường phải thực hiện qua các tổ chức, cá nhân làm
trung gian, đó là CTCK và nhân viên môi giới, người hành nghề môi giới chứng
khoán. Nghề môi giới chứng khoán trên thị trường chứng khoán được hình thành
trong mối quan hệ hữu cơ qua lại giữa các nhân viên môi giới với CTCK và chính
mối tương quan này lại tác động tới sự vận hành và phát triên của thị trường chứng
khoán.



5

Môi giới chứng khoán là hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó có một
CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại
SGDCK hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với
hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Theo Luật Chứng Khoán 2006 định nghĩa về môi giới chứng khoán như sau:
“Môi giới chứng khoán là việc CTCK làm trung gian thực hiện việc mua bán chứng
khoán cho khách hàng.”
Tiếp cận theo hướng này, môi giới chứng khoán được hiểu như là một dịch vụ
của CTCK, theo đó CTCK cung cấp dịch vụ môi giới chỉ có công việc thực hiện việc
mua bán chứng khoán cho khách hàng. Khác với nghề môi giới trong lĩnh vực khác,
môi giới chứng khoán là hoạt động nghiệp vụ mang tính chuyên nghệp cao, yêu cầu
người môi giới có kỹ năng, có chuyên môn, có trình độ nghiệp vụ, có đạo đức nghề
nghiệp, đồng thời yêu cầu phải có môi trường hỗ trợ khá đa dạng.
Tương ứng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, hoạt động môi giới
chứng khoán cũng trở nên đa dạng hơn. Vì thế khó có thể có được một khái niệm nào
có thể bao quát hết được hoạt động này. Tuy nhiên, có thể hiểu về môi giới chứng
khoán theo hai cách tiếp cận sau:
Thứ nhất, hoạt động môi giới chứng khoán với vai trò là dịch vụ của công ty
chứng khoán. Đây cũng là phương pháp tiếp cận chủ yếu được pháp luật Việt Nam
sử dụng. Hiểu theo cách tiếp cận này, hoạt động môi giới chứng khoán là một trong
các dịch vụ của CTCK, CTCK cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán cho khách
hàng và hưởng lợi từ việc cung cấp dịch vụ do đó CTCK là chủ thể trực tiếp chịu
trách nhiệm khi có vấn đề phát sinh trong quá trình cung cấp dịch vụ môi giới cho
khách hàng. Để thực hiện dịch vụ môi giới, CTCK phải đáp ứng các điều kiện về cấp
phép hoạt động như điều kiện về vốn, về quản lý, điều kiện nhân sự và điều kiện về
cơ sở vật chất.
Thứ hai, tiếp cận môi giới chứng khoán với vai trò là một hoạt động nghiệp vụ
của người hành nghề môi giới, nhân viên môi giới. Với cách tiếp cận này, môi giới

chứng khoán được hiểu là một loại hình nghiệp vụ của cá nhân. Cá nhân có thể tự
mình (đối với môi giới tự do) hoặc đại diện cho CTCK cung cấp dịch vụ môi giới cho
khách hàng và hưởng lợi từ khoảng hoa hồng từ giao dịch của khách hàng. Để thực
hiện hoạt động môi giới đòi hỏi cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, đáp
ứng đủ điều kiện về chuyên môn nghiệp vụ, ngoài ra còn yêu cầu về đạo đức nghề
nghiệp.


6

1.1.3 Chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán:
1.1.3.1Chức năng cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng:
CTCK thông qua các nhân viên bán hàng cung cấp cho khách hàng các báo cáo
nghiên cứu và những khuyến nghị đầu tư. Để làm được việc này thường có một bộ
phận nghiên cứu trong công ty. Định kỳ hàng tuần, bộ phận nghiên cứu của CTCK
cung cấp cho các nhà môi giới rất nhiều thông tin nghiên cứu kèm theo những khuyến
nghị cụ thể về loại chứng khoán cần mua, bán. Nhân viên môi giới sử dụng những
thông tin này để cung cấp cho khách hàng của mình tùy theo yêu cầu cụ thể của từng
khách hàng.
Ngoài những thông tin từ bộ phận nghiên cứu của CTCK, hàng ngày các nhân viên
môi giới còn phải tiếp cận với các mạng thông tin từ nhiều nguồn khác nhau về các
tin tức tài chính, lãi suất, tin tức thị trường và các tin tức liên quan đến chứng khoán
mà khách hàng nắm giữ và cung cấp cho khách hàng. Không có người môi giới, nhà
đầu tư hoàn toàn phụ thuộc vào các nguồn thông tin hạn chế về chứng khoán đang
nắm giữ. Từ các thông tin của người môi giới, khách hàng có thể yên tâm giao dịch
vì các rủi ro về thông tin đã được giảm thiểu đáng kể.
Nhờ các thông tin được cung cấp từ bộ phận phân tích của CTCK và các thông tin tự
mình tìm được, người môi giới mới có đủ kiến thức trở thành nhà tư vấn tài chính
cho khách hàng. Thị trường chứng khoán càng phát triển, hàng hóa cho thị trường
càng phong phú, đa dạng, các trung gian tài chính càng đem đến cho thị trường nhiều

sản phẩm mới, công cụ phái sinh có chất lượng cao hơn so với sản phẩm thông
thường, thì vai trò của người môi giới ngày càng trở nên quan trọng1. Bên cạnh việc
chào bán chứng khoán và cung cấp các dịch vụ đơn giản cho khách hàng, người môi
giới có thể giới thiệu với khách hàng các loại cổ phiếu, trái phiếu mới phát hành, đơn
vị tín thác của các quỹ tín thác, chứng chỉ quỹ đầu tư và các công cụ đầu tư khác, và
quan trọng hơn là đề xuất các phương thức kết hợp các chứng khoán đơn lẻ trong một
tập hợp danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro cho khách hàng và tối đa hóa lợi
nhuận vì lợi ích của khách hàng.
Mặc dù môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư là hai nghiệp vụ riêng biệt, song hoạt
động môi giới chứng khoán, nếu hiểu theo nghĩa rộng có hàm lượng tư vấn đầu tư
khá cao. Nhà đầu tư mong chờ người môi giới giúp họ trong việc ra các quyết định

1

Bùi Thị Thanh Hương, Giáo trình môi giới và tư vấn đầu tư chứng khoán, NXB thống kê, (2009), Tr12.


