Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN mon tieng viet 4 tieu hoc nam 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.09 MB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN HOÀI ĐỨC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“Một số biện pháp để giúp học sinh học tốt
phân môn Tập đọc lớp 4”

NĂM HỌC: 2014 - 2015

1


NỘI DUNG ĐỀ TÀI
TÊN ĐỀ TÀI : “Một số biện pháp để dạy tốt môn tập đọc lớp 4”
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 Cơ sở lý luận :
- Từ nay đến năm 2020 về cơ bản Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp, hội
nhập với phát triển thế giới.
- Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị một lớp người lao động mới tự chủ,
sáng tạo và sẵn sàng thích ứng với những thay đổi mới về nền kinh tế, xã hội của đất
nước, phát triển hài hòa với đời sống ngày càng đa dạng, phức tạp hơn nữa. Để trở
thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những thách thức mới của Hội nhập
quốc tế. Đòi hỏi chúng ta phải khẩn trương đổi mới quá trình giáo dục và đào tạo của
mình để tạo ra những lớp người lao động mới có đủ điều kiện phụcvụ đất nước. Việc
đổi mới về chương trình dạy học bao gồm đổi mới về nội dung và phương pháp dạy
học.
- Để thực hiện chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu, là động lực để phát


triển kinh tế, xã hội, là động lực để phát triển kinh tế xã hội và để đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của xã hội. Bộ GD & ĐT đã và đang tiến hành triển khai đổi mới toàn
diện và đồng bộ các cấp học, bậc học nói chung và cấp tiểu học nói riêng. Vì vậy việc
soạn thảo chương trình mới cho các cấp là vô cùng cần thiết và cấp bách.
- Chương trình dạy học mới - Chương trình Tiểu học 2000 nhằm kế thừa và
phát triển những thành tựu, khắc phục những tồn tại của chương trình cũ – chương
trình 165 tuần. Ngoài đổi mới về nội dung dạy học, chương trình tiểu học 2000 còn
đổi mới về phương pháp dạy học và tăng cường tới lực lượng học tập nhằm khuyến
khích các trường, lớp dạy học 2 buổi/ ngày. ..
- Như chúng ta đã biết bậc Tiểu học là bậc học đầu tiên giúp học sinh bước đầu
hình thành nhân cách, kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cơ bản làm tiền đề cho các bậc học
sau. Ngoài những nhiệm vụ chính trên, ngoài ra nhiệm vụ của bậc tiểu học hiện nay
phát huy tối đa những mặt mạnh của mỗi cá nhân học sinh, để đạt được những điều
trên đòi hỏi mỗi em học sinh phải học tập và hình thành dần dần những kỹ xảo đó trên
cơ sở nhiều môn học khácnhau như môn Khoa học, Lịch sử - Địa lý, Âm nhạc, Toán,
Tiếng Việt, Đạo đức, Kỹ thuật. . .Mỗi môn học có một vai trò, nhiệm vụ riêng giúp
các em hình thành các kỹ năng, kỹ xảo đó. Chiếm một trong những vai trò quan trọng
phải kể đến môn Tiếng Việt ở các lớp học nói chung và lớp 4 nói riêng nhằm giúp học
sinh hình thành và phát triển bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Riêng ở môn Tiếng
Việt lớp 4 có những yêu cầu cao hơn ở các lớp dưới, mở rộng hơn và bồi dưỡng cho
các em tình yêu thiên nhiên, đất nước. . .
- Muốn đạt được điều đó các em phải biết đọc thành thạo có nghĩa là: đọc đúng
từ, cụm từ, câu, đoạn, bài của văn bản hay thơ. Đây là điều kiện nền tảng để các em
2


học tập các môn học khác và để làm tốt được tất cả những điều trên thì phân môn Tập
đọc ở Tiểu học đảm nhiệm vai trò này. Nội dung yêu cầu của phân môn Tập đọc ở
mỗi lớp là khác nhau. Nó được nâng cao, mở rộng ở các lớp trên theo quan điểm dạy
học hình xoáy ốc.

- Khi dạy tập đọc lớp 4 học sinh cần nắm được những kỹ năng cơ bản sau:
 Nghe:
- Nghe hiểu nội dung trao đổi trong hội thoại, nhận ra thái độ, chủ đích của
người nói qua nội dung nói và giọng điệu.
- Nghe – hiểu nội dung các tin tức, bài bình luận, giảng, văn bản hướng dẫn,
qui định phù hợp với trình độ học sinh lớp 4 nắm được chủ đích của văn bản.
- Nghe - hiểu các tác phẩm hoặc đoạn trích văn học dân gian, thơ, truyện,
kịch. . ., nhớ được nội dung, nhân vật, chi tiết có giá trị nghệ thuật, biết nhận xét về
nhân vật và sự kiện trong tác phẩm tự sự.
- Ghi được ý chính của các văn bản đã nghe.
 Nói:
- Biết cách trình bày, trao đổi, tranh luận về những vấn đề gần gũi với đời sống
và phù hợp trình độ của học sinh lớp 4.
- Biết cách giới thiệu về lịch sử, hoạt động hoặc về các nhân vật tiêu biểu của
trường hay của địa phương với khách.
- Biết kể lại một truyện đã đọc, đã nghe hoặc một việc đã làm, đã chứng kiến.
Tập thay đổi ngôi khi kể chuyện.
 Đọc:
- Biết cách đọc các loại văn bản chính, khoa học, báo chí, văn học phù hợp với
thể loại và nội dung văn bản, thể hiện được tình cảnh, thái độ của tác giả, giọng điệu
của nhân vật.
- Đọc thầm có tốc độ nhanh hơn lớp 3 .
- Biết cách xác định đại ý, chia đoạn văn bản, nhận ra mối quan hệ giữa các
nhân vật, sự kiện, tình tiết trong bài, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật trong
các bài tập đọc có giá trị văn chương.
- Biết sử dụng từ điển học sinh. Có thói quen và biết cách ghi chép các thực
hiện thông tin đã học. Học thuộc 10 bài (trong đó có 2 bài văn xuôi).
 Viết:
- Viết đúng chính tả, chữ viết rõ ràng, viết hoa đúng quy định. Có khả năng tự
phát hiện và sửa lỗi chính tả. Có thói quen biết cách lập sổ tay chính tả, hệ thống hoá

các quy tắc chính tả đã học.
- Biết cách lập dàn ý cho bài văn, ra dàn ý từ đoạn văn đã cho sẵn, chuyển dàn
ý thành đoạn văn.
- Biết cách viết thư, điền vào một số giấy tờ in sẵn, làm các bài văn kể chuyện
và miêu tả đồ vật, cây cối, con vật. Nắm vững cách viết mở bài, kết bài và các đoạn
văn.

3


1.2 Cơ cở thực tiễn
- Trong các nhà trường hiện nay, ở tất cả các môn học, giáo viên dạy học theo
quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”, dạy học theo quan điểm “sư phạm tương
tác” giữa thầy với trò . Đây là một hướng dạy tốt nếu người giáo viên biết khơi dậy
những tiềm năng, những thế mạnh của học trò. Muốn vậy, học sinh phải nắm bắt được
ý mà giáo viên đưa ra, phải hiểu những nội dung mà mình cần phải tìm hiểu. Vậy thì
việc đọc hiểu các văn bản, đọc hiểu các yêu cầu là vô cùng cần thiết, bởi ngôn ngữ
luôn gắn chặt với tư duy, ngôn ngữ là phương tiện biểu hiện tư tưởng, tình cảm của
con người.
- Nhưng trên thực tế, học sinh lại khó có thể tự mình đọc đúng, đọc diễn cảm
được. Đến giờ tập đọc, một số em chỉ nhìn vào sách theo dõi lấy lệ để cô giáo khỏi
phê bình chứ hoàn toàn không có hứng thú học tập. Một số em khác thì đọc mà không
hiểu hết nội dung, thậm chí còn hiểu sai nội dung văn bản. Một số học sinh còn đọc
ngọng nên e ngại, không dám đọc to, đọc diễn cảm, thiếu tự tin khi đọc bài. Có những
em đọc như một cái máy mà không hiểu gì.
- Hiện nay, ở các tài liệu, sách tham khảo không có những chỉ dẫn cụ thể cho đọc
diễn cảm mà thường bằng cách hướng dẫn chung chung. Như : Đọc kết thúc câu kể
phải xuống giọng ; hết câu hỏi phải lên giọng… Những chỉ dẫn có tính khái quát mối
quan hệ giữa cao độ, trường độ, cường độ, chỗ ngắt…của đoạn, bài chưa được xác
định nên học sinh khi đọc một bài văn, kể cả một số đề toán hoặc sách tham khảo, thật