7

như: Cho biết thời điểm nên mua; Cho biết thời điểm nên bán; Cho biết những thông
tin mới nhất về những gì đang diễn ra trên thị trường.
1.1.3.2Chức năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính giúp khách hàng thực
hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của khách hàng:
Người môi giới nhận đơn đặt hàng của khách hàng và thực hiện yêu cầu cho họ. Đây
là một quá trình từ việc hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tại công ty, tiến hành
giao dịch, xác nhận giao dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách hàng.
Sau khi giao dịch được thực hiện, người môi giới phải tiếp tục thực hiện các công
việc như chăm sóc tài khoản của khách hàng, đưa ra những khuyến cáo và cung cấp
thông tin, giải pháp, chiến lược đầu tư phù hợp phục vụ cho khách hàng.
Các CTCK với chức năng môi giới chứng khoán phải đảm bảo các điều kiện vật chất,

kỹ thuật và điều kiện pháp lý để đảm bảo giao dịch cho khách hàng được thực hiện
một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả, đồng thời đề phòng trường hợp xảy ra
tranh chấp thì có căn cứ pháp lý giải quyết thỏa đáng. Để thực hiện được chức năng
này, bộ máy của CTCK phải được tổ chức thành các phòng ban chức năng phù hợp,
với những quy trình hoạt động chặt chẽ, khoa học.
Tùy theo trình độ và xu hướng phát triển của thị trường, hai chức năng trên được triển
khai theo nhiều cấp độ khác nhau. Trên những thị trường chứng khoán sơ khai, hàng
hóa còn đơn giản, các loại hàng hóa rất hạn chế và số lượng nhà đầu tư không nhiều,
chức năng tư vấn dường như là không cần thiết, thay vào đó hoạt động tiếp thị, tư vấn
đầu tư, giới thiệu sản phẩm trên diện rộng lại cực kỳ quan trọng. Ở những thị trường
phát triển hơn, để thỏa mãn những yêu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, môi giới
chứng khoán không đơn thuần là giao dịch chứng khoán hộ khách hàng mà là cung
cấp một loạt các dịch vụ liên quan như cung câp thông tin, tư vấn, lập kế hoạch tài
chính cho khách hàng, …
1.1.4 Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán:
1.1.4.1 Vai trò trung gian huy động vốn, tham gia tạo kênh huy động vốn hiệu quả
cho đầu tư và phát triển nền kinh tế:
Sự phát triển của nền kinh tế luôn có sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ với sự vận
động, chu chuyển của các luồng vốn. Sự vận động này như những mạch máu trong
cơ thể. Hiệu quả của sự vận động này có tác động quan trọng đến chất lượng và tốc
độ phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng, CTCK, các quỹ đầu tư đều là các trung gian
tài chính hoạt động trên thị trường tài chính, thị trường chứng khoán nhằm huy động


8

vốn cho nền kinh tế. Các tổ chức này giữ vai trò là kênh dẫn vốn từ một bộ phận là
các cá nhân, tổ chức có vốn nhàn rỗi đến bộ phận khác trong nền kinh tế đang thiếu
vốn, cần huy động vốn. Sự vận động của luồng vốn thường diễn ra theo nhiều kênh
khác nhau, tuy nhiên có hai kênh quan trọng và hiệu quả nhất là thông qua hệ thống

ngân hàng và thị trường chứng khoán. Đặc điểm chung của hệ thống ngân hàng là
huy động những nguồn tiền tiết kiệm để cung cấp những nguồn vốn chủ yếu là ngắn
hạn và trung hạn cho nền kinh tế. Chính vì vậy, yêu cầu cung cấp các nguồn vốn trung
và dài hạn được đặt lên vai của thị trường chứng khoán2.
Với vai trò là tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ tài chính, CTCK cung cấp
cho hoạt động của thị trường chứng khoán được thực hiện một cách hiệu quả và ổn
định. Để phát huy vai trò này, CTCK thực hiện chức năng chủ yếu như sau: tạo cơ
chế huy động vốn bằng cách kết nối với người có tiền, nhà đầu tư với những người
huy động vốn. Các CTCK thường thực hiện chức năng này qua hoạt động bảo lãnh
phát hành và môi giới chứng khoán; cung cấp cơ chế xác định giá cho các khoảng
đầu tư, can thiệp trên thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán; cung cấp cơ chế
chuyển các khoảng đầu tư thành tiền cho các nhà đầu tư, giảm thiểu thiệt hại cho các
nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư. Trên thực tế, CTCK phải tìm kiếm khách hàng có
vốn nhàn rỗi, có nhu cầu đầu tư vào các công cụ trên thị trường tài chính để thu hút
các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của tổ chức, cá nhân và thông qua cơ chế hoạt động
của thị trường, CTCK, người môi giới giúp biến những nguồn vốn ngắn hạn thành
vốn đầu tư dài hạn để cung cấp một cách tương đối ổn định cho các doanh nghiệp đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh. Chính nhờ những người môi giới, người bán hàng
tư vấn mà việc mua bán các loại cổ phiếu, trái phiếu trở nên tấp nập; qua đó, một
lượng vốn không lồ được đưa vào đầu tư từ những nguồn vốn lẻ trong công chúng
được tập hợp lại.
1.1.4.2 Giảm chi phí giao dịch:
Hoạt động môi giới chứng khoán ra đời vì nguyên nhân khách quan là nhu cầu
gặp nhau giữa người có vốn và người cần vốn. Song trong quá trình hoạt động của
thị trường chứng khoán, hoạt động môi giới chứng khoán còn chứng tỏ việc nó có vai
trò quan trọng và không thể thiếu để thị trường chứng khoán phát triển là khả năng
giảm chi phí giao dịch, tiết kiệm tiền cho nhà đầu tư. Một đặc điểm phân biệt hoạt
động môi giới chứng khoán so với các hoạt động môi giới khác là ngoài việc là cầu

2


Bùi Thị Thanh Hương, Giáo trình môi giới và tư vấn đầu tư chứng khoán, NXB thống kê, (2009), Tr29.


9

nối để người có vốn và người cần vốn gặp nhau thì chức năng cơ bản và chủ yếu của
người môi giới trong thị trường chứng khoán hiện nay là thực hiện các giao dịch thay
cho khách hàng. Chính việc những người môi giới là nơi để các nhà đầu tư có thể gặp
nhau và người môi giới thực hiện giao dịch liên quan thay cho khách hàng của mình
đã tiết kiệm chi phí giao dịch rất nhiều so với hình thức giao dịch cổ điển. Ở mọi thị
trường, để thực hiện việc giao dịch, người mua và bán phải gặp nhau, trao đổi thẩm
định chất lượng hàng hóa và thỏa thuận về giá cả. Tuy nhiên trên thị trường chứng
khoán - thị trường của những sản phẩm bậc cao, để thực hiện việc thẩm định chất
lượng và giá cả hàng hóa cần phải bỏ ra chi phí rất lớn để phục vụ cho việc thu thập,
xử lý thông tin, đào tạo kỹ năng phân tích và tiến hành giao dịch theo một quy trình
xác định của hệ thống thị trường đấu giá tập trung. Những chi phí đó chỉ có những
CTCK hoạt động chuyên nghiệp và có quy mô lớn mới có thể thực hiện được. Ngoài
ra, sự hiện diện của một tổ chức trung gian chuyên nghiệp làm cầu nối cho các bên
mua, bán gặp nhau làm giảm chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và chi phí
giám sát thực thi hợp đồng. trong trường hợp này, môi giới chứng khoán giúp tiết
kiệm chi phí giao dịch kể cả với từng giao dịch riêng lẻ, cũng như đối với tổng chi
phí các giao dịch trên thị trường.
1.1.4.3 Tư vấn đầu tư chứng khoán:
Khi thực hiện chức năng môi giới chứng khoán, các CTCK và nhân viên môi
giới của công ty phải cung cấp cho khách hàng thông tin, loại chứng khoán và cách
thức, thời điểm mua bán chứng khoán, và vấn đề có tính quy luật của hoạt động đầu
tư chứng khoán. Nghiệp vụ này đòi hỏi nhiều kiến thức và kỹ năng chuyên môn mà
không yêu cầu nhiều vốn. Dịch vụ tư vấn đầu tư có thể được CTCK cung cấp qua các
hình thức: khuyến cáo, lập báo cáo, tư vấn trực tiếp, hoặc thông qua ấn phẩm về

chứng khoán. Nhờ hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán mà khách hàng mới biết và
hiểu rõ các dịch vụ sẵn có trên thị trường, hiểu được sản phẩm, dịch vụ nào đáp ứng
được mục tiêu đầu tư và nhu cầu đầu tư của riêng mình. Thông qua các CTCK và
nhân viên môi giới, khách hàng được cung cấp thông tin một cách đầy đủ nhất để lựa
chọn sản phẩm, dịch vụ phù hợp để ra quyết định đầu tư. Các CTCK cung cấp đầy đủ
các dịch vụ không chỉ thực hiện mệnh lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào
nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản
phẩm để cung cấp cho tổ chức và cá nhân đầu tư.
1.1.4.4 Tạo ra sản phẩm mới, phát triển sản phẩm và dịch vụ:
Khi thực hiện vai trò trung gian giữa người bán và người mua chứng khoán,
CTCK, các nhân viên môi giới, nhân viên bán hàng của CTCK có thể nắm bắt được


10

nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Có thể
nói, hoạt động môi giới chính là một trong những nguồn cung cấp ý tưởng thiết kế
sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Kết quả về lâu dài sẽ cải thiện
được tính đơn điệu của sản phẩm và dịch vụ, nhờ đó giúp đa dạng hóa sản phẩm, đa
dạng hóa cơ cấu khách hàng, thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân,
trong xã hội cho đầu tư phát triển.
1.1.4.5 Cải thiện môi trường kinh doanh:
Thị trường chứng khoán ra đời đã giữ một vị trí đặc biệt trong hoạt động kinh
tế của con người. Có thể nói đây là loại thị trường cao cấp của nền kinh tế, một loại
thị trường cũng như hàng hoá lưu thông tại thị trường ấy đều mang tính trừu tượng
cao, phương thức giao dịch khác biệt với tất cả các loại thị trường hàng hoá nào khác.
Ban đầu khi người môi giới chưa xuất hiện, các nhà đầu tư phải tự tìm đến nhau, hiệu
quả và số lượng giao dịch thấp, hiện tượng tranh mua tranh bán, không thực hiện
nghĩa vụ dễ dàng xảy ra vì các bên vẫn trực tiếp quản lý số chứng khoán của mình
mà không có một phương thức giao dịch đảm bảo thực hiện cho cả hai bên. Các tổ