khó để tự đọc đúng, đọc hay văn bản nếu không được hướng dẫn, rèn luyện thường
xuyên.
- Hơn nữa, một số giáo viên khi dạy học thiếu chú ý đến việc dạy đọc cho HS mà chỉ
chú trọng vào dạy nội dung, biến một giờ tập đọc thành một giờ giảng văn. Vậy nên
chỉ các em HS giỏi mới nắm được bài, còn HS khác học tập đọc như một yêu cầu bắt
buộc, học trước quên sau, đọc sai, đọc nhầm cũng không muốn hoặc không biết cách
sửa. Để đạt được mục tiêu của môn Tập đọc nói riêng, môn Tiếng Việt cũng như các
môn khác trong bậc tiểu học nói chung, giáo viên cần phải có nhiều biện pháp cụ thể
dựa theo nguyên tắc dạy học và tình hình thực tế của học sinh tại địa bàn nhằm đảm
bảo được mục tiêu của phân môn Tập đọc nói riêng và môn Tiếng Việt ở trường tiểu
học nói chung.
Căn cứ vào mục tiêu của Đọc mà học hết giai đoạn hai bậc tiểu học (lớp 4, lớp 5),
HS phải đạt được trong Tiếng Việt như sau:
- Tốc độ đọc tối thiểu: lớp 4 khoảng 100 tiếng / phút ; lớp 5 khoảng 120 tiếng / phút
- Biết đọc thành tiếng và đọc thầm:
+ Biết đọc phù hợp với các loại văn bản khác nhau (nghệ thuật, hành chính, khoa
học, báo chí, ...). Biết đọc một màn kịch hoặc một vở kịch ngắn có giọng đọc phù hợp
với nhân vật và tình huống kịch.
+ Biết đọc diễn cảm một bài thơ đã thuộc hoặc một đoạn văn đã học.
+ Biết đọc thầm với tốc độ nhanh (gấp 1,5 đến 2 lần đọc thành tiếng.)
- Đọc hiểu:
+ Biết tìm ý chính, tóm tắt bài văn, chia đoạn, rút ra dàn ý của bài..
+ Nhận ra các mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện trong bài.
4


+ Bước đầu biết đánh giá nhân vật, chi tiết và ngôn ngữ trong các bài tập đọc có giá
trị văn chương.
+ Hiểu các kí hiệu, các dạng viết tắt, các số liệu trên sơ đồ, biểu đồ, bảng hiệu, ...
- Kĩ năng phụ trợ:

+ Biết dùng từ điển.
+ Biết ghi chép các thông tin đã đọc.
+ Thuộc lòng một số bài văn vần và đoạn văn xuôi.
• Theo chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ đối với HS tiểu học khi học
hết lớp 4 về Đọc như sau:
- Lớp 4 : Đọc trôi chảy bài văn (khoảng 100 tiếng / phút) ; biết đọc diễn cảm đoạn
văn, đoạn thơ ; hiểu nội dung, ý nghĩa của bài học
Vậy là một giáo viên, có lẽ ai cũng tự hỏi: - Làm thế nào để học sinh lớp 4, đạt
được mục tiêu trên?Từ đó giúp các em có kĩ năng đọc, biết đọc đúng, đọc hay các bài
tập đọc? Làm thế nào để học trò có hứng thú thực sự khi học tập đọc đồng thời giúp
các em có kĩ năng tự học, góp phần hình thành kĩ năng sống cho các em?
Bản thân tôi cũng đã tham khảo ý kiến của nhiều đồng nghiệp giàu kinh nghiệm,
đọc một số sách tham khảo của các thầy cô đầu ngành có uy tín, trao đổi với một số
phụ huynh tâm huyết và đặc biệt qua tiếp xúc với nhiều em học sinh, tôi nhận ra việc
học sinh tiểu học tự tin, đọc đúng, đọc hay một văn bản là điều vô cùng cần thiết
nhưng cũng thật là nan giải. Đó là điều phải suy nghĩ nhiều không chỉ ở các nhà giáo
chúng ta.
- Đây là câu hỏi lớn cho toàn bộ đội ngũ giáo viên dạy học lớp 4 hiện nay. Để
trả lời câu hỏi này tôi mạnh dạn lấy nó làm đề tài khoa học của mình: Đó là: “Một số
biện pháp để giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc lớp 4”
- Hy vọng đề tài này nhằm nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 4 tạo điều
kiện cho các em học tập ở những lớp trên.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Nhằm giúp các em học sinh lớp 4 đọc trôi chảy, cảm nhận văn bản tốt hơn, hình
thành năng lực đọc cho học sinh, giúp các em có hứng thú trong học tập, để những tiết
học Tập đọc lớp 4 đạt kết quả cao nhất.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
3.1 Nghiên cứu tài liệu :
- Sách, báo, tạp chí giáo dục... có liên quan đến nội dung đề tài
- Sách giáo khoa, sách giáo viên – lớp 4

- Các loại sách tham khảo .
3.2. Nghiên cứu thực tế :
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp, về các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
môn Tập Đọc.
- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm (soạn hệ thống bài tập đã thông qua các
tiết dạy để kiểm tra tính khả thi của đề tài).
5


3.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
- Khảo sát đầu năm
- Nguyên nhân chủ yếu
- Biện pháp thực hiện
- Nội dung và kết quả thực hiện
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 9/2014 đến tháng 4/ 2015 ( năm học 2014- 2015)
4. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN THỰC HIỆN
- Đối tượng : Lớp 4C
- Thời gian : Một năm học 2014 – 2015

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. KHẢO SÁT THỰC TẾ
Năm học 2014 – 2015, tôi được nhà trường phân công làm chủ nhiệm lớp 4C với
tổng số học sinh là 38 em. Ngay từ ngày đầu nhận lớp, tìm hiểu thực trạng của lớp, tôi
được biết lớp tôi chủ nhiệm có một số thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:
+ Học sinh có cùng độ tuổi.
+ Đại da số cha mẹ các em quan tâm đến việc học tập của con em mình nên các em có
đủ sách vở đồ dùng học tập.

+ Học sinh chủ yếu ở địa phương
+ Một số em có ý thức thực hiện tốt các nề nếp, có ý thức học tập.
* Khó khăn:
+ Một số em chưa thực sự hoà mình vào tập thể, thiếu cố gắng trong rèn luyện, tiếp
thu bài chậm, ý thức học tập chưa tốt. Trong đó tiểu biểu là những em Nguyễn Trần
Khánh Ly, Ngô Thị Ngọc Ánh, Nguyễn Thùy Trang, Nguyễn Thị Thanh Hoa…đọc
còn kém và còn chưa chăm học.
+ Qua tìm hiểu các em này thuộc gia đình có bố, mẹ do công việc làm ăn không ổn
định, nơi làm nay đây mai đó hoặc chạy chợ nên ít có thời gian quan tâm tới con cái
nhất là việc giáo dục, học hành của con thì giao phó hẳn cho nhà trường, cho giáo
viên chủ nhiệm.
+ Bên cạnh đó còn có em có hoàn cảnh rất khó khăn, bố cờ bạc, nghiện hút hoặc do
làm ăn mất mát, tất cả chỉ trông vào gánh hàng rong của mẹ… do vậy cũng ảnh hưởng
rất nhiều đến việc học tập của học sinh.