chức môi giới chứng khoán ra đời đã tạo bước ngoặt cho thị trường chứng khoán phát
triển mạnh mẽ, huy động được khối lượng vốn lớn cho nền kinh tế, hình thành nên
những sản phẩm dịch vụ mới cho thị trường, tạo thêm công ăn việc làm, tác động tích
cực đến môi trường kinh doanh.
Thứ nhất, hoạt động môi giới chứng khoán cùng thị trường chứng khoán góp
phần làm hình thành nền văn hoá đầu tư. Trước kia, khi thị trường chứng khoán chưa
xuất hiện, thậm chí cả khi đã xuất hiện rồi nhưng đa số mọi người không tưởng tượng
được là mình sẽ bỏ tiền ra mua một tờ giấy gọi là chứng khoán vì ngay cả khi tổ chức
phát hành ra nó cam kết chúng tôi sẽ trả lãi, khi chúng tôi làm ăn có lãi anh cũng được
hưởng lợi như chúng tôi mà không phải làm gì ngoài việc bỏ tiền ra mua tờ giấy đó.
Người ta tin vào cam kết đó, nó cũng gần giống như việc cho vay lãi đã xuất
hiện từ hàng ngàn năm, nhưng vấn đề là người ta chưa quen với việc cho một tổ chức
mà hoàn toàn không có mối liên hệ gia đình hay công việc vay lại không có quyền
quản lý với số vốn bỏ ra cho vay đó; hoặc việc công ty đó liệu làm ăn có lãi như họ
hứa không, khi cần tiền thì tờ giấy đó bán cho ai…các câu hỏi được đặt ra và người
ta quyết định không bỏ tiền vào hầu bao các nhà kinh doanh đó nữa. Chỉ một số ít
những người có tiền đầu tư vào con đường này, nhưng chủ yếu là với tư cách cổ đông
góp vốn. Việc mua đi bán lại chứng khoán cũng hết sức vất vả. Ngày nay, khi thị
trường chứng khoán đã phát triển, người ta dễ dàng mua bán chứng khoán thông qua
người môi giới chỉ bằng một câu lệnh. Số lượng người quan tâm đầu tư vào chứng


11

khoán tăng cao. Hầu hết các công ty lớn trên thế giới là những công ty cổ phần có
chứng khoán mạnh niêm yết tại nhiều sở giao dịch. Tại các nứơc phát triển, hầu hết
người dân hộ gia đình đều mua chứng khoán của một công ty nào đó thay vì chỉ gửi
tiết kiệm đơn thuần ở các ngân hàng bởi khả năng sinh lời cao của chứng khoán thu
hút họ hơn là số tiền lãi tiết kiệm. Trên thực tế, khi cần huy động một lượng vốn lớn,
các tổ chức, công ty có uy tín, cơ quan nhà nước luôn chọn hình thức phát hành chứng

khoán từ đông đảo nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư tổ chức lẫn nhà đầu tư riêng lẻ để có
thể huy động tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi từ công chúng. Các tổ chức kinh tế thông
thường phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các cơ quan nhà nước có thể phát
hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu kho
bạc…tuỳ vào cơ quan phát hành và mục đích huy động vốn. Các nước trên thế giới
đã rất thành công trong việc huy động vốn từ kênh chứng khoán. Hàng tỷ đô la đã
được đưa vào sản xuất kinh doanh cũng như xây dựng các công trình phát triển, công
trình công cộng, công trình phúc lợi. Số lượng người kiếm được những khoản tiền
lớn nhờ đầu tư chứng khoán rất nhiều và người ta sẽ còn đầu tư nữa vì phương thức
đầu tư dễ dàng cũng như những khoản lợi nhuận mà chứng khoán đem lại. Chứng
khoán và thị trường chứng khoán hiện là mối quan tâm của đông đảo mọi người, mỗi
sáng thức dậy người ta lại đặt câu hỏi mình sẽ đầu tư vào loại chứng khoán nào đây
hoặc cổ phiếu này hôm nay có tăng giá không.
Thứ hai, sản sinh ra nhiều ngành dịch vụ mới.
Thị trường chứng khoán và hoạt động môi giới ra đời cũng sản sinh ra nhiều
ngành dịch vụ mới của nền kinh tế hiện đại. Một dịch vụ điển hình của ngành tài
chính ngân hàng là dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán. Trên thị trường, có nhiều
nhà đầu tư vì tin tưởng vào khả năng sẽ tăng giá của một loại chứng khoán nên đã
đầu tư hầu hết số vốn mình có. Nhưng người này lại muốn đầu tư vào một thương vụ
khác hoặc vì lý do nào đó mà cần đến tiền, mặt khác vẫn muốn nắm giữ chứng khoán
để chờ cơ hội. Các ngân hàng cho những người này vay và lấy chứng khoán đó làm
vật cầm cố. Chứng khoán để được ngân hàng chấp nhận là tài sản bảo đảm phải có
tính thanh khoản cao, có tiềm năng mang lại lợi nhuận cao cho người sở hữu nó. Dịch
vụ cho vay cầm cố chứng khoán chỉ xuất hiện khi có thị trường chứng khoán và ở
Việt Nam, dịch vụ này mới được một số ngân hàng thương mại cung cấp. Một dịch
vụ điển hình nữa của thị trường chứng khoán là dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
do các CTCK cung cấp. Theo qui định của pháp luật, CTCK là tổ chức được phép
thực hiện nghiệp vụ này. Rất nhiều nhà đầu tư lựa chọn hình thức bỏ tiền vào chứng
khoán, nhưng không phải tất cả họ có kiến thức thông tin đầy đủ để có thể ra quyết