6


2. SỐ LIỆU ĐIỀU TRA TRƯỚC KHI THỰC HIỆN
- Ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp, nhận học sinh tôi đã tiến ngay việc khảo sát
chất lượng đọc của lớp 4C.
- Đề bài: “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” (Tiếng Việt lóp 4 - Tập 1 - Trang 15)
a .Kiểm tra đọc: Học sinh đọc hết bài (thời gian 2 phút 15 giây)
b. Cảm thụ: (10 phút)
- Câu hỏi l: Trận địa mai phục của bọn Nhện đáng sợ như thế nào?
- Câu hỏi 2: Dế Mèn đã làm cách nào để bọn Nhện phải sợ?
- Câu hỏi 3: Đặt câu với từ “anh hùng'' ?
 Kết quả đạt được như sau:

số

38

ĐỌC
Giỏi
SL %
8

21.
1

Khá
SL %
12

31.
1

TB
SL %
13

34.2

Yếu
SL %
5

13,
6


Giỏi
SL %
6

15.8

CẢM THỤ
Khá
TB
SL % SL %
10

26.
3

15

39.5

Yếu
SL %
7

18.4

3. NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU:
- Căn cứ vào kết quả khảo sát tôi nhận thấy số em của lớp đọc vào loại khá,
giỏi ít (kể cả cảm thụ và đọc). Trong số những em đọc được điểm khá, giỏi thì đa số
mới dừng lại ở mức độ đọc phát âm đúng, trôi chảy. Chỉ có một số ít em đọc được
diễn cảm, giọng đọc thể hiện đúng giọng của nhân vật trong truyện Vậy nguyên nhân

là do đâu?
- Qua khảo sát thực tế, qua việc giảng dạy hàng ngày tại lớp mình chủ nhiệm,
qua dự giờ của một số bạn đồng nghiệp tôi đã tìm được một số nguyên nhân như sau:
- Trước hết là do lỗ hổng của học sinh ở lớp dưới. Ở lớp dưới các em đọc yếu
do vậy khi học lên lớp trên ngày một khó hơn đòi hỏi các em phải cố gắng nghiêng
hơn. Song trên thực tế thì các em không những không cố gắng mà lực học ngày càng
giảm sút. Đây là lỗi do giáo viên ít uốn nắn cho các em, gia đình ít quan tâm đến các
em vì họ quan niệm rằng “trăm sự nhờ thầy cô”.
- Nguyên nhân tiếp nữa là phần lớn học sinh của trường đều là con em nông
dân nên ít có điều kiện đọc sách, báo, truyện. . .đã thế những bài tập đọc của SGK học
ở lớp rồi về nhà các em cũng không đọc lại.
- Nguyên nhân thứ ba, đây được coi là nguyên nhân cơ bản nhất. Đó là việc dạy
học giờ tập đọc chưa thật sự có sức cuốn hút đối với học sinh. Trong quá trình giảng
dạy giáo viên còn ít chú ý tới khâu luyện đọc cho học sinh mà chủ yếu đi sâu vào bài
giảng. Thậm chí có những giờ tập đọc giáo viên biến thành giờ giảng văn. Nhưng bên
cạnh đó cũng có những giáo viên đã chú ý đến khâu luyện đọc cho học sinh nhưng
mới dừng lại ở mức độ luyện đọc trôi chảy mà chưa chú ý đến luyện đọc diễn cảm.
- Từ việc tìm ra được các nguyên nhân trên, trong quá trình dạy học một mặt tôi
cố gắng khắc phục những nguyên nhân đó. Mặt khác tôi tăng cường áp dụng việc cải
tiến phương pháp giảng dạy bằng kinh nghiệm thực tế của mình.
7


4. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
4.1. Rèn đọc đúng
4.2. Dạy học sinh cách ngắt giọng đúng, ngắt giọng biểu cảm:
4.3. Đọc mẫu
4.4. Hướng dẫn học sinh đọc cảm thụ bài đọc (tìm hiểu bài)
4.5 Giáo viên hướng dẫn đọc diễn cảm, đọc thuộc lòng
4.6 Tổ chức dạy học tạo hứng thú cho HS bằng trò chơi học tập:


PHẦN 2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Rèn đọc đúng:
Muốn đọc hay trước hết phải đọc đúng. Để đọc đúng, trước hết phải đọc đúng
chính âm, việc phát âm chuẩn là vô cùng cần thiết. Nhưng đặc điểm của trường là có
nhiều họ sinh ở các địa phương lân cận nên có một số học sinh còn nhầm lẫn giữa l và
n, một số rất ít nhầm r và s, hoặc nhầm dấu hỏi, dấu ngã (như trường hợp lớp tôi đã
nêu trên). Vì vậy việc rèn đọc thành tiếng cần phải giải quyết vấn đề này.
- Vì các em thường bị ngọng từ khi tập nói hoặc mang âm sắc địa phương nên việc
sửa ngọng là rất phức tạp. Vừa kết hợp với gia đình, tôi vừa dựa vào cơ chế phát âm
để hướng dẫn học sinh biết cách phát âm đúng, rồi rèn luyện để thành quen tiến tới
nói đúng, đọc đúng.
- Vì trong giờ tập đọc, thời lượng dành cho luyện đọc đúng có hạn nên tôi sử dụng
các giờ: Luyện phát âm và viết đúng hai phụ âm đầu l/n để rèn đọc đúng cho HS là
chính, đồng thời trong bất kì giờ học nào nếu học sinh phát âm chưa chuẩn tôi yêu cầu
các em sửa ngay. Tôi chia nhóm học sinh theo đối tượng ngọng (thường là nhóm 3
hoặc 4), nhóm nào cũng có học sinh đọc khá chuẩn làm nhóm trưởng, giúp nhau
luyện phát âm đúng qua các từ, cụm từ, các câu, các đoạn văn. Các em đọc hay nhầm,
bỏ sót từ, đọc thừa từ hay đọc lặp từ (do bị nói lắp) cũng luyện cùng. Tôi khuyến
khích các em tự tìm câu luyện cho bạn.
+ Luyện l/n :
- Hôm nay nắng nôi, đi Hà Nội nên đội nón lá.
- Nói năng nên luyện luôn luôn
- Nói năng lưu loát luyện luôn lúc này.
+ Luyện s/r :
- Sáng sớm sang sông xem sổ số.
- Rổ rá, dần sàng, sáng sớm dùng.
+ Luyện dấu hỏi, ngã : - Đã bảo rễ cỏ bám chắc đất
- Nắng nẻ, bão mưa vẫn chẳng rời.

- Để rèn học sinh đọc to, rõ ràng, tôi yêu cầu các em mở rộng miệng, không đọc quá
nhanh, người đứng thẳng, tư thế ngay ngắn. 1 tháng đầu, trong các giờ luyện phát âm,
tôi yêu cầu các nhóm thay nhau đọc đồng thanh, rồi rút dần 2 em đọc nhỏ và hay
nhầm nhất trong nhóm cùng đọc đồng thanh. Cuối cùng là từng cá nhân đọc, đọc to
8


chừng nào bạn xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Có thể cho học sinh đứng lên
trên bục giảng đối diện với các bạn đọc bài. Cứ như vậy, tâm lí e ngại dần được khắc
phục, thay vào đó là sự thi đua đọc đúng, đọc to để lấy hoa điểm tốt về cho tổ.
- Khích lệ các em tôi thường động viên các em bằng những bông hoa điểm tốt.
- Cuối mỗi tháng, trích quỹ lớp mua phần thưởng thưởng cho học sinh nào có sự tiến
bộ rõ rệt.
Các em HS lớp 4 đã lớn nên khi nói, đọc ngọng tôi thấy các em cũng xấu hổ. Vậy
nên khi được sự động viên, khích lệ và sự giúp đỡ tận tình, các em có ý thức sửa
ngọng rất tốt.
- Với sự miệt mài rèn luyện, chỉ sau học kì 1 năm lớp 4, hiện tượng đọc ngọng, đọc
sai, đọc lặp từ hay đọc nhỏ của lớp tôi đã giảm rõ rệt. Cả lớp chỉ còn 3 em là đôi lúc
đọc còn chưa chuẩn. Đó là : Hoa, khánh Ly, Ánh (riêng em Ánh mức độ đọc chậm)
- Tóm lại, muốn đạt kết quả cao trong quá trình luyện đọc dúng cho học sinh thì giáo
viên không phải là không tốn ít thời gian. Điều này đòi hỏi giáo viên phải rèn cho học
sinh trong một quá trình lâu dài, sự kiên trì và bền bỉ mới có được kết quả như mong
muốn.
2. Dạy học sinh cách ngắt giọng đúng, ngắt giọng biểu cảm:
HS biết ngắt giọng đúng, ngắt giọng biểu cảm thì mới đọc diễn cảm tốt được.
- Đọc ngắt giọng sai phản ánh một cách hiểu sai văn bản nghĩa là cách đọc không
để ý đến nghĩa của câu, nghĩa của đoạn, nghĩa của văn bản. Vì vậy, ngắt giọng đúng
và hay vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng, vừa là một trong những phương tiện
giúp HS tiếp nhận, chiếm lĩnh nội dung bài. Nhờ hiểu nghĩa và các quan hệ ngữ pháp
mà ta có thể đọc đúng chỗ ngắt giọng. Có thế, người nghe mới hiểu đúng nội dung