12

định đầu tư đúng đắn. Dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán do những người môi giới
cung cấp ra đời kèm theo để đáp ứng yêu cầu này. Khi một nhà đầu tư đến một CTCK
đặt lệnh, nếu chưa chắc chắn hiểu về thị trường chứng khoán ,về loại chứng khoán
mà họ nên đầu tư hay các thông tin về tổ chức phát hành hoặc các thông tin về tình
hình giá cả, sự lên xuống, xu hướng thị trường; họ có thể bước ngay sang phòng bên
cạnh nơi những nhà tư vấn có kiến thức, có kinh nghiệm được trang bị những phương
tiện hỗ trợ để có thể nắm bắt thông tin và phân tích khoa học các số liệu chứng khoán
và đưa cho họ những lời khuyên tối ưu nhất.
1.2

Xung đột lợi ích trong hoạt động môi giới chứng khoán:

Mối quan hệ cơ bản trong lĩnh vực môi giới chứng khoán liên quan đến công
cụ tài chính, thường là mối quan hệ giữa một nhân viên bán hàng và một khách hàng.
Về cơ bản việc bán hàng không có vấn đề gì khi chúng đại diện cho nhu cầu giữa một
bên cung cấp sản phẩm có uy tín, chất lượng với một bên có nhu cầu sử dung sản
phẩm đó. Trong thị trường chứng khoán cũng vậy, nếu các CTCK có uy tín luôn quan
tâm đến lợi ích của khách hàng và được khách hàng tín nhiệm. Khi đạt được tín
nhiệm, khách hàng sẽ không muốn đổi sang CTCK khác mà trái lại họ còn giới thiệu
cho bạn bè sử dụng dịch vụ CTCK đó. Và đối với CTCK họ cũng mong muốn được
khách hàng tin tưởng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của mình. Tuy nhiên trên thực tế
luôn có những vấn đề xảy ra đối với không những CTCK mà với toàn bộ những người
bán hàng và khách hàng. Nguyên nhân đầu tiên là do phương thức thù lao cho người
bán hàng.
Những người bán hàng dù trực tiếp hay gián tiếp đều sống bằng tiền hoa hồng
hay sống bằng khoản chênh lệch giá trong việc mua bán những lợi ích tài chính. Như
vậy những lợi ích của riêng họ có thể xung đột với nhu cầu và mục tiêu của khách

hàng. Trong lĩnh vực môi giới chứng khoán, nguồn thu cho người môi giới chủ yếu
phát sinh từ giao dịch của khách hàng, khách hàng giao dịch càng nhiều người môi
giới càng được lợi và ngược lại. Để kích thích tăng nguồn thu, các công ty thường
tăng mức hoa hồng trả cho những người môi giới mỗi khi tổng thu từ giao dịch khách
hàng đạt mức mục tiêu dự kiến. Bên cạnh đó là những chính sách đào thải của công
ty đối với nhân viên môi giới thường xuyên không đạt chỉ tiêu. Chính những chính
sách đó của CTCK đã thúc đẩy nhân viên môi giới phải tìm cách cho khách hàng phải
giao dịch nhiều hơn mà không nghĩ đến thiệt hại có thể xảy đến đối với khách hàng.
1.3
Gới thiệu pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán tại Việt
Nam:


13

1.3.1 Khái quát về pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán:
Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán là một bộ phận của pháp
luật chứng khoán điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động môi giới
chứng khoán trên thị trường chứng khoán, hay nói cách khác “Pháp luật điều chỉnh
hoạt động môi giới chứng khoán là tổng thể các qui phạm pháp luật (các qui tắc xử
sự chung) do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán của các CTCK với các chủ thể
mua và bán trên thị trường chứng khoán”.
Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động môi giới chứng khoán đựơc pháp
luật điều chỉnh thực chất là quan hệ hợp đồng giữa công ty môi giới chứng khoán và
nhà đầu tư. Tuy nhiên để thực hiện được quan hệ hợp đồng dịch vụ môi giới chứng
khoán có nhiều mối quan hệ khác phát sinh xung quanh quan hệ chính đó. Quan hệ
mở tài khoản giao dịch, ký quỹ, thực hiện giao dịch và thanh toán cho các bên mua
… Tuỳ theo sự thoả thuận các bên, có thể công ty môi giới chứng khoán còn thực
hiện dịch vụ tư vấn trước và sau khi thực hiện giao dịch chứng khoán cho khách hàng.

Để thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng cung cấp dịch
vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng. Bên môi giới chứng khoán không chỉ quan
hệ với khách hàng mà còn xác lập nhiều mối quan hệ với các chủ thể khác như
SGDCK, TTGDCK, TTLKCK, Các CTCK làm môi giới khác. Nói một cách khác,
để thực hiện được thành công một giao dịch mua/bán chứng khoán cho khách hàng,
công ty môi giới chứng khoán phải tham gia một chuỗi các giao dịch nhỏ, tạo thành
từng mắt xích, từng khâu của một dây chuyền lớn, từ những giao dịch giữa nhà đầu
tư với công ty môi giới chứng khoán, giao dịch giữa CTCK với TTGDCK, TTLKCK,
… nhằm đi đến đích cuối cùng là thực hiện một quan hệ mua bán giữa người mua và
người bán chứng khoán.
1.3.2 Đặc điểm pháp luật môi giới chứng khoán:
Do bản chất của quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình môi giới chứng khoán
thực chất là quan hệ hợp đồng môi giới chứng khoán nên pháp luật điều chỉnh hoạt
động môi giới chứng khoán là pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng này. Pháp luật
chứng khoán có qui định về hình thức hợp đồng, quyền nghĩa vụ cho các bên là nhà
đầu tư và CTCK và các điều kiện khác khi những chủ thể này tham gia quan hệ môi
giới chứng khoán.
Chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật môi giới chứng khoán là CTCK và nhà
đầu tư. Tuy nhiên, nhà đầu tư chỉ tham gia vào một quan hệ cơ bản là quan hệ hợp


14

đồng giữa CTCK và nhà đầu tư. CTCK tham gia vào cả các quan hệ phái sinh nhằm
thực hiện được yêu cầu mua bán chứng khoán cho nhà đầu tư.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán là một bộ phận của pháp
luật chứng khoán nên nó cũng bao gồm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật chứng
khoán. Bộ phận các qui phạm mang tính nguyên tắc này là một chế định cơ bản của
pháp luật môi giới chứng khoán. Các nguyên tắc này yêu cầu được tuân thủ đặc biệt
trong quan hệ môi giới chứng khoán.

1.3.3 Cấu trúc pháp luật môi giới chứng khoán:
Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán có thể sắp xếp phân chia
theo nhiều cách khác nhau, dựa trên những tiêu chí khác nhau.
Căn cứ vào tính chất của quy phạm pháp luật điều chỉnh thì có:
-

-

Bộ phận pháp luật quy định áp dụng chung cho nhiều hoạt động trong đó có
hoạt động môi giới chứng khoán như các nguyên tắc trong hoạt động của thị
trường chứng khoán; các quy định về tổ chức và hoạt động của CTCK; các
quy định về các thiết chế có liên quan, các quy định về bảo vệ quyền lợi của
nhà đầu tư.
Bộ phận pháp luật điều chỉnh riêng đối với hoạt động môi giới chứng khoán….

Căn cứ vào quan hệ trong cụ thể trong hoạt động môi giới chứng khoán thì pháp luật
chứng khoán được thành các bộ phận pháp luật
-

Quan hệ giữa CTCK với nhà đầu tư;
Quan hệ giữa CTCK với nhân viên công ty thực hiện các nghiệp vụ môi giới
chứng khoán;
Quan hệ người môi giới chứng khoán với khách hàng;
Quan hệ CTCK thực hiện hoạt động môi giới với các tổ chức có liên quan( Sở
hoặc trung tâm GDCK; Trung tâm lưu ký chứng khoán).
Quan hệ quản lý nhà nước đối với hoạt động môi giới chứng khoán;

Căn cứ vào nội dung các quy phạm
-


Các quy phạm quy định về chủ thể tham gia trong hoạt động môi giới chứng
khoán;
Các quy phạm quy định về quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể trong hoạt động
môi giới chứng khoán;


15

-

Quy phạm kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động môi
giới chứng khoán.

1.3.4 Các mối quan hệ được pháp luật môi giới điều chỉnh:
1.3.4.1Mối quan hệ giữa CTCK và nhà đầu tư:
Trong bối cảnh thị trường chứng khoán hiện đại, các giao dịch của nhà đầu tư
đều được thông qua một hệ thống giao dịch tập trung. Do đó khi nhà đầu tư muốn
giao dịch chứng khoán thì nhà đầu tư phải có tài khoản giao dịch tại CTCK. CTCK
sẽ đóng vai trò là người cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư, trong đó có dịch vụ môi
giới chứng khoán. Vì thế trong hợp đồng môi giới, CTCK sẽ đóng vai trò là bên cung
cấp sản phẩm dịch vụ. Bên cạnh đó nhà đầu tư ký kết hợp đồng môi giới với CTCK
sẽ là bên sử dụng dịch vụ.
Trong pháp luật về môi giới chứng khoán, CTCK đóng vai trò là chủ thể thực
hiện hoạt động môi giới cho khách hàng, có quyền lợi và nghĩa vụ trực tiếp đối với
khách hàng. Vì thế trong pháp luật điều chỉnh hoạt đông môi giới các quy đinh đưa
ra đều nhằm vào CTCK (Ví dụ: CTCK thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán
không được: (i) Đưa ra ý kiến về việc tăng hay giảm giá chứng khoán mà không có
căn cứ để lôi kéo khách hàng tham gia giao dịch; (ii) Thỏa thuận hoặc đưa ra lãi suất
cụ thể hoặc chia sẻ lợi nhuận hoặc thua lỗ với khách hàng để lôi kéo khách hàng tham
gia giao dịch; ... ). CTCK là bên hưởng lợi ích trực tiếp từ khách hàng do đó CTCK

sẽ là chủ thể chịu trách nhiệm đối với khách hàng khi tranh chấp xảy ra.
1.3.4.2 Mối quan hệ giữa khách hàng và nhân viên môi giới:
Trong hoạt động môi giới, nhân viên môi giới đóng vai trò là người thay mặt
CTCK thực hiện dịch vụ môi giới cho khách hàng. Hay nói cách khác, nhân viên môi
giới chính là chủ thể tiếp xúc trực tiếp với khách hàng trong việc tìm kiếm khách
hàng, giao kết hợp đồng, chăm sóc tài khoản khách hàng, thay mặt khách hàng đặt
lệnh giao dịch, cung cấp thông tin đầu tư cho khách hàng.
Trong quan hệ pháp luật môi giới chứng khoán, mối quan hệ giữa nhân viên
môi giới và khách hàng là mối quan hệ chặt chẽ nhất và cũng là mối quan hệ phát
sinh nhiều tranh chấp nhất. Vì các hoạt động môi giới chứng khoán chủ yếu dựa trên
sự tương tác giữa nhân viên môi giới và khách hàng, do đó giữa họ luôn có một sự
liên kết đặc biệt hơn so với các chủ thể khác. Các vụ tranh chấp phát sinh trong quá
trình thực hiền môi giới chứng khoán phần lớn đều phát sinh từ sự mâu thuẫn về lợi


16

ích giữa nhân viên môi giới và khách hàng. Vì thế pháp luật môi giới cần dành nhiều
khoản trống để điều chỉnh cho mối quan hệ này.
1.3.4.3 Mối quan hệ giữa CTCK và nhân viên môi giới:
Nhân viên môi giới đóng vai trò là cá nhân người lao động giao kết hợp đồng
lao động với CTCK, làm việc và hưởng lương từ CTCK. Bản chất của mối quan hệ
giữa nhân viên môi giới và CTCK xoay quanh mối quan hệ giữa người lao động và
người sử dụng lao động, vì thế mối quan hệ này chủ yếu được điều chỉnh bằng pháp
luật lao động. Nhân viên môi giới là người chịu trách nhiệm trực tiếp với CTCK trong
khi thực hiện công việc môi giới.