bài.
+ Qua thực tế giảng dạy tiểu học nhiều năm, tôi thấy nhiều trường hợp HS khi đọc
ngắt giọng sai. Có em kiến thức về từ đơn, từ ghép vẫn chưa nắm được, nói gì đến
phân biệt, vậy nên đọc tự do, một từ ngắt làm hai. Có em đọc không ngắt giọng đúng
giữa CN, VN vì chưa nắm chắc đâu là CN, đâu là VN. Đó là vì các em chưa nắm chắc
kiến thức Luyện từ và câu.
Ví dụ: Khi đọc đoạn văn sau trong bài Trung thu độc lập, tôi gọi 3 em Quyến,
Thắng, Hưng đọc và có em đã ngắt giọng như sau:
“Mươi mười lăm / năm nữa thôi, các em / sẽ thấy cũng dưới ánh / trăng này, dòng
thác nước đổ / xuống làm chạy máy / phát điện ; ở giữa biển / rộng, cờ đỏ sao / vàng
phấp phới bay trên / những con tàu lớn.”
*Trong bài “Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy hướng dẫn học sinh ngắt nhịp
như sau:
Bão bùng / thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu/ tre gần nhau thêm
Thương nhau / tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó/ mà nên hỡi người.
9


- Ngoài ngắt nhịp đứng còn hướng dẫn ọc sinh biết nhấn giọng ở các từ gợi tả, gợi
cảm để làm nổi bật nội dung bài
+ Hoặc khi đọc bài toán dưới đây, em Việt đứng lên đã đọc ngắt giọng (không cần
biết có dấu phảy,hay dấu chấm) như sau :
Nhà trường phân cho ba / lớp Bốn 360 quyển / vở. Mỗi / lớp có 40 / học sinh. Hỏi
mỗi học / sinh được mấy quyển vở?
Khiến cả lớp bật cười và nhiều em không hiểu bài toán cho biết gì, có yêu cầu gì và
sẽ phải làm như thế nào?
Tôi biết học trò đọc như vậy vừa do không biết ngắt giọng giữa CN, VN, vừa do
không nắm được cấu tạo từ, vừa do em bị nói lắp (Việt) và đọc chưa trôi chảy

- Như vậy, việc đọc đúng bao gồm cả đọc đúng từ, đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi,
đúng ngữ điệu câu. Tôi thấy cần phải hướng dẫn nắm chắc khái niệm từ đơn, từ ghép.
Cho các em thực hành nhiều lần tìm các từ trong một câu ; so sánh sự khác biệt giữa
từ đơn, từ ghép , và từ ghép bị tách thành hai từ đơn. Hướng dẫn các em dựa vào
nghĩa của từ, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc,
không được tách một từ ra làm hai, không tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm.
Khi dạy học, tất cả các môn đều có liên quan tới đọc đúng, đồng thời bổ sung cho
nhau nên không được xem nhẹ môn nào.
VD: + Khi đọc câu thơ :
Tôi nghe truyện cổ thầm thì
Lời ông cha dạy cũng vì đời sau.
(Truyện cổ nước mình – Lâm Thị Mĩ Dạ)
Thì phải biết phân biệt từ truyện cổ, thầm thì, ông cha là những từ ghép, từ láy nên
khi đọc không tách rời truyện/cổ ; ông/cha, kết hợp với ngắt giọng thì phải đọc
như sau :
Tôi nghe truyện cổ thầm thì
Lời ông cha dạy / cũng vì đời sau.
Và phải đọc đoạn văn trên như sau:
“Mươi mười lăm năm nữa thôi, các em sẽ thấy / cũng dưới ánh trăng này, dòng
thác nước đổ xuống làm chạy máy phát điện ; ở giữa biển rộng, cờ đỏ sao vàng phấp
phới bay / trên những con tàu lớn.”
+ Hoặc bài toán dưới đây phải đọc như sau :
Nhà trường phân cho ba lớp Bốn / 360 quyển vở / mỗi lớp có 40 học sinh. Hỏi mỗi
học sinh / được mấy quyển vở?
- Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: dấu phảy nghỉ ít ; dấu chấm nghỉ lâu
hơn ; đọc đúng các ngữ điệu câu : lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể ,
thay đổi giọng đọc phù hợp với tình cảm diễn đạt trong câu cảm. Với câu khiến cần
nhấn giọng phù hợp để thấy rõ nội dung cầu khiến khác nhau. Khi đọc các bộ phận
giải thích cho từ, cho câu cần hạ thấp giọng. Tuy nhiên, giữa CN và VN ; giữa ĐT,
TT với bổ ngữ ; giữa DT với định ngữ thì làm gì có dấu câu. Đó là chưa kể trong thơ,

hầu như tác giả đã lược bỏ nhiều dấu câu, hoặc trong một số bài văn xuôi thuộc văn
bản nghệ thuật, tác giả không dùng các dấu câu như yêu cầu ngữ pháp của trường tiểu
học do cách cảm thụ nghệ thuật của tác giả. Và, đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến
10


việc hcọ sinh đọc ngắt nghỉ không đúng. Trong những câu dài hàm chứa nhiều ý,
nhiều thông tin , học sinh thường đọc một hơi dài rồi ngắt nghỉ tùy tiện, không tính
đến nghĩa.
- Tôi hướng dẫn các em tìm các cụm DT, cụm ĐT, cum TT, các thành phần ngữ pháp
cùng chức vụ trong câu. Có những bài tập đọc đòi hỏi học sinh phải có óc tưởng
tưởng, đặt mình trong vai nhân vật, phải đọc nhiều lần mới hiểu.
Ví dụ :
“ Tôi tưởng tượng / nếu mang nó vào / chắc bước đi sẽ nhẹ và nhanh hơn, tôi sẽ chạy
trên con đường đất mịn trong làng / trước cái nhìn thèm muốn của các bạn tôi”
(Đôi giày ba ta màu xanh - Hàng Chức Nguyên)
Hay câu :
“ Tôi đã ngửa cổ suốt một thời mới lớn / để chờ đợi một nàng tiên áo xanh / bay
xuống từ trời / và bao giờ cũng hi vọng / khi tha thiết cầu xin : “Bay đi diều ơi! Bay
đi!”
(Cánh diều tuổi thơ – Tạ Duy Anh)
- Để tìm được các từ cần nhấn giọng, hay giọng điệu của đoạn , của bài văn phải
dạy các em hiểu kĩ nghĩa của từ khi dùng trong câu hay giọng đọc các loại câu. Việc
này tôi chú trọng dạy kĩ và rèn HS trong phần giải nghĩa từ và các tiết Luyện từ và
câu, hướng dẫn các em cách tra từ điển, đọc từ điển. Về nhà soạn bài, tôi đã yêu cầu
các em tự tìm và gạch chân các từ cần nhấn giọng. Đến lớp, sau khi nghe cô giáo hoặc
bạn đọc mẫu, các em sẽ so sánh với bài của mình để từ đó tìm được cách đọc đúng
nhất.
* Sau 2 tháng học được cô giáo hướng dẫn tỉ mỉ, một số em đã biết cách đọc văn bản
tương đối tốt.

VD : Em Trà My soạn bài Thưa chuyện với mẹ (TV4 – Tuần 9) như sau:
+ Trong bài có cả câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến.
+ Toàn bài đọc với giọng trao đổi, trò chuyện thân mật, nhẹ nhàng
+ Lời Cương: đọc với giọng lễ phép, khẩn khoản, thiết tha khi xin mẹ cho em đi học
nghề rèn và giúp em thuyết phục cha. Mấy câu kể cuối bài đọc chậm với giọng suy
tưởng, hồn nhiên thể hiện sự hồi tưởng của Cương về cảnh lao động hấp dẫn ở lò rèn.
+ Giọng mẹ Cương : hỏi với giọng ngạc nhiên, sau đó cảm động, dịu dàng.
+ Nhấn giọng ở các từ : nhớ, mồn một, xin thầy, tự ý, vất vả, kiếm sống, cảm động,
nghèo, quan sang, nghèn nghẹn, thiết tha, đáng trọng, trộm cắp, ăn bám, nhễ nhại, phì
phào, cúc cắc, bắn tóe, ...
 Chú ý:
Khi luyện đọc cách ngắt giọng đúng, ngắt giọng biểu cảm chú ý những
điểm sau:
- Giáo viên giúp học sinh phát hiện những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm: từ
đa nghĩa, từ mang nghĩa bóng, từ có sự chuyển nghĩa tạo nên giá trị nghệ thuật của
bài.
- Giáo viên giúp học sinh phát hiện những từ dùng nhiều lần được lặp đi lặp
lại, nhằm nhấn mạnh những điều tác giả muốn nói đến trong bài đọc. Đặc biệt là
11


những từ ngữ dùng để ví von, so sánh, những từ ngữ có tác dụng nhân hoá, liệt kê làm
tăng sự cảm hoá của văn bản.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện câu hay, hình ảnh đẹp cũng là tín
hiệu nghệ thuật hoặc câu chứa đựng nội dung tư tưởng của bài đọc.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm mối liên hệ bên trong của văn bản để hiểu
ý nghĩa hàm ẩn của nó.
3. Đọc mẫu:
Về việc đọc mẫu của giáo viên có ý kiến cho rằng “Nếu mở đầu tiết tập đọc,
giáo viên đọc mẫu ngay, như vậy là áp đặt học sinh” có ý kiến khác lại cho rằng “Để

tự học sinh tìm ra cách đọc đoạn, bài trên cơ sở có sự hướng dẫn của giáo viên”.
- Xét tình hình thực tế hiện nay, học sinh giỏi của lớp tôi có thể làm được
điều mà ý kiến thứ 2 đưa ra. Song việc đọc mẫu của giáo viên vẫn không thể thiếu
được bởi không phải lúc nào học sinh cũng tìm ra được cách đọc đúng nhất cho đoạn,
bài đó. Như vậy việc đọc mẫu của giáo viên trong giờ dạy tập đọc là không thể thiếu
được. Việc đọc mẫu là rất quan trọng bởi nó có tác dụng làm cơ sở định hướng cho
học sinh khi đọc. Ở Tiểu học các em còn nhỏ nên việc đọc theo cô, thầy, tiếp cận với
đọc mẫu cũng nhanh thường thì cô đọc thế nào, trò đọc như vậy. Vì vậy mỗi bài tập
đọc trước khi dạy, giáo viên phải chuẩn bị trước để khi đọc mẫu thật trôi chảy, phát
âm chuẩn xác và nắm vững các mức độ đọc diễn cảm để rèn cho học sinh đọc tốt như
sau. Và đây cũng là việc mà tôi thường làm trong giờ dạy tập đọc của lớp mình.
- Giáo viên biết hạ giọng hay cất cao giọng theo từng loại câu.
- Giáo viên biết nhấn mạnh các từ trong câu (từ , cụm từ cần nhấn mạnh)
- Tuỳ theo nội dung từng đoạn văn, bài văn mà giáo viên mà giáo viên có
giọng đọc thích hợp.
- Giáo viên chú ý phân biệt lời tác giả và lời nhân vật để có giọng đọc khác
nhau.
4. Hướng dẫn học sinh đọc cảm thu bài dọc (tìm hiểu bài):
- Ngoài nhiệm vụ chính rèn đọc cho học sinh ra, phân môn tập đọc còn có
nhiệm vụ tích lũy kiến thức nhiều mặt đa dạng phong phú cho các em. Mỗi bài tập
đọc là bức tranh thu nhỏ về hiện thực cuộc sống người và thời đại hoặc là vẻ đẹp của
thiên nhiên, đất nước con người. . .theo các chủ đề chủ điểm. Hơn thế nữa phân môn
tập đọc còn cung cấp, mở rộng cho các em một vốn từ ngữ thuộc những chủ đề đó. Từ
đó giúp học sinh có thêm vốn từ ngữ khi viết văn. Vấn đề ở đây là dạy học như thế
nào để tránh biến giờ tập đọc thành giờ giảng văn hoặc biến giờ tập đọc thành một tiết
học nhàm chán khô khan không gây hứng thú cho học sinh.
- Để tránh được điều đó trong khi dạy tập đọc. Trước tiên muốn nói về cách
dạy học cũ là có sự mất cân đối rõ rệt giữa hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động
học của học sinh. Giáo viên lên lớp truyền thụ kiến thức chủ yếu bằng phương pháp
thuyết trình, giảng giải. Học sinh thụ động tiếp thu theo cách: thầy giảng trò nghe và

ghi nhớ. Giáo viên là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Học sinh ít có khả năng đánh giá và nhận xét lẫn nhau. Tiêu chuẩn để đánh giá học
12


sinh là kết quả ghi nhớ, tái hiện lại những điều giáo viên giảng. Từ cách dạy - học này
tôi thấy có những hạn chế sau:
- Học sinh học tập, tiếp thu thụ động nên tri thức tiếp thu được không vững, tính thụ
động lâu dần thành thói quen sẽ hạn chế trình độ tư duy và nhận thức của học sinh.
Những lớp người này sẽ không đáp ứng được yêu cầu của xã hội ngày nay.
- Học sinh không được chuẩn bị đúng mức để hoạt động học tập và sáng tạo, có thích
ứng với yêu cầu học tập cao ở lớp trên.
- Năng lực của cá nhân học sinh không có điều kiện bộc lộ và phát triển đầy đủ.
- Như một nhà triết học cổ đại đã nói ''Dạy học không phải là chất đầy vào một cái
thùng rỗng mà làm bừng sáng lên những ngọn lửa'', có nghĩa là dạy học phải phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh để các em tự tìm tòi, khám phá ra những
kiến thức của bài học. Giáo viên giúp học sinh có những điều kiện và phương tiện
hoạt động để các em tự xử lý các tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc sống.
Trong phân môn tập đọc bước hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản, cảm thụ
văn bản cũng rất quan trọng. Cảm thụ văn học là sự cảm nhận những giá trị nổi bật,
những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của văn học thể hiện trong tác phẩm (trong cuốn
truyện, bài văn, bài thơ,...) hay một bộ phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ,...)
thậm chí là một từ ngữ có giá trị trong câu văn, câu thơ.
Khi đọc (hoặc nghe) một câu chuyện, một bài thơ, ta không những hiểu mà còn
phải xúc cảm, tưởng tượng và thật sự gần gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc. Đọc
có suy ngẫm, tưởng tượng và rung động thật sự sẽ giúp ta cảm thụ văn học tốt.
Trong quá trình dạy học giáo viên cũng phải chú ý không được biến giờ tập đọc
thành giờ giảng văn như ở cấp II. Giáo viên nói ít, giảng ít học sinh làm việc nhiều,
trả lời nhiều câu hỏi trong một tiết học. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn
bị chu đáo để đưa ra một hệ thống câu hỏi, phải chẻ nhỏ câu hỏi hoặc thêm một số câu

hỏi khác không chỉ dừng lại ở mấy câu hỏi trong SGK. Nhưng khi thêm hoặc chẻ nhỏ
câu hỏi giáo viên chú ý không được đảo vị trí câu hỏi trong sách giáo khoa.
- Ví dụ trong bài Tập đọc ''Gà trống và cáo'' - sách giáo khoa Tập đọc lớp 4
- Tập l chỉ có câu hỏi: Cáo đã làm gì để dụ Gà trống xuống đất ? cho đoạn l.
- Tôi đã đưa thêm một số câu hỏi trước khi đưa câu hỏi đó trong sách giáo
khoa như.
+ Gà trống và Cáo đứng ở vị trí như thế nào?
+ Gà trồng là con vật như thế nào ?
+ Cáo là con vật như thế nào?
+ Thái độ của Cáo khi nói với Gà trống như thế nào ?
- Và sau cùng tôi mới hỏi: ''Cáo đã làm gì để dụ Gà trống xuống ?”.
- Như vậy giáo viên phải chuẩn bị công phu hơn, khó hơn việc thuyết trình,
giảng giải.
- Trong khi dạy bài mới giáo viên cần tránh đặt câu hỏi trong đó có sẵn câu
trả lời mà học sinh có thể đoán ngay ra, không cần động lão suy nghĩ:
+ Ví dụ: “Có phải dòng thơ Cáo kia đon đả ngỏ lời thể hiện thái độ rào
trước đón sau không?”
13