17


Chương 2 :CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT, THỰC TRẠNG VÀ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
TẠI VIỆT NAM
Các quy định pháp luật:

2.1

2.1.1 Các quy định về chủ thể thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán:
2.1.1.1 Đối với CTCK và công ty môi giới chứng khoán:
Nghiệp vụ môi giới chứng khoán nói riêng và kinh doanh chứng khoán nói
chung là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Luật Chứng khoán ở các nước có
quy định điều kiện hay tiêu chuẩn để gia nhập thị trường của tổ chức kinh doanh
chứng khoán. Thông thường có các điều kiện cơ bản đó là
Điều kiện về hình thức pháp lý: theo quy định pháp luật Việt Nam, các công
ty môi giới chứng khoán và CTCK đều phải được tổ chức dưới hình thức công ty
TNHH hoặc công ty cổ phần. Đối với hình thức CTCK là công ty TNHH một thành
viên theo pháp luật Việt Nam hiện hành thành viên đó phải là ngân hàng thưng mại,
doanh nghiệp bảo hiểm hoặc tổ chức nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng,
chứng khoán, bảo hiểm3. Quy định về hình thức pháp lý CTCK và công ty môi giới
chứng khoán như trên nhằm mục đích: (i) Bảo vệ lợi ích khách hàng, tránh tình trạng
thao túng doanh nghiệp vì lợi ích một số người; (ii) Đảm bảo chế độ thông tin, báo
cáo chặt chẽ và đảm bảo việc quản lý công ty hiệu quả; (iii) Đảm bảo sự tồn tại ổn
định của công ty.
Điều kiện về vốn pháp định: do bản chất hoạt động CTCK đòi hỏi vốn lớn, rủi
ro cao, ảnh hưởng đến lợi ích công chúng đầu tư nên pháp luật Việt Nam cũng như
các nước khác đều quy định cụ thể mức vốn pháp định cho từng loại nghiệp vụ kinh
doanh của CTCK. Cụ thể như sau:

3


STT

Nghiệp vụ

1
2
3
4

Môi giới chứng khoán
Tự doanh chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán

Theo
Luật
Chứng khoán
25 tỷ đồng
100 tỷ đồng
10 tỷ đồng
165 tỷ đồng

Khoản 5 Điều 3 Thông tư 210/2012/TT-BTC Hướng dẫn về thành lập CTCK.

Theo Nghị định
58/2012/NĐ-CP
25 tỷ đồng
100 tỷ đồng
10 tỷ đồng
165 tỷ đồng



18

Trường hợp CTCK xin cấp giấy phép cho nhiều loại hình kinh doanh thì vốn
pháp định là tổng số vốn mà CTCK được cấp giấy phép4 . Như vậy, để thực hiện
nghiệp vụ môi giới chứng khoán, CTCK (công ty môi giới chứng khoán) phải có vốn
pháp định tối thiểu là 25 tỷ đồng.
Điều kiện về nhân sự: Do tính chất đặc thù của hoạt động nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán đòi hỏi người điều hành và nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn và tinh
thông nghiệp vụ. Pháp luật Việt Nam quy định: “Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và
các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành
nghề chứng khoán”. Chứng chỉ hành nghề chứng khoán bao gồm: chứng chỉ hành
nghề môi giới chứng khoán, chứng chỉ hành nghề phân tích tài chính, chứng chỉ hành
nghề quản lý quỹ5. Từng công việc khác nhau đòi hỏi loại chứng chỉ hành nghề khác
nhau, trường hợp đối với người hành nghề môi giới chứng khoán cần phải có chứng
chỉ hành nghề môi giới chứng khoán.
Điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật: theo quy định pháp luật Việt Nam, một
trong những điều kiện để được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán là
CTCK phải có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán.
Về nghĩa vụ của CTCK, công ty môi giới chứng khoán, pháp luật có quy định sau6:
-

-

-

Phải thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát, ngăn ngừa
những xung đột lợi ích trong nội bộ công ty và trong giao dịch với người có

liên quan.
Quản lý tách biệt chứng khoán của từng nhà đầu tư, tách biệt tiền và chứng
khoán của nhà đầu tư với tiền và chứng khoán của CTCK.
Ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng khi cung cấp dịch vụ cho khách
hàng; cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin cho khách hàng.
Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty.
Thu thập, tìm hiểu thông tin về tình hình tài chính, mục tiêu đầu tư, khả năng
chấp nhận rủi ro của khách hàng; bảo đảm các khuyến nghị, tư vấn đầu tư của
công ty cho khách hàng phải phù hợp với khách hàng đó.
Tuân thủ các quy định bảo đảm vốn khả dụng theo quy định của Bộ Tài chính.

Điều 71 Nghị định 58/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Chứng khoán.
Điều 3 Quy chế hành nghề chứng khoán, ban hành kèm theo Quyết định số 15/2008/QĐ-BTC.
6
Điều 71 Luật Chứng khoán 2006, sửa đổi bổ sung năm 2010.
4
5


19

-

-

-

Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán tại công ty hoặc trích lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư để bồi thường thiệt hại
cho nhà đầu tư do sự cố kỹ thuật và sơ suất của nhân viên trong công ty.