- Một điều cần chú ý khi giáo viên sử dụng, phương pháp hỏi đáp là luyện
cho các em trả lời cả câu hoàn chỉnh với vốn từ ngữ của các em. Mặt khác tạo cho các
em thói quen tự đặt ra những câu hỏi trong quá trình học. Như vậy dạy học như thế
không chỉ đơn thuần là: giáo viên hỏi - học sinh trả lời mà còn là học sinh hỏi - học
sinh trả lời và học sinh hỏi - giáo viên hướng dẫn trả lời.
- Ví dụ bài thơ: ''Bài thơ về tiểu đội xe không kính'' SGK lớp 4 tập 2. Tôi hướng dẫn
như sau:
+ Gọi học sinh đọc đoạn 1:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng”.
+ Giáo viên có thể yêu cầu: ''Em tự đặt câu hỏi cho đoạn thơ em vừa đọc?”
+ Học sinh đặt câu hỏi: ''Hình ảnh nào cho thấy xe không có kính ? ''
+ Giáo viên yêu cầu học sinh khác trả lời: hình ảnh cho ta thấy xe không có
kính là: “Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.”
- Cứ như vậy giáo viên hướng dẫn học sinh để học sinh tự mình đặt câu hỏi
và trả lời. Trong quá trình tổ chức, điều khiển hoạt động của lớp như vậy có những
câu trả lời của học sinh không đúng với nội dung câu hỏi thì giáo viên phải dưa ra
những câu hỏi phụ để học sinh trả lời được đúng nội dung câu hỏi đó. Đây là tình
huống sư phạm đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt xử lý. Quan trọng là giáo viên
chủ động lựa chọn nội dung kiến thức phù hợp với bài học, với đối tượng học sinh
không phụ thuộc hoàn toàn vào SGK và sách hướng dẫn mà để giúp học sinh hiểu nội
dung bài một cách cụ thể hơn thì trong quá trình tìm hiểu bài giáo viên cần cho học
sinh quan sát thêm tranh, ảnh minh họa. cụ thể như bài thơ ''Tre Việt Nam'' của
Nguyễn Duy SGK 4 Tập l trang 41, với các bức tranh cây tre, măng tre học sinh sẽ
hình dung dễ hơn, cụ thể hơn

14


-

Trong bài: Đường đi Sa Pa thì với hình ảnh hoàng hôn trong sương núi tím nhạt nếu
không có tranh thì thật khó miêu tả để học sinh hình dung ra được, bức tranh sinh
động khắc học cụ thể màu tím của hoàng hôn thật đẹp từ đó học sinh không những
cảm nhận được vẻ đẹp mà học sinh còn thấy được vẻ đẹp đó

15



Trong bài thơ: ''Bài thơ về tiểu đội xe không kính'' SGK lớp 4 tập 2 có viết
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng”.
Đây là hình ảnh trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta,
cuọc kháng chiến gian khổ khó khăn nhưng các anh bộ đội thật dũng cảm, lạc quan
yêu đời, qua tranh ảnh học sinh sẽ cảm nhận rõ hơn phẩm chất đó của các anh

16


Khi dạy bài: “Trung thu độc lập” có hình ảnh: dòng thác nước đổ xuống làm chạy
máy phát điện ; ở giữa biển rộng, cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên những con tàu
lớn. Hay hình ảnh biển lúa vàng tươi, đồi chè xanh tốt thì việc cho học quan sát trnh
là rất cần thiết đẻ học sinh cảm nhận rõ hơn, hiểu nội dung bài, thấy được vẻ đẹp của
đất nước mình đã trở thành hiện thực

17


18


19


- Trong việc đánh giá câu trả lời của học sinh thì ý kiến của học sinh là quan
trọng. Song không phải giáo viên là người duy nhất đánh giá câu trả lời của học sinh

mà giáo viên còn tạo điều kiện cho các em tự đánh giá và nhận xét lẫn nhau.
- Qua bài tập đọc học sinh còn được làm quen, tiếp xúc với ngôn ngữ văn
học, với sáng tác, biết phân tích các chi tiết tiêu biểu về mặt nội dung và nghệ thuật
của văn bản. Trong khi giảng giáo viên có thể hỏi: ''Tác giả đã sử dụng biện pháp
nghệ thuật gì?''. Trong một bài tập đọc tác giả có thể sử dụng các biện pháp nghệ
thuật nhân hoá, so sánh, thậm xưng. . ..từ đó các em học được cách viết khi dùng từ,
đặt câu và viết văn thêm sinh động tạo điều kiện cho các em làm văn tốt hơn:
+ Ví dụ: Khi tả cây tre trong bài thơ ''Tre Việt Nam'' của Nguyễn Duy SGK 4
Tập l trang 41. Tác giả đã dùng những biện pháp nhân hoá để gắn cho cây tre có tính
cách, tình cảm, lời đối đáp như con người với nhau:
“Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu ?
Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít, chắt dồn lâu hoá nhiều”.
Hay:
“Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành.
......................................................”.
- Qua đây các em học được các biện pháp nhân hoá trong giờ Tập đọc để sử
dụng khi viết văn miêu tả cây cối. Qua kiểm tra Tập làm văn viết giữa học kỳ II với
đề bài “Em hãy miêu tả một cây hoa (hoặc cây có bóng mát) mà em thích.” Có em tả
về cây hoa hồng như sau: “cô mặc chiếc váy màu đỏ thật đẹp... trên thân cây, cành
cây mọc chi chít nhũng chiếc gai tua tủa như những chàng vệ sĩ bảo vệ nàng công
chúa hoa hồng..”. Cách miêu tả như vậy làm cho bài văn thêm sinh động, hấp dẫn.
- Song song với việc giáo viên cho học sinh tìm những chi tiết, hình ảnh thể
hiện giá trị nghệ thuật của bài thì giáo viên giúp các em hiểu rõ được nội dung của bài
một cách sâu sắc.
- Mỗi bài tập đọc thường có các đoạn. Khi đó giáo viên hướng dẫn học sinh
tìm hiểu bài bằng cách:
+ Tìm từ khó hiểu, khai thác nghĩa của từ khó rồi tìm ra ý chính của các đoạn

bởi hệ thống các câu hỏi, đại ý của bài.
+ Ví dụ: như ở bài tập đọc ''Trung thu độc lập'' sách giáo khoa 4 - Tập l Trang 66.
+ Các từ khó hiểu là: ''Tết trung thu độc lập; trại, trăng ngàn, nông trường''.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh giải nghĩa từ: ''Trung thu độc lập, trại'' và đưa
ra hệ thống câu hỏi tìm ra ý chính đoạn l là:
- Anh bộ đội biên phòng đang làm gì?
- Anh đứng gác trong khung cảnh như thế nào?
- Đứng trước cảnh đẹp của trăng anh bộ đội có những suy nghĩ gì?
- Qua đoạn này tác giả muốn nói lên điều gì?
20


- Học sinh trả lời một loạt các câu hỏi trên và cuối cùng giáo viên ghi đại ý đoạn:
“niềm xúc động của anh bộ đội về trăng trung thu độc lập.” .
- Các đoạn khác cũng tương tự như vậy và cuối cùng tìm ra đại ý bài là: “Tình
thương yêu các em nhỏ của anh chiến sĩ, mơ ước của anh về tương lai của các em
trong đêm trung thu độc lập đầu tiên của đất nước.”
 Chú ý: sau khi tìm ra ý chính của mỗi đoạn giáo viên phải có tiểu kết đoạn
để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Giáo viên có câu hỏi hoặc lời dẫn dắt để chuyển
sang ý tiếp theo khiến bài giảng không bị đứt đoạn mà có hệ thống, logic.
- Phần giảng từ khó cho học sinh tôi thường sử dụng bằng 2 cách:
+ Cách l: Giảng một số từ như ''Trung thu độc lập'' vào lúc học sinh luyện
đọc đúng.
+ Cách 2: Còn từ “trăng ngàn, nông trường'' tôi đưa vào lúc tìm hiểu bài có
nghĩa là lúc này đây khi các em hiểu ý chính của đoạn, hiểu hoàn cảnh của anh bộ đội
thì mới giải nghĩa 2 từ đó giúp các em hiểu sâu hơn nghĩa của 2 từ đó (giải nghĩa từ
theo văn cảnh).
- Hoặc trong bài ''Gà trống và Cáo'' có cụm từ “Hồn lạc phách bay” khi tôi
đưa ra một số câu hỏi vừa là tìm hiểu nội dung đoạn sau đó mới đưa cụm từ đó vào:
+ Gà tung tin có cặp chó săn đang chạy đến để làm gì ? (Để lừa Cáo)