Lưu giữ đầy đủ các chứng từ và tài khoản phản ánh chi tiết, chính xác các giao
dịch của khách hàng và của công ty.
Thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu
chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của
Bộ Tài chính.
Tuân thủ các quy định của Bộ Tài chính về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê, nghĩa vụ tài chính theo quy
định của pháp luật.
Thực hiện công bố thông tin và chế độ báo cáo theo quy định pháp luật.

Đối với yêu cầu quản lý tách biệt tài khoản của nhà đầu tư và của CTCK, thông
tư 210 cũng đã có quy định hướng dẫn cụ thể như sau7: “Khách hàng của CTCK mở
tài khoản trực tiếp tại ngân hàng thương mại do CTCK lựa chọn để quản lý tiền giao
dịch chứng khoán. Trong phương thức này, khách hàng, CTCK và ngân hàng thương
mại có hợp đồng thỏa thuận về cách thức xác nhận, phong tỏa số dư tiền và chuyển
tiền thanh toán giao dịch chứng khoán của khách hàng. Sau khi lệnh mua chứng khoán
của khách hàng được khớp, CTCK có quyền yêu cầu ngân hàng nơi nhà đầu tư mở
tài khoản thực hiện chuyển tiền tương ứng với giá trị khớp lệnh vào tài khoản thanh
toán giao dịch chứng khoán do CTCK đứng tên mở tại ngân hàng thương mại do
CTCK lựa chọn. CTCK có nghĩa vụ thay mặt cho khách hàng thực hiện thanh toán
giao dịch chứng khoán với các bên có liên quả.” Đối với hình thức này, tiền của nhà
đầu tư là khách hàng của CTCK được quản lý chặt chẽ thông qua hệ thống ngân hàng
mà CTCK chỉ định, theo đó tài khoản của khách hàng và tài khoản của CTCK hoàn
toàn độc lập với nhau, yêu cầu tách bạch tiền của khách hàng với CTCK đã được giải
quyết thỏa đáng.
Ngoài phương thức nêu trên, thông tư còn cho phép CTCK xây dựng bổ sung
hệ thống tạch bạch tiền gửi như sau: “CTCK mở tài khoản chuyên dụng tại ngân hàng
thương mại để quản lý tiền gửi giao dịch chứng khoán của khách hàng. Tài khoản
chuyên dụng phải mở riêng biệt và tách bạch với các tài khoản khác của CTCK”. Tài
khoản chuyên dụng này sẽ là tài khoản phục vụ cho giao dịch của khách hàng.


7

Khoản 4 Điều 50 Thông tư 210/2012/TT-BTC – Hướng dẫn về thành lập CTCK.


20

Những hạn chế đảm bảo an toàn hoạt động đối với CTCK8:
-

-

Không được đưa ra nhận định hoặc bảo đảm với khách hàng về mức thu nhập
hoặc lợi nhuận đạt được trên khoản đầu tư của mình hoặc bảo đảm khách hàng
không bị thua lỗ, trừ trường hợp đầu tư vào chứng khoán có thu nhập cố định.
Không được tiết lộ thông tin về khách hàng, trừ trường hợp được khách hàng
đồng ý hoặc theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Không được thực hiện những hành vi làm cho khách hàng và nhà đầu tư hiểu
nhầm về giá chứng khoán.
Không được cho khách hàng vay tiền để mua chứng khoán, trừ trường hợp Bộ
Tài chính có quy định khác.

2.1.1.2 Các quy định về nhân viên thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán:
Luật chứng khoán có quy định cụ thê: UBCKNN cấp chứng chỉ hành nghề cho
từng cá nhân, còn việc cá nhân có chứng chỉ hành nghề làm cho CTCK nào thì do
công ty đó tuyển dụng. Tuy nhiên, để đảm bảo sự quản lý, phòng tránh trường hợp
các cá nhân có chứng chỉ hành nghề lợi dụng để lừa đảo gây thiệt hại cho nhà đầu tư.
Luật quy định: “Chứng chỉ hành nghề chứng khoán chỉ có giá trị khi người được cấp
chứng chỉ hành nghề làm việc tại một CTCK và được công ty đó thông báo với

UBCKNN9. CTCK có trách nhiệm thông báo với UBCKNN trong thời hạn 02 ngày,
kể từ ngày người được cấp Chứng chỉ hành nghề chứng khoán không còn làm việc
cho công ty mình”.
Quy định về điều kiện cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán cho
từng đối tượng, trong đó rất chú trọng đến trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo
đức của người xin giấy phép hành nghề cụ thể: Chứng chỉ hành nghề chứng khoán
được cấp cho cá nhân đáp ứng các điều kiện sau: (i) Có năng lực hành vi dấn sự đầy
đủ và không thuộc trường hợp đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị tòa án
cấm hành nghề kinh doanh, (ii) Có trình độ đại học và trình độ chuyên môn về chứng
khoán và thị trường chứng khoán, (iii) Đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch do UBCKNN
tổ chức. Đối với người nước ngoài có chứng chỉ chuyên môn về thị trường chứng
khoán hoặc những người đã hành nghề chứng khoán hợp pháp ở nước ngoài thì chỉ
cần thi sát hạch pháp luật về chứng khoán của Việt Nam.

Điều 73 Luật Chứng khoán 2006, sửa đổi bổ sung năm 2010.
Khoản 5 Điều 5 Thông tư 147/2012/TT-BTC – Sửa đổi bố sung một số điều của “Quy chế hành nghề chứng
khoán” được ban hành kèm theo Quyết định số 15/2008/QĐ-BTC ngày 27 tháng 3 năm 2008 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính.
8
9


×