+ Khi nghe thấy tin đó thì thái độ của Cáo như thế nào ? (Hồn lạc phách bay).
- Giáo viên nói luôn “khi ai đó làm việc gì xấu, bị người khác phát hiện khiến
người đó vô cùng sợ hãi, hoảng hốt và cụm từ “Hồn lạc phách bay” đã thể hiện được
điều đó”.
- Trong một tiết tập đọc giáo viên có thể sử dụng 2 hình thức đó là: đọc thầm
và đọc thành tiếng:
+ Hình thức đọc thành tiếng tôi áp dụng vào lúc luyện đọc đúng cho học sinh.
Hình thức đọc thầm tôi áp dụng vào lúc này, lúc tìm hiểu bài. Giáo viên yêu cầu học
sinh đọc thầm để tìm câu trả lời cho câu hỏi nào đó. Đây là hình thức lâu nay trong
các nhà trường chưa coi trọng đúng mức.
+ Hình thức đọc thầm nhằm hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng, kỹ
xảo đọc thầm - là kỹ năng kỹ xảo mà mỗi con người sẽ sử dụng trong suốt cuộc đời.
+ Về mối quan hệ giữa đọc đúng (đọc thành tiếng) và đọc thầm thì đọc thành
tiếng là cơ sở cho việc đọc thầm. Đọc thành tiếng là hình thức yêu cầu đọc thấp, đọc
thầm là hình thức yêu cầu đọc cao hơn. Đọc thầm giúp học sinh dễ cảnh nhận nội
dung bài học. Vậy trong các bước của giờ tập đọc ta không lên bỏ qua bước đọc thầm
này.
- Từ việc hiểu tầm quan trọng của hình thức đọc thầm này nên tôi đã áp
dụng vào lúc tìm hiểu bài. Trước khi yêu cầu học sinh đọc thầm tôi đưa ra câu hỏi và
giao nhiệm vụ cho các em đọc thầm và tìm câu trả lời cho câu hỏi đó như:
+ Em hãy tóm tắt nội dung đoạn em vừa đọc?
- Làm như vậy các em mới tập trung vào việc đọc thầm và tự giác đọc thầm
không cần giáo viên nhắc nhở.
21


5 Giáo viên hướng dẫn đọc diễn cảm, đọc thuộc lòng:
- Trong một giờ tập đọc dạy theo phương pháp mới này thì khâu luyện đọc
diễn cảm diễn ra sau khi học sinh luyện đọc đúng; tìm hiểu bài là phù hợp, hợp lý bởi
các em có đọc đúng văn bản, hiểu được nội dung văn bản và từ đó các em có thể tự

mình xác định được giọng đọc cho bài thơ, văn bản đó. Có nhiều cách tổ chức luyện
đọc diễn cảm cho học sinh như:
+ Cách 1: Giáo viên đưa ra hệ thống cậu hỏi để tìm ra những từ ngữ, cụm từ
đọc diễn cảm như: “Em hãy tìm những từ ngữ gợi tả, gợi cảm trong đoạn văn, đoạn
thơ ?..”
- Khi học sinh tìm được rồi có nghĩa là các em cũng xác định được giọng
đọc và giáo viên yêu cầu học sinh “Em hãy đọc cụm từ dó đúng theo thái độ tình
cảm của tác giả”
+ Cách 2: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm:
- “Em hãy tìm những từ, cụm từ cần đọc diễn cảm có trong đoạn văn, đoạn thơ ?''.
- “Từ cụm từ em vừa tìm được thiện tình cảm, thái độ hay là những từ, cụm từ gợi
tả, gợi cảm?”.
- “Em đọc những từ, cụm từ đó với giọng như thế nào?”.
- Khi học sinh xác định được giọng đọc của đoạn, bài đó rồi. Giáo viên có
thể tổ chức cho các em đọc theo nhóm 2 bạn và thi đọc hay giữa các nhóm. Việc làm
của giáo viên như vậy vừa tìm được ra những em học sinh có giọng đọc hay, vừa giúp
các em hưng phấn trong khi đọc giúp tiết học nhẹ nhàng hiệu quả.
- Đối với những bài thơ (Bài văn yêu cầu thuộc một đoạn) khi học sinh đã
xác định được giọng đọc của bài. Giáo viên tổ chức cho học sinh thi đọc thuộc đoạn
đó. Giáo viên có thể yêu các em học thuộc bài, đoạn văn (thơ) dưới dạng l trò chơi
“Đọc thơ truyền điện”.
- Ví dụ: Yêu cầu học sinh đọc thơ: “Gà trống và Cáo”, giáo viên là người
đấu tiên đọc thuộc dòng thơ thứ nhất sau đó chỉ định một em bất kỳ đọc dòng thơ thứ
2 (yêu cầu học sinh gấp sách giáo khoa lại). Em đó lại chỉ một bạn học sinh khác đọc
dòng thơ thứ 3…cứ như vậy cho đến hết bài.
- Làm tương tự như vậy với đoạn, bài. Kết quả là các em thuộc bài ngay ở
lớp và tạo hứng thú cho những tiết học sau.
- Đó là hình thức tôi thường áp dụng với học sinh của lớp mình. Đối với
những em học sinh quá yếu tôi có thể áp dụng hình thức học lòng như ở lớp 2, 3. Có
nghĩa là giáo viên treo bảng phụ ghi nội dung bài thơ, đoạn văn đó và xoá dần các chữ

của một dòng chỉ để lại một tiếng đầu tiên của dòng đó và sau đó yêu cầu học sinh
thuộc dòng, đoạn, bài.
- Trên đây là những hình thức tổ chức hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm và
đọc thuộc lòng mà tôi đưa ra và áp dụng với lớp mình. Còn tuỳ thuộc vào những bài
văn, thơ mà mỗi giáo viên áp dụng những hình thức đọc diễn cảm, đọc thuộc lòng phù
hợp nhất cho đối tượng học sinh của lớp mình. Để các em học sinh có những tiết học
thật thoải mái và hiệu quả.
Tóm lại: Qua giờ tập đọc học sinh được làm quen với ngôn ngữ văn học, sáng tác
văn học, cách dùng từ đặt câu tạo cho các em những rung cảm thẩm mỹ. Giáo dục cho
22


các em tình cảm trong sáng tốt đẹp. Là cửa ngõ để các em đi đến việc cảm thụ văn
học. Trong phân môn tập đọc, kỹ năng đọc không thể tách rời với kỹ năng tìm hiểu
bài mà chỉ có thể đồng nhất với nhau. Học sinh có hiểu nội dung bài thì mới có thể
đọc đúng đọc hay. Việc đọc đúng, đọc hay lại nâng đọc hiểu lên một mức cao hơn là
cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn chương. Phân môn tập đọc lớp 4 luôn thể hiện
sự gắn bó chặt chẽ qua quá trình đọc và quá trình hiểu. Qua sự hướng dẫn của giáo
viên, sau mỗi tiết học các em đều nhận biết được các ý sau:
- Nhận biết được đề tài, cấu trúc của bài đọc.
- Biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt tìm ý.
- Phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản, văn
chương.
6. Tổ chức dạy học tạo hứng thú cho HS bằng trò chơi học tập:
Hiện nay, học sinh học cả ngày ở trường, cùng với sự quan tâm, kì vọng của cha
mẹ các em là một áp lực không nhỏ đối với việc học của nhiều em. Vậy nên làm thế
nào để vừa giúp các em học hành tiến bộ, vừa giúp các em “mỗi ngày đến trường là
một ngày vui”, mỗi bài học là một điều lí thú là việc tôi luôn tìm tòi, suy nghĩ. Thế
nên, trong quá trình dạy học, bên cạnh việc rèn các kĩ năng Tiếng Việt cho HS, tôi
đưa vào một số trò chơi để kích thích hứng thú luyện đọc cho HS và tuân thủ các

nguyên tắc:
- Nội dung trò chơi gắn với bài học, giúp HS hiểu nội dung bài, rèn kĩ năng đọc kết
hợp với rèn kĩ năng nghe, nói. Qua đó, rèn tư duy linh hoạt, luyện tác phong tháo vát,
nhanh nhẹn, giáo dục tư tưởng tình cảm tốt đẹp cho HS.
- Trò chơi tiến hành đơn giản thu hút tất cả HS tham gia nhưng vẫn đảm bảo đúng luật.
- Các trò chơi tiến hành : Thi đọc tiếp sức.
Thi tìm nhanh.
Đọc thơ truyền điện.
Thả thơ.
Các trò chơi này tôi tham khảo trong cuốn Trò chơi thực hành Tiếng Việt (2 tập) lớp
4, lớp 5 của thầy Trần Mạnh Hưởng (chủ biên).
Tôi chỉ tổ chức, hướng dẫn HS chơi vài lần đầu, sau đó giao cho các cán bộ lớp tự tổ
chức dưới sự giám sát của GV. Chính điều này đã phát huy tính sáng tạo cho HS rất
tốt. Các em đã có nhiều câu hỏi hay, độc đáo lấy từ sách ,báo, ... khiến HS rất hứng
thú. Đặc biệt, trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tháng, các em thường đề nghị tôi cho
các con chơi Rung chuông vàng kết hợp kiến thức tất cả các môn học. (HS dùng
bảng con và phấn viết đáp án, dùng bảng phụ ghi câu hỏi hoặc các phương án trả lời
kết hợp với đọc miệng. Nội dung các câu hỏi cuộc chơi này hoàn toàn do các em chọn
lựa, cô giáo chỉ là người duyệt chương trình và nội dung mà thôi, luân phiên mỗi tổ tổ
chức một cuộc chơi.) Phụ huynh lớp tôi rất đồng tình và đã tài trợ phần thưởng (bút
mực, bút tẩy,bút chì, cặp tóc, đồ chơi, kẹo,...) cho các cháu. Điều này đã giúp học trò
năng động, sáng tạo, tự tin và có kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống thêm phong phú. Và
tôi nhận thấy một điều, HS tự hướng dẫn nhau, tự sửa sai cho nhau dưới sự giám sát
của GV cho kết quả cao hơn nhiều khi GV áp đặt cho các em. Có một số điều mà tôi
23


thấy chính mình phải học tập. Chính vì vậy mà phong trào học tập, hoạt động Đội,
hoạt động ngoại khóa của lớp tôi luôn dẫn đầu toàn trường.
“ Để giúp học trò của mình sửa chữa tật phát âm sai l thành n, cô giáo giao cho Thơ

đọc và học thuộc câu “Lúa nếp là lúa nếp nàng, Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng”
. Một tuần sau cô kiểm tra và thấy em có sự tiến bộ rõ rệt

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ SO SÁNH ĐỐI CHỨNG
- Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và rút ra một số kinh nghiệm cho đề tài
“Một số biện pháp để giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc lớp 4”. Trong việc
đổi mới phương pháp dạy tập đọc qua 2 khâu chính là luyện đọc và hướng dẫn học
sinh cảm thụ văn học. Tôi thấy kinh nghiệm này có hiệu quả rõ rệt. Sau đây là kết quả
tổng hợp mà tôi đã khảo sát được qua đợt kiểm tra cuối học kỳ II dưới hai hình thức
đọc và cảm thụ.
 Kết quả:
+Trước khi thực hiện đề tài:

số
38

ĐỌC
Giỏi
SL %
8

21.
1

Khá
SL %
12

31.
1


TB
SL %
13

34.2

Yếu
SL %
5

13,
6

Giỏi
SL %
6

15.8

CẢM THỤ
Khá
TB
SL % SL %
10

26.
3

15


39.5

Yếu
SL %
7

18.4

+Sau khi thực hiện đề tài:

số
38

Giỏi
SL %

ĐỌC
Khá
TB
SL % SL %

20

15

52,6

39,5


3

7,9

Yếu
Giỏi
SL % SL %
0

0

18

47,4

CẢM THỤ
Khá
TB
SL % SL %
13

34,2

7

18,
4

Yếu
SL %

0

0

Nhìn vào kết quả tôi đã nhận thấy: Lớp 4C của tôi tỷ lệ học sinh khá, giỏi tăng lên cao
hơn. Tỷ lệ học sinh trung bình ít đi và không có học sinh yếu.
Không những thế, trong các đợt sinh hoạt tập thể toàn trường, lớp 4C đã giành được
rất nhiều kết quả tốt :
- Tiết sinh hoạt dưới cờ sinh động
- Giải khuyến khích hội thi: Búp măng xinh.
- Tham gia nhiều tiết mục văn nghệ thi cấp trường, huyện.
Tất cả là do HS có sự tự tin vào bản thân, có khả năng giao tiếp tương đối tốt, có một
số kĩ năng sống ban đầu vững vàng đã giúp các em đạt được những kết quả thật đáng
mừng như trên.
24


Nguyên nhân đạt được:
- Có được kết quả trên đây là một sự nỗ lực rất lớn của cả cô và trò lớp 4C , trong đó
có sự giúp đỡ hết lòng của Lãnh đạo nhà trường, được sự góp ý chân tình của các
đồng chí đồng nghiệp, của các bậc phụ huynh đã giúp tôi hoàn thành trách nhiệm của
mình đối với các em học sinh thân yêu!

PHẦN 3:
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Muốn đạt kết quả cao trong quá trình giảng dạy phân môn lập đọc lớp 4 nói
riêng và phân môn tập đọc các lớp khác nói chung không phải là khó song cũng
không đơn giản một chút nào. Mỗi người giáo viên khi dạy cần phải chú ý những
điểm sau:

- Coi trọng việc đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm của học sinh.
- Giáo viên không biến giờ tập đọc thành giờ giảng văn.
- Giáo viên tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc khi dạy học. Giáo viên không
cảm thụ hộ học sinh, không bắt buộc học sinh đọc một cách đọc mà giáo viên đưa ra.
Ngoài ra giáo viên còn giúp học sinh khơi gợi cảm xúc, ý tưởng độc đáo của các em
để các em tự tìm ra cách đọc.
- Giáo viên nên tránh các quy tắc máy móc, mệnh lệnh khô khan như: Ngồi
thẳng lên, khoanh tay, . . .tránh biến lớp học có một không khí lớp học, học sinh sợ
sệt, không có một nụ cười mà giáo viên cần tạo ra không khí vui tươi, thoải mái trong
giờ tập đọc.
- Giáo viên phải có trình độ ngôn ngữ, kiến thức văn học, một vốn sống nhất
định, một giọng đọc hay có tác dụng làm mẫu cho học sinh.
- Muốn đạt được kết quả cao trong quá trình giảng dạy, người giáo viên phải
tốn rất nhiều thời gian, tâm huyết, sự kiên trì bền bỉ cộng thêm với sự nghiêm túc và
lỗ lực thì sẽ đạt được kết quả như mong muốn.
2.KHUYẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
* Đối với cấp trên:
- Nên tổ chức nhiều chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học” hơn nữa cho
các lớp giáo viên cùng học tập.
- Cấp phát trang thiết bị, đồ dùng dạy học và hướng dẫn cách sử dụng đồ dùng
dạy học sớm hơn mọi năm để khi bắt đầu năm học mới thì mỗi giáo viên đã biết cách
sử dụng đồ dùng. Như vậy hiệu quả của tiết dạy ngay từ đầu năm học đạt kết quả cao.
- Giúp giáo viên tiếp cận với giáo án điện tử nhanh và hiệu quả.
- Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.
- Nhà trường cùng địa phương tạo điều kiện cơ sở vật chất cho các em học tập
tốt hơn.
25



